Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

“ tìm hiểu về vấn đề cung cấp hàng hóa công và chi tiêu công tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.91 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế là một thực tế, đồng thời mang tính
nguyên lý đã được thừa nhận rộng rãi. Chính phủ có thể dùng chính sách tài khóa để can
thiệp vào nền kinh tế, dưới hình thứ thu chi ngân sách Nhà nước. Nhà nước thực hiện tái
phân phối thu nhập thông qua các khoản thuế và thực hiện chi tiêu công để cung cấp các
hàng hóa công cần thiết cho xã hội. Tuy thế, vấn đề cung ứng dịch vụ công thông qua chi
tiêu công chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố, cả chủ quan lẫn khách quan thường vấn đề
chi tiêu ngân sách để cung cấp hàng hóa công thường xảy ra sự bất cập giữa một bên cung
cấp dịch vụ công và những nhu cầu thiết yếu của người dân trong xã hội.
Bài tiểu luận tìm hiểu các kiến thức cơ bản về hàng hóa công và chi tiêu công, từ đó
liên hệ thực tế vấn đề cung cấp hàng hóa công và quản lý chi tiêu tại Việt Nam để gắn kết
lý thuyết vào thực tiễn. Qua quá trình phân tích, nhóm có gợi mở một số giải pháp nhằm
tăng hiệu quả trong chi tiêu công và cung ứng hàng hóa công.
Kết cấu bài tiểu luân:
Chương I. Hàng hóa công và vấn đề cung cấp hàng hóa công tại Việt Nam
Chương II. Chi tiêu công và thực trạng chi tiêu công tại Việt Nam
Chương III. Kết luận và Kiến nghị
Trong giới khả năng nghiêm cứu cũng như thời gian nghiên cứu và quy mô bài viết,
tiểu luận “ Tìm hiểu về vấn đề cung cấp hàng hóa công và chi tiêu công tại Việt Nam” sẽ
còn nhiều thiếu sót, mong thầy và các bạn góp ý và bỏ qua.
Nhóm 3 xin chân thành cảm ơn.
1
CHƯƠNG I. HÀNG HÓA CÔNG VÀ VẤN ĐỀ CUNG CẤP HÀNG HÓA
CÔNG Ở VIỆT NAM
I.1 Hàng hóa công và phân loại hàng hóa công
I.1.1 Khái niệm hàng hóa công
Hàng hóa công là hàng hóa mà bất kỳ chủ thể nào đầu tư đều mang lại lợi ích cho
mọi người trong một nhóm lớn hơn.
1
Hàng hóa công cộng mang hai thuộc tính cơ bản. Thứ nhất, hàng hóa công cộng
không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng. Có nghĩa là, khi có thêm một người sử dụng


HHCC sẽ không làm giảm lợi ích tiêu dùng của những người tiêu dùng hiện có. Chẳng
hạn, các chương trình truyền thanh và truyền hình không có tính cạnh tranh trong tiêu
dùng. Chúng có thể được rất nhiều người cùng theo dõi một lúc. Việc có thêm ai đó mở
hoặc tắt đài hoặc vô tuyến không ảnh hưởng đến mức độ tiêu dùng của người khác. Tương
tự như vậy, an ninh quốc gia do quốc phòng mang lại cũng không có tính cạnh tranh.,Khi
dân số của một quốc gia tăng lên thì không vì thế mà mức độ an ninh mà mỗi người dân
được hưởng từ quốc phòng bị giảm xuống. Chính vì thế, việc định giá đối với những hàng
hoá không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng là điều vô nghĩa vì suy cho cùng, việc có
thêm một cá nhân tiêu dùng những hàng hoá này không ảnh hưởng gì đến việc tiêu dùng
của những người khác. Nói cách khác, chi phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng
HHCC là bằng 0.
Thuộc tính thứ hai của HHCC là không có tính loai trừ trong tiêu dùng. Có nghĩa là
không thể loại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối không chịu
trả tiền cho việc tiêu dùng của mình. Chẳng hạn, không ai có thể ngăn cản những người
không chịu trả thuế để duy trì bộ máy quốc phòng khỏi việc hưởng thụ an ninh do quốc
phòng mang lại. Tương tự, khi các chương trình truyền thanh đã phát sóng thì bất kể ai có
phương tiện thu thanh đều có thể thưởng thức các chương trình này, cho dù họ không trả
một đồng nào cho đài phát thanh.
I.1.2 Phân loại hàng hóa công
Hàng hóa công cộng có hai loại:
- Hàng hóa công thuần túy: là loại hàng hóa công không thể định suất sử dụng và
việc định suất sử dụng là không cần thiết. Hàng hóa công cộng thuần túy có hai đặc tính
quan trọng. Thứ nhất là nó không thể phân bổ theo khẩu phần để sử dụng. Thứ hai là người
ta không sử dụng nó theo khẩu phần.
Ví dụ rõ ràng nhất về hàng hóa không thể phân theo khẩu phần là quốc phòng. Ví dụ,
nếu quốc phòng của chúng ta đạt được mục đích của nó bằng cách ngăn cản sự tấn công
của Liên Xô, mọi cư dân của Hoa Kỳ đều được hưởng, không có cách gì để loại trừ bất kể
ai không được hưởng lợi ích của các chương trình sức khỏe quốc gia, chẳng hạn tiêm
chủng chống bại liệt. Trong một số trường hợp có thể loại trừ ai đó song rất tốn kém. Ví
dụ, sẽ rất tốn kém nếu loại trừ các cá nhân ra khỏi việc sử dụng những công viên nhỏ ở địa

1
Sử Đình Thành (2009), Lý Thuyết Tài chính công, NXB: Đại học Quốc Gia Tp. HCM
2
phương, để làm việc đó có thể làm mất cảnh quan của công viên và phải có những người
luôn luôn đứng trực để thu vé vào cổng. Việc không thể thực hiện phân khẩu phần bằng hệ
thống giá cả có nghĩa rằng thị trường cạnh tranh không tạo ra lượng hàng hóa có hiệu quả
Pareto. Giả định rằng mọi người đều thấy quốc phòng là có giá trị, nhưng chính phủ lại
không cung cấp, thì liệu các hãng tư nhân có cung cấp được không? Để làm việc đó, hãng
tư nhân phải thu tiền cung cấp dịch vụ. Nhưng vì mỗi người cho rằng mình sẽ được hưởng
dịch vụ bất kể có đóng góp gì hay không, nên anh ta sẽ không tự nguyện trả tiền cho dịch
vụ đó. Chính vì thế, mọi người cần phải hỗ trợ hàng hóa này thông qua nộp thuế. Việc cá
nhân do dự đóng góp tự nguyện vào HHCC gọi là vấn đề ăn không.
- Hàng hóa công không thuần túy: là loại hàng hóa công có thể định suất sử dụng, có
thể loại trừ nhưng phải chấp nhận một khoản chi phí nhất định.
Ví dụ: đường cáp vô tuyến truyền hình khi bạn sử dụng thì người ta hoàn toàn có thể
định suất được việc sử dụng của bạn. Tuy nhiên việc sử dụng của từng cá nhân cũng không
làm ảnh hưởng tới nhau nhiều.
I.2 Cung cấp hàng hóa công
Ở phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu đối tượng nào sẽ cung cấp hàng hóa công và
cung cấp như thế nào để đạt hiệu quả? Một điều lưu ý là cần phân biệt hàng hóa công cộng
và hàng hóa do công cộng cung cấp. HHCC có thể do tư nhân hoặc công cộng cung cấp,
còn hàng hóa do công cộng cung cấp có thể là hàng hóa công cộng hoặc hàng hóa cá nhân.
Ví dụ, dịch vụ vệ sinh đường phố là một HHCC có thể do công cộng đảm đượng việc cung
ứng nhưng cũng có thể do tư nhân thực hiện. Tuy nhiên, dịch vụ bưu điện được cung cấp
công cộng (tư nhân cũng có thể cung cấp) nhưng đó là hàng hóa cá nhân.
Như vậy, HHCC có thể do công cộng hay tư nhân cung cấp.
Thông thường, HHCC có thể được công cộng cung cấp hiệu quả hơn tư nhân. Bởi lẽ,
thứ nhất do đặc điểm không thể phân chia khẩu phần của HHCC đã làm nảy sinh vấn đề ăn
không. Ai cũng thấy quốc phòng là có giá trị nhưng giả sử Chính phủ không cung cấp mà
tư nhân cung cấp, hang tư nhân phải thu tiền cung cấp dịch vụ. Nhưng vì ai cũng cho rằng

mình sẽ được hưởng dịch vụ quốc phòng dù có đóng góp hay không. Do vậy, một số nguời
không tự nguyện trả tiền, họ được hưởng không dịch vụ đó. Chính vì vấn đề ăn không mà
tư nhân không cung cấp HHCC. Trong một số trường hợp, tư nhân cung cấp HHCC nhưng
việc cung cấp đó là không đủ. Chẳng hạn chủ tàu tư nhân xây một cột đèn biển phục vụ
cho tàu mình ngay cả khi không cần thu lệ phí của những tàu khác. Nhưng khi tính toán
xem xây mấy cột đèn biển, ông ta chỉ tính đến lợi ích mà mình thu được, tức chỉ quan tâm
tới lợi ích biên cá nhân và chi phí biên cá nhân chứ không tính đến toàn bộ lợi ích mà mọi
người nhận được, tức không quan tâm tới lợi ích biên xã hội và chỉ có một số lượng đèn
biển được xây dựng đủ phục vụ chotauf của ông ta trong khi nhu cầu xã hội lại cần nhiều
hơn và vì vậy không hiệu quả.
Thứ hai, tính phi hiệu quả của việc tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng còn thể
hiện ở chỗ mất phúc lợi do giảm tiêu dùng. Đối với HHCC có chi phí biên của việc thêm
người sử dụng bằng 0 hoặc gần bằng 0 nếu hàng hóa này do 1 hãng tư nhân cung cấp thì
3
hãng đó phải thu tiền sử dụng. Điều đó làm cho người ta ít sử dụng hàng hóa này, dẫn đến
khoản mất không và không hiệu quả.
Hình trên là đồ thị minh họa trường hợp một cây cầu có công suất thiết kế là Q
c
,
trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc qua cầu miễn phí thì sẽ có Q
m
lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở mức p thì chỉ còn Q
e
lượt và xã hội bị tổn thất một
lượng bằng diện tích hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối với hàng hóa công cộng mà chi
phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn
phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng giá.
Câu hỏi đặt ra tiếp theo là làm sao để cung cấp HHCC một cách có hiệu quả?
Theo lý thuyết về điều kiện Samuelson, muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công
cộng một cách hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân có

một ngân sách nhất định và có nhu cầu khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng hóa
cá nhân (X), nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế cá nhân phỉ trả) và của hàng
hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân sẽ có dạng: I = pX + tG. Ở mỗi mức thuế
khác nhau, cá nhân sẽ có cầu về hàng hóa công cộng khác nhau và để tối đa hóa lợi ích,
mỗi cá nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân bằng
tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường cầu của mỗi cá nhân về hàng hóa công cộng cũng chính
là tỷ suất thay thế biên nên đường cầu tổng hợp của tất cả các cá nhân là tổng tỷ suất thay
thế biên. Mặt khác đường cung về hàng hóa công cộng phản ánh chi phí biên mà xã hội
phải bỏ ra để sản xuất nó và để tối ưu hóa lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất
chuyển đổi biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul
Samuelson đã chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung cấp một cách hiệu quả
thì tổng tỷ suất thay thế biên của các cá nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi biên hay tổng
giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí
tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Đó chính là điều kiện Samuelson về cung cấp hiệu
quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể cả khi đã xác định được mức cung cấp hiệu quả thì
4
việc thực thi chúng lại còn phụ thuộc vào quá trình lựa chọn công cộng nên không phải lúc
nào cũng đạt được mức hiệu quả.
Thứ hai, theo Cân bằng Lindahl: theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa
công cộng sẽ được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá
đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội để
cung cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa công cộng thuần túy không có thị trường
để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng thị trường do cung cầu quyết định, do
vậy việc xác định điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để giải quyết vấn đề xác định
mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách có hiệu quả, nhà kinh tế học người
Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô hình mô phỏng mô hình thị trường cho hàng
hóa công cộng gọi là cân bằng Lindahl. Mô hình này xác định nhu cầu của mỗi cá nhân về
một loại hàng hóa công cộng thuần túy tương ứng với mức thuế (chính là giá của hàng hóa
công cộng) ấn định cho cá nhân đó, mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu
quả là mức mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của mỗi cá nhân

tương ứng với những mức thuế khác nhau nên cân bằng Lindahl khác với cân bằng thị
trường hàng hóa cá nhân khi mà ở đó cân bằng thị trường ở mức giá như nhau đối với mọi
cá nhân. Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề kẻ ăn
không. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả, các cá nhân phải
thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời phải bộc lộ một cách trung
thực nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng. Nếu một cá nhân biết được số tiền mà cá
nhân khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa công cộng thì người đó có thể bộc lộ nhu cầu
của mình về hàng hóa công cộng cũng như số tiền sẵn sàng đóng góp ít hơn thực tế. Trong
trường hợp cực đoan, nếu một người biết rằng việc mình có trả tiền hay không cũng không
ảnh hưởng gì đến việc cung cấp hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ không trả tiền. Trong
những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá nhân biết rõ nhau nên việc che giấu nhu cầu về hàng
hóa công cộng khó thực hiện thì dư luận, áp lực cộng đồng có thể buộc mọi người đóng
góp đầy đủ để có hàng hóa công cộng. Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu các hộ gia đình
đóng góp để bê tông hóa con đường chung một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong cộng
đồng lớn thì vấn đề trở nên rất phức tạp, không thể hoặc phải tốn chi phí rất lớn mới có thể
loại trừ những kẻ đi xe không trả tiền. Đặc biệt nếu hàng hóa công cộng do tư nhân cung
cấp thì họ không có công cụ, chế tài để buộc những người sử dụng trả tiền. Đây chính là
nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư nhân không muốn cung cấp hàng hóa công
cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung cấp hàng hóa công cộng và thu các khoản
đóng góp thông qua thuế.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể loại trừ ngày càng bị hạn
chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có thể ngăn chặn dễ hơn. Ví dụ, nhờ sự phát
triển của công nghệ truyền hình, ngày nay đài truyền hình có thể cung cấp dịch vụ qua
đường cáp thuê bao, qua đầu thu có cài mã khóa, nên có thể ngăn chặn tốt những người
không chịu mất tiền mà vẫn xem được truyền hình. Điều này giải thích tại sao, gần đây, tư
nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp hàng hóa công cộng.
I.3 Thực trạng cung cấp hàng hóa công ở Việt Nam
5
I.3.1. Hiệu quả cung cấp HHCC thấp
Các HHCC này nhìn chung không chỉ thiếu về số lượng mà chất lượng phục vụ còn

thấp do khối lượng HHCC Nhà nước tiếp nhận cung ứng trực tiếp còn quá lớn trong khi hệ
thống cung cấp HHCC còn nhiều hạn chế về năng lực quản lý, điều hành và tổ chức thực
hiện.
Sự độc quyền của các cơ quan nhà nước trong việc cung ứng một số HHCC là một
trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiệu quả cung ứng HHCC thấp. Tình trạng
độc quyền đã làm tăng tính quan liêu của bộ máy nhà nước. Hoạt động dưới sự bao bọc
của Nhà nước, các cơ quan Nhà nước chịu trách nhiệm cung cấp HHCC chưa thực sự phải
đối mặt với cạnh tranhh và nguy cơ phá sản nên chưa có động lực để giảm chi phí, hạ giá
thành và nâng cao hiệu quả cung cấp HHCC. Có thể thấy rõ trong ngành điện, với sự độc
quyền của EVN, giá điện tăng liên tục ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sản xuất của
người dân.
Ví dụ ở lĩnh vực cung ứng dịch vụ giao thông vận tải. Vốn đầu tư cho ngành giao
thông 3 năm (2009-2011) khoảng 181.324 tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước chiếm 61%,
vốn địa phương chiếm 39%. Có thể thấy, trong thời gian này ngành giao thông vận tải chủ
yếu do Nhà nước đảm nhận, khu vực tư nhân gần như chưa tham gia vào lĩnh vực này.
Nhu cầu đi lại và kinh doanh của người dân được đáp ứng tốt hơn song chất lượng dịch vụ
chưa cao. Tình trạng tắc nghẽn giao thông ở các đô thị lớn chưa được khắc phục, một số
công trình giao thông chất lượng kém, nhanh bị hư hỏng dẫn đến tai nạn giao thông, việc
xây dựng chưa có kế hoạch đồng bộ dẫn đến tình trạng sửa chữa, nâng cấp liên tục.
I.3.2. Bộ máy hành chính Nhà nước còn nhiều bất cập
Cơ cấu bộ máy hành chính Nhà nước đang còn bộc lộ nhiều điểm yếu, không phù
hợp với chức năng của nền hành chính Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường và do
đó không có khả năng cung ứng những hàng hóa, dịch vụ mà thực tế đòi hỏi. Hệ thống thể
chế hành chính còn chưa đồng bộ, chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành chính trên
nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự kỷ cương chưa nghiêm. Phương thức tổ chức
bộ máy hành chính chưa khoa học, còn cồng kềnh, vừa tập trung vừa quan liêu, vừa phân
tán; chưa có những cơ chế, chính sách tài chính thích hợp với hoạt động của cơ quan hành
chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức cung ứng HHCC.
Một yếu tố cơ bản khác làm ảnh hưởng xấu tới chất lượng cung cấp HHCC của Nhà
nước là đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều điểm yếu về tình thần trách nhiệm, năng lực

chuyên môn và kỹ năng hành chính, tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu dân tiếp tục diễn
ra nghiêm trọng trong một bộ phận cán bộ, công chức đặc biệt là trong các lĩnh vực giải
quyết thủ tục hành chính.
I.3.3. Thiếu hụt ngân sách trong cung cấp HHHCC
Mặc dù nguồn kinh phí từ ngân sách cho hoạt động sự nghiệp tăng nhanh hơn các
lĩnh vực khác, song vẫn ở mức rất hạn chế, không bảo đảm được chi phí cần thiết của các
đơn vị Nhà nước cung cấp HHCC. Mức ngân sách hạn hẹp như vậy đã ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả ung cấp HHCC, làm thu hẹp khả năng cung ứng cũng như chất lượng dịch
vụ, trước hết là không đủ trả lương thỏa đáng cho cán bộ, nhân viên trong các ngành cung
6
ứng HHCC, nhất là giáo viên, cán bộ y tế, công nhân vệ sinh môi trường, tiếp đó là không
đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trong khi đó, nhu cầu của nhân dân về các lĩnh vực này
đang tăng lên nhanh chóng với đòi hỏi cao hơn về chất lượng khi mức sống ngày một cải
thiện. Thực trạng này dẫn đến những bất cập trong việc cung cấp HHCC của Nhà nước,
đồng thời làm phát sinh những hiện tượng tiêu cực, phá hủy nền tảng đạo đức của xã hôi.
Ví dụ ở lĩnh vực giáo dục, do quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ, trong khi cơ cấu
dân số trẻ, số lượng người đi học rất lớn nhưng ngân sách đầu tư cho lĩnh vực này không
đáp ứng được nhu cầu, cơ sở vật chất cho giáo dục vừa thiều, vừa lạc hậu đặc biệt ở các
tỉnh vùng sâu, vùng xa.
7
CHƯƠNG II. CHI TIÊU CÔNG VÀ THỰC TRẠNG CHI TIÊU CÔNG TẠI
VIỆT NAM
II.1 Cơ sở lý thuyết về chi tiêu công
II.1.1 Ngân sách nhà nước và chi tiêu công
a. Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng của Nhà nước.
b. Khái niệm chi tiêu công
Chi tiêu công là các khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lí hành

chính, các đơn vị sự nghiệp được sự kiểm soát và tài trợ của chính phủ.Như vậy, chi tiêu
công chủ yếu là các khoản chi của ngân sách nhà nước đã được quốc hội phê chuẩn.
c. Mối quan hệ giữa NSNN và chi tiêu công
Bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các thành
viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực
tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xã hội
của Nhà nước.
Một trong những chức năng quan trọng của NSNN là chức năng phân phối, và chức
năng này được thực hiện thông qua chi tiêu công. Bất kỳ một Nhà nước nào, muốn tồn tại
và duy trì được các chức năng của mình, trước hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các
khoản chi cho bộ máy quản lý Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu
văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát triển ….Chi tiêu công tạo ra sự
tái phân phối giữa các khu vực trong nền kinh tế. Chính phủ đóng vai trò là trung tâm
trong quá trình tái phân phối thu nhập. Thông qua chi tiêu công, chính phủ lại cung ứng
cho xã hội những khoản thu nhập đã lấy đi của xã hội bằng việc cung cấp những hàng hóa
công cần thiết mà khu vực tư không có khả năng cung cấp hoặc cung cấp không hiệu
quả.Với cơ chế này, chính phủ thực hiện tái phân phối thu nhập của xã hội công bằng hơn,
khắc phục được khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn
định.
II.1.2 Phân loại chi tiêu công
Chi tiêu công được phân loại dựa theo mục đích khác nhau của chính phủ. Đây là
cách phân loại phổ biến vì qua đây nhà nước sẽ biết được những thông tin về sự ảnh hưởng
của chính sách chi tiêu công đối với mọi hoạt động kinh tế xã hội, qua đó giúp chính phủ
thiết lập các chương trình chi tiêu nhằm nâng cao hiệu quả chi tiêu công.
a. Căn cứ vào chức năng của nhà nước
- Chi xây dựng cơ sở hạ tầng
- Chi hệ thống quản lí hành chính
- Chi cho quốc phòng an ninh
8
- Chi cho tòa án và viện kiểm sát

- Chi hệ thống giáo dục
- Chi hệ thống an sinh xã hội
- Chi hỗ trợ doanh nghiệp
- Chi các chính sách đặc biệt
- Chi khác.
b. Căn cứ vào tính chất kinh tế
- Chi thường xuyên
- Chi đầu tư phát triển.
II.1.3.Các nhân tố tác động đến chi tiêu công
a. Sự phát triển về vai trò của chính phủ trong nền kinh tế
Sở dĩ chi tiêu công có sự tăng lên nhanh chóng là vì vai trò của chính phủ ngàycàng
được mở rộng. Sự mở rộng này là do chính phủ phải gánh vác thêm nhữngnhiệm vụ mới.
Thật là khó tin rằng khu vực tư nhân sẽ cung cấp những hàng hóa công cho xã hội với
cơ chế “người hưởng tự do không phải trả tiền”. Thêm vào đó, sự phát triển của nền kinh
tế sẽ có nhu cầu mới xuất hiện mà khu vực tư sẽ không tham gia và không có lời hoặc
không đủ nguồn lực để thực hiện hoạt động sản xuất. Vì vậy, chính phủ cần có sự can
thiệp và tham gia sản xuất những loại hàng hóa đó.
b. Xã hội hóa các rủi ro
Sự gia tăng chi tiêu công còn bắt nguồn từ sự thay đổi phong tục và tư tưởng mà các
nhà kinh tế gọi đó là sự “xã hội hóa các rủi ro”. Đáng lý ra mỗi cá nhân trongxã hội phải
cố gắng đối phó với mọi rủi ro bằng cách phòng ngừa, lo xa của riêng mình, nhưng do
không đủ khả năng hoặc không nhận thức được đầy đủ trá ch nhiệm, nên
dần dần người ta đã chuyển sang vai nhà nước. Nghĩa là chính phủ phải đứng ra bảo
hiểm, phụ cấp lương và tái phân phối các gánh nặng đó cho toàn thể xã hội để
đảm bảo mức sống tối thiểu của mỗi công dân.
c. Khả năng tích tụ và tích lũy của nền kinh tế
Với một quốc gia, nếu khả năng này của nền kinh tế tốt thì không những hạn chế
được mức chi của ngân sách, ,mà còn cho thấy sự hoạt động tốt của nền kinh tế, một đồng
bỏ ra có hiệu quả cho tăng trưởng và phát triển, không lãng phí.
d. Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên, hạn hán, động đất, dịch bệnh

Chi tiêu công luôn đảm bảo vì lợi ích chung và đảm bảo sự công bằng cho một bộ
phận những người có hoàn cảnh đặc biệt. Khi quốc gia gặp thiên tai, thì việc tăng chi tiêu
để trợ cấp cho những gia đình gặp khó khăn, khắc phục hậu quả, giữ ổn định kinh tế là
điều tất yếu phải làm của chi tiêu công, và do đó mức chi ngân sách cũng sẽ tăng.
e. Hiệu quả chi của bộ máy chi Ngân sách nhà nước
Cũng giống như thu ngân sách nhà nước, bộ máy chi ngân sách nhà nước đạt hiệu
quả tốt sẽ tránh được tình trạng lãng phí, tham ô trong quá trình chi tiêu thì sẽ tiết kiệm
được cho quốc gia một khoản chi lớn, số chi vô ích sẽ giảm đi đáng kể.
9
II.2 Cơ sở lý thuyết về quản lý chi tiêu công
II.2.1 Khái niệm
Quản lý chi tiêu công là hoạt động tổ chức, điều khiển và đưa ra các quyết định của
Nhà nước đối với quá trình phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính công nhằm thực hiện
tốt các chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
II.2.2 Cấu trúc của quản lý chi tiêu công
Quản lý chi tiêu công gồm hệ thống các yếu tố sau:
- Chủ thể quản lý: Nhà nước trực tiếp tổ chức, điều khiển quá trình phân phối, sử
dụng nguồn lực tài chính công.
- Mục tiêu quản lý: Có hai loại là mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể. Mục tiêu
tổng quát của quản lý chi tiêu công là nhằm thúc đẩy tăng trưởng bền vững và đẩy nhanh
tốc độ giảm nghèo. Mục tiêu cụ thể gồm đảm bảo phân bổ có hiệu quả nguồn lực tài chính
của Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động trong cung cấp hàng hoá, dịch vụ công và thực
hiện công bằng xã hội.
- Công cụ quản lý: Gồm các chính sách kinh tế - tài chính, pháp chế kinh tế - tài
chính và chương trình hoá các mục tiêu, dự án.
- Cơ chế quản lý: Là phương thức mà qua đó Nhà nước sử dụng các công cụ quản lý
tác động vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính để hướng vào những
mục tiêu đã định.
- Nội dung quản lý: Gồm việc phân cấp chi giữa chính quyền TW và chính quyền địa
phương; soạn lập ngân sách dựa trên cơ sở dự báo thu nhập và kế hoạch phân bổ nguồn

lực, gắn kết ngân sách với việc đưa ra chính sách; cấp phát, thanh toán và kiểm soát chi; kế
toán, báo cáo và đánh giá thực hiện; kiểm toán và giám sát của các cơ quan lập pháp và
các cơ quan khác…
II.2.3 Các phương thức lập ngân sách trong quản lý chi tiêu công
Các chính phủ cần thực hiện tốt việc lập kế hoạch ngân sách để thực hiện tốt công tác
kiểm soát, phân phối và sử dụng các nguồn lực; qua đó thực hiện tốt vai trò quản lý kinh tế
- xã hội của mình. Việc lập kế hoạch ngân sách có thể được thực hiện theo các phương
thức sau:
a. Lập ngân sách theo khoản mục
Việc lập ngân sách theo khoản mục quy định cụ thể mức chi tiêu theo từng khoản
mục trong quy trình phân phối ngân sách nhằm bắt các cơ quan, đơn vị phải chi đúng các
khoản mục quy định, tránh việc chi tiêu quá mức. Với phương pháp này, trách nhiệm giải
trình chủ yếu tập trung vào việc quản lý các yếu tố đầu vào. Việc lập ngân sách theo khoản
mục có ưu điểm là đơn giản, có khả năng kiểm soát chi tiêu bằng việc so sánh dễ dàng với
số liệu ghi chép chi tiết các yếu tố đầu vào của các năm trước. Tuy nhiên, phương pháp
này có nhược điểm là chỉ phù hợp với các khoản chi tiêu có tính chất tuân chủ do Chính
phủ đưa ra, không lý giải được lý do chi tiêu, ngân sách chỉ được tập trung trong ngắn hạn
(1 năm) và không chú trọng đúng mức đến tính hiệu quả phân bổ nguồn lực và hiệu quả
hoạt động trong cung ứng hàng hoá công.
10
b. Lập ngân sách theo công việc thực hiện
Là việc thực hiện phân bổ nguồn lực theo khối lượng hoạt động của mỗi tổ chức, đơn
vị trên cơ sở gắn kết công việc thực hiện với chi phí bỏ ra.
Việc lập ngân sách theo công việc thực hiện giúp hạn chế tình trạng gia tăng ngân
sách và tạo thuận lợi cho nhà quản lý trong việc dự toán ngân sách. Đây là hình thức
chuyển quy trình lập ngân sách từ kiểm soát chi tiêu sang yếu tố quản lý. Ý nghĩa quan
trọng của phương pháp này là nó nhấn mạnh sự tổng hoà các thông tin hoạt động vào trong
quá trình lập ngân sách và liên kết những gì được tạo ra với nguồn lực được yêu cầu trong
chu kỳ ngân sách hàng năm. Tuy nhiên, phương pháp này không chú trọng đúng mức đến
hiệu lực chi tiêu NSNN cũng như những tác động hay ảnh hưởng dài hạn của chính sách,

đặc biệt trong bối cảnh tổng nguồn lực xã hội còn hạn chế.
c. Lập ngân sách theo chương trình
Lập ngân sách theo chương trình tập trung dứt khoát vào chương trình có tính cạnh
tranh. Đó là việc thiết lập một hệ thống phân phối nguồn lực, gắn kết chi phí với kết quả
của những chương trình đầu tư công. Tuy nhiên, do không thể tạo ra chương trình chung
cho tất cả các tổ chức cùng thực hiện nên phương pháp lập ngân sách này không đảm bảo
gắn kết chặt chẽ giữa phân phối ngành và những mục tiêu chiến lược ưu tiên; không gắn
kết giữa việc thiết lập chương trình công với kế hoạch chi tiêu thường xuyên để sử dụng
nguồn lực tài chính hiệu quả.
d. Lập ngân sách theo kết quả đầu ra
Hiện nay, hầu hết các nước phát triển đều đã thực hiện quản lý ngân sách theo hướng
này. Sở dĩ như vậy là vì chính phủ nào cũng đều phải chịu các sức ép về kinh tế, xã hội và
chính trị. Cụ thể là gia tăng thâm hụt ngân sách, tăng mức độ cạnh tranh, xu hướng toàn
cầu hoá, sự thiếu tin tưởng của công chúng vào chính phủ, và những đòi hỏi về tính minh
bạch cũng như trách nhiệm của Nhà nước đối với các loại hàng hoá, dịch vụ công.
Lập ngân sách theo kết quả đầu ra là hoạt động quản lý ngân sách dựa trên cơ sở tiếp
cận những thông tin đầu ra, qua đó giúp các cơ quan Nhà nước và Chính phủ thực hiện
phân bổ nguồn lực tài chính để đạt được những mục tiêu chiến lược một cách có hiệu quả,
hiệu lực. Lập ngân sách theo kết quả đầu ra cho phép xác định và đo lường chi tiết những
đầu ra của các cơ quan Nhà nước; thể hiện được mối liên kết giữa đầu ra của các cơ quan
Nhà nước với kết quả mong muốn đạt được của Chính phủ; báo cáo công khai các kết quả
đầu ra then chốt dựa vào các chỉ tiêu thực hiện chương trình.
I.2.4 Chiến lược quản lý
Quản lý chi tiêu công gắn liền với quá trình lập ngân sách Nhà nước, phản ánh về
mặt tài chính các lựa chọn kinh tế và xã hội của Nhà nước. Khi chuyển sang lập ngân sách
Nhà nước theo kết quả đầu ra, thì chính sách quản lý chi tiêu công của các nền kinh tế hiện
đại đã có những thay đổi quan trọng về chiến lược theo 3 cấp độ nhằm tạo ra một hệ thống
ngân sách hoạt động có hiệu quả, đó là: kỷ luật tài chính tổng thể; phân bổ và sử dụng các
nguồn lực dựa trên chiến lược ưu tiên; tính hiệu quả và hiệu lực của các chương trình cung
cấp hàng hoá công.

11
a. Tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể
Đối với một nền kinh tế, nguồn lực tài chính cung ứng để thoả mãn nhu cầu là có
hạn, nếu để chi tiêu ngân sách gia tăng sẽ dẫn đến những hậu quả: Gia tăng gánh nợ của
nền kinh tế trong tương lai; Gia tăng gánh nặng về thuế; Phá vỡ thế cân bằng kinh tế, đó là
cân bằng về tiết kiệm - đầu tư, cân bằng cán cân thanh toán, từ đó ảnh hưởng xấu đến tăng
trưởng kinh tế. Vì vậy, cần thiết phải giữ kỷ luật tài chính tổng thể để ổn định kinh tế vĩ
mô. Kỷ luật tài chính tổng thể trước hết yêu cầu giới hạn tổng chi tiêu công phải được thiết
lập dựa vào các chỉ tiêu tổng thể vĩ mô như: quy mô GDP; tỷ suất thu/GDP; sự gia tăng chi
hằng năm trong tổng GDP; tỷ lệ nợ/GDP; tỷ lệ tiết kiệm đầu tư/GDP; mức độ thâm hụt cán
cân thanh toán…
b. Phân bổ nguồn lực tài chính theo những ưu tiên chiến lược
Sau khi đã xác định tính kỷ luật tài chính tổng thể, vấn đề quan trong trong quản lý
chi tiêu công là làm thế nào để ưu tiên hóa những nhu cầu hay mục tiêu có tính cạnh tranh
với nguồn lực tài chính khan hiếm. Nói khác đi, đối với một nền kinh tế, do nguồn lực tài
chính là có giới hạn, cho nên chính phủ cần phải đánh đổi và lựa chọn giữa các mục tiêu
chiến lược trong từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội.
c. Kết quả hoạt động – tính hiệu quả và hiệu lực.
Chiến lược này đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hóa công với mức chi phí hợp
lý để đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
Để làm được điều này, đòi hỏi phải:
- Người quản lý được trao quyền tự chủ trong việc điều hành hoạt động của họ và
nâng cao tính chịu trách nhiệm của họ về kết quả.
- Người quản lý có đủ năng lực và chủ động đề ra những giải pháp làm giảm chi phí
hoạt động và nâng cao khối lượng hoặc chất lượng đầu ra cung cấp cho xã hội.
- Tạo ra những đòn bầy kinh tế khuyến khích người quản lý cải thiện và nâng cao
chất lượng hoạt động.
III.3 Thực trạng quản lý chi tiêu công tại Việt Nam
II.3.1 Thực trạng quản lý chi tiêu công ở Việt Nam
a. Quản lí chi tiêu công ở Việt Nam kém năng động

Chi tiêu công ở Việt Nam được quản trị theo phong cách truyền thống, rất chính tắc
nhưng ít năng động và khá hình thức. Cách làm này đang trở nên lỗi thời, trong bối cảnh
Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới với cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ
đầy đủ của một thành viên, do đó cần phải được đổi mới.
Quản trị chi tiêu công ở Việt Nam trong thời gian qua đã bộc lộ những tồn tại yếu
kém rất cơ bản, xét theo những tiêu chí quản trị khu vực công hiện đại, phổ biến trên thế
giới như tính công khai minh bạch chưa cao, trách nhiệm giải trình còn hạn chế, hiệu quả
kinh tế - xã hội chưa đạt như mong muốn và đặc biệt chưa có sự tham gia đáng kể của
người chủ đích thực của đồng tiền ngân sách là nhân dân.
b. Kém hiệu quả trong phân bổ
12
Cách phân bổ vốn đầu tư ngân sách thời gian qua còn theo kiểu bao cấp - chia đều,
vẫn mang khá nặng dấu ấn của cơ chế xin cho, việc chi tiêu ngân sách chưa thực sự gắn
chặt với trách nhiệm đến cùng; chỉ chịu sự ràng buộc của những hình thức chế tài có hiệu
lực không cao, kèm theo đó là năng lực bộ máy còn yếu.
- Lập ngân sách ngắn hạn, chủ yếu ngân sách hàng năm, do đó không được đánh giá,
xem xét sự phân bổ nguồn lực gắn kết với những chương trình phát triển kinh tế xã hội
hàng năm.
- Thiếu vắng hệ thống các tiêu chí thích hợp để xác định thứ tự ưu tiên chi tiêu. Phân
bổ ngân sách theo yếu tố đầu vào đã tạo ra điểm yếu cơ bản là không khuyến khích đơn vị
chi tiết kiệm ngân sách, vì nó không đặt ra yêu cầu ràng buộc hợp lý, chặt chẽ giữa số kinh
phí được phân bổ với kết quả đạt được ở đầu ra do sử dụng ngân sách đó. Lập ngân sách
theo yếu tố đầu vào đã tạo ra những ưu tiên trong phân bổ bị lệch lạc, méo mó. Nguồn lực
của xã hội được đầu tư vào những dự án, mang lại lợi ích xã hội rất thấp, trong khi ngân
sách thiếu nguồn lực cho những nhu cầu thiết thực như: y tế, văn hóa, giáo dục.
- Tạo ra những quy định đặc biệt, hình thành những quỹ tiền tệ riêng biệt tách ra khỏi
ngân sách để thực hiện những chương trình có tính ưu tiên. Từ đó giảm đi rất nhiều vai trò
của ngân sách và vi phạm những nguyên tắc thống nhất trong quản lý ngân sách.
c. Tính kém hiệu quả hoạt động
- Cho đến nay, ở Việt Nam chưa đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải cách hành

chính công, tinh giảm biên chế trong khu vực công. Biên chế tiếp tục tăng lên (đơn vị
ngàn): 1995: 3,053; 1996: 3,138; 1997: 3,267; 1998: 3,339; 1999: 3,363; và năm 2000
3,421. Hiệu suất trong khu vực công giảm, công chức không thực sự cố gắng, trình độ và
năng suất không cải thiện, thêm vào đó điều kiện làm việc nghèo nàn làm suy yếu hiệu quả
hoạt động.
- Nguồn lực hiện hữu của ngân sách chưa đáp ứng đủ cho hoạt động công, thậm chí
ngay sau khi ngân sách đã được phê chuẩn. Người quản lý luôn bị động, không nắm chắc
nguồn lực để chủ động cân đối cho nhu cầu trong ngắn hạn lẫn dài hạn.
Về mặt luật pháp, kiểm soát ngân sách được thiết lập theo hướng tập trung cao độ với
nhiều quy định rất chi tiết về mua sắm tài sản, định mức chi tiêu… Thế nhưng trên thực tế
sự kiểm soát chính thức không được thực hiện có hiệu quả, do thiếu thông tin về tổ chức
quản lý.
Cách thức quản lý không chính thức tồn tại song song cùng với những quy định
chính thức. Chẳng hạn, sự tuyển chọn cán bộ công chức, chi tiêu mua sắm…mặc dù luật
pháp quy định rất chặt chẽ nhưng trên thực tế dường như lại được thực hiện theo những
quy định không chính thức. Một khi những quy định chính thức không được thực hiện thì
tham nhũng có xu hướng gia tăng, gây phương hại đến nguồn lực tài chính quốc gia.
d. Thiếu mối liên kết chặt chẽ
Quy trình phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn (3 - 5 năm) với nguồn lực trong một khuôn khổ
kinh tế vĩ mô được dự báo.
13
Nói cách khác, nguồn tài trợ cho những kế hoạch nói trên không được quan tâm đúng
mức dẫn đến sự hụt hẫng về tài chính nên nhiều công trình phải chờ kinh phí hoặc bỏ dở.
Thêm vào đó, kinh phí đầu tư dàn trải cho nhiều dự án khiến những ưu tiên của Chính phủ
không được tài trợ tương xứng với tầm quan trọng của chúng.
Trong quá trình soạn lập ngân sách, kiểm soát các yếu tố đầu vào được coi trọng hơn
là sự cải thiện kết quả hoạt động của ngành thông qua thực thi các mục tiêu và nhiệm vụ
của ngành. Các thông số về đầu ra cũng như về kết quả thường ít được quan tâm, nên ngân
sách thiếu thực tế dễ bị điều chỉnh và có thể tạo ra một kết quả ngoại ý. Ngân sách được

lập hàng năm vừa tốn thời gian, nhân lực và tiền bạc vừa không dự liệu hết mọi biến cố
trung hạn có thể ảnh hưởng đến dự toán. Ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu
tư phát triển được soạn lập một cách riêng rẽ làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực công.
e. Về phương thức cấp phát các khoản chi tiêu công
Hiện nay, nhà nước thực hiện cấp phát kinh phí và vốn từ ngân sách nhà nước theo 2
phương thức chủ yếu đó là hạn mức kinh phí và lệnh chi tiền.
- Phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí đã bám sát dự toán chi NSNN được
duyệt cả về tổng số cũng như cơ cấu các mục chi, tạo điều kiện thuận lợi cho Kho bạc nhà
nước, cơ quan tài chính trong việc kiểm soát chi.
- Phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền chỉ áp dụng đối với các khoản chi đột xuất,
không kế hoạch hóa được hoặc áp dụng đối với những đơn vị ít có quan hệ với NSNN,
song trong cả một thời gian khá dài, hình thức cấp phát này được áp dụng cho hầu hết các
dự án đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình mục tiêu.
Cả hai phương thức cấp phát nói trên, được cơ quan tài chính sử dụng để kiểm soát
và chủ động điều hòa NSNN. Tuy nhiên, hiện nay với xu hướng phân công nhiệm vụ rõ
ràng, chuẩn hóa quy trình ngân sách, điều hành ngân sách theo luật; đặc biệt trong điều
kiện hội nhập tài chính quốc tế và khu vực ở lĩnh vực tài chính công, để thích ứng với
những chuẩn mực quản lý NSNN của các nước thì việc áp dụng các hình thức cấp phát
trên cần nghiên cứu và sửa đổi lại cho phù hợp.
f. Có nhiều khiếm khuyết trong hệ thống thông tin quản lý chi tiêu công
Những chuẩn mực kế toán công chưa được quan tâm đúng mức và do vậy, dẫn đến
tình trạng không thể thống nhất và so sánh đánh giá sự phân bổ và sử dụng nguồn lực tài
chính nhà nước. Hiện tại, ít nhất có 3 hệ thống kế toán đang tồn tại bên trong Chính phủ,
đó là: kế toán ngân sách nhà nước, kế toán kho bạc nhà nước, kế toán của các đơn vị sử
dụng ngân sách. Cơ quan tài chính hạch toán chi NSNN theo chế độ hạch toán riêng dựa
trên nguyên tắc ghi sổ đơn và mang đậm tính chất thống kê với tiêu thức lũy kế theo mục
lục NSNN. Kho bạc nhà nước hạch toán kế toán chi NSNN theo nguyên tắc ghi sổ kép, có
theo dõi chi tiết theo mục lục NSNN do Bộ tài chính ban hành. Các đơn vị hành chính sự
nghiệp thực hiện kế toán theo chế độ kế toán đơn vị hành chính sự nghiệp và cũng theo dõi
các khoản chi tiêu của mình theo mục lục NSNN. Ba chế độ hạch toán kế toán do ba đầu

mối thực hiện, đương nhiên khó mà có sự tương đồng, đặc biệt trong điều kiện các chuẩn
mực về kế toán chi tiêu công chưa được nghiên cứu thấu đáo và áp dụng. Đây là một trong
14
những tồn tại gây cản trở cho công tác quản lý và điều hành chi NSNN và áp dụng công
nghệ thông tin.
II.3.2 Tình hình nợ công ở Việt Nam
Việt Nam mở cửa kinh tế được gần 30 năm và đã đạt được những bước phát triển
vượt bậc. Chỉ trong vòng 10 năm, GDP của Việt Nam đã tăng lên gấp 3 lần, từ 32,7 tỷ
USD năm 2001 lên 102 tỷ USD năm 2010
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế
của Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc nhiều
vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do đó, hiện tại và
trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công nói chung là một nhu
cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính (tức là vay nợ và viện trợ
phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương trên thế giới để phát triển nền
kinh tế hơn nữa.
a. Quy mô nợ công
Theo The Economist Intelligence Unit, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới là 11,5
tỷ USD, tương đương 36% GDP, bình quân mỗi người gánh số nợ công xấp xỉ 144 USD.
Nhưng tính đến hết năm 2010, nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương 54,3% GDP
và hiện tại, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có mức nợ công trên trung bình. Như vậy,
trong vòng 10 năm từ 2001 đến 2010, quy mô nợ công đã tăng gấp gần 5 lần với tốc độ
tăng trưởng nợ trên 15% mỗi năm (Biểu đồ 1). Nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ trong
vòng 5 năm nữa, đến năm 2016, nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như hai
nước thành viên EU mới lâm vào khủng hoảng nợ công gần đây là Hy Lạp (133,6%),
Ailen (129,2%). Nợ công đạt trên 100% GDP là một con số không nhỏ đối với một nền
kinh tế đang phát triển và quy mô nhỏ, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông
nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.
Biểu đồ 1: Tình hình nợ công và nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2001-2010
Nguồn: The Economist Intelligence Unit

b. Cơ cấu nợ công
Theo khoản 2, Điều 1, Luật Quản lý nợ công của Việt Nam, nợ công bao gồm tất cả
các khoản nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Cơ
cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010 gồm nợ chính phủ chiếm 78,1%, còn lại là nợ
được chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong nợ chính phủ, nợ nước
15
ngoài chiếm 61,9%; nợ trong nước chiếm 38,1%. Trong nợ nước ngoài, ODA chiếm tỷ
trọng lớn. Cụ thể, năm 2009, nợ công của Việt Nam gồm nợ chính phủ chiếm 79,2%, nợ
được chính phủ bảo lãnh chiếm 17,6% và nợ chính quyền địa phương chiếm 3,1%; trong
nợ chính phủ, nợ nước ngoài chiếm 60%, trong đó có 85% là ODA.
Bảng 1: Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 – 2010
Đơn vị 2006 2007 2008 2009 2010 Bình
quân
Nợ chính phủ Tỷ USD 23,7 24,1 31,2 37,8 45,3 32,4
Nợ chính phủ %GDP 39,0 33,8 36,5 40,4 44,6 38,9
Nợ chính phủ % Nợ công 85,0 68,0 76,2 79,2 82,1 78,1
Nợ nước ngoài
của chính phủ
TỷUSD 14,6 17,3 18,9 23,9 25,1* 20
Nợ nước ngoài
của chính phủ
% Nợ chính phủ 61,6

71,6 60,7 60,0 55,4%*
*
61,9
Nợ nước ngoài
của khu vực
công
%GDP 26,7 28,3 25,1 29,3 N/A

Nợ nước ngoài
của khu vực
công
% Nợ Công 58,2 56,9 52,4 57,5 N/A
Nguồn: Bộ Tài Chính, Bản tin nợ nước ngoài số 6
Chú thích: *, **: Số liệu 6 tháng đầu năm 2010
c. Tình hình sử dụng nợ công
Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công của Việt Nam được chuyển tải vào
các dự án đầu tư nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền
vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở Việt Nam không đạt hiệu quả cao, thể hiện
ở hai khía cạnh sau:
Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn: Tình trạng chậm trễ trong giải
ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ diễn ra
khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải ngân
được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm.
Tình trạng dự án, công trình thi công dở dang, chuyển tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn
chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và
trong hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước cũng như các tập đoàn lớn, dẫn đến đầu
tư dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu
tư.
16
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR (xem Biểu đồ 2): Năm 2009,
trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt
5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008.
Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5,24 đồng vốn để tạo ra được 1 đồng
sản lượng, thì giờ đây cần phải đầu tư thêm gần 3 đồng vốn nữa.
Biểu đồ 2: Chỉ số ICOR của Việt Nam năm 2001 – 2009
Nguồn: Bộ Tài chính
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ công của Việt Nam không ổn định và hầu như
không có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam dành ra trên 3,5%

GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trảnợ/tổng nợ công giảm dần qua các năm, từ 9,09%
năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi đó, quy mô của các khoản nợ công ngày
càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ
công ở Việt Nam còn đang tồn tại nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự kém
hiệu quả trong sử dụng vốn vay vào các dự án đầu tư. Điều này tác động tiêu cực tới khả
năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.
17
CHƯƠNG III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
III.1 Mối quan hệ giữa hàng hóa công và chi tiêu công
Trong khuôn khổ của phạm trù tài chính công, có thể khái niệm chi tiêu công là các
khoản chi tiêu của các cấp chính quyền, các đơn vị quản lý hành chính, các đơn vị sự
nghiệp được kiểm soát và tài trợ bởi chính phủ. Chi tiêu công phản ánh giá trị của các loại
hàng hóa mà chính phủ mua vào để qua đó cung cấp các loại hàng hóa công cho xã hội
nhằm thực hiện các chức năng của nhà nước. Và hiệu quả của chi tiêu được tính toán
thông qua chỉ tiêu so sánh giữa chi phí đầu vào bỏ ra để sản xuất một đơn vị đầu ra (hàng
hóa công được cung cấp).
Thông qua các khoản chi tiêu công, nhà nước cung cấp những hàng hóa cần thiết cho
xã hội mà khu vực tư không có khả năng cung cấp hoặc cung cấp không hiệu quả. Thông
qua cơ chế này, nhà nước thực hiện tái phân phối thu nhập của xã hội công bằng hơn, khắc
phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định.
Như vậy, mức độ chi tiêu công phản ánh mức độ cung cấp hàng hóa công ra xã hội,
cung cấp hàng hóa công hiệu quả thể hiện hiệu quả của chi tiêu công.
III.2 Giải pháp để cung cấp hàng hóa công hiệu quả và tiết kiệm chi tiêu công
Đa dạng hóa phương pháp quản lý dịch vụ công.
Một trong những vấn đề cần giải quyết là thay đổi cách thức quản lý của nhà nước
đối với các dịch vụ cung cấp công cộng. Đối với các dịch vụ do nhà nước cung ứng, cần
tìm kiếm cách thức để cung ứng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Một trong những hướng
đi là áp dụng kinh nghiệm quản lý của khu vực tư nhân vào việc quản lý cung câp dịch vụ
bằng ngân sách nhà nước. Ví dụ, đề xuất thực hiện các tiêu chuẩn ISO, thực hiện phương
pháp làm việc 5S, phương pháp quản lý theo mục tiêu (MbO)….mục đích nhằm năng động

hóa phương thức quản lý và cung cấp dịch vụ công.
Tăng cường yếu tố thị trường trong việc cung cấp hàng hóa công
Để việc cung ứng hàng hóa công đem lại hiệu quả và chất lượng phục vụ cao hơn,
chính phủ có thể phối hợp với các đơn vị ngoài nhà nước để thực hiện việc cung cấp hàng
hóa công. Khi đó, chính phủ đóng vai trò là nhà hoạch định chiến lược, người đảm bảo
cung ứng các hàng hóa công thông qua việc sử dụng ngân sách để ký kết các hợp đồng
cung cấp dịch vụ công với các nhà cung cấp thuộc các thành phần kinh tế. Nhà nước cần
tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng để các loại hình sở hữu khác ngoài khu vực
nhà nước cùng cung cấp hàng hóa công trên nguyên tắc cạnh tranh về chất lượng và chi
phí.
Cơ cấu lại chi tiêu ngân sách
Cần phân định rõ lại những dịch vụ công do các cơ quan, tổ chức nhà nước trực tiếp
cung ứng từ đó cơ cấu lại chi tiêu ngân sách theo hướng tập trung thích đáng cho việc cung
ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yếu nhất.
Đổi mới phương thức phân bổ ngân sách
18
Đổi mới phương thức phân bổ ngân sách theo hướng chuyển từ cấp phát kinh phí
sang theo đầu vào cho đơn vị cung ứng sang hỗ trợ kinh phí theo đầu ra tùy thuộc vào số
lượng, chất lượng dịch vụ; hoặc thực hiện giao kế hoạch, đặt hàng và thanh toán dịch vụ
theo đơn đặt hàng…Đẩy mạnh phân cấp quản lý và cung ứng dịch vụ công cho chính
quyền địa phương các cấp, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương đối với việc
thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của cư dân trên địa bàn.
Cuối cùng, cần xác định đúng và đủ các đối tượng chính sách xã hội thụ hưởng dịch
vụ công để đảm bảo công bằng xã hội, hạn chế lạm dụng nguồn lực nhà nước đối với các
dịch vụ công.
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bản tin nợ nước ngoài Số 06 (2010). Bộ tài chính.
2. Luận văn “Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ trong
cung ứng dịch vụ công cộng”.

3. Nguyễn Thị Hiên. Kinh tế công cộng. NXB Khoa học và kỹ thuật.
4. Phạm Thị Hương (2010). Tác động của chi tiêu công đến tăng trưởng kinh tế tại
các địa phương ở Việt Nam. Trung tâm nghiên cứu chính sách Đại học Quốc gia Hà Nội.
5.PGS.TS Sử Đình Thành (2009). Lý thuyết Tài chính Công. NXB Đại học quốc gia
Tp.HCM.
6. PGS.TS Ngô Quang Minh. Kỷ yếu khoa học “Những vấn đề quản lý của Nhà
nước đối với hàng hóa công cộng ở nước ta hiện nay”. Học viện chính trị quốc gia
Tp.HCM.
7. Ths Nguyễn Tuấn Tú (2012). Nợ công của Việt Nam hiện: Thực trạng và giải
pháp. Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế và Kinh doanh số 28.
8. Vũ Như Thăng (2011). Tái cấu trúc đầu tư công. Tạp chí tài chính số 6 (560).
20
21
22

×