Tải bản đầy đủ (.docx) (150 trang)

Đánh giá vai trò của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học tại vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 150 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
*************************

ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG
TÁC QUẢN LÝ VÀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP – NÚI BÀ,
HUYỆN LẠC DƯƠNG,
TỈNH LÂM ĐỒNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 08/2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
******************

ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG
TÁC QUẢN LÝ VÀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC
TẠI VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP – NÚI BÀ,
HUYỆN LẠC DƯƠNG,
TỈNH LÂM ĐỒNG
Chuyên ngành : Quản lý Tài nguyên & Môi trường

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
Hướng dẫn Khoa học:
TS. HỒ VĂN CỬ
Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 08/2014
ĐÁNH GIÁ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ
VÀ BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP –
NÚI BÀ, HUYỆN LẠC DƯƠNG, TỈNH LÂM ĐỒNG
NGUYỄN HOÀNG KHÁNH NGỌC


Hội đồng chấm luận văn:
1. Chủ tịch: TS. ĐINH QUANG DIỆP
Đại học Nông Lâm TP. HCM
2. Thư ký: TS. NGUYỄN THỊ MAI
Đại học Nông Lâm TP. HCM
3. Phản biện 1: TS. PHAN THỊ GIÁC TÂM
Đại học Nông Lâm TP. HCM
4. Phản biện 2: TS. CHẾ ĐÌNH LÝ
Đại học Quốc Gia TP. HCM
5. Ủy viên: TS. PHẠM TRỊNH HÙNG
Đại học Nông Lâm TP. HCM
3
LÝ LỊCH CÁ NHÂN
Tôi tên là Nguyễn Hoàng Khánh Ngọc, sinh ngày 09 tháng 09 năm 1990 tại
thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Tốt nghiệp PTTH tại Trường Trung học phổ thông Ngô Quyền, tỉnh Đồng Nai
năm 2008. Tốt nghiệp đại học ngành Quản lý môi trường hệ chính quy tại Đại học
Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh năm 2012.
Tháng 10 năm 2012 theo học Cao học ngành Quản lý Tài nguyên và Môi
trường tại trường Đại học Nông Lâm, Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: H2/6, cư xá A42, khu phố 6, phường Trung Dũng, TP. Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Điện thoại: 0902496974
Email:
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nào khác.
Học viên

Nguyễn Hoàng Khánh Ngọc
5
CẢM TẠ
Trong thời gian học tập hoàn thành nghiên cứu này, tôi xin chân thành cảm ơn
Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, Phòng Sau Đại Học, Khoa Môi
trường & Tài nguyên và quý Thầy, Cô trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình học tập tại trường.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy hướng dẫn Khoa học – Tiến sĩ
Hồ Văn Cử, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này, tôi vô
cùng biết ơn và trân trọng những ý kiến quý báu Thầy đã giúp tôi trong suốt thời
gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban quản lý vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà, Th.S
Tôn Thất Minh, anh Trương Quang Cường, Võ Hồng Dương, Bùi Thế Hoàng và
anh Cil Pam Ha Thành đã tạo điều kiện và giúp đỡ trong quá trình thu thập số liệu.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã quan tâm, giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 07 năm 2014
Học viên
Nguyễn Hoàng Khánh Ngọc
6
TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu “Đánh giá vai trò của cộng đồng trong công tác quản lý và
bảo tồn đa dạng sinh học tại vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà, huyện Lạc Dương,
tỉnh Lâm Đồng” được thực hiện trong khoảng thời gian 11 tháng, từ tháng 8/2013
đến tháng 6/2014. Mục tiêu của nghiên cứu là: góp phần nâng cao đời sống của
cộng đồng, phục vụ công tác bảo tồn đa dạng sinh học. Với các phương pháp
nghiên cứu được thực hiện như: phương pháp thu thập và kế thừa; chọn điểm
nghiên cứu; khảo sát thực địa; đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia (phỏng
vấn, lát cắt, dòng thời gian, phân tích SWOT, sơ đồ Venn, họp dân); tham khảo ý

kiến chuyên gia và xử lý các dữ liệu thu được bằng excel, đề tài đã điều tra và đưa
ra các kết quả, đánh giá sau:
- Hiện trạng sử dụng tài nguyên của cộng đồng: thông tin về đối tượng phỏng
vấn, mức độ phụ thuộc của người dân vào rừng, mức độ tác động của cộng đồng lên
vườn quốc gia, các đối tượng tác động lên vườn quốc gia, những thách thức và đe
dọa đối với công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà.
- Sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH: mức
độ tham gia của cộng đồng trong hoạt động bảo tồn ĐDSH, nhận thức của cộng
đồng trong việc bảo tồn ĐDSH, ảnh hưởng của các bên liên quan đến quản lý và
bảo tồn ĐDSH, tương tác giữa quản lý bảo vệ rừng và hiện trạng sinh kế của cộng
đồng.
- Đề xuất một số giải pháp thu hút cộng đồng cùng tham gia bảo tồn ĐDSH ở
vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà: lồng ghép công tác bảo tồn vào kế hoạch phát triển
KT – XH của huyện Lạc Dương; tăng cường năng lực quản lý, nghiên cứu và hợp
tác quốc tế cho Ban quản lý VQG; đầu tư và phát triển KT – XH trong vùng đệm;
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và thu hút cộng đồng tham gia vào công tác bảo
tồn.
7
SUMMARY
The research project “Assessing the role of communities in the management
and conservation of biodiversity in Bidoup – Nui Ba National Park, Lac Duong
district, Lam Dong province” has been studied in 11 months, from August 2013 to
June 2014. The objectives of this study are: contributing to improving community’s
standard of living, serving the conservation of biodiversity. A variety of research
methods has been implemented which included: collection and inheritance, site
selection studies, field surveys, participatory rural appraisal (interview, slice, time
lines, SWOT analysis, Venn diagrams, and meeting people); consulting experts and
processing obtained data using Excel, the following results and evaluations were
concluded after investigating the subjects:
- The current usage of community resources: information on respondents, the

dependent level of people on forests, the impact degree of the community and the
influence of objects on national park, challenges and threats to the management and
conservation of biodiversity at Bidoup – Nui Ba national park.
- The involvement of the community in the management and conservation of
biodiversity: the participation level of the community in the conservation,
community awareness of the conservation of biodiversity, influence of the parties
involved in the management and conservation of biodiversity, interactions between
forest management, protection and livelihood status of the community.
- The proposal of some solutions to attract community participation in
biodiversity conservation at Bidoup - Nui Ba national park: integrating conservation
into economic - social development plans of Lac Duong district; strengthening the
capacity of management, research and international cooperation for national park
management board; economic - social investment and development in the buffer
zone; propagation, dissemination, education and attraction of community
participation in conservation procedure.
8
MỤC LỤC
TRANG
9
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQL Ban quản lý
BQLRPHĐN Ban quản lý rừng phòng hộ Đa Nhim
BTTN Bảo tồn thiên nhiên
CB Văn hóa đa dạng sinh học (Cultural Biodiversity)
CĐĐP Cộng đồng địa phương
DLST Du lịch sinh thái
ĐDSH Đa dạng sinh học
GIS Hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System)
GKQLBVR Giao khoán quản lý bảo vệ rừng
HST Hệ sinh thái

IUCN Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (International Union
for Conservation of Nature)
KBT Khu bảo tồn
KBTTN Khu bảo tồn thiên nhiên
PRA Đánh giá nông thôn có sự tham gia (Participatory Rural
Appraisal)
PTBV Phát triển bền vững
QLBVR Quản lý bảo vệ rừng
TNR Tài nguyên rừng
VQG Vườn quốc gia
WRI Viện Tài nguyên Thế giới (World Resources Institute)
10
DANH SÁCH CÁC HÌNH
HÌNH TRANG
11
DANH SÁCH CÁC BẢNG
BẢNG TRANG
12
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng về môi trường trên phạm vi
toàn cầu; ước tính có khoảng 150 loài sinh vật bị mất đi mỗi ngày do ảnh hưởng của
các hoạt động của con người (Lamont, 1995); tình trạng này đang có xu hướng gia
tăng và các hoạt động của con người trở thành mối đe dọa đến khả năng cung cấp
của hệ sinh thái (HST). Sự tồn tại của con người phụ thuộc phần lớn vào tài nguyên
đa dạng sinh học (ĐDSH) và các chức năng tự nhiên của HST. Nó đảm bảo cho
chúng ta có thức ăn, có nước uống, có không khí trong lành và sự bình an của cuộc
sống. Do đó việc bảo tồn ĐDSH và duy trì các chức năng tự nhiên của HST là thực
sự cần thiết (Hồ Văn Cử, 2008).
Hệ thống khu bảo tồn của nước ta được hình thành sau giai đoạn lâm nghiệp

khai thác, phần lớn các khu bảo tồn trên cạn thường nằm ở những khu vực xa xôi,
địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn. Đó thường là nơi sinh sống của các cộng đồng
người dân tộc thiểu số có đời sống khó khăn và kém phát triển về nhiều mặt. Ở đó,
những thể chế luật pháp hiện hành thường có mặt sau những luật tục và truyền
thống của cộng đồng (Đào Trọng Hưng và ctv, 2001).
Hệ thống các khu bảo tồn nước ta cũng nằm trong khu vực sinh sống của
nhiều nhóm người dân tộc thiểu số khác nhau. Sự đa dạng của các cộng đồng bao
gồm nhiều mặt như đa dạng về vùng sinh thái, về kinh tế, xã hội, bản sắc văn hóa
truyền thống và luật tục (Đào Trọng Hưng và ctv, 2001). Kiến thức bản địa được
coi là hệ thống kiến thức của một cộng đồng dân tộc hoặc dân tộc bản địa tồn tại và
phát triển trong từng hoàn cảnh cụ thể với sự đóng góp của mọi thành viên trong
cộng đồng của một vùng địa lý (Donovan và ctv, 1997). Các kiến thức của người
13
dân về cách sử dụng và bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học không đơn thuần có ý
nghĩa về khoa học mà còn là tài sản văn hóa quý giá của quốc gia và thế giới. Song
theo thời gian, cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phát triển nhanh chóng
của kinh tế xã hội, vai trò của cộng đồng các dân tộc thiểu số trong việc bảo tồn các
giá trị đa dạng sinh học đã bị đánh giá không đầy đủ và đôi khi gây ra các kết quả
không như mong đợi trong công tác bảo tồn ĐDSH.
Nhiều cộng đồng dân tộc thiểu số thuộc trong số những người nghèo nhất tại
Việt Nam. Để duy trì cuộc sống, họ vẫn giữ tập quán khai thác các sản phẩm rừng,
săn bắn động vật rừng, thu hái các sản phẩm từ khu vực bảo tồn. Áp lực từ phía
cộng đồng lên khu bảo tồn rất đa dạng về hình thức, phạm vi và mức độ tác động
(Đào Trọng Hưng và ctv, 2001). Đó là một trong những thách thức lớn đối với bảo
tồn ĐDSH. Vì vậy, để duy trì sự tồn tại và phát triển của các vườn quốc gia, khu
bảo tồn cần phải có các giải pháp bảo tồn phù hợp có sự hỗ trợ và cộng tác tích cực
của cộng đồng địa phương.
Vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà được thành lập năm 2004 lấy theo tên hai
ngọn núi cao nhất cao nguyên Langbiang là Bidoup (2.287 m) và Núi Bà (2.167 m).
Với diện tích 70.038,75 ha, gồm 1.923 loài thực vật có mạch và hơn 422 loài động

vật. Các giá trị ĐDSH ở vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà đang đối mặt với các đe
dọa như: lấn chiếm đất lâm nghiệp để canh tác, chăn thả gia súc, thu hái lâm sản
ngoài gỗ, săn bẫy thú, xây dựng cơ sở hạ tầng (làm đường, nuôi cá hồi…) (Bộ NN
& PTNT, 2009).
Vì vậy tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá vai trò của cộng đồng
trong công tác quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học tại vườn quốc gia Bidoup –
Núi Bà, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng” nhằm mục đích góp phần bảo tồn
nguồn tài nguyên ĐDSH của VQG Bidoup – Núi Bà, bổ sung cơ sở lý luận và thực
tiễn trong công tác quản lý, bảo tồn ĐDSH tại Việt Nam nói chung và điều kiện đặc
thù của VQG Bidoup – Núi Bà nói riêng.
14
Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng sử dụng tài nguyên của cộng đồng ở vườn quốc gia
Bidoup – Núi Bà.
- Đánh giá vai trò của cộng đồng trong việc tham gia bảo tồn ĐDSH.
- Xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của cộng đồng trong công tác
bảo tồn ĐDSH ở VQG Bidoup – Núi Bà.
Nội dung nghiên cứu
- Hiện trạng sử dụng tài nguyên của cộng đồng.
- Sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý và bảo tồn ĐDSH.
- Đề xuất một số giải pháp thu hút cộng đồng cùng tham gia bảo tồn ĐDSH ở
vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà.
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được thực hiện tại 3 thôn mục tiêu Đa Tro, Đarahoa, Đabla, xã Đa
Nhim, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng.
Đề tài tập trung nghiên cứu mức độ tham gia của cộng đồng tại xã Đa Nhim
huyện Lạc Dương vào các hoạt động bảo tồn ĐDSH tại vườn quốc gia Bidoup –
Núi Bà từ năm 2010 đến 2013 và đề xuất các giải pháp giúp nâng cao sự tham gia
của họ.

- Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 8/2013 đến 6/2014.
- Đối tượng nghiên cứu
Cộng đồng cư trú tại 3 thôn mục tiêu thuộc xã Đa Nhim, huyện Lạc Dương,
tỉnh Lâm Đồng trong việc tham gia bảo tồn ĐDSH tại VQG Bidoup – Núi Bà và
Ban quản lý vườn quốc gia.
15
Những đóng góp của đề tài
Về lý luận
- Vận dụng văn hóa đa dạng sinh học (CB) trong đánh giá và đề xuất giải pháp
bảo tồn ĐDSH có sự tham gia của cộng đồng.
- Đây là cơ sở khoa học có thể áp dụng cho việc xây dựng mô hình quản lý và
bảo tồn ĐDSH dựa vào cộng đồng địa phương ở VQG Bidoup – Núi Bà. Cung cấp
các phương pháp phân tích, lựa chọn, tìm kiếm những giải pháp thích hợp để nâng
cao vai trò của người dân cùng kết hợp với Ban quản lý VQG thực hiện tốt hơn việc
quản lý và bảo tồn ĐDSH.
Về thực tiễn
- Đánh giá được hiện trạng sử dụng tài nguyên thiên nhiên của cộng đồng.
- Đánh giá mức độ tham gia của cộng đồng, nhận thức về bảo tồn ĐDSH trong
khu vực sinh sống.
- Đề xuất các giải pháp trong bảo tồn ĐDSH có sự tham gia của cộng đồng
theo văn hóa đa dạng sinh học (CB).
Kết quả của đề tài có thể được sử dụng làm nền tảng để kiến tạo giải pháp thu
hút sự tham gia của người dân địa phương trong công tác bảo tồn ĐDSH và tăng
hiệu quả bảo vệ rừng.
16
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Đa dạng sinh học

Theo IUCN (1994), đa dạng sinh học (ĐDSH) được định nghĩa là sự đa dạng
giữa các sinh vật từ tất cả các nguồn, vùng trời, vùng đất, vùng biển, các hệ sinh
thái thủy vực nội địa và các phức hệ sinh thái mà chúng là thành viên, bao gồm sự
đa dạng trong mỗi loài, giữa các loài và các hệ sinh thái (Phạm Bình Quyền, 2002).
Cuối thế kỷ XX, khái niệm ĐDSH còn đề cập đến mối quan hệ tương hỗ giữa
hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội, gắn yếu tố con người (human) với ĐDSH.
Trong một định nghĩa về ĐDSH của WRI (2005) cho rằng “…loài người phụ thuộc
hoàn toàn vào quần xã sinh vật – sinh quyển,…ĐDSH là một giới hạn bao trùm sự
giàu có về sinh vật tự nhiên, điều đó củng cố cho sức khỏe và sự sống của con
người…” (Hồ Văn Cử, 2008).
Trong Luật đa dạng sinh học 2008 của Việt Nam thì định nghĩa: “Đa dạng
sinh học là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên” (khoản
5 điều 3).
1.1.2. Văn hóa đa dạng sinh học
Văn hóa đa dạng sinh học đặt con người vào vị trí trung tâm của vấn đề quản
lý đa dạng sinh học, là liên kết giữa đa dạng văn hóa (hoặc con người) và đa dạng
sinh học (ĐDSH). Mà tính đa dạng văn hóa là sự đa dạng của xã hội loài người /
văn hóa và đa dạng sinh học là sự đa dạng của đời sống thực vật và động vật, trong
bất kỳ một khu vực cụ thể hoặc trong thế giới nói chung (The Mupo Foundation,
2013).
17
Sự biến mất của các nền văn hóa bản địa là một mất mát lớn cho xã hội, bởi có
thể học hỏi rất nhiều từ kỹ năng truyền thống của họ trong việc quản lý hệ sinh thái.
Phục hồi văn hóa đa dạng sinh học thông qua các cuộc họp mặt, lễ kỷ niệm và
tạo thuận lợi cho chuyển giao kiến thức giữa các thế hệ người lớn tuổi và thế hệ trẻ.
Có một sự hiểu biết về văn hóa đa dạng sinh học giúp đánh giá cao sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và văn hóa trong mỗi ngày. Tìm hiểu về CB
giúp con người có thể cải thiện cuộc sống bằng cách áp dụng các chuẩn mực, giá trị,
phong tục và ý tưởng trong xã hội của họ.
Văn hóa và môi trường tự nhiên có mối liên kết chặt chẽ với nhau. Văn hóa

chính là một công cụ mạnh mẽ trong việc bảo tồn đa dạng sinh học (Maolan
Biosphere Reserve, 2007).
1.1.3. Bảo tồn đa dạng sinh học
Hiện nay có nhiều phương pháp bảo tồn khác nhau. Có thể phân chia các
phương pháp và công cụ thành các nhóm như sau:
- Bảo tồn nguyên vị (in situ)
Bảo tồn nguyên vị bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo
vệ các loài, các chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên mà
loài đang tồn tại. Tùy theo đối tượng bảo tồn mà các hành động quản lý thay đổi.
Theo Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) thì có 6 loại khu bảo tồn: Loại
I: khu bảo tồn nghiêm ngặt (hay khu bảo tồn hoang dã), Loại II : vườn quốc gia, chủ
yếu để bảo tồn các hệ sinh thái và sử dụng vào việc du lịch, giải trí, giáo dục; Loại
III: công trình thiên nhiên, chủ yếu bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên đặc biệt; Loại
IV: khu bảo tồn sinh cảnh hay các loài, chủ yếu là nơi bảo tồn một số sinh cảnh hay
các loài đặc biệt cần bảo vệ; Loại V: khu bảo tồn cảnh quan đất liền hay cảnh quan
biển, chủ yếu bảo tồn các cảnh quan thiên nhiên đẹp, sử dụng cho giải trí và du lịch;
Loại VI: khu bảo tồn quản lý tài nguyên thiên nhiên, chủ yếu quản lý với mục đích
sử dụng một cách bền vững các hệ sinh thái và tài nguyên thiên nhiên.
18
- Bảo tồn chuyển vị (ex situ)
Bảo tồn chuyển vị bao gồm các biện pháp di dời các loài cây, con và các vi
sinh vật ra khỏi môi trường sống thiên nhiên của chúng. Bảo tồn chuyển vị bao gồm
các vườn thực vật, vườn động vật, các bể nuôi thuỷ hải sản, các bộ sưu tập vi sinh
vật, các bảo tàng, các ngân hàng hạt giống, bộ sưu tập các chất mầm, mô cấy Do
các sinh vật hay các phần của cơ thể sinh vật được lưu giữ trong môi trường nhân
tạo, nên chúng bị tách khỏi quá trình tiến hóa tự nhiên. Vì thế mà mối liên hệ gắn
bó giữa bảo tồn chuyển vị với bảo tồn nguyên vị rất bổ ích cho công tác bảo tồn đa
dạng sinh học (Schmidt và ctv, 2012).
1.1.4. Cộng đồng
Cộng đồng được nói tới ở đây là một đơn vị cấp địa phương của một tổ chức

xã hội bao gồm các cá nhân, gia đình, thể chế và các cấu trúc khác đóng góp cho
cuộc sống hàng ngày của một xã hội, một nhóm người trong một khu vực địa lí xác
định, có thể được biến đổi bởi quá trình vận động lịch sử.
Hay nói cách khác, cộng đồng là tập hợp những người sống gắn bó với nhau
thành một xã hội nhỏ có những điểm tương đồng về mặt văn hóa, kinh tế, xã hội
truyền thống, phong tục, tập quán, có quan hệ trong sản xuất và đời sống gắn bó với
nhau và có ranh giới không gian trong một thôn bản. Theo quan niệm này, “cộng
đồng” chính là cộng đồng dân cư thôn bản (sau đây “thôn bản” được gọi chung là
“thôn” cho phù hợp với Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004).
Theo Điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 “cộng đồng dân cư thôn
là tập hợp toàn bộ các hộ gia đình, cá nhân sống trong cùng một thôn, làng, ấp,
buôn, phum, sóc hoặc đơn vị tương đương” (Bộ NN & PTNT, 2006).
Trong lịch sử hình thành và phát triển của loài người, nhất là do nguy cơ tăng
dân số và quá trình công nghiệp hóa, thế giới tự nhiên vốn đa dạng nay đang bị phá
hoại, làm nghèo nàn, thậm chí nhiều giống loài bị tiêu diệt dẫn đến tuyệt chủng. Bởi
vậy, một trong các vấn đề lớn của nhân loại trong thế kỷ XXI là phải bảo tồn và làm
giàu trở lại thế giới tự nhiên vốn có.
19
Do vậy, một bài toán mà chúng ta cần phải giải là tạo nên sự gắn bó vốn đã có
và phát huy vai trò và sự tham gia của mỗi cộng đồng cư dân vào việc bảo tồn các
khu bảo tồn thiên nhiên, VQG. Phải coi việc phát triển xã hội toàn diện của cộng
đồng, nhất là vấn đề bảo tồn và làm giàu bản sắc văn hóa của cộng đồng như là một
bộ phận hữu cơ của việc bảo tồn các khu bảo tồn thiên nhiên, VQG.
1.1.5. Sự tham gia của cộng đồng
Tham gia là một khái niệm chung chỉ sự liên quan của các nhóm hay các cá
nhân trong quá trình quyết định. Có nhiều cách và mức độ tham gia:
- Thông báo: đây là mức độ thấp nhất của sự tham gia. Các nhóm hay các cá
nhân nhận được thông tin về các hoạt động dự kiến, nhưng họ không có điều kiện
làm thay đổi chúng. Mục tiêu của việc thông báo là để thuyết phục cộng đồng về
các quan điểm của nhà lãnh đạo. Đây là cách tiếp cận “từ trên xuống” khi quyết

định trong công tác bảo tồn.
- Tham vấn: đây là bước cao hơn thông báo. Các cộng đồng địa phương, các
bên liên quan chủ chốt và các tổ chức nhận được thông báo về dự án hay kế hoạch
để biết quan điểm của họ. Những ý kiến tham vấn được nhắc đến trong khi đánh
giá, nhưng không nhất thiết được tiếp thu vì bản thảo cuối cùng đã xong.
- Cùng quyết định: điều này xảy ra khi các bên liên quan được mời đến để biết
và trao đổi về vấn đề cùng quan tâm và tham gia vào quyết định cuối cùng.
- Cùng phối hợp: khi hai bên cùng tham gia quyết định và chia sẻ trách nhiệm
để thực hiện các quyết định đó.
- Ủng hộ các mối quan tâm độc lập của cộng đồng: đây là mức độ cao nhất của
sự tham gia của cộng đồng. Cộng đồng chịu trách nhiệm xây dựng các chương trình
bảo tồn và thực hiện các quyết định mà họ lựa chọn. Vai trò của các chuyên gia, các
cơ quan hay nhà đầu tư là hỗ trợ cộng đồng bằng các thông tin và các kỹ năng và có
thể cả nguồn lực để giúp cho đưa ra các quyết định với các thông tin tốt nhất có thể.
20
Mức này thể hiện cách tiếp cận hoàn toàn “từ dưới lên” trong công tác bảo tồn
(IUCN, 2008).
1.2. Bảo tồn đa dạng sinh học có sự tham gia của cộng đồng
Do hạn chế về nhận thức nên các hành vi ứng xử của cộng đồng dân cư đối
với tài nguyên rừng chưa tốt. Để người dân có hành vi ứng xử tốt với tài nguyên
rừng, việc nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng trong công tác
quản lý tài nguyên là rất cần thiết như thay đổi thái độ và tập quán của cộng đồng
dân cư, cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.
1.2.1. Trên thế giới
Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của các KBT
và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mô hình quản lý gắn
bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của CĐĐP. Ở VQG Kakadu
(Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với VQG một cách
hợp pháp mà họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của VQG và được tham gia
quản lý VQG thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. Tại VQG Wasur

(Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ truyền (Phạm
Bình Quyền, 2002).
Ở Nepal, người dân địa phương được nhận toàn bộ lợi tức từ khu rừng do họ
quản lý, với điều kiện đảm bảo rằng một phần lợi tức đó được tái đầu tư cho việc
phát triển tài nguyên rừng, nhấn mạnh sự tham gia của cộng đồng trong đó việc chia
sẻ lợi ích là động lực quan trọng trong việc đảm bảo sự tham gia này.
Ở Philippines, hình thức quản lý rừng dựa vào cộng đồng đã hình thành và
phát triển mạnh trong khuôn khổ một chương trình do Cơ Quan Môi Trường và Tài
Nguyên Thiên Nhiên, là hình thức chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi cho các cộng
đồng địa phương.
Tại bán đảo Ả Rập, nơi mà môi trường tự nhiên được đặc trưng bởi sự biến
động, khô cằn và không bền vững, sự hợp tác chia sẻ tài nguyên trở nên cần thiết
21
nhằm đảm bảo sinh kế của cộng đồng địa phương. Thông qua sự tham gia của công
chúng và sự đồng thuận đạt được qua tham vấn, mô hình quản lý dựa vào cộng
đồng Hima đóng góp tích cực vào việc bảo vệ và giữ gìn tài nguyên thiên nhiên, các
bãi chăn thả gia súc và rừng qua 5000 năm, và cung cấp môi trường thuận lợi cho
quản lý xung đột.
Tại VQG Kruger (Nam Phi), du lịch sinh thái được xem là cách thức để giải
quyết các cuộc xung đột tiềm ẩn giữa nhu cầu mang lại nhiều doanh thu và nhu cầu
bảo tồn đa dạng sinh học độc đáo của khu vực. Cộng đồng người Makuleke có
quyền hợp tác với khối tư nhân để phát triển sản phẩm du lịch sinh thái trong vùng
và họ sẽ được hưởng lợi từ việc được đào tạo kỹ năng, có việc làm, nhận được tiền
thuê đất và cổ tức (TITC biên dịch, 2012).
Nhằm đảm bảo phát triển bền vững (kết hợp hài hoà giữa bảo tồn và phát
triển), nhiều ngành, nhiều tổ chức quốc tế liên quan đến sử dụng tài nguyên thiên
nhiên đang hình thành và xây dựng những phương thức tiếp cận mới về quản lý tài
nguyên thiên nhiên. Điểm nổi bật trong các phương thức tiếp cận là nâng cao vai trò
của cộng đồng địa phương cũng như những nhóm người trong xã hội có liên quan
đến tài nguyên thiên nhiên (những người hưởng lợi, những người bị tác động).

Đề tài này lựa chọn dựa trên văn hóa đa dạng sinh học để nghiên cứu. Nhìn
nhận con người là một bộ phận của HST, vừa nâng cao đời sống của người dân phụ
thuộc vào tài nguyên thiên nhiên thông qua các hoạt động mang tính bền vững, vừa
có thể bảo tồn thiên nhiên đa dạng và phong phú.
1.2.2. Ở Việt Nam
1.2.2.1. Cơ sở pháp lý
- Quyết định số 72/TTg ngày 7/7/1962 của Thủ tướng Chính phủ về khu rừng
cấm Cúc Phương.
- Quyết định 41/TTg ngày 24/1/1977 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành
lập 10 khu rừng cấm trong phạm vi toàn quốc.
22
- Ngày 9/8/1986, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số 194/CT công
nhận tiếp 73 khu rừng đặc dụng, trong đó gồm 2 VQG, 46 khu dự trữ thiên nhiên,
25 khu di tích lịch sử văn hoá.
- Quyết định 178/2001/QĐ - TTg ngày 12/11/2001 về quyền hưởng lợi, nghĩa
vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm
nghiệp.
- Quyết định 192/2003/QĐ - TTg ngày 17/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam đến
năm 2010.
- Nghị định 181/2004/NĐ - CP ngày 29/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về
thi hành Luật đất đai quy định cộng đồng dân cư thôn được giao đất rừng phòng hộ
với các quyền chung như hộ gia đình và cá nhân được giao đất lâm nghiệp nhưng
cộng đồng dân cư thôn không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho
quyền sử dụng đất; không được thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất.
- Ngày 3/12/2004, Luật Bảo vệ và phát triển rừng được Quốc hội thông qua,
đã công nhận Cộng đồng là một chủ thể được giao rừng và các quyền và nghĩa vụ
quy định cụ thể tại các Điều 29 và 30.
- Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 ngày

29/11/2005, Quốc hội khóa XI.
- Quyết định 186/2006/QĐ - TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Quy chế quản lý rừng.
- Ngày 13 tháng 11 năm 2008 Quốc hội khóa XII kỳ thứ 4 đã ban hành Luật
Đa dạng sinh học số 20/2008.
- Nghị định 99/2010/NĐ - CP Về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Như vậy, công tác bảo tồn ĐDSH của Việt Nam đã hình thành, phát triển
trong hơn 50 năm qua (kể từ ngày thành lập khu rừng cấm Cúc Phương 7/7/1962).
23
Trong quá trình phát triển chúng ta đã từng bước bổ sung, mở rộng, hình thành
được một hệ thống khu bảo tồn rừng và đất ngập nước ven biển. Chúng ta cũng đã
xây dựng, bổ sung, các quy định của pháp luật, các văn bản có liên quan đến việc
quản lý tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
triển khai các hoạt động bảo tồn.
Sự thừa nhận vai trò của người dân địa phương được thể hiện trong chính sách
giao đất lâm nghiệp và giao khoán quản lý bảo vệ rừng. Tuy nhiên, còn nhiều vấn
đề cần phải được nghiên cứu cụ thể:
- Mối quan hệ giữa các cộng đồng và môi trường tài nguyên mà họ đang phụ
thuộc cần phải được xem xét ở nhiều góc độ, không gian và thời gian khác nhau.
Rừng và các giá trị văn hóa của từng dân tộc sinh sống trong vùng thường gắn bó
chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, việc bảo vệ rừng mang lại các lợi ích ở một phạm vi
không gian rộng lớn hơn. Do đó, kết hợp giữa các hoạt động bảo tồn tài nguyên và
phát triển đời sống người dân là một vấn đề phức tạp.
- Các hệ thống quản lý và phát triển rừng được đặt trên cơ sở nâng cao nhận
thức của người dân. Điều này đòi hỏi những hoạt động trao đổi thảo luận với cộng
đồng làm cho họ thấy được những giá trị đích thực của rừng, những truyền thống tốt
đẹp của từng dân tộc gắn bó với tài nguyên rừng và những vấn đề bức bách đang
đặt ra cho cộng đồng để họ cùng nhau suy nghĩ và bàn bạc giải quyết vấn đề quản lý
bảo vệ rừng.
- Sự tham gia tích cực và chủ động của các cộng đồng không phải tự nhiên mà

có. Để góp phần tham gia phát triển nông thôn một cách nhanh chóng và có hiệu
quả, các nhà nghiên cứu, cán bộ khuyến nông – khuyến lâm và các cơ quan quản lý
tài nguyên rừng ở địa phương đã và đang hoạt động rất tích cực trong việc tìm hiểu
các giải pháp tốt nhất và phù hợp nhất cho từng địa phương mà họ đang công tác
nhằm giúp người dân ổn định cuộc sống của họ đồng thời tự nâng cao kiến thức và
năng lực của các bên liên quan. Nói cách khác, tiến trình thúc đẩy sự tham gia của
24
người dân đòi hỏi phải tạo ra một môi trường học tập để các bên tham gia có thể
chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và ý kiến của mình.
1.2.2.2. Tình hình các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia ở Việt Nam
Nếu thiếu đi vai trò của cộng đồng dân cư thì bảo tồn ĐDSH khó đạt hiệu quả.
Thực tế cho thấy, kiểm lâm gặp nhiều khó khăn trong công tác bảo vệ rừng bởi lẽ
rừng có nhiều cửa, không có rào chắn nên việc ngăn chặn hành vi vi phạm không hề
dễ dàng. Mặt khác, theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng, tại các khu
bảo tồn quốc gia, mỗi kiểm lâm sẽ có trách nhiệm bảo vệ tương đương với 500 ha
rừng. Rõ ràng, việc một cán bộ kiểm lâm quán xuyến hết một diện tích lớn như vậy
thực sự là thách thức đối với họ.
Hơn nữa, tất cả những khu vực có giá trị ĐDSH cao bao gồm các khu vực
rừng nguyên sinh đều có dân cư sinh sống. Người dân nhờ có ĐDSH mà tồn tại và
phát triển, do đó việc cộng đồng dân cư tham gia trực tiếp vào quản lý, kiểm tra bảo
vệ rừng sẽ góp phần quan trọng phát hiện những hành vi vi phạm như khai thác gỗ
lậu hay buôn bán trái phép động vật hoang dã.
Điều đó đòi hỏi phải gắn kết công tác bảo tồn với sinh kế của người dân để
việc bảo tồn ĐDSH đạt hiệu quả và người dân vẫn duy trì được cuộc sống của
mình. Trên thực tế, nỗ lực bảo tồn ĐDSH ở nước ta thời gian qua đã có những
chuyển biến tích cực với những sáng kiến, mô hình dựa vào cộng đồng. Thậm chí
có những mô hình được duy trì nhiều năm đơn cử như việc quản lý rừng thiêng của
đồng bào dân tộc miền núi hay mô hình quản lý rừng ngập mặn của cộng đồng ven
biển, sáng kiến xây dựng mô hình cộng đồng tham gia khu bảo tồn. Điều đáng nói
là có những địa phương người dân tự đứng ra tổ chức mô hình thôn xóm bảo vệ

rừng đơn cử như khu bảo tồn ở vườn quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
Tại KBTTN Kon Ka Kinh và Kon Cha Răng, phần thu từ nhận khoán QLBVR
đã góp phần tăng thêm thu nhập cho đời sống cộng đồng người dân địa phương
sống gần rừng (Nhóm công tác tỉnh Gia Lai, 2002).
25

×