LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Võ Văn Cường
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện và hoàn thành theo chương trình đào tạo
Thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp của Trường Đại học Lâm nghiệp, khóa 17 năm
2009 -2012.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới PGS.TS. Vương
Văn Quỳnh, người hướng dẫn khoa học, đã trực tiếp tận tình giúp đỡ, truyền
đạt những kiến thức và dành những tình cảm tốt đẹp cho tôi trong suốt thời
gian học tập cũng như thời gian thực hiện luận văn.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản luận văn thạc sỹ này, tôi
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu, Khoa Sau đại học và các
thầy, cô giáo Trường Đại học Lâm nghiệp, Vườn quốc gia Cát Tiên, Hạt
Kiểm lâm VQG Cát Tiên, UBND xã Tà Lài và các bạn bè đồng nghiệp đã tạo
điều kiện, giúp đỡ và hỗ trợ tôi thu thập số liệu tại hiện trường.
Tôi xin cảm ơn Trung tâm Lâm nghiệp Biên Hòa, đã tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho tôi học tập và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã làm việc nghiêm túc với tất cả nỗ lực, nhưng do thời gian
hạn chế, nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các Thầy, Cô giáo, các
bạn bè đồng nghiệp và xin chân thành tiếp thu các ý kiến đóng góp đó.
Xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả
Võ Văn Cường
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG vii
DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ ix
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1 3
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Vai trò của sự tham gia dựa của cộng đồng trong quản lý tài nguyên 3
1.2. Các nghiên cứu liên quan đến bảo tồn ĐDSH của cộng đồng 6
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới 6
1.2.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam 8
1.3. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu tổng quan 13
Chương 2 14
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, 14
PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 14
2.1. Mục tiêu nghiên cứu 14
2.2. Đối tượng nghiên cứu 14
2.3. Nội dung nghiên cứu 14
2.4. Phạm vi nghiên cứu 15
2.5. Phương pháp nghiên cứu 15
2.5.1. Phương pháp luận 15
2.5.1.1.Kế thừa các tư liệu và phân tích các tài liệu thứ cấp 15
2.5.1.2. Chọn địa điểm nghiên cứu 16
2.5.1.3 Dung lượng mẫu quan sát (đơn vị hộ) 17
2.5.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu hiện trường 18
2.5.2.1. Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham dự (PRA) 18
2.5.2.2 Phương pháp chuyên gia 19
2.5.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu 20
iii
Chương 3 22
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI 22
KHU VỰC NGHIÊN CỨU 22
3.1. Đặc điểm tự nhiên 22
3.1.1. Vị trí địa lý 22
3.1.2. Địa hình 23
3.1.3. Thổ nhưỡng 24
3.1.4. Khí hậu 24
3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 25
3.2.1. Dân số, dân tộc và sự phân bố dân cư 25
3.2.2. Sơ lược đặc điểm xã nghiên cứu 26
3.2.3 Hiện trạng sử dụng đất 26
3.4. Tính đa dạng sinh học ở Vườn quốc gia Cát Tiên 28
3.4.1. Thực vật và thảm thực vật 28
3.4.2. Động vật 29
Chương 4 30
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 30
4.1. Tình hình quản lý bảo rừng tại Vườn quốc gia Cát Tiên 30
4.1.1. Thực trạng công tác QLBVR 30
4.1.2. Công tác tuyên truyền giáo dục ý thức bảo vệ rừng 33
4.2. Đặc điểm tổ chức cộng đồng liên quan đến quản lý tài nguyên đa dạng sinh học ở
Vườn quốc gia Cát Tiên 36
4.2.1. Đặc điểm tổ chức cộng đồng 36
4.2.1.1. Hoạt động kinh tế của người dân xã Tà Lài 36
4.2.1.2. Cơ cấu lao động, việc làm, nghề nghiệp, thu nhập 46
4.2.2. Những hoạt động bất lợi liên quan đến ĐDSH ở VQG Cát Tiên 51
4.2.2.1 Những vấn đề xã hội tác động đến việc bảo tồn VQG Cát Tiên 51
4.2.2.2 Những hình thức tác động bất lợi của người dân 54
4.3. Vai trò của cộng đồng, những yếu tố thúc đẩy và cản trở sự tham gia của họ trong hoạt
động quản lý tài nguyên ĐDSH 60
4.3.1. Vai trò của cộng đồng 60
4.3.1.1. Vai trò chính quyền cấp xã 60
4.3.1.2. Vai trò của các tổ chức đoàn thể 61
4.3.1.3. Vai trò của cộng đồng dân cư địa phương 62
iv
4.3.1.4. Vai trò của cá nhân và hộ gia đình trong quản lý tài nguyên rừng 63
4.3.1.5. Vai trò cá nhân và hộ gia đình trong quản lý tài nguyên đất 64
4.3.1.6. Vai trò của cá nhân và hộ gia đình trong quản lý tài nguyên ĐDSH 65
4.3.2. Những nguyên nhân thúc đẩy và cản trở sự tham gia của cộng đồng trong hoạt
động quản lý tài nguyên 66
4.3.2.1. Những nguyên nhân tự nhiên 66
- Những yếu tự nhiên thuận lợi cho quản lý rừng ở VQG Cát Tiên 66
4.3.2.2. Những yếu tố xã hội ảnh hưởng đến quản lý rừng ở VQG Cát Tiên 69
4.3.2.3. Những yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến quản lý rừng ở VQG Cát Tiên 74
4.4. Các giải pháp góp phần bảo tồn ĐDSH dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Tiên
77
4.4.1 Giải pháp chính sách hỗ trợ, bảo vệ lợi ích người dân 77
4.4.2. Giải pháp về giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức người dân 78
4.4.3. Giải pháp về cơ cấu kinh tế, vật nuôi, cây trồng 78
4.4.4. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 79
4.4.5. Giải pháp phối hợp giữa văn hóa, giáo dục, du lịch 79
4.4.6. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phối hợp quản lý Vườn quốc gia Cát Tiên
79
4.4.7. Giải pháp xây dựng khu dân cư bền vững 80
4.4.8. Giải pháp xã hội hóa các hoạt động bảo vệ VQG Cát Tiên 80
4.4.9. Giải pháp khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống 81
Chương 5 82
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 82
5.1. Kết luận 82
5.2. Tồn tại 85
5.3. Kiến nghị 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 86
v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Chú giải
VQG : Vườn quốc gia
KBTTN : Khu bảo tồn thiên nhiên
ĐDSH: : Đa dạng sinh học
PCCCR : phòng cháy, chữa cháy rừng
PRA : Điều tra nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân
RRA : Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn
TNR : Tài nguyên rừng
TNTN: : Tài nguyên thiên nhiên
BVR : Bảo vệ rừng
QLBVR : Quản lý bảo vệ rừng
SWOT : Điểm mạnh – Điểm yếu – Cơ hội – Thách thức
WWF : : Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF)
IRF : Quỹ Bảo tồn tê giác quốc tế
THCS : Trung học cơ sở
GDMT : Giáo dục môi trường
KHKT : Khoa học kỹ thuật
BQL : Ban quản lý
BV&PTR : Bảo vệ và phát triển rừng
CBD : Công ước đa dạng sinh học
SPSS : Phần mềm xử lý thống kê dùng trong các ngành khoa học
xã hội (Statistical package for Social Sciences)
BVTV : Bảo vệ thực vật
vi
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Vị trí và dân số của các ấp trong đối tượng nghiên cứu
17
Bảng 3.1. Chỉ tiêu khí hậu tại Vườn quốc gia Cát Tiên
25
Bảng 3.2. Diện tích, cơ cấu sử dụng các nhóm đất chính
27
Bảng 4.1. Thống kê tình hình vi phạm Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng ở VQG Cát Tiên từ năm 2006 đến năm 2010
32
Bảng 4.2. Nhận thức về tác động của cộng đồng đến TNR
35
Bảng 4.3. Phân tích SWOT về công tác QLBVR tại VQG Cát Tiên
35
Bảng 4.4. Tổng diện tích đất canh tác của các hộ
38
Bảng 4.5. Kết quả thực hiện sử dụng đất
39
Bảng 4.6. Sản lượng từ trồng trọt
40
Bảng 4.7. Tổng thu nhập từ trồng trọt
40
Bảng 4.8. Mức độ từ chăn nuôi
43
Bảng 4.9. Sản lượng từ chăn nuôi
43
Bảng 4.10. Thu nhập từ chăn nuôi
44
Bảng 4.11. Thu nhập bình quân của hoạt động phi nông nghiệp
45
Bảng 4.12. Tổng thu nhập từ các nguồn
47
Bảng 4.13. Các tiêu chí đánh giá kinh tế hộ gia đình
49
Bảng 4.14. Biểu đánh giá kinh tế các hộ
50
Bảng 4.15. Thống kê diện tích đất nông lâm nghiệp xã Tà Lài
54
Bảng 4.16. Tình hình sử dụng sử dụng đất lâm nghiệp của người dân
55
Bảng 4.17. Số hộ chăn thả gia súc và số lượng chăn thả của hộ
58
vii
Bảng 4.18. Các hình thức tác động bất lợi khác vào TNR
59
Bảng 4.19. Nhận thức về tác động của cộng đồng đến TNR
64
viii
DANH MỤC
HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Số hiệu Tên hình vẽ Trang
Hình 2.1.
Sơ đồ biểu diễn phương pháp phân tích thông tin
21
Hình 3.1.
Sơ đồ khu vực nghiên cứu
22
Hình 3.2.
Biểu đồ cơ cấu đất đai của xã nghiên cứu
28
Hình 4.1.
Biến động số vụ vi phạm ở VQG Cát Tiên
32
Hình 4.2.
Kết quả thực hiện sử dụng đất
39
Hình 4.3.
Thu nhập bình quân của hoạt động phi nông nghiệp
46
Hình 4.4.
Biểu đồ so sánh các nguồn thu nhập
48
Hình 4.5.
Biểu đồ đánh giá kinh tế các hộ điều tra
50
Hình 4.6.
Biểu đồ thống kê số hộ vi phạm năm 2010 tại khu vực
Tà Lài
57
ix
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vườn quốc gia Cát Tiên được UNESCO trao tặng danh hiệu khu dự trữ sinh
quyển thế giới ngày 10 tháng 11 năm 2001. Đây là danh hiệu cho các Khu Bảo tồn
thiên nhiên có hệ động thực vật độc đáo, phong phú và đa dạng. Vườn quốc gia Cát
Tiên đã ghi nhận được 1.615 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có 80 loài quý
hiếm và 105 loài thú, 351 loài chim, 109 loài bò sát, 41 loài lưỡng cư; 159 loài cá
nước ngọt. Trong đó có nhiều loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao như tê giác
một sừng, voi Châu Á…Vườn quốc gia Cát Tiên còn có các vùng đất ngập nước
đặc sắc, đặc biệt là Bàu Sấu. [24] Điều này một lần nữa càng khẳng định giá trị đặc
sắc của hệ sinh thái rừng, hệ sinh thái đất ngập nước của Vườn quốc gia Cát Tiên.
Theo quan niệm trước đây, các Khu Bảo tồn thiên nhiên thường được coi như
một khu vực tách biệt với con người, thuật ngữ “bảo tồn” đồng nghĩa với “bảo vệ”,
“không có sử dụng”. Quan niệm này đã dẫn đến những sai lầm trong việc quản lý các
Khu Bảo tồn thiên nhiên. Kết quả là thiên nhiên vẫn liên tục bị con người tác động
theo hướng tiêu cực, bị tàn phá mà nguyên nhân là do những áp lực xã hội và sinh
thái cả trong và ngoài Khu Bảo tồn. Hiện nay, theo Chương trình Con người và Sinh
quyển (viết tắt là MAB thuộc UNESCO) và trong thực tế đều cho thấy các Khu Bảo
tồn vẫn cần có một số khu vực không có hoặc chịu rất ít tác động của con người với
những quy định kiểm soát chặt chẽ, được gọi là “vùng lõi”. Bên cạnh đó cần thúc đẩy
phát triển kinh tế thân thiện với môi trường, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị
văn hóa truyền thống ở các vùng xung quanh được gọi là “vùng đệm” hay “vùng
chuyển tiếp”, trong đó người dân địa phương đóng vai trò chủ chốt. Có như vậy công
tác bảo tồn mới đạt được hiệu quả lâu dài và bền vững .
Dự án “Quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững Vườn quốc gia Cát Tiên,
giai đoạn 2010 – 2020” được thực hiện nhằm quy hoạch bảo tồn, phát triển bền
vững và sử dụng hợp lý giá trị đa dạng sinh học, cảnh quan của Vườn quốc gia Cát
Tiên trong giai đoạn 2010 – 2020. Việc đánh giá tác động của cộng đồng trong
1
vùng dự án làm cơ sở cho công tác quản lý, xây dựng kế hoạch hành động bảo tồn
bền vững, từng bước tạo điều kiện cho người dân tham gia vào công tác bảo vệ
rừng, tham gia hoạt động du lịch sinh thái và bảo vệ môi trường là việc làm cần
thiết.
Cát Tiên là một trong những Vườn quốc gia giàu có bậc nhất của đất nước.
Tuy nhiên, như nhiều Vườn quốc gia khác nó đang phải đối mặt với những tệ nạn
săn bắt, khai thác thực vật, và thậm chí xâm lấn diện tích. Mặc dù chưa phải là điểm
nóng nhất trong hệ thống các Vườn quốc gia song mỗi năm cũng có đến hàng chục
vụ vi phạm của người dân địa phương. Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn Cát Tiên sẽ
bị suy thoái dần, mất đi những giá trị vô cùng quý báu của nó trong tương lai. Ngăn
chặn những tác động làm tổn hại đến Vườn quốc gia là điều băn khoăn, trăn trở của
nhiều ngành, nhiều cấp, của cả cán bộ và người dân địa phương. Để góp phần giải
quyết vấn đề trên, trong khuôn khổ của luận văn cao học, đề tài “Nghiên cứu tác
động của cộng đồng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học tại Vườn quốc gia Cát
Tiên” được thực hiện từ tháng 3/2011 đến tháng 02/2012.
2
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Vai trò của sự tham gia dựa của cộng đồng trong quản lý tài nguyên
Hiện nay, trong các tài liệu đã công bố có khá nhiều định nghĩa về Lâm
nghiệp xã hội. Tất cả các tác giả bàn về Lâm nghiệp xã hội có thể đi sâu vào khía
cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề một cách khác nhau nhưng nhìn chung
đều nhất trí ở một điểm là các hoạt động Lâm nghiệp xã hội phải vì mục đích cộng
đồng và có sự tham gia tích cực của người dân địa phương (Trần Văn Con, 2000).
Griffin (1988) đã nhận xét rằng những định nghĩa về khái niệm Lâm nghiệp xã hội
hay lâm nghiệp cộng đồng thường hay bị lẫn lộn và những gì xảy ra trong thực tiễn
chưa thật sự rõ ràng. Năm 1992, Rao đã đưa ra các câu hỏi có căn cứ như: “Tại sao
lại gọi là Lâm nghiệp xã hội?”; “Tại sao không thoả mãn khi chỉ gọi là lâm
nghiệp?”. Thậm chí Westoby (1989) còn cho rằng không nên chỉ giới hạn Lâm
nghiệp xã hội như là một lĩnh vực đặc biệt của lâm nghiệp mà tất cả những gì
thuộc về lâm nghiệp phải có tính xã hội [3] (dẫn theo Nguyễn Trọng Bằng).
Quản lý tài nguyên thiên nhiên phụ thuộc nhiều vào kiến thức bản địa: Kiến
thức địa phương, hay kiến thức bản địa trong quản lý sử dụng tài nguyên thiên
nhiên là những kiến thức mà người dân địa phương nhận được qua quan sát có kinh
nghiệm của từng cá nhân trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên. Nó được
tích luỹ, kiểm nghiệm và thừa kế từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây thực sự là kho
tàng tri thức khổng lồ, một tài nguyên quan trọng cho quá trình phát triển
(Lammerink, Wolffers, 1996). Việc vận dụng tổng hợp kiến thức của người nghiên
cứu với kiến thức bản địa đã là kim chỉ nam cho công cuộc đổi mới nông thôn.
Nghiên cứu quan điểm, nhận thức, kiến thức quản lý tài nguyên thiên nhiên của
người dân sẽ là cơ sở quan trọng cho đề xuất những giải pháp thích hợp cho quản lý
tài nguyên thiên nhiên trên cơ sở cộng đồng (dẫn theo Vương Văn Quỳnh và các
cộng sự, 2003). [13]
3
Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở thành
vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những năm gần
đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc tế về Môi trường và Phát
triển bền vững ở Rio De Janeiro (Brasin), vấn đề này đã chính thức được công
nhận, các chính phủ đã đưa ra một kế hoạch hành động cải thiện sinh kế của người
dân trên cơ sở duy trì các tiến trình chức năng và sức sản xuất của đất đai và các
loại tài nguyên thiên nhiên khác [3]. Song việc bảo vệ, quản lý các khu bảo tồn,
VQG đã và đang gặp không ít khó khăn từ phía người dân và cộng đồng địa
phương. Điều khó khăn lớn nhất gặp phải trong việc quản lý khu bảo tồn là số dân
sinh sống phía ngoài, sát với khu bảo tồn, thậm chí ngay cả trong khu bảo tồn đã tạo
sức ép nặng nề lên khu bảo tồn. Bắt đầu từ những thay đổi của họ về vị trí nhà ở, về
thói quen chiếm hữu đất đai canh tác, phát nương làm rẫy, săn bắt động vật, chặt gỗ,
lấy củi, thu lượm các sản phẩm từ rừng và do đó ảnh hưởng đến công tác bảo vệ.
TNR là nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và gần rừng từ bao đời nay,
giờ đây dường như đã không còn là của họ. Họ đa số là người nghèo, dân trí thấp,
họ cho rằng việc thành lập khu bảo tồn, VQG không đem lại lợi ích gì cho họ, mà
chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác một phần tài nguyên thiên nhiên như
trước nữa. [11] Trong khi đó, các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác cho người dân
địa phương chưa bù đắp được sự thiếu hụt lớn lao này. Chính vì vậy, đã gây ra mâu
thuẫn giữa khu bảo tồn, Vườn quốc gia với người dân địa phương - những người đã
và đang sống phụ thuộc một phần vào nguồn TNR. Do đó, việc tồn tại những tác
động bất lợi của người dân vào TNR là một tất yếu.
Năm 1872, VQG đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Mỹ, đó là VQG
Yellowstone. VQG nằm trên vùng đất do người Crow và người Shoshone sinh sống
trên cơ sở sử dụng bạo lực ép buộc hai cộng đồng tộc người này phải rời bỏ mảnh
đất của họ. Nhiều KBTTN và VQG được thành lập sau đó ở các nước khác nhau
trên thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này, có nghĩa là ngăn
cấm người dân địa phương thâm nhập vào KBTTN, VQG và tiếp cận tài nguyên
trong đó. Điều đó dẫn đến những hậu quả tất yếu là làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn
4
giữa cộng đồng địa phương, KBTTN và mục đích bảo tồn tài nguyên thiên nhiên đã
không đạt được. [15]
Dân số thế giới ngày càng tăng nhanh, nhu cầu của con người cũng tăng lên
mạnh mẽ theo tốc độ tăng nhanh của khoa học kỹ thuật. Người ta ở khắp nơi đã và
đang khai thác TNTN một cách quá mức và nhiều vấn đề môi trường đang được đặt
ra ở cả các nước phát triển, đang phát triển và các nước nghèo. Nạn suy thoái môi
trường nghiêm trọng đã được con người nhìn nhận lại vấn đề phát triển bền vững,
và bảo vệ TNTN. [ 18]
Ở Châu Á, sự tham gia của người dân địa phương vào công tác bảo tồn đa
dạng sinh học là một biện pháp cần thiết và thường có hiệu quả. Lý do để khuyến
khích sự tham gia này là nỗ lực của các cơ quan chính phủ nhằm đưa dân chúng ra
khỏi các khu bảo tồn đã không mang lại kết quả như mong muốn trên cả phương
diện quản lý tài nguyên rừng và kinh tế xã hội. Việc đưa người dân vốn quen sống
trên địa bàn của họ đến một nơi mới và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và
khai thác tài nguyên rừng mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương có
nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế
cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này. [21]
Trên thế giới, cộng đồng quốc tế đã có nhiều nghiên cứu nhằm nỗ lực làm thay
đổi chiến lược bảo tồn từ đầu thập kỷ 1980. Một chiến lược bảo tồn mới dần được
hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý Khu Bảo tồn Thiên
nhiên và Vườn quốc gia với các hoạt động sinh kế của các cộng đồng địa phương,
cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn
hoá trong quá trình xây dựng các quyết định.
Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của các Khu
Bảo tồn và Vườn quốc gia đã khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên
mô hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của cộng đồng
địa phương. Ở Vườn quốc gia Kakadu (Australia), những người thổ dân bản địa
chẳng những được chung sống với Vườn quốc gia một cách hợp pháp mà họ còn
5
được thừa nhận là chủ hợp pháp của Vườn quốc gia và được tham gia quản lý Vườn
quốc gia thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. Tại Vườn quốc gia Wasur
(Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với đánh bắt và săn bắn cổ
truyền .[11]
1.2. Các nghiên cứu liên quan đến bảo tồn ĐDSH của cộng đồng
1.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Nghiên cứu của Berkmuller và các cộng sự năm 1992 cho rằng việc nâng cao
nhận thức và mối quan tâm của cộng đồng địa phương đối với bảo tồn thiên nhiên
và các hoạt động có liên quan là rất quan trọng. Tác giả cho rằng nếu không nâng
cao nhận thức trong nhóm mục tiêu về các giá trị sinh thái và giá trị vô hình của
Khu Bảo tồn thiên nhiên thì rừng sẽ tiếp tục bị xem như là một tài nguyên có thể
khai thác. Để thực hiện thành công những giải pháp dài hạn cho những vấn đề về
môi trường, cần đưa việc giáo dục về các giá trị của môi trường vào trong các
chương trình giáo dục cho các Khu Bảo tồn. [27]
Dân cư sống trong và gần các KBTTN, một giải pháp đề nghị là cho phép
người dân địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các hệ quản lý
nông nghiệp hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất, nhà nước cần xác định
rõ các quyền lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ nhận, với mục đích tạo thêm
công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tác động đến tài nguyên rừng. [26]
Ở Thái Lan, vào khoảng những năm 1945, độ che phủ của rừng đạt tới 60%
nhưng đến năm 1995 giảm xuống còn 26%, hơn 170.000 km
2
rừng bị tàn phá. Năm
1989, Cục Lâm nghiệp của Hoàng Gia Thái Lan thành lập các KBTTN để bảo vệ
diện tích rừng còn lại. Điều này đã dẫn tới xung đột giữa các cộng đồng địa phương
với các ban quản lý. Một thử nghiệm của dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua
sự cộng tác” thực hiện tại khu Kheio Wildlife Sanctuary, tỉnh Chaiyaphum ở Đông
Bắc Thái Lan đã được tiến hành. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền
vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan, đặc biệt là phải
6
bao gồm cả việc phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu
nhập của họ (dẫn theo Ngô Ngọc Tuyên, 1999). [17]
Poffenberger và McGean, B. (1993), trong báo cáo “Liên minh cộng đồng:
đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại Vườn quốc gia Dong Yai
nằm ở đông bắc và khu phòng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái lan. Tại Dong Yai người
dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt động bảo
tồn, đồng thời phối hợp với Cục Lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản lý
rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái, đồng thời phục vụ lợi ích của người
dân trong khu vực. Tại Nam Sa cộng đồng người dân cũng rất thành công trong
công tác quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định nếu chính phủ có chính sách
khuyến khích và chuyển giao quyền lực cho họ thì chắc chắn họ sẽ thành công trong việc
kiểm soát khai thác tài nguyên. [30]
Gilmour (1999) lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính kém hiệu quả
của các chương trình dự án quản lý TNTN là chưa giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích
giữa các cá nhân trong cộng đồng, giữa lợi ích cộng đồng địa phương với lợi ích
quốc gia, do đó chưa phát huy được năng lực nội sinh của các cộng đồng cho quản
lý tài nguyên. Vì vậy, quản lý tài nguyên cần phải phát triển theo hướng kết hợp
giữa hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên với hoạt động sản xuất để cải thiện
chất lượng cuộc sống của người dân, thống nhất lợi ích của người dân với lợi ích
quốc gia trong hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng. [28]
Nick Salafky và các cộng sự (Biodiversity Support Program, 2000) cho rằng
vào những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà bảo tồn bắt đầu phát triển một cách
tiếp cận mới nhằm đáp ứng nhu cầu về lợi ích kinh tế và bảo tồn. Những cách tiếp
cận này dựa vào việc thực hiện các hoạt động sinh kế độc lập và có mối liên hệ trực
tiếp với bảo tồn. Đặc điểm cơ bản của chiến lược này là mối liên hệ giữa đa dạng
sinh học và con người xung quanh. Các chủ thể địa phương có cơ hội huởng lợi ích
trực tiếp từ da dạng sinh học và như vậy sẽ có thể hạn chế được các tác nhân gây
hại từ bên ngoài đối với da dạng sinh học. Sinh kế sẽ giúp cho bảo tồn da dạng sinh
học chứ không phải cạnh tranh với nhau. Hơn nữa chiến lược này công nhận vai trò
7
của người dân địa phương trong bảo tồn da dạng sinh học. Cũng trong chiến lược
này, các nhà bảo tồn có thể giúp cho người dân địa phương khai thác, sử dụng lâm sản
ngoài gỗ hoặc phát triển du lịch sinh thái. [29]
Quỹ Quốc tế về bảo vệ thiên nhiên (WWF) năm 2001 đã đưa ra một thông
điệp chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến vấn đề xoá đói giảm
nghèo như là một phần quan trọng của chính sách bảo tồn tài nguyên rừng”. [31]
Năm 1986, trong tác phẩm “Lâm nghiệp xã hội và hành động của cộng đồng”,
các tác giả Dorji, Chavada, Thinley và Wangchuks cho rằng: Rừng chủ yếu là
nguồn cung cấp gỗ xây dựng và làm hàng rào, cung cấp củi, nơi chăn thả và chuồng
trại cho gia súc. Chúng cũng cung cấp một phần lớn những yêu cầu về thức ăn gia
súc, lợi tức, công ăn việc làm và đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đất và
nước trên vùng đất dốc. [16]
Các tác giả vùng Châu Á là Mol và Wiersum đã viết về kinh nghiệm của Việt
Nam, nêu lên rất rõ những ảnh hưởng tiêu cực đã xảy ra khi việc quản lý tập thể
được ấn định trực tiếp từ trên xuống mà không đánh giá hoặc hiểu rõ truyền thống,
kinh nghiệm hoặc khả năng của địa phương với sự hỗ trợ rất nhỏ bé của cơ quan
nhà nước. Kết quả tại Việt Nam, so với các nước Châu Á khác, hình như ít triển
vọng. [32]
1.2.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Từ những năm 1960, Nhà nước đã ban hành rất nhiều văn bản pháp qui, chỉ thị
và chính sách liên quan đến bảo vệ rừng. Tuy nhiên do yêu cầu trước mắt ưu tiên
cho phát triển kinh tế xã hội và chống đói nghèo nên trong những năm qua Việt
Nam chưa quan tâm đầy đủ tới mối quan hệ giữa phát triển và bảo tồn tài nguyên
sinh học. Từ những năm 1980, Chính phủ đã bắt đầu có những quan tâm đặc biệt tới
phát triển và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nhiều văn
bản pháp quy liên quan đến các Khu Bảo tồn đã được ban hành, nhiều dự án,
chuơng trình lớn được thực hiện đã tạo ra nền tảng để nâng cao nhận thức và các
hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự hiểu biết về bảo tồn
8
thiên nhiên nói chung và Khu Bảo tồn nói riêng còn rất nhiều bất cập, nhất là đối
với các cộng đồng sinh sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa.[25]
Quan niệm về công tác bảo tồn trước hết phải xuất phát từ các quy định mang
tính pháp lý. Đó là các điều khoản được ghi trong Luật BV&PTR (1991, 2004).
Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001 cũng đã đề cập đến việc
Ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về phạm vi sử dụng rừng
đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT. Gần đây nhất, Thủ tướng
Chính phủ ký quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/08/2006 về việc ban hành
Quy chế quản lý rừng, thay thế quyết định số 08/2001/QĐ-TTg, trong đó, quản lý
rừng đặc dụng được quy định rất rõ, cụ thể như sau:
- Rừng đặc dụng bao gồm các loại: VQG, KBTTN, khu bảo vệ cảnh quan, khu
rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học. [20]
- Trong VQG và KBTTN được chia thành 3 phân khu chức năng chính sau:(1)
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ nguyên
vẹn hệ sinh thái tự nhiên như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý, bảo vệ
chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái; Đối với rừng đặc
dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt
được xác định theo mục tiêu, đối tượng, tiêu chí bảo tồn và điều kiện thuỷ văn; (2)
Phân khu phục hồi sinh thái: Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để khôi
phục các hệ sinh thái rừng thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm sinh cần
thiết; (3) Phân khu dịch vụ - hành chính: Là khu vực để xây dựng các công trình
làm việc và sinh hoạt của ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ
du lịch, vui chơi giải trí. [20]
- VQG và KBTTN phải xây dựng vùng đệm cho khu rừng. Vùng đệm là vùng
rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm liền kề với Vườn quốc gia và khu
bảo tồn thiên nhiên; bao gồm toàn bộ hoặc một phần các xã, phường, thị trấn nằm
sát ranh giới với Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên. Vùng đệm được xác lập
nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại của con người tới Vườn quốc gia và khu bảo
9
tồn thiên nhiên. Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ chức cho cộng đồng dân cư vùng
đệm tham gia các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, sử dụng hợp lý lâm sản và các tài
nguyên tự nhiên, các dịch vụ du lịch sinh thái để góp phần nâng cao thu nhập và
gắn sinh kế của người dân với các hoạt động của khu rừng đặc dụng. [20]
Trong nhiều năm qua, đã có nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc nâng cao
hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát triển. Đó là làm
sao dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế -
xã hội của người dân địa phương.
Để ngăn chặn việc khai thác, sử dụng trái phép tài nguyên thiên nhiên ngày
càng gia tăng do yêu cầu ở trong nước và xuất khẩu, tạo sự liên kết và hỗ trợ của
Quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã tham gia vào 4 trong 5 công ước Quốc tế liên
quan đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý Khu Bảo tồn và quản lý các
loài động thực vật hoang dã.[14]
Công ước đa dạng sinh học (CBD) đặt ra một loạt các điều khoản về bảo tồn
và sử dụng bền vững đa dạng sinh học. Về mặt chính sách, CBD kêu gọi các bên
tham gia xây dựng các chiến lược và kế hoạch quốc gia, lồng ghép bảo tồn và sử
dụng bền vững đa dạng sinh học vào các kế hoạch, chương trình và chính sách của
các ngành khác, cũng như vào quá trình hoạch định chính sách quốc gia. Để có cơ
sở khoa học vững chắc cho quá trình ra chính sách và quyết định, các bên cần tiến
hành xác định các thành phần quan trọng của đa dạng sinh học cũng như các ưu tiên
bảo tồn đối với các thành phần đó. Các hoạt động gây ra tác động tiêu cực đối với
đa dạng sinh học cũng cần phải được xác định và giám sát.
Vấn đề bảo tồn nội vi (in-situ) được nhấn mạnh trong nội dung công ước.
Hàng loạt điều khoản được đưa ra về vấn đề này bao gồm xây dựng và quản lý khu
bảo tồn, phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái, khôi phục lại các loài bị đe doạ, bảo
vệ nơi sống tự nhiên và quần thể an toàn của các loài. Công ước cũng đề cập đến
bảo tồn ngoại vi (ex-situ), và coi bảo tồn ngoại vi là một biện pháp bổ trợ cho bảo
tồn nội vi.
10
Công ước dành điều 10 để đưa ra các cam kết về sử dụng bền vững tài nguyên
sinh học. Bên cạnh đó, nội dung sử dụng bền vững cũng được xen lẫn trong nhiều
điều khoản khác của công ước. Các bên tham gia cam kết quản lý tài nguyên sinh
học để bảo tồn và sử dụng một cách bền vững và xây dựng các biện pháp để đảm
bảo sự bền vững này. Công ước cũng thừa nhận vai trò, quyền, quyền lợi, và tri
thức truyền thống của cộng đồng địa phương trong quá trình phát triển bền vững và
bảo tồn đa dạng sinh học, đồng thời kêu gọi các bên tôn trọng, bảo vệ và kế thừa
những tri thức này. [7]
Năm 1998 khi nghiên cứu kiến thức bản địa của đồng bào vùng cao trong
nông nghiệp và quản lý TNTN, Hoàng Xuân Tý và Lê Trọng Cúc đã khẳng định
tầm quan trọng của kiến thức bản địa trong quản lý tài nguyên thiên nhiên. Chính
những cộng đồng địa phương là những người hiểu biết sâu sắc nhất về những tài
nguyên thiên nhiên nơi họ sinh sống, về cách thức giải quyết những mối quan hệ
kinh tế - xã hội trong cộng đồng. Họ có khả năng phát triển những loài cây trồng vật
nuôi cho hiệu quả cao và bền vững trong hoàn cảnh sinh thái của địa phương. Cộng
đồng dân cư địa phương vừa là người thực hiện các chương trình quản lý tài
nguyên, vừa là người hưởng lợi từ hoạt động quản lý tài nguyên, nên những giải
pháp quản lý tài nguyên phù hợp với những phong tục, tập quán, những nhận thức,
kiến thức của họ sẽ có tính khả thi cao. [23]
Việc xây dựng vùng đệm Kỳ Thượng ở Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ được
Võ Quí và Đồng Nguyên Thuỵ nghiên cứu trong đề tài KT02-08-1992. Nghiên cứu
chỉ ra rằng để có thể bảo vệ đựơc rừng thì điều cần thiết phải cộng tác với nhân dân
địa phương, động viên họ bảo vệ rừng và nâng cao chất lượng cuộc sống của họ
bằng cách giúp họ nâng cao năng suất lúa với giống mới phù hợp với địa phương,
thực hiện nông lâm kết hợp, tổ chức trồng cây ăn quả, nuôi ong, xây dựng thuỷ điện
nhỏ cho gia đình… Huấn luyện nhân dân cách xây dựng và quản lý vùng đệm, sử
dụng bền vững tài nguyên rừng, giảm bớt sức ép lên rừng. [9]
Về quan hệ đồng tác trên cở sở cộng đồng trong vùng đệm các Khu Bảo tồn
thiên nhiên, Lê Quí An (2001) khẳng định quản lý và phát triển vùng đệm trên cơ sở
11
cộng đồng là phát huy lợi thế của cộng đồng, hạn chế tác động tiêu cực trong các
hoạt động bảo tồn. Cộng đồng còn có thể phát huy những mặt hay của phong tục,
tập quán trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, trong mối quan hệ
giữa con người và thiên nhiên, để xây dựng nề nếp của cuộc sống lành mạnh về mặt
môi trường, góp sức cho việc bảo tồn. Hương ước của các xóm, làng, buôn, bản là
một ví dụ. [1]
Khi nghiên cứu ở vùng lòng hồ sông Đà (Hoà Bình), Vương Văn Quỳnh và
các cộng sự (1998) cho thấy thiếu sự tham gia của các cộng đồng địa phương đã
không giải quyết hợp lý được mối quan hệ về lợi ích giữa quốc gia và cộng đồng
dân cư địa phương. Sự kém hiệu quả của Dự án 747 “ ổn định dân cư phát triển
kinh tế xã hội vùng chuyển dân Sông Đà” trong những năm đầu triển khai và thực
hiện dự án có một phần quan trọng là thiếu sự tham gia của cộng đồng trong việc
xây dựng những giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên. [12]
Nguyễn Thị Phượng (2003) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa
phương vùng đệm đến tài nguyên rừng Vườn quốc gia Ba Vì - Hà Tây” đã tổng hợp
và phân tích hình thức tác động và các nguyên nhân tác động. Tác giả chỉ ra rằng:
cộng đồng ở đây chủ yếu sống bằng nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất
ít và năng suất lúa rất thấp. Vì vậy, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hằng ngày, họ
tác động tới tài nguyên rừng dưới nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất
hàng hóa, khai thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc… Trong đó
hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hóa cho tỷ trọng thu nhập cao nhất
trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được
mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau. [8]
Hoàng Quốc Xạ (2005) với nghiên cứu “Tác động của cộng đồng địa phương
đến tài nguyên rừng vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Sơn, tỉnh Phú Thọ”, đã có sự
kết hợp tốt giữa phân tích định tính và định lượng trong việc tồ chức các hình thức
tác động và nguyên nhân tác động, tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp giảm
thiểu tác động bất lợi đến tài nguyên rừng và hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội của địa
phương [22].
12
1.3. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu tổng quan
Để quản lý tốt tài nguyên đa dạng sinh học tại Vườn quốc gia Cát Tiên cần
phải thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa Vườn quốc gia với chính quyền và cộng
đồng dân cư địa phương trong quản lý rừng, phải thiết lập mối liên hệ chặt chẽ giữa
Vườn quốc gia với chính quyền và cộng đồng ở đây là cùng tham gia trong xây
dựng và thực hiện kế hoạch quản lý rừng. Thực tiễn đã cho thấy khi cộng đồng địa
phương được tham gia vào các hoạt động quản lý rừng từ khâu điều tra, lập kế
hoạch đến, thực hiện kế hoạch, giám sát kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch, trong đó
gắn kết được quyền lợi và trách nhiệm của họ trong quản lý rừng, thì chẳng những
kế hoạch quản lý rừng có tính khả thi cao mà người dân còn quan tâm đặc biệt đến
tổ chức thực hiện kế hoạch đã đề ra. Vì vậy, tăng cường liên kết với chính quyền và
cộng đồng địa phương trong xây dựng và thực hiện kế hoạch chính là nâng cao vai
trò của cộng đồng là giải pháp được xem là hiệu quả hay nhất và cần phải có nghiên
cứu sâu để thực hiện toàn diện trên tất cả cộng đồng sống trong và ven Vườn quốc
gia Cát Tiên.
13
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG,
PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát của đề tài:
Góp phần hoàn thiện những giải pháp nhằm bảo tồn đa dạng sinh học
dựa vào cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Tiên.
- Mục tiêu cụ thể của đề tài:
+ Xác định được đặc điểm tổ chức cộng đồng liên quan đến quản lý tài
nguyên đa dạng sinh học ở Vườn quốc gia Cát Tiên.
+ Đánh giá được vai trò của cộng đồng, những yếu tố thúc đẩy và cản
trở sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tài nguyên ĐDSH.
+ Đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng ở
Vườn quốc gia Cát Tiên.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của cộng đồng đến hoạt động
đến bảo tồn đa dạng sinh học ở Vườn quốc gia Cát Tiên.
2.3. Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu. Đề tài tiến hành nghiên cứu
những nội dung sau:
+ Nghiên cứu đặc điểm tổ chức cộng đồng liên quan đến quản lý tài
nguyên đa dạng sinh học ở Vườn quốc gia Cát Tiên.
+ Phân tích được vai trò của cộng đồng, những yếu tố thúc đẩy và cản
trở sự tham gia của họ trong hoạt động quản lý tài nguyên ĐDSH.
14
+ Nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào
cộng đồng ở Vườn quốc gia Cát Tiên.
2.4. Phạm vi nghiên cứu
Về địa bàn nghiên cứu, đề tài thực hiện trong phạm vi xã Tà Lài, huyện Tân
Phú, tỉnh Đồng Nai, là xã giáp ranh với Vườn quốc gia Cát Tiên.
Về lĩnh vực nghiên cứu, đề tài tập trung phân tích những hoạt động quản lý tài
nguyên đa dạng sinh học, đặc điểm các tổ chức cộng đồng và các tác động liên quan
đến quản lý sử dụng, bảo vệ và phát triển tài nguyên đa dạng sinh học, vai trò của
quản lý tài nguyên đa dạng sinh học trên cơ sở cộng đồng, những nhân tố thuận lợi
và cản trở cộng đồng tham gia quản lý tài nguyên đa dạng sinh học ở Vườn quốc
gia Cát Tiên, những giải pháp chủ yếu khuyến khích cộng đồng tham gia vào bảo
tồn đa dạng sinh học.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Phương pháp luận
2.5.1.1.Kế thừa các tư liệu và phân tích các tài liệu thứ cấp
- Các thành quả của các công trình nghiên cứu đến tính đa dạng sinh học tại
Vườn quốc gia Cát Tiên.
- Những tài liệu đã có về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Tà Lài,
huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
- Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu thu nhập và chi phí, thị trường, hàng hoá và dịch
vụ v.v liên quan đến quản lý rừng.
- Dân số, dân tộc, sự phân bố dân cư, học vấn, phong tục, tập quán, tôn giáo,
tín ngưỡng, chính sách và hương ước liên quan đến quản lý rừng.
- Thu thập tình hình vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng tại Hạt Kiểm lâm
Vườn quốc gia Cát Tiên.
- Hệ thống chính sách về quản lý rừng đặc dụng:
Luật đất đai 1993 ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung
15
một số điều của luật đất đai ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của luật đất đai ngày 29 tháng 6 năm 2001;
Nghị định số 18-HĐBT ngày 17/1/1992của Hội đồng Bộ trưởng về việc quy
định danh mục thực vật rừng, động vật rừng quý hiếm và chế độ quản lý, bảo vệ;
Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ về
việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử
dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp;
Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 của Thủ tướng chính
phủ về việc ban hành Quy chế quản lý rừng; Thông tư số 99/2006/QĐ-BNN ngày
06 tháng 11 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc hướng
dẫn thực hiện một số điều của Quy chế quản lý rừng;
Nghị định số 23/2006/NĐ-CP, ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi hành Luật
Bảo vệ và Phát triển rừng;
Quyết định số 2370/QĐ/BNN- KL ngày 05 tháng 8 năm 2008 của Bộ trưởng;
Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc phê duyệt Đề án về chương trình đầu tư xây
dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam giai đoạn
2008 – 2020;
Luật Đa dạng sinh học ban hành ngày 28 tháng 11 năm 2008 theo Lệnh của
Chủ tịch nước số 20/2008/QH12 (được Quốc hội khóa XII nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 4 ngày 13 tháng 11 năm 2008.
2.5.1.2. Chọn địa điểm nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu tác động của cộng đồng trong việc bảo tồn
đa dạng sinh học. Theo đó các ấp được lựa chọn đảm bảo đại diện cho xã và các hộ
gia đình được lựa chọn phỏng vấn đảm bảo đại diện cho ấp. Qua khảo sát chúng tôi
thấy địa điểm nghiên cứu là các ấp giáp rừng là phù hợp nhất.
16