Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.48 KB, 17 trang )

Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
1.Mục đích.
Trong khuôn khổ nhà trường phổ thông, bài tập Vật lý thường là
những vấn đề nhỏ, không quá phức tạp, có thể giải được bằng những
suy luận lôgic, bằng những phép tính toán hoặc bằng con đường thực
nghiệm, dựa trên cơ sở những quy tắc vật lý và những phương pháp
vật lý trong chương trình học. Do đó tôi chọn đề tài này nhằm giúp
các em phát triển hơn nữa việc giải bài tập Vật lý trong chương trình
học của học sinh
2. Nhiệm vụ .
Bài tập vật lý là một khâu quan trọng trong quá trình giảng dạy và
học tập. Tuy nhiên không phải bất cứ học sinh nào cũng có thể giải
bài tập vật lý một cách trôi chảy và hăng say. Với việc giải bài tập
luôn có những tác dụng cho kiến thức của học sinh :
a. Nó giúp cho học sinh củng cố, đào sâu, mở rộng những kiến thức
cơ bản của bài giảng.
b. Là một phương tiện để xây dựng và củng cố những kỹ năng, kỹ
xảo vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, rèn luyện thói quen gắn lý
thuyết với thực hành, với đời sống lao động sản xuất.
c. Là một hình thức ôn tập sinh động những điều đã học. Bản thân
quá trình làm bài tập là một quá trình củng cố kiến thức,kỹ năng,, kỹ
xảo tức là một quá trình ôn tập một cách gián tiếp. Ngoài ra ta còn
có thể dùng bài tập làm hình thức ôn tập trực tiếp, hoặc dùng các câu
hỏi, các bài tập đề cập thẳng đến vấn đề cần ôn tập hoăïc dùng các
bài tổng hợp mà việc giải đòi hỏi phải ôn lại nhiều phần trong
chương trình. Những bài tập này ngoài tác dụng ôn tập còn có tác
dụng khái quát hoá, hệ thống hoá những kiến thức học sinh đã học
trong toàn bộ hoặc một phần của giáo trình.
d. Là một biện pháp quý báu để phát triển năng lực làm việc độc
lập, năng lực tư duy của học sinh. Đối với học sinh một bài tập khéo


chọn lọc là một “tình huống có vấn đề” mà học sinh tự mình phải
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 1
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
giải quyết. Trong khi giải học sinh phải tự phân tích các điều kiện
của đầu bài, tự xây dựng các lập luận, phải kiểm tra phê phán kết
luận của mình nên tự rèn luyện được nhiều thao tác tư duy cơ bản
như phân tích , tổng hợp, so sánh, trừu thượng hoá , khái quát hoá,
suy luận quy nạp, suy luận diễn dòch…
e. Có tác dụng sâu sắc về mặt giáo dục tư tưởng đạo đức. Qua các
bài tập lòch sử còn có thể cho học sinh thấy quá trình phát sinh những
tư tưởng và quan điểm khoa học tiến bộ, những phát minh của các
nhà khoa học, qua việc giải các bài tập còn luyện cho học sinh các
phẩm chất độc lập suy nghó, tính kiên trì dũng cảmkhắc phục khó
khăn, tính chính xác khoa học, kích thích hứng thú học tập của bộ
môn….
f. Bài t ập vật lý còn là một phương tiện rất có hiệu lực để kiểm tra
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vận dụng kiến thức, kiểm tra năng lực tư
duy của người làm bài tập .
3. Cơ sở.
Bài tập vật lý có tác dụng giáo dưỡng và giáo dục lớn . Vì thế
trong việc giải bài tập vật lý mục đích cơ bản và cuối cùng không
phải chỉ là tìm ra đáp số của nó mà mục đích chính của nó là ở chỗ
người làm bài tập hiểu được sâu sắc hơn các khái niệm, các đònh luật
vật lý, tập vận dụng chúng vào những vấn đề thực tế trong cuộc
sống, trong lao động.
Với học sinh thì vấn đề quan trọng nhất là phải phân loại bài tập
hợp lí theo từng nhóm đối tượng học sinh sao cho khi chúng ta đưa ra
bài tập cho học sinh trong lớp thì sẽ tạo ra sự hứng thú ngay từ lúc
học sinh đọc được đề bài. Tức là bài tập được lựa chọn phải phù hợp

với năng lực của học sinh từ khá giỏi đến yếu kém. Bài tập không
khó quá và cũng không dễ quá sẽ tạo tâm lý chán nản cho học sinh
khi giải bài tập và học sinh cũng không coi nhẹ bài tập mà giáo viên
đưa ra.
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 2
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
A. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để thực hiện việc giải bài tập vật lý mà không để cho học sinh
không bò nhàm chán thì người giáo viên cần phải chú ý
1. Phân loại bài tập theo nội dung.
Giáo viên phân loại bài tập theo mục đích, theo nội dung, theo cách
giải, theo cách cho dữ liệu, theo mức độ khó, dễ…. Tuy nhiên chung
ta căn cứ vào hai cách phân loại sau.
- Phân loại theo phân môn vật lý. Tức là phân loại dựa vào loại bài
tập của chương trình học
Ví dụ : chương trình lớp 6,8 thì ta phân loại theo hai phần : Cơ
học và nhiệt học
chương trình lớp 7 thì ta phân loại theo ba phần : Quang
học, mhọc, Điện học.
Ở chương trình lớp 9 thì chủ yếu là dạng bài tập Điện học và
Từ học.
Tuy nhiên nếu ta phân loại theo cách này đôi khi không thực sự rành
rọt.
Chương trình lớp 6 và lớp 7 thì chủ yếu là các dạng bài tập đònh tính
hay các dạng bài tập trắc nghiệm, nhưng ở chương trình lớp 8 thì các
dạng bài tâïp phong phú hơn đó là các dạng bài tập đònh tính và đònh
lượng. Trong đó các dạng bài tập đònh lượng có những bài tập mà
nội dung có thể liên quan đến nhiều phân môn vật lý.
- Phân loại theo tính chất trừu tượng hay cụ thể của nội dung bài.

Ví dụ : Hãy xác đònh lực cần thiết để nâng một vật có khối lượng m
lên một độ cao là h dọc theo một mặt phẳng nghiêng có độ dài là l.
Nếu bài này người ra đề cho rõ hơn vật đó là gì, cách nâng lên thế
nào và cho độ lớn bằng số của các đại lượng m,l,h thì ta được bài
tập có nội dung cụ thể. Ưu thế của loại bài tập trừu tượng là nó tập
trung làm nổi thực chất vật lý của vấn đề cần giải quyết và bỏ qua
yếu tố phụ thuộc không cần thiết. Đây là dạng bài tập gây ra sự chú
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 3
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
ý đối với những học sinh khá, giỏi và có tác dụng đánh giá sự tự tin
và vững vàng của những học sinh này trong việc kiểm tra, đánh giá
lại kiến thức mà học sinh đã học. Còn ưu thế của loại bài tập có nội
dung cụ thể là nó gắn với thực tế cuộc sống và có tính chất trực
quan cao.
- Phân loại theo tính chất lòch sử (các bài tập mà dữ kiện lấy trong
các thí nghiệm vật lí cổ điển, trong các công trình nghiên cứu vật lý
có từ trước….), theo tính chất vui, theo tính chất thực tế hoặc theo
tính chất giả tạo của các dữ kiện.
Dạng bài tập này luôn gây sự bất ngờ và thú vò đặc biệt đối với
học sinh. Học sinh luôn có sự thích thú đối với dạng dài theo tính chất
vui. Dạng bài này đem đến sự thoải mái cho quá trình giải bài tập vật
lí.
2. Phân loại theo cách giải .
Ba loại bài tập mà ta cần chú ý đến trong khi giải bài tập đó là : bài
tập đònh tính, bài tập đònh lượng, bài tập thí nghiệm.
a. Dạng bài tập đònh tính .
Là loại bài tập mà khi giải không cần đòi hỏi phải thực hiện phép
tính toán nào hoặc là có thể thực hiện một phép tính đơn giản có thể
nhẩm được. Việc giải các bài tập này học sinh chủ yếu dựa vào

những khái niệm, những đònh luật vật lý xây dựng thành những suy
luận logíc để phân tích, giải thích các hiện tượng nêu ra trong bài.
Loại bài tập này có tác dụng rất lớn trong việc củng cố kiến thức đã
học, giúp đỡ học sinh nắm sâu bản chất của hiện tượng vật lý, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiện thức vào thực tiễn đời sống, rèn luyện
năng lực tư duy logic, tư duy sáng tạo của học sinh. Đây là loại bài
tập có giá trò cao , được chú ý nhiều hơn trong các loại bài tập của
môn vật lý trong trường phổ thông. Sau mỗi bài học thì nên cho học
sinh giải những dạng bài này trước. Tuy nhiên cũng cần phân biệt
giữa bài tập câu hỏi với câu hỏi ôn tập. Vì câu hỏi ôn tập không bắt
học sinh phải nhanh trí và suy nghó nhiều. Ngược lại khi giải bài tập
câu
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 4
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
hỏi thì học sinh phải tự lực suy nghó, phải biết phân tích hiện tượng
và suy luận một cách lôgic để tìm ra kết luận.
b. Bài tập tính toán
Với học sinh đây là dạng bài tập đòi hỏi phải thực hiện một loạt
các phép tính. Cũng cần phân biệt hai loại bài tập tính toán :
bài tập tập dượt và bài tập tổng hợp.
- Bài tập tập dượt là loại tính toán đơn giản. Muốn giải nó chỉ
cần phải vận dụng một vài đònh luật, một vài công thức
Ví dụ : ở lớp 6 các dạng bài này cũng được đưa ranó chỉ đơn giản là
vận dụng một công thức “ Hãy tính khối lượng của một khối sắt có
thể tích 0.65dm3. biết rằng khối lượng riêng của sắt là 7800kg/m3”
Hay như ở lớp 8 thì là dạng bài tính áp dụng công thức tính vận tốc:
“hãy tính thời gian một chiếc xe đạp đi hết một quãng đường dài
12km, biết người đi xe đạp luôn đi với vận tốc không đổi là 6km/h”
Với dạng bài này nó chỉ có tác dụng củng cố các khái niệm vừa

học và hiểu kỹ hơn các đònh luật , các công thức , rèn luyện kỹ năng
sử dụng thành thạo các đơn vò vật lý và chuẩn bò cho việc giải các bài
tập vật lý phức tạp hơn.
- Bài tập tổng hợp là loại bài tập có tính phức tạp hơn, để giải nó
cần vận dụng nhiều công thức, nhiều đònh luật, nhiều khái niệm
thuộc nhiều phạm vi của nhiều bài, nhiều phần khác nhau của
chương trình. Đây là loại bài tập giúp học sinh thấy được mối liên hệ
giữa các phần khác nhau của chương trình và tập cho học sinh biết
lựa chọn công thức, đònh luật phù hợp trong nhiều công thức, đònh
luật.
Ví dụ : một vật làm bằng sắt có thể tích là 0,25m3 đựơc kéo lên độ
cao 1,5m bằng một mặt phẳng nghiêng dài 2m. Bỏ qua ma sát hãy
tính lực kéo cần thiết để làm việc đó. Biết khối lượng riêng của sắt
là 7800 kg/m3.
Rõ ràng với bài tập này thì học sinh cần phải vận dụng tối đa
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 5
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
các công thức mà mình đã học, liên hệ từ các kiến thức đã học ở lớp
6 kết hợp với kiến thức đã học ở lớp 8 để hoàn chỉnh một bài giải.
Như vậy với giáo viên phải hướng dẫn cho các em giải bài tập dạng
này thì yêu cầu các em phải tóm tắt lại đề bài, sau đó yêu cầu học
sinh nêu phương pháp giải bài ( nêu công thức cần sử dụng, các bước
tiếùn hành giải)
c. Bài tập thí nghiệm
Đây là dạng bài tập sẽ đem lại cho học sinh niềm yêu thích đặc
biệt đối với môn học vật lý. Nhưng cũng là dạng bài tập mà không
phải bất cứ trường nào, giáo viiên nào cũng có thể ra đề để cho học
sinh tham gia giải bài, vì điều kiện cơ sở vật chất của mỗi trường và
còn phụ thuộc vào chất lượng của các dụng cụ thí nghiệm thức hành.

Nó đòi hỏi phải được làm trong phòng thí nghiệm.
Tuy nhiên cũng có một số bài tập dạng này có thể hướng dẫn
học sinh tự làm dụng cụ thí nghiệm để giải như bài tập về đòn bẩy.
Tôi hướng dẫn học sinh sử dụng thước kẻ của mình dựa vào các vạch
của thước để chia khoảng cách và sử dụng các dụng cụ như cái cân
để xác đònh lực kéo thông qua công thức liên hệ giữa trọng lượng và
khối lượng.
Loại bài tập này giúp học sinh có tính độc lập làm việc, thôi thúc
tính tìm tòi khám phá khoa học, giúp học sinh hiểu được rằng có thể
làm dụng cụ thí nghiệm hay giải bài tập bằng các vật dụng hiện có
mà không cần đến phòng thí nghiệm. Loại bài này kết hợp được cả
tác dụng của loại bài tập vật lý nói chung và bài tập thí nghiệm thực
hành.
Với việc giải bài tập vật lý việc phân loại bài tập chỉ là công việc
đầu tiên mà bước tiếp theo để tạo ra sự tập trung chú ý của học sinh
và sự yêu thích của học sinh khi giải bài tập vật lý là giáo viên phải
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 6
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
hướng dẫn học sinh phương pháp giải bài tập. Đây là điều kiện quan
trọng cho học sinh trong quá trình rèn luyện và củng cố kiến
thức của mình do đó người giáo viên phải phân tióch cho học sinh
nắm được các phương pháp giải bài tập. Khi mà học sinh hiểu được
rằng có thể giải một bài tập vật lý không phải chỉ có một cách duy
nhất mà còn có thể giải bằng nhiều cách khác nhau thì sự yêu thích
giải bài tập vật lý của học sinh sẽ tăng cao và kết quả học tập sẽ
tăng lên .
3. Phương pháp giải bài tập
Với tôi phương pháp giải bài tập vật lý cần chú ý xét về các thao
tác tư duy thì phương pháp giải bài tập vật lý thông qua hai

phương pháp.
a. Phương pháp giải bài tập qua phân tích.
Theo phương pháp này, xuất phát điểm của suy luận là đại lượng
cần tìm . Học sinh phải tìm xem đại lượng chưa biết này có liên quan
với những đại lượng vật lý nào khác và khi biết sự liên hệ này thì
biểu diễn thành những công thức tương ứng. Nếu một vế của công
thức là đại lượng cần tìm còn vế kia chỉ gồm những dữ kiện của bài
tập thì công thức ấy cho ta đáp số của bài tập. Nếu công thức ấy còn
những đại lượng chưa biết thì mỗi đại lượng đó cần tim biểu thức liên
hệ nó với các đại lượng vật lý khác, cứ làm như thế đến khi nào biểu
diễn được hoàn toàn đại lượng cần tìm bằng những đại lượng đã biết
thì bài tập đã được giải xong. Có thể nói là theo phương pháp này
học sinh phải phân tích một bài tập phức tạp thành những bài tập đơn
giản hơn rồi dựa vào các quy tắc tìm lời giải mà lần lượt giải các bài
tập đơn giản này. Từ đó tìm dần ra lời giải của bài tập phức tạp trên.
Ví dụ : Hướng dẫn học sinh lớp 9 giải bài tập sau
“Người ta dùng một loại dây hợp kim đồng – kền có tiết diện
1,5mm
2
và có điện trở suất 0,4.10
-6


m để làm lò sưởi điện sưởi ấm
một căn phòng. Hỏi cần phải lấy dây có chiều dài là bao nhiêu để duy
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 7
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
trì được nhiệt độ trong phòng luôn không đổi nếu sau mỗi giờ căn
phong này bò mất một nhiệt lượng 712800 calo qua các cửa và tường.

Cho hiệu
điện thế của mạng điện là 220V”
Đại lượng cần tìm ở bài này là chiều dài của dây hợp kim. Ta tìm
mối liên hệ giữa chiều dài của dây dẫn với các đại lượng khác trong
bài .
Phương pháp giải bài : Ta biết rằng muốn nhiệt độ trong phòng luôn
không đổi thì trong mỗi giờ nhiệt lượng do lò sưởi cung cấp phải bằng
nhiệt lượng mà gian phòng mất đi. Nhiệt lượng do lò sười cung cấp
tương đương với điện năng mà lò sưởi tiêu thụ. Điện năng lại phụ
thuộc vào điện trở của dây hợp kim. Điện trở này lại do chiều dài của
dây quy đònh.
+ Nếu gọi chiều dài của dây là l, điện trở của dây là R, điện trở suất
của dây là
ρ
và tiết diện của dây là s, thì chiều dài của dây dẫn liên
hệ với điện trở bằng công thức:
s
l
R
ρ
=
.
Do đó :
ρ
Rs
l
=
+ Trong biểu thức tính chiều dài có một đại lượng mới chưa biết là
điện trở R . Điện trở này đo bằng tỉ số giữa Hiệu điện thế U giữa hai
đầu dây và cường độ dòng điện I qua dây :

I
U
R
=

+ Có một đại lượng mới chưa biết đó là cường độ dòng điện I liên hệ
với các đại lượng khác bằng đònh luật ôm và công thức biểu diễn năng
lượng A do dòng điện toả ra: A = UIt.
Trong đó t là thời gian dòng điện qua dây, do đó

Ut
A
I
=
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 8
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
+ Trong công thức này thì điện năng được tính bằng đơn vò Jun
nên : Q =0,24A
Do đó :
Ut
Q
I
24,0
=

Q
tU
R
2

24,0
=


ρ
Q
tsU
l
2
24,0
=
Thay các đại lượng trên bằng các trò số ta được:

ml 110
71280010.4,0
10.5,13600220
24,0
6
62
=
×
××
=


Tôi cũng yêu cầu học sinh có thể giải bài tập này theo từng bước để
tìm ra các kết quả của từng đại lượng liên quan rồi tìm ra kết
quả của bài . vì cũng có trường hợp những học sinh khi phân
tích lại bối rối khi thay các đại lượng liên quan vào tính kết quả của
bài. Kết quả thu được là học sinh của tôi đã dần làm quen với cách

giải bài tập theo phương pháp phân tích này.
b. Giải bài tập bằng phương pháp tổng hợp
Với phương pháp giải bài tập này thì học sinh có thể giải bài tập
theo cách suy luận bắt đầu từ những đại lượng đã có trong đề bài rồi
dần đến đại lượng chưa biết là đại lượng cần tìm.
Ví dụ hướng dẫn học sinh giải một bài vật lý lớp 8:
Đầu thép của một búa máy có khối lượng 12kg nóng lên thêm 20
0
C
sau 1,5 phút hoạt động. Biết rằng chỉ có 40% cơ năng của búa
chuyển thành nhiệt năng của đầu búa. Tính công và công suất của
búa. Lấy nhiệt dung riêng của thép 460 J/kg.K
Rõ ràng với bài tập này thì ta phải tìm dần từ các đại lượng chưa
biết là công rồi tìm đến đại lượng cuối cùng là công suất.
Ta biết rằng công của búa sinh ra là công toàn phần nhưng 40%
là công vô ích do đó ta giải bài tập này theo các trình tự sau
Gọi công của búa máy là A, công suất của búa máy là P.
+ Nhiệt lượng cần cho đầu búa nóng lên thêm 20
0
C là
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 9
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
Q = m.C.

t
Nhiệt lượng này chính là công vô ích mà búa đã chuyển hoá thành
nên :
A
vi

=Q = m.C.

t
Theo biểu thức tính hiệu suất ta có :
%100×=
A
A
H
vi

Công của búa
J
tCm
H
A
A
vi
276000%100
%40
2046012
%100
%40

%100 =×
××


=×=
⇒ Công suất của búa :
W

t
A
P 7,3066
90
276000
===
4. Trình tự giải bài tập
Phương pháp giải bài tập vật lý còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như :
mục đích yêu cầu của bài tập, nội dung của nó, trình độ của học
sinh… Tuy nhiên cách giải phần lớn các bài tập vật lý cũng có những
điểm chung. Theo điều kiện cụ thể tôi hướng dẫn học sinh theo bốn
trình tự:
* Hiểu kỹ đầu bài : Đây là bước đầu tiên, hết sức quan trọng nhưng
học sinh thường hay xem nhẹ. Do đó tôi hết sức nhắc nhở học sinh
cần chú ý vào các khâu :
+ Đọc thật kỹ đầu bài : tìm hiểu xem bài tập cho những dữ kiện
nào? cần phải tìm đại lượng nào? Những dữ kiện ở đề bài cho đã đủ
chưa?
+ Tóm tắt bài tập bằng cách dùng các ký hiệu chữ đã được quy ước.
Đổi đơn vò đo lường của các đại lượng khi đề bài cho những đơn vò
không theo đơn vò thống nhất.
+ Vẽ hình nếu bài tập yêu cầu hoặc có liên quan đến hình vẽ để
diễn đạt dề bài. Trên hình vẽ cũng cần ghi rõ chi tiết cái gì đã biết,
cái gì chưa biết.
* Phân tích nội dung bài và lập kế hoạch giải: Xây dựng kế hoạch
giải bài tập chính là quá trình tìm con đường đi từ cái đã biết để rồi
tìm ra cái chưa biết. Trong quá trình này cần chú ý:
- Tìm sự liên hệ giữa những cái chưa biết và những cái đã biết
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 10
Đề tài SKKN :

PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
- Nếu chưa tìm được trực tiếp các mối liên hệ ấy thì có thể phải xét
một số bài tập phụ để giánh tiếp tìm ra mối liên hệ ấy.
- Phải xây dựng được một dự kiến về kế hoạch giải bài tập.
Việc phân tích nội dung bài tập ở đây nhằm phục vụ cho việc
lập kế hoạch giải bài tập. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích toàn
diện và kỹ lưỡng phát hiện ra những quy luật, những mối liên hệ giữa
những đại lượng đã cho và những đại lượng chưa biết mà học sinh sẽ
thấy rõ phải vận dụng những khái niệm, những đònh luật vật lý nào
để giải bài tập và cách giải ra sao cho hoàn chỉnh và chính xác nhất.
* Thực hiện kế hoạch giải : Khi thực hiện kế hoạch giải bài tập phải
nhắc nhở học sinh hết sức chú ý :
- Tôn trọng trình tự giải để thực hiện các chi tiết của dự kiến, nhất là
khi gặp phải bài tập phức tạp.
- Thực hiện một cách cẩn thận các phép tính. Hướng dẫn học sinh
làm quen dần với cách giải bằng chữ và chỉ thay giá trò các đại lượng
bằng số trong biểu thức cuối cùng. Điều này làm cho lời giải có giá
trò tổng quát hơn, giúp tiết kiệm thời gian và làm cho sự phân tích,
biện luận, kiểm nghiệm lại lời gải đơn giản hơn.
- Khi tính toán bằng số phải chú ý bảo đảm những trò số của kết quả
đều có ý nghóa
* Kiểm tra đánh giá kết quả :Đây là điều cực kỳ quan trọng. Qua
việc nhìn lại cách giải, khảo sát và phân tích lại kết quả và các con
đường đi học sinh có thể tìm ra và loại bỏ những kết quả không phù
hợp với điều kiện của đề bài hay những phép tính toán nhầm lẫn và
có thể tìm ra cách giải mới gọn hơn, chặt chẽ hơn và đồng thời việc
kiểm tra này giúp học sinh củng cố thêm kiến thức, phát triển khả
năng giải các bài tập khác.
5.Phương tiện giải bài.
Khi hướng dẫn học sinh giải bài tập vật lý chúng ta còn chú ý đến

một yếu tố đó là phương tiện giải bài tập. Có nghóa là ta phải hướng
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 11
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
dẫn học sinh cách chọn phương tiện để giải một bài tập cho hợp lý và
không gặp bối rối và khi áp dụng phương tiện nào học sinh cũng dễ
dàng hơn trong việc giải bài tập.
Nhìn chung khi giải bài tập vật lý ta có thể sử dụng giải bài tập bằng
các phương tiện : Số học, đại số, hình học và đồ thò
+ Phương tiện số học : dây là cách học sinh giải bài mà không dùng
công thức hay phương trình.Nó nhằm củng cố cho học sinh về những
hiện tượng đã thu thập bằng con đường thực nghiệm, bằng phương
pháp quan sát thí nghiệm chứng minh, thí nghiệm thực hành. Nó giúp
học sinh phương pháp suy luận, hiểu rõ hơn mối quan hệ giữa các đại
lượng vật lý, tránh cho học sinh áp dụng công thức một cách máy
móc.
+ Phương tiện đại số: Với phương tiện này học sinh áp dụng các đònh
luật, các công thức vật lý và các biểu thức đại số để thiết lập và
giải các phương trình. Đơn giản nhất là trường hợp học sinh chỉ cần
giải bằng các công thức sẵn có. Tuy nhiên cần chú ý là ngay trong
trường họp đơn giản này cũng không nên áp dụng quá máy móc các
công thức vật lý liên quan để giải và biến việc giải bài tập vật lý
thành việc giải đơn thuần một phương trình đại số, nếu muốn có một
bài giải dúng đắn, sâu sắc, có hiệu quả cao, cần phải hiểu rõ đề bài,
phân tích để nắm nội dung vật lý của nó, hiểu rõ ý nghóa của công
thức đem dùng và các đại lượng có mặt trong công thức ấy.
+ Phương tiện hình học: Đa số dạng bài tập này thuộc về phần quang
học. Học sinh chỉ dùng các tính chất hình học để tìm ra đáp số
+ Phương tiện đồ thò : Với phương pháp này học sinh dễ thấy được
tính chất biến đổi và đặc tính diễn biến của một quá trình vật lý hay

sự biến thiên của các đại lượng vật lý trong những điều kiện nào đó.
Thông qua đồ thò học sinh sẽ dễ dàng giá trò của các đại lượng vật lý
một cách dễ dàng, không cần đến các phép tính toán tốn thời gian.
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 12
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
Nói chung việc giải bài tập vật lý là một thành phần rất quan trọng
trong cấu trúc của giờ dạy vật lý. Nó chiếm một phần hay cả một giờ
học. Việc giải bài tập không chỉ nằm trong chương trình nội khoá mà
còn có thể tổ chức trong chương trình ngoại khoá. Vì vậy khi hướng
dẫn học sinh giải bài tập thì chúng ta cũng cần chú ý
-
Kết hợp thật tốt vai trò chủ đạo của thầy và vai trò tích cực chủ động
của học sinh trong giờ làm bài tập
- Hướng dẫn học sinh ôn tập, nắm chắc lý thuyết trước khi làm bài
tập. Cho học sinh nhắc lại ngắn gọn phần lý thuyết đã học có liên
quan đến việc giải bài tập.
- Trứơc khi làm giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài tập,
nhiên cứu kỹ các dữ kiện, các ẩn số, nhớ lại các đònh luật cần dùng
và thống nhất về tiến trình giải. Hình thức giải bài tập phải từ thấp
đến cao để cho những học sinh yếu kém dần thích nghi và bắt kòp
nhòp độ làm bài của lớp.
Giáo viên cũng cần quan tâm kiểm tra đến việc làm bài tập ở nhà
của học sinh. Chỉ có sự quan tâm hướng dẫn tận tình của giáo viên thì
học sinh mới tập trung tự giác làm bài tập và yêu thích làm bài tập
môn và yêu thích môn học Vật lý.
B. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯC.
Qua 2 năm áp dụng sáng kiến này đã cho tôi kết quả học tập của học
sinh thật là khả quan và đối với học sinh mỗi giờ tôi lên lớp làmột
giờ học đầy ý nghóa. Học sinh đã tập trung học tập môn vật lý như

một niềm đam mê yêu thích và từ đó học sinh dần tăng cường tính
thự giác đối với các môn học khác.
Sau đây là quả mà tôi đạt được khi áp dụng sáng kiến này
Năm học 2003-2004 tôi được phân công giảng dạy khối 9 gồm : 246
học sinh.
Kết quả học kỳ I Kết quả học kỳ II
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 13
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
Giỏi Khá Tb Yếu Kém Giỏi Khá Tb Yếu Kém
24 96 94 32 0 28 96 120 2 0
Kết quả thi TN : 246/266 đạt 100% học sinh tốt nghiệp môn Vật lý
Năm học 2004 – 2005 tôi dược phân công giảng dạy khối 7 và 4 lớp
9.
Khối 7 gồm: 272 học sinh
Kết quả học kỳ I Kết quả giữahọc kỳ II
Giỏi Khá Tb Yếu Kém Giỏi Khá Tb Yếu Kém
21 78 139 22 12 24 86 142 16 4
Khối 9 ( 4 lớp)
Kết quả học kỳ I Kết quả học kỳ II
Giỏi Khá Tb Yếu Kém Giỏi Khá Tb Yếu Kém
36 74 35 2 0 0 0 0 0 0
(Lí do sang HKII tôi không giảng dạy lớp 9 nữa)
C.BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Trong quá trình giảng dạy môn Vật lý việc học sinh gặp nhiều khó
khăn khi giải bài tập cũng là những băn khoăn suy nghó của nhiều
giáo viên.Phương pháp giảng dạy là một yếu tố quan trọng. Tuy
nhiên đối với giáo viên giảng dạy cũng cần phải tìm hiểu đến tâm lý
học sinh, quan tâm đến niềm yêu thích của học sinh với môn Vật lý,
giúp các em yêu thích với môn học này thì chung ta đi đến thành

công lớn trong quá trình giảng dạy và đi liền với lòng yêu thích đó thì
việc giải bài tập chỉ là một bước nhỏ giúp các em đi đến tiếp cận
môn Vật lý sâu sắc hơn và sẽ giúp ích cho các em nhiều hơn trong
cuộc sống tương lai.
Trên đây tôi đã trình bày chút kinh nghiệm còn ít ỏi của mình trong
quá trình giảng dạy và tích luỹ được.Tuy vậy tôi vẫn còn nhiều sơ sót
trong quá trình trình bày sáng kiến của mình. Xin được ý kiến đóng
Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 14
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH
góp của các đồng nghiệp để tôi hoàn thiện mình hơn nữa trong công
tác giáo dục thế hệ trẻ – thế hệ tương lai của đất nước.
An Bình, ngày 20 tháng 02 năm 2005
Người viết.
Vũ Thanh Dương
Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA BGH TRƯỜNG






















Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 15
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH





Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ CỦA PHÒNG GD&ĐT






















Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 16
Đề tài SKKN :
PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIẢI BÀI TẬP VẬT LÍ CHO HỌC SINH





Giáo viên : Vũ Thanh Dương Trường THCS An Bình Trang 17

×