Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc em xin chân thành cảm ơn
Tiến sĩ Nông
Khánh Bằng
- người thầy đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành luận văn.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
PGS – TS Phạm Hồng
Quang
đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong việc tìm kiếm tài liệu phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới
Th.S Phạm Văn Thịnh
– GVC Khoa
Ngoại ngữ - người đã giúp đỡ em rất nhiều trong việc biên dịch tài liệu để em
có thể hoàn thành đề tài này.
Đề tài nghiên cứu trong luận văn của em là một lĩnh vực mới và tại
Việt Nam chưa có hệ thống lý luận cụ thể và thống nhất nên trong quá trình
thực hiện em gặp rất nhiều khó khăn. Dù đã cố gắng
hoàn thành đề tài song
do năng lực của bản thân còn nhiều hạn chế nên chắc chắn luận văn của em
không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp,
chỉ bảo của Thầy Cô giáo cùng toàn thể bạn đọc quan tâm để em hoàn thiện
hơn nữa đề tài nghiên cứu trong luận văn của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2008
Tác giả đề tài
C.N Nguyễn Thị Ngọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
MỤC LỤC
Mở đầu Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
4
2. Mục đích nghiên cứu 6
3. Đối tượng nghiên cứu 6
4. Khách thể nghiên cứu 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu 6
6. Cơ sở phương pháp luận của đề tài 7
7. Phương pháp nghiên cứu 7
8. Phạm vi nghiên cứu 7
9. Cấu trúc của đề tài 7
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm kiếm, phát hiện và dạy
học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 8
1. Một số quan niệm về tài năng và trẻ em tài năng. 8
1.1. Khái niệm về tài năng. 8
Năng lực 8
Năng khiếu 9
Giỏi 10
Thiên tài 11
Tài năng 12
1.2 . Khái niệm trẻ tài năng theo quan điểm của các nhà khoa học Mỹ 18
1.3. Bồi dưỡng và đào tạo trẻ tài năng 19
2. Những cơ sở lý thuyết của việc lựa chọn và dạy học trẻ em tài năng
trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.21
Những tiền đề lịch sử của phương thức dạy học trẻ em tài năng trong nhà
trường tiểu học ở Mỹ. 21
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Dạy học trẻ tài năng với hình thức dạy học phân hóa trong trường tiểu học
ở Mỹ. 26
3. Tìm kiếm, phát hiện và tuyển chọn trẻ tài năng trong hệ thống giáo dục
tiểu học của Mỹ. 38
Chương II: Hình thức tổ chức, nội dung, phương pháp dạy trẻ tài năng
trong trường tiểu học của Mỹ và một số phương hướng vận dụng vào
Việt Nam. 57
1. Hình thức tổ chức dạy học nổi bật trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 58
2. Nội dung dạy học cho trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ 61
3. Phương pháp dạy học trẻ tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ. 71
4. Một số phương hướng vận dụng trong dạy học trẻ tài năng bậc tiểu học
tại Việt Nam. 82
Quan điểm về đào tạo trẻ tài năng ở Việt Nam 82
Một số phương pháp vận dụng trong công tác nhận dạng, tìm kiếm và phát
hiện tài năng trẻ em ở bậc tiểu học tại Việt Nam. 84
Một số phương hướng vận dụng cơ bản trong việc xây dựng nội dung dạy
học, lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho trẻ tài năng
trong nhà trường tiểu học. 86
Kết luận. 91
Tài liệu tham khảo 92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ của toàn cầu hóa và nền
kinh tế tri thức, trong đó chắc chắn mọi lĩnh vực của đời sống toàn nhân loại,
của mỗi cộng đồng và của từng cá nhân sẽ có những thay đổi vô cùng sâu sắc,
mau lẹ và diễn ra theo phương thức hoàn toàn mới. Trước những cơ hội to lớn
và những thách thức hết sức nghiêm trọng và phức tạp đặt ra trong thiên niên
kỷ mới, nhiều dân tộc, nhiều quốc gia đang ra sức xem xét lại chiến lược phát
triển của mình, dự báo và hoạch định chiến lược ngắn hạn, dài hạn, trong thực
tế nhiều vấn đề đã và đang vượt ra khỏi khuôn khổ của tri thức và lối tư duy
chiến lược truyền thống.
Để hướng tới
giải quyết những vấn đề phức tạp đã và sẽ nảy sinh, các
dân tộc đều nỗ lực khai thác tốt nhất các nguồn lực vật chất và tinh thần để
tạo ra xung lực phát triển vượt trội, đột phá trong tương lai. Trong tất cả các
nguồn lực đã từng biết tới thì nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực tài
năng đã và đang trở thành nguồn lực quan trọng, quyết định nhất. Kết quả
phân tích chiến lược từ nhiều góc độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau đã
khẳng định chắc chắn rằng cuộc cạnh tranh và hợp tác của nhân loại trong
tương lai sẽ chủ yếu là cuộc cạnh tranh trên lĩnh vực trí tuệ, tinh thần và do đó
nước nào dân tộc nào có chiến lược nhân tài tốt sẽ là những quốc gia, dân tộc
cạnh tranh, hợp tác và phát
triển tốt nhất, bền vững nhất.
Giáo dục trẻ tài năng được coi là một chương trình chiến lược để tạo ra
nguồn lực tài năng phục vụ đất nước. Đây là môi trường gieo mầm và phát
triển nhân tài trong mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật, nguồn nhân lực này góp
phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước và giúp cho việc khẳng định vị
thế của một quốc gia trên thế giới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
ở những quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao như Mỹ,
quá trình dạy học trẻ tài năng được thiết kế thành một chương trình hoàn
chỉnh, thống nhất và mang lại hiệu quả cao. Những thập niên qua với sự phát
triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực đã chứng minh cho sự đúng đắn của các
chính sách phát triển tài năng trẻ của nước Mỹ. Quốc gia này đang sở hữu một
nguồn lực nhân tài vào bậc nhất trên thế giới mà bất cứ quốc gia nào cũng
mong muốn có được.
Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học cho thấy, để có được đội
ngũ tinh túy này, nước Mỹ đã có những chính sách đầu tư hợp lý để phát triển
giáo dục - đào tạo. Quá trình dạy học trẻ em tài năng được tổ chức một cách
khoa học dựa trên
các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ.
Mỗi quốc gia đều tiềm ẩn những tài năng trẻ đầy triển vọng, vấn đề cơ
bản là cần biết phát hiện và kịp thời bồi dưỡng, tạo điều kiện cho những tài
năng này phát triển. Trong rất nhiều những cuộc thi quốc tế về các lĩnh vực
như Ôlimpic Toán học, hóa học, sinh học, vật lý, những cuộc thi sáng tạo
Rôbôcon… chúng ta luôn giành được những huy chương cao quý. Điều đó
cho thấy Việt nam là một trong những quốc gia có tiềm lực trí tuệ to lớn. Tuy
nhiên chúng ta chưa phát huy được tối đa sức mạnh nguồn lực này để phục
vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến
sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo nói chung
và giáo dục trẻ em tài năng
nói riêng. Phát hiện, bồi dưỡng nhân tài là một trong các nhiệm vụ trọng tâm
của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.( Luật giáo dục 2005)
Quá trình dạy học hướng tới việc tìm kiếm và phát hiện tài năng phải bắt
đầu từ khi trẻ còn nhỏ, ở những cấp học đầu tiên. Lứa tuổi tiểu học là thời kỳ
trẻ bộc lộ rõ nhất những tư chất của mình, do đó để tiến hành dạy học có hiệu
quả nhà giáo dục phải đặc biệt chú trọng giai đoạn này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, hiện nay ở nước ta quá trình
dạy học trẻ em tài năng chưa thực sự đạt hiệu quả cao, thực trạng này là do
nhiều nguyên nhân mang lại: Điều kiện cơ sở vật chất, lý luận và phương
pháp dạy học dành cho trẻ em tài năng còn thiếu, các công trình nghiên cứu
khoa học về giáo dục trẻ em tài năng còn hạn chế…
Khắc phục được những khó khăn trên là một công việc khó khăn và phức
tạp đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và đầu tư thỏa đáng về nhiều mặt. Một
trong những biện pháp tích cực đó là học tập có chọn lọc những kinh nghiệm
dạy học của các quốc gia phát triển trên thế giới đặc biệt là những quốc gia đã
thành công trong lĩnh vực này.
Để góp phần nâng cao hiệu quả của quá
trình của quá trình giáo dục trẻ
tài năng nói chung và bậc tiểu học nói riêng ở nước ta dựa trên cơ sở đã học
tập kinh nghiệm của những quốc gia đã thành công về lĩnh vực này như Mỹ,
chúng tôi mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Đặc điểm quá trình dạy học trẻ
em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ và xu hướng vận dụng vào
Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của
quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ, trên cơ sở
đó đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài năng ở
Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở
Mỹ.
4. Khách
thể nghiên cứu
Quá trình dạy học học sinh trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
- Nghiên cứu khái niệm tài năng.
- Nghiên cứu các phương pháp chuẩn đoán, tìm kiếm và phát hiện trẻ
tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
- Tìm hiểu những quan điểm định hướng dạy học trẻ em tài năng trong
nhà trường tiểu học của Mỹ.
- Nghiên cứu đặc điểm, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
dạy học trẻ em tài năng trong nhà trường tiểu học ở Mỹ.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học trẻ em tài
năng bậc tiểu học ở Việt Nam.
6. Cơ sở phương pháp luận của đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm hệ thống và quan điểm lịch sử – lôgic.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài có sử dụng các phương pháp:
Phương pháp phân tích.
Phương pháp tổng hợp.
Phương pháp hệ thống hóa.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm…
8. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm quá trình dạy học trẻ em tài năng trong nhà
trường tiểu học ở Mỹ.
9. Cấu trúc của đề tài
Bao gồm:
Phần mở đầu.
Phần nội dung: Chương I + Chương II
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM KIẾM, PHÁT
HIỆN VÀ DẠY HỌC TRẺ EM TÀI NĂNG TRONG NHÀ TRƯỜNG
TIỂU HỌC Ở MỸ
1. Một số quan niệm về tài năng và trẻ em tài năng
1.1. Khái niệm về tài năng
Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy, thời nào cũng có người tài và
người tài thời nào cũng có vai trò to lớn trong những bước phát triển nhất
định của xã hội mà họ sống. Vì thế từ thời cổ xưa, xã hội đã có những cách
thức nhận dạng và đào tạo tài năng để phục vụ cho lợi ích và sự phát triển của
xã hội đó. Ngày nay các quốc gia, các dân tộc đang bước vào thế kỷ XXI với
sự phát triển nhanh chóng tất cả các mặt khoa hoc - kỹ thuật và kinh tế - xã
hội. Thế giới đang trong tình
hình mà cơ chế thị trường đang trở nên phổ biến.
Năng suất, chất lượng của lao động con người đang trở thành sức mạnh quan
trọng của con người trong xã hội. Việc tìm kiếm tích cực những thanh thiếu
niên có năng khiếu cao và đào tạo họ trở thành tài năng phục vụ cho sự phát
triển của quốc gia hiện đang là quốc sách của các nước phát triển cũng như
các nước đang phát triển trên toàn cầu.
1.1.1. Năng lực
*Năng lực: Mọi trẻ sơ sinh bình thường đã có tư chất khác nhau, đó là
tất cả những tiềm năng phát triển bẩm sinh được di truyền từ cha mẹ, trong
đó, trước hết là những đặc tính cá thể về sinh lý giải phẫu của hệ thần
kinh,của não bộ. Chính các tư chất bẩm sinh di truyền này là cơ sở của những
năng lực ban đầu của con người gọi là năng lực tự nhiên. Năng lực tự nhiên là
loại năng lực được nảy sinh trên cơ sở những tư chất bẩm sinh di truyền,
không cần đến các tác động giáo dục đào tạo. Nó cho phép con người giải
quyết được những yêu cầu tối thiểu, quen thuộc đặt ra cho mình trong cuộc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
sống. Do sự khác biệt về tư chất nên các em khác nhau về năng lực tự nhiên.
Nhưng sự khác nhau đó không lớn đến mức quyết định hoàn toàn sự khác
nhau về năng lực của con người trong suốt cuộc đời.
Sự đáp ứng yêu cầu của các năng lực tự nhiên là rất hạn hẹp, trong khi cuộc
sống phát triển không ngừng luôn đặt ra những yêu cầu mới cần giải quyết.
Chính yêu cầu đó trong cuộc sống đã dẫn đến sự hình thành những năng lực
loại mới ở con người bằng con đường giáo dục đào tạo. Những năng lực được
đào tạo này là loại năng lực được hình thành trên nền tảng của năng lực tự
nhiên nhưng là một bậc phát triển cao hơn so với năng lực tự nhiên. Các tài
liệu khoa học hiện nay khẳng định rằng, năng lực được đào
tạo (hay năng lực
tự tạo) là những phẩm chất của quá trình hoạt động tâm lý tương đối ổn định và
khái quát của con người, nhờ nó chúng ta giải quyết được (ở mức độ này hay
mức độ khác) một hoặc một vài yêu cầu mới nào đó trong cuộc sống. (T1).
Năng lực tự tạo chỉ nảy sinh và quan sát được trong hoạt động giải
quyết những yêu cầu mới mẻ và do đó nó gắn liền với tính sáng tạo. Khi đã
được hình thành ổn định, các năng lực tự tạo thường đi vào hệ thống các năng
lực tự nhiên. Còn các năng lực tự nhiên lại báo trước trong chừng mực nào đó về
năng lực tự tạo của con người khi họ giải quyết những yêu cầu thuộc loại mới.
Năng lực con người ( tự nhiên và tự tạo) là hệ thống
tiền đề bên
trong và bên ngoài của thành tích hoạt động giải quyết những yêu cầu mới
mẻ và xác định của con người. Năng lực của con người thường được phân
ra thành các năng lực chung và năng lực chuyên biệt.(T1)
Năng lực (tự nhiên và tự tạo) biểu lộ ở tính nhanh, tính dễ dàng, chất
lượng tiếp nhận và thực hiện hoạt động, ở bề rộng của sự di chuyển, tính mới
mẻ, tính độc đáo của hoạt động giải quyết những yêu cầu mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
1.1.2. Năng khiếu
*Năng khiếu: Chúng ta đã đề cập đến các thuật ngữ Tư chất, Năng lực,
trong ngôn ngữ thường nhật hay trong các tài liệu khoa học cũng như trong
hoạt động giáo dục đào tạo chúng ta thường gặp thuật ngữ “năng khiếu”.
Nhiều tài liệu khoa học cho thấy: tuy giữa chúng còn nhiều điểm khác biệt,
các nhà tài năng học đều có quan niệm chung rằng:
Năng khiếu đó là hệ thống tiền đề bên trong dựa trên những tư chất
bẩm sinh di truyền cho phép con người giải quyết được một hay vài yêu cầu
nhất định nào đó trong cuộc sống mặc dù chưa được đào tạo.( T1)
Như vậy năng khiếu là một dạng năng lực tự nhiên của con người. Mọi
người bình thường đều có năng khiếu nhất định. Năng khiếu có cơ sở là các tư
chất, nhưng tư
chất là cái có tính đa dạng, đa hướng và tồn tại ở con người
ngay khi lọt lòng mẹ, còn năng khiếu chỉ bộc lộ sau này trong những hoạt
động giải quyết những yêu cầu nhất định. Năng khiếu không đa dạng, đa
hướng như tư chất mà thường là năng khiếu trong một lĩnh vực hoạt động cụ
thể nào đó như năng khiếu tổ chức quản lý, năng khiếu kinh doanh...đây thuộc
loại năng khiếu chung và các năng khiếu chuyên biệt như năng khiếu âm
nhạc, năng khiếu hội hoạ...
Sự khác biệt trong năng khiếu cá nhân phụ thuộc vào các thuộc tính thần
kinh cao cấp như cường độ, tính linh hoạt, độ nhạy cảm của qúa trình thần kinh
và do đó nó phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của các quá trình tâm lý.
1.1.3. Giỏi
*Giỏi: Thuật ngữ này thường xuyên trong cuộc sống chúng ta bắt gặp.
"Giỏi" là thuật ngữ dùng để chỉ mức độ cao của năng lực, chỉ sự lành nghề, sự
thành thạo một hoạt động với những kỹ xảo tinh tế hoàn hảo hay sự uyên
thâm kinh nghiệm đến mức điêu luyện trong hoạt động đó. "Giỏi" là cái do
con người tạo ra cho mình chứ không phải do trời phú. Trong kỹ thuật, nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
thuật, nghề thủ công...thì khái niệm "giỏi" được hiểu như khái niệm "tài
năng". Theo các nhà khoa học chuyên nghiên cứu về tài năng thì để đào tạo
một chuyên gia (người giỏi trong một lĩnh vực) ở bất cứ lĩnh vực nào, nghề
nào cũng cần đến một khoảng thời gian tối thiểu là khoảng trên dưới 10 năm.
Những học sinh có năng khiếu cao về một lĩnh vực nào đó thì dễ dàng
thành giỏi trong lĩnh vực ấy hơn. Tuy nhiên có thể không có năng khiếu cao
đặc biệt nhưng nếu luyện tập chăm chỉ với lòng say mê cao độ và trong những
điều kiện thuận lợi vẫn có thể trở nên giỏi ở một lĩnh vực, ví dụ như giỏi
ngoại ngữ, giỏi lịch sử, giỏi ngoại giao...
Thời gian khoảng 10 năm cũng là thời gian đủ để đào tạo một chuyên
gia trong khoa
học công nghệ. ở Cộng hoà liên bang Đức nhà nước đặt ra học
vị Juniorprofessor để phong cho những nhà khoa học giỏi trẻ tuổi. Họ là
những cử nhân khoa học loại ưu, được làm thẳng tiến sỹ, đã bảo vệ luận án
chuyên ngành loại xuất sắc. Các Juniorprofesser được giao đứng đầu một
nhóm các nhà khoa học chuyên ngành mới hiện đại. Như vậy họ không chỉ
được phong chức danh khoa học mà quan trọng hơn là các nhà khoa học trẻ
giỏi ở nước Đức trong thực tế đã được công nhận là chuyên gia, là người giỏi
một chuyên ngành hay một tài năng khoa học công nghệ. Tuổi đời của họ
thường khoảng trên dưới 30. Cũng vào độ tuổi này ở nước ta hiện nay đã một
số người có bằng tiến sỹ chuyên ngành được đào tạo trong nước. Bao nhiêu
phần trăm số
tiến sỹ trẻ này thực sự là chuyên gia trong một ngành khoa học
công nghệ?( T1+T2)
1.1.4. Thiên tài
*Thiên tài: Thuật ngữ thiên tài chỉ mức độ cực cao của năng lực, cho
phép con người đạt được những thành tựu vô song trong lịch sử. Khác với
tài năng, thiên tài dẫn đến những giá trị mới hoàn toàn trên bình diện toàn
nhân loại, mở ra thời kỳ mới, một bậc mới của sự phát triển trong một hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
nhiều lĩnh vực nào đó của loài người, tựa như một mốc son đánh dấu một
bậc phát triển mới cao hơn của xã hội con người.( T1)
Nguồn gốc của thiên tài là một bí ẩn lớn đối với khoa học. Trong quan
niệm dân gian và trong tài năng học thế kỷ XX vừa qua, thiên tài luôn được
gắn liền với những điều bí ẩn, bất thường, khó làm sáng tỏ.
Do tính chất bí ẩn của thiên tài nên các nhà tài năng học ở các nước ít
đề cập đến thuật ngữ thiên tài. Chẳng hạn nhà tài năng học hàng đầu của Mỹ
Terman đã dùng thuật ngữ trí tuệ cao thay cho thuật ngữ thiên tài.Theo các
nhà tài năng học, xã hội không thể chủ động nhận dạng trước về thiên tài và
cũng không thể chủ động đào tạo ra các thiên tài. Do vậy tài năng học hiện
đại
không đề cập đến việc đào tạo thiên tài.
Như vậy rõ ràng là các thuật ngữ tài năng học như: học sinh tài năng,
sinh viên tài năng, học sinh giỏi, sinh viên giỏi là thích hợp nhất trong công
tác nhận dạng, tuyển chọn, đào tạo tài năng ở các trường phổ thông và đại
học, bởi vì tài năng ở học sinh chính là tài năng học tập và học sinh giỏi được
gọi là học sinh tài năng. Mặc dù vậy, hiện nay hầu hết các trường đào tạo tài
năng ở bậc phổ thông nước ta vẫn gọi học sinh của họ là " học sinh năng
khiếu” và đặt tên trường của họ là “Trung học phổ thông năng khiếu hoặc
trung học phổ thông chuyên".
1.1.5. Tài năng
Chúng ta đều biết có nhiều hiện tượng trong khoa học nhân văn được
định nghĩa ít nhiều khác nhau. "Tài năng" cũng là một hiện tượng như vậy.
Thật ra việc thoả thuận giữa các nhà nghiên cứu về khái niệm tài năng về cơ
bản luôn bị quy định bởi nền văn hoá, bởi các giá trị và thái độ xã hội cũng
như cơ cấu xã hội hoá. Tuy nhiên lịch sử phát triển khoa học cho thấy, có
những hiện tượng chưa có định nghĩa một cách khái quát, chính xác và chưa
được mọi người thừa nhận vẫn được các nhà khoa học nghiên cứu và ứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
dụng. Vậy tài năng được hiểu ra sao? Đây còn là một câu hỏi mà sau hàng
trăm năm nghiên cứu, tâm lý học vẫn chưa đưa ra được câu trả lời khái quát
và thống nhất chung một cách tuyệt đối.
1.1.5.1. Những định nghĩa tài năng phiến diện (T1)
Thực chất của việc định nghĩa tài năng cũng chính là việc cắt nghĩa về
bản chất và nguồn gốc của tài năng. Điều này đồng thời cũng là cơ sở để nhận
dạng và đào tạo tài năng. Từ việc nghiên cứu, phân tích trên 130 định nghĩa
khác nhau về tài năng được đưa ra trong vòng 100 năm qua, các nhà khoa học
đã phân định những định nghĩa ấy thành các loại điển hình sau:
- Định nghĩa dựa vào các yếu tố đã bộc lộ: Đây là định nghĩa dựa vào
các yếu tố đã bộc lộ ra bên ngoài. Theo cách
định nghĩa này, một người nào
đó được coi là tài năng khi anh ta đã hoàn thành vượt trội một hoạt động
nhất định. Định nghĩa về người có tài năng kiểu này được vận dụng để lựa
chọn người có tài năng dựa theo những kết quả đã thể hiện ra trong hoạt động
của họ. Cách định nghĩa này không phục vụ cho công tác đào tạo tài năng, mà
phục vụ cho việc xác định và đánh giá tài năng để làm cơ sở cho việc khen
tặng và tôn vinh tài năng.
- Định nghĩa dựa vào chỉ số IQ: Kiểu định nghĩa này được nhà tâm lý
học Mỹ Terman sử dụng với giá trị IQ >= 140 theo Test Standford - Binet,
theo đó "một người được gọi là tài năng khi người đó có hệ số trí tuệ bằng
hay lớn hơn 140 theo test Standford - Binet". Tuy nhiên khi áp dụng định
nghĩa loại này, nhiều nhà tâm lý lại dùng các trắc nghiệm trí tuệ khác và ấn
định giá trị chuẩn khác với Terman, thường là thấp hơn 140 như ở Terman. Ví
dụ, năm 1965, Gowan dùng giá trị chuẩn hạn định là 129 trở lên theo test
Standford - Binet. Webb (1985) lấy giá trị hạn định là 130... Điển hình trong
việc áp dụng kiểu định nghĩa IQ trong định nghĩa tài năng thể hiện rõ nhất ở
định nghĩa tài năng của Bộ giáo dục Anh quốc như sau: " Trẻ em và thanh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
niên có năng khiếu cao ở lứa tuổi 8-18 là những em khẳng định được về năng
lực trí tụê chung vượt trội ở trường học, đã chứng tỏ điều đó qua một test trí
tuệ (test thông minh) đã thực hiện tự lập đáng tin cậy với kết quả Iq từ 130 trở
lên, hoặc trong hoạt động giải quyết công việc của mình đã chứng tỏ một trình
độ phát triển vượt trội rõ ràng và giữ vững như vậy trong nhiều năm, hoặc đưa
ra được một tiên lượng tương đối đáng tin cậy về sự vượt trội trong học tập
các môn học hàn lâm hay trong âm nhạc, trong thể thao, trong múa hát, hay
trong lĩnh vực nghệ thuật, đồng thời tài năng của chúng không phải chỉ quy
trước hết vào sự phát triển thể chất" (Vụ Giáo dục và khoa học - 1997).( T1)
- Định nghĩa
xã hội: Định nghĩa này dựa trên sự mở rộng quan điểm lý
thuyết về tài năng trong mối liên quan với nhiều lĩnh vực. Quan niệm này nảy
sinh trên cơ sở yêu cầu của xã hội về những thành tích vượt trội. Loại định
nghĩa như vậy được gọi là định nghĩa xã hội.( T1)
Theo cách định nghĩa này, người ta cho rằng "một học sinh, sinh viên có
thành tích cao vượt trội trong một lĩnh vực nào đó mà mọi người có thể nhận ra
được một cách tổng quát thì được gọi là người có tài năng" (Witty - 1965).
- Định nghĩa bách phân: Kiểu định nghĩa này xuất phát từ quan niệm
cho rằng có một số phần trăm nào đó của dân số được coi là có tài năng. Khái
niệm tài năng ở đây gắn liền với những trẻ em có tiềm năng trí tuệ vượt trội
cũng như có năng lực giải quyết nhiệm vụ cao ở trường học, về mặt thành tích
học tập chúng thuộc số 15- 20 % xếp thứ hạng từ trên xuống dưới. Tuy nhiên,
có bao nhiêu phần trăm quần thể được coi là có tài năng thì không có sự thống
nhất giữa các nhà khoa học.(T1)
- Định nghĩa dựa vào tính sáng tạo: định nghĩa này được hình thành
dựa trên cơ sở phê phán, bác bỏ kiểu định nghĩa thuần tuý chỉ dựa vào chỉ số
thông minh IQ và chủ trương đặt tính sáng tạo làm cơ sở tiên quyết cho việc
đánh giá tài năng con người.Theo quan niệm này, nhà nghiên cứu Gowan cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
rằng :"Học sinh, sinh viên tài năng là người có tính sáng tạo cao". Theo nhà
nghiên cứu Mỹ - Terman thường trong 100 người có trí thông minh cao thì có
43 người có trí sáng tạo cao. Do vậy chỉ có 43% số này vừa thông minh vừa
sáng tạo.
- Định nghĩa "Thông minh - Sáng tạo": Nhà tâm lý học Lucitô đề xuất
định nghĩa về tài năng dựa vào mô hình trí tuệ, trong đó có định nghĩa về tính
sáng tạo. Theo kiểu định nghĩa này "Học sinh tài năng là người có năng lực trí
tuệ tiềm năng cao biểu hiện trong năng lực sáng tạo, trong tư duy đánh giá có
phê phán ở mức độ cao, hứa hẹn là họ sẽ giải quyết chính những vấn đề của
tương lai, thực hiện những đổi mới và đánh giá có phê phán nền văn hoá hiện
tại nếu như họ nhận được những điều ki
ện giáo dục xứng đáng".( T1)
Có thể nhận thấy ngay rằng những định nghĩa trên đây mới chỉ đề cập đến
một mặt của khái niệm tài năng. Để đưa ra được khái niệm đúng và đầy đủ
cần xem xét chúng trong chỉnh thể thống nhất của nó.
1.1.5.2. Những định nghĩa tài năng liên kết phức tạp
- Định nghĩa tài năng của Renzulli(1978):
Lần đầu tiên vào năm 1978, R.S . Renzulli và cộng sự đã đề xuất mô
hình về tài năng. Ông gắn mô hình này với yêu cầu thực tế của công tác nhận
dạng tài năng trong đó có sử dụng các test cá nhân, test nhóm và các thông tin
khác từ cha mẹ, bạn bè và giáo viên. Sau đó Renzulli đã nhiều lần diễn tả bổ
xung và chuyên biệt hoá mô hình này vào các năm 1980,1984,1986,1988.
Ông định nghĩa về tài năng như sau: "Tài năng được tạo bởi sự tương tác của
3 tổ hợp cơ bản các thuộc tính nhân cách: năng lực nhận thức học tập, động
cơ hứng thú và tính sáng tạo. Trẻ em tài năng là những em có tổ hợp các
thuộc tính trên dẫn tới sự hoàn thành hoạt động với chất lượng cao".
Định nghĩa về tài năng của Renzulli đã từng được hội thảo về tài năng
toán và khoa học công nghệ vùng châu á- TBD tổ chức tại Tôkyô - Nhật Bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
năm 1993 khuyên dùng đối với giáo dục các nước trong vùng. Định nghĩa này
cũng được nhiều nhà nghiên cứu ở các nước khác trên thế giới đặc biệt quan
tâm như Mỹ, Anh, Đức, Nhật Bản. Tuy nhiên định nghĩa này của ông đã
không tính đến yếu tố sinh lý thần kinh của tài năng.
- Định nghĩa tài năng của 2 nhà tâm lý học Đức Wiezerkowski và
Wagner (1985): Từ việc phê phán định nghĩa tài năng của Renzulli, 2 nhà tâm
lý học này đã đưa ra một mô hình mới bao gồm các yếu tố: các năng khiếu,
động cơ môi trường, tính sáng tạo. Trong mỗi yếu tố các ông đã cụ thể hoá
thành các thành tố. Các năng khiếu bao gồm :
Năng khiếu trí tuệ
Năng khiếu nghệ thuật
Năng khiếu tâm vận
Năng khiếu xã hội.
Với sự phân tích cấu trúc nội dung của yếu t
ố động cơ môi trường
thành các thuộc tính như :
Chăm chỉ kiên trì
Quyết tâm đạt đến thắng lợi
Bền vững về xúc cảm
Với việc thừa nhận môi trường xung quanh cùng với sự hỗ trợ tối ưu từ
bên ngoài, 2 nhà tâm lý học này đã đi xa hơn Renzulli trong việc xác định rõ
hơn, chi tiết hơn về nội dung và vai trò của động cơ môi trường đối với tài
năng con người. Theo phân tích của 2 tác giả này thì yếu tố xúc cảm, ý chí,
thái độ đối với môi trường bên ngoài cũng như thái độ hay sự thừa nhận, hỗ
trợ khuyến khích của môi trường bên ngoài có tác động quan trọng đến sự
phát triển của tài năng. Cách quan niệm của 2 nhà tâm lý học này đã giúp cho
chúng ta có được cái nhìn cụ thể hơn về cấu trúc, nội dung của tài năng để
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
làm cơ sở cho việc thiết kế soạn thảo những công cụ đo đạc, nhận dạng tài
năng của con người kể cả tài năng trí tuệ và tài năng chuyên biệt.(T1+ T4)
- Định nghĩa tài năng nhiều yếu tố của Moenk (1985): Moenk là nhà
tâm lý học giáo dục của Đức, Ông đã tiếp thu có phê phán các mô hình năng
khiếu cao của các tác giả và cho rằng những cơ sở di truyền của nhận thức và
những thuộc tính nhân cách của con người là khác nhau. Trong cuộc sống và
hoạt động con người bị hạn chế, ức chế hoặc được hỗ trợ khuyến khích từ bên
ngoài. Họ có thể bị cô lập hoặc được hoà nhập trong xã hội, với gia đình, bạn
bè, họ có thể bị nhận định nhầm lẫn là không có năng lực do cách nhận dạng
của xã hội, do nhà
trường chưa tốt hoặc có thể bị nhận định là thiếu ý chí
trong trường học... Vì vậy, tài năng không chỉ được xét dưới 3 góc độ hay 3
thành tố được đặt chông chênh trừu tượng ngoài xã hội như quan niệm của
Renzulli, mà tài năng phải được coi là một cơ cấu mở trong đó bao gồm cả
các yếu tố của môi trường xã hội. Moenk đã đưa ra mô hình tích hợp về tài
năng có tên là "mô hình 3 yếu tố phụ thuộc nhau của tài năng" hay "mô hình
các yếu tố của tài năng".
Ba yếu tố đó bao gồm: động cơ, các năng lực vượt trội, tính sáng tạo,
theo Moenk thì đây chính là 3 yếu tố trụ cột tạo nên tài năng. Mô hình tài
năng này có ưu điểm là đã coi "tài năng" như một hiện tượng có cấu trúc mở
ra môi trường xã hội (tức là có nguồn gốc xã hội) chứ không còn đóng kín
trong cấu trúc sinh học và cấu trúc trí tuệ hàn lâm. Tuy nhiên mô hình này
cũng chưa làm nổi bật được vai trò của trí thông minh trong hệ thống các
năng lực vượt trội nên việc đo đạc, đánh giá về trí thông minh bằng test trí tuệ
truyền thống không thể hiện rõ trong quy trình nhận dạng tài năng. Trong
thực tiễn, muốn nhận dạng người có tài năng bao giờ cũng cần phải tiến hành
đánh giá về trí thông minh hàn lâm của họ bằng các test IQ truyền
thống như
một khâu độc lập với việc đánh giá về các năng lực chuyên biệt khác thông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
qua trắc nghiệm trường học hoặc qua hoạt động giải quyết những nhiệm vụ
chuyên biệt cụ thể nào đó. Mô hình tài năng của Moenk cũng chưa nhìn nhận
đúng mức về vai trò của xã hội, tức là không đề cao những vai trò của các
chương trình, dự án phát triển tài năng của nhà nước, của toàn xã hội. Và
cũng như các định nghĩa tài năng khác nhau dựa trên quan niệm của Renzulli,
định nghĩa này cũng bỏ qua yếu tố sinh lý.(T1)
- Định nghĩa về tài năng hiện nay được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam là
của tác giả PGS-TS Nguyễn Huy Tú. Dựa trên cơ sở nghiên cứu các định
nghĩa khác nhau về tài năng của các nhà nghiên cứu trên thế giới và thực tế
ứng dụng mô hình cấu trúc tài năng trong những năm vừa qua ở các nhà
trường Việt Nam. Tài năng
phải được coi là một cơ cấu mở bao gồm không
chỉ trí thông minh cao, tính sáng tạo cao, động cơ mạnh mẽ và các năng lực
chuyên biệt vượt trội mà còn phải bao gồm các hiệu ứng tâm lý - nhân cách -
xã hội của các quan hệ gia đình, nhà trường, bạn bè và xã hội. Tài năng được
quan niệm như vậy sẽ là một cấu trúc mở bao gồm nhiều yếu tố từ cấp độ sinh
học đến cấp độ xã hội. Tuy tài năng có cơ sở sinh lý thần kinh được di truyền
song nó phát hiện được là nhờ hoạt động của cá nhân trong những điều kiện
xã hội cụ thể nhất định. Tài năng tự nhiên chỉ phát triển thành tài năng thực
thụ khi được xã hội hỗ trợ, thừa nhận và người tài được xã hội tin dùng, nuôi
dưỡng và đãi ngộ thoả đáng
kịp thời.
Như vậy, "Tài năng là một tổ hợp thuộc tính được cấu tạo nên do sự
tương tác của các tổ hợp cơ bản những thuộc tính của nhân cách là trí
thông minh cao, động cơ mạnh và năng lực chuyên biệt vượt trội với hiệu
quả tác động của các yếu tố môi trường là xã hội, gia đình, trường học và
bạn bè. Người tài năng là người có được những tổ hợp thuộc tính trên đây
làm tiền đề cho sự hoàn thành có chất lượng cao những hoạt động của
mình trong xã hội và vì xã hội".( T1)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
1.2. Khái niệm trẻ tài năng theo quan điểm của các nhà khoa học Mỹ
Nước Mỹ mãi đến thế kỷ 19 mới chú ý đến vấn đề giáo dục học sinh
tài năng cho đến năm 1920 đã có tới 2/3 các thành phố lớn của Hoa Kỳ đã
thực hiện chương trình giáo dục học sinh giỏi, học sinh tài năng. Trong suốt
thế kỷ 20 giáo dục học sinh giỏi học sinh tài năng đã trở thành một vấn đề của
nước Mỹ. Hàng loạt các tổ chức và các trung tâm nghiên cứu bồi dưỡng học
sinh giỏi, học sinh tài năng ra đời: Mensa (1946) The American Association
for the Gifted (1947); The National Association for the Gifted (1953) ... Năm
2002 có 38 bang của Hoa Kỳ có đạo luật về giáo dục học sinh giỏi, học sinh
tài năng trong đó có 28 bang có thể đáp ứng đầy đủ cho việc giáo dục học
sinh giỏi,
học sinh tài năng.
Khái niệm học sinh tài năng ở Mỹ được định nghĩa theo nhiều
cách khác nhau:
Luật bang Georgia định nghĩa như sau: Học sinh tài năng là học sinh
chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao hoặc có khả năng sáng tạo, thể hiện
một động cơ học tập mãnh liệt hoặc đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý thuyết khoa
học. Đó là người cần một sự giáo dục đặc biệt và sự phục vụ đặc biệt để đạt
được trình độ tương ứng với năng lực của người đó.(T3)
Theo Clak 2002 ở Mỹ người ta định nghĩa học sinh tài năng đó là
những học sinh trẻ tuổi có dấu hiệu về khả năng hoàn thành xuất sắc công
việc trong các lĩnh vực như trí tuệ, sự sáng tạo, nghệ thuật, khả năng lãnh đạo
hoặc trong lĩnh vực lý thuyết khoa học. Những người này đòi hỏi sự phục vụ
và các hoạt động không theo trường lớp thông thường nhằm phát triển hết
năng lực của họ.(T3)
1.3. Bồi dưỡng và đào tạo trẻ tài năng
Tài năng con người có thể bồi dưỡng, đào tạo được hay không, đó là
một câu hỏi được đặt ra từ khá lâu và được tranh luận tiếp tục trong suốt hàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
thế kỷ qua. Sự trả lời câu hỏi trên phản ánh quan điểm của các học giả trong
lĩnh vực này. Trong khoa học có nhiều quan điểm khác nhau về sự phát triển
của tài năng:
Thuyết phát triển nội sinh, thuyết phát triển ngoại sinh, thuyết hội tụ,
thuyết Mác-xít. Thuyết Mác-xít đã chỉ ra rằng con người không phải là khách
thể thụ động của những yếu tố phát triển của nó và nhân cách cũng như mọi
thuộc tính cấu tạo nên nó không phải là kết quả cơ học của di truyền bẩm
sinh, của môi trường hay của sự phát triển chung của cả 2 yếu tố đó. Theo
thuyết này, con người tự tạo ra nhân cách của mình và chủ yếu là bằng hoạt
động tương tác tích cực với các điều kiện sống bên ngoài của môi trường tự
nhiên và xã hội xung quanh h
ọ. Nhưng các điều kiện này không tác động trực
tiếp mà tác động gián tiếp thông qua hoạt động của cá nhân làm hình thành
nên nhân cách và từng thuộc tính của nhân cách đó.
Điều kiện môi trường, trước hết là môi trường giáo dục (theo cả nghĩa
rộng và nghĩa hẹp) có vai trò thực sự tích cực và sáng tạo trong sự phát triển
của nhân cách. Nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục (theo nghĩa hẹp) là tổ chức
mọi điều kiện phát triển (nhà trường và phi nhà trường) sao cho trẻ em có thể
tiếp thu và thực hiện các hoạt động giải quyết những yêu cầu thực tiễn muôn
màu, muôn vẻ được đặt ra để hình thành nhân cách nói chung (cũng như từng
thuộc tính của nó nói riêng) cho phù hợp với mục đích giáo dục do xã hội đề ra.
Như vậy, từ những trình bày trên đây, có thể nói rằng : là một thuộc
tính của nhân cách, tài năng mang đặc tính của nhân cách và có thể giáo dục
đào tạo được. Các nhà giáo dục ở Liên bang Nga những năm cuối thập kỷ 80
của thế kỷ trước đã quan tâm rất nhiều đến vấn đề này. Họ cho rằng trong
nhân dân có rất nhiều tài năng, và tài năng không phải tự nhiên có được mà
chính là do con người tạo ra. Sở dĩ xã hội thiếu tài năng là vì nhà trường và xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
hội không đặt ra nhiệm vụ đào tạo tài năng hoặc có đặt ra nhưng chưa đào tạo
đúng mà thôi.
Theo quan niệm và kinh nghiệm hơn 30 năm đào tạo tài năng, tiến sỹ
Volkow cho rằng về nguyên tắc, đào tạo tài năng là không khó, chỉ cần mỗi
trường biết tạo ra những điều kiện để học sinh thử sức nhiều lần trong những
hoạt động độc lập, sáng tạo khác nhau. Từ những kinh nghiệm của mình, các
nhà giáo dục Nga cũng thấy rằng để đào tạo một chuyên gia giỏi trong mọi
lĩnh vực chúng ta cần một khoảng thời gian tương đương nhau vào khoảng
trên dưới 10 năm. Bắt đầu bồi dưỡng tài năng càng sớm thì người tài xuất
hiện càng sớm. Hiện tượng một số em tốt nghiệp tú tài, thậm chí là nhận bằng
cử nhân ở độ tuổi 13 - 14 ở Nga, Mỹ và các
nước khác hiện nay chính là kết
quả của giáo dục đào tạo.
Các nhà giáo dục Đức cho rằng, bồi dưỡng tài năng trước hết là hình
thành ở học sinh những đặc điểm và thuộc tính nhân cách như nhu cầu và
hứng thú trí tuệ, mức độ nhu cầu, tính nhạy cảm, trí tưởng tượng và khả năng
làm việc tốt trong thời gian hạn định và khả năng cộng tác. Theo kinh nghiệm
của họ thì bồi dưỡng tài năng có nghĩa là: làm bộc lộ nhu cầu trí tuệ và khát
vọng thực hiện nhu cầu đó; tạo được mục đích riêng và theo đuổi nó một cách
có trách nhiệm; hình thành hệ giá trị bên trong; tận dụng được sự mẫn cảm
trong sự phát triển để gắn kết vào mục đích và hệ giá trị bên trong nó.
Từ thực tiễn trên về công tác đào tạo, dạy học
trẻ tài năng các nhà khoa
học đã đưa ra kết luận: Đào tạo, bồi dưỡng trẻ tài năng không phải là truyền
thụ có tính áp đặt những tri thức kỹ năng mà đơn giản là tạo cơ hội cho học
sinh có năng khiếu cao thể hiện tài năng bằng các hoạt động bổ sung, nâng
cao, trong đó các em được động viên, khuyến khích, hỗ trợ để đương đầu với
những thử thách ngày càng cao trong học tập hay luyện tâp.( T1)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
2. Những cơ sở lý thuyết của việc lựa chọn và dạy học trẻ em tài năng
trong nhà trường Tiểu học ở Mỹ
2.1. Những tiền đề lịch sử của phương thức dạy học trẻ em tài năng trong
nhà trường tiểu học ở Mỹ
Hệ thống tìm kiếm và dạy học trẻ em tài năng ở Mỹ được phát triển
mạnh mẽ dưới những ảnh hưởng của các chính sách giáo dục quốc gia. Sự
quan tâm đến vấn đề tìm kiếm và dạy học cho trẻ tài năng xuất hiện ở Mỹ vào
giữa Thế kỷ XIX. Đây là sáng kiến của một nhân viên hậu cần trong trường
phổ thông của thành phố Xanh - Lu - I tên là WILLIAM KHALIC vào năm
1868. Trong các nhà trường lúc đó chương trình hỗ trợ cho "những học sinh
nhanh nhẹn" với tên gọi là "góp phần tăng tốc" đã được thực hiện
. Những yếu
tố đầu tiên của cuộc thử nghiệm được áp dụng rộng rãi ở Mỹ nhằm mục đích
phát hiện khả năng và sự phát triển trí tuệ của công dân ở các lứa tuổi.
Chính phủ liên bang của Mỹ dành sự chú ý đặc biệt đến vấn đề tài
năng. Trong báo cáo của chính phủ Mỹ năm 1954 về "Dự trữ nguồn tài năng
của Mỹ" đã nhấn mạnh rằng: "Sự tiến bộ của quốc gia Mỹ, sức mạnh kinh tế
quân sự... phụ thuộc trước hết vào bộ phận làm việc bằng đầu chứ không phải
bằng tay của dân tộc". (T1)
Đầu Thế kỷ XXI, Mỹ đã chứng minh sự đầu tư vào con người ngày
càng đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo các ưu thế cạnh tranh của đất
nước ở trình độ quốc gia cũng như là trên thế
giới. Sự phát triển của nền giáo
dục Mỹ trong những năm gần đây ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành nền
kinh tế cơ bản - trí tuệ của con người. Trong báo cáo kinh tế của Tổng thống
Mỹ B.Clintơn tại hội nghị năm 1999 đã thẳng thắn chỉ ra rằng "chính nền giáo
dục là chiếc chìa khoá mở ra sự phồn vinh trong tương lai của đất nước".(T5)
Nền giáo dục ở Mỹ được coi là lĩnh vực thuộc thẩm quyền của các
bang và chính quyền địa phương. Cho đến nay ở Mỹ có 50 hệ thống giáo dục
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
khác nhau ở các bang. Trong mỗi bang có một cơ quan quản lý nền giáo dục
của mình. Chính điều này tạo nên sự khác biệt và những đặc trưng riêng của
mỗi khu nhưng vẫn trong giới hạn do Luật giáo dục quy định. Hiện nay ở Mỹ
có khoảng 15 ngàn trường phổ thông đang hoạt động. Quyền hạn của chính
phủ Liên bang chỉ giới hạn trong vấn đề cung cấp kinh phí giáo dục đảm bảo
sự bình ổn trong xã hội của đất nước Mỹ. Tuy nhiên có thể nói giáo dục là
một lĩnh vực được quan tâm hàng đầu ở Mỹ. Đây là lĩnh vực được đầu tư cao
và nó luôn chiếm một vị trí đáng kể trong các chương trình vận động tranh cử
qua các đời tổng thống.
Vấn đề dạy học trẻ em có năng khiếu cao để phát triển thành tài năng ở
Mỹ được quan tâm
đặc biệt nhưng nó không tách rời khỏi quá trình dạy học ở
các nhà trường Tiểu học của Mỹ nói chung. Vấn đề là ở chỗ ngay trong quá
trình dạy học tại các lớp thông thường họ đã có những phương thức giảng dạy
giúp học sinh tài năng có thể phát huy đuợc năng lực của bản thân và khẳng
định đẳng cấp riêng của mình giữa những học sinh bình thường. Không cần
sự tách biệt một cách rõ rệt thành trường chuyên, trường năng khiếu như ở
Việt Nam nhưng tài năng không bị thui chột mà vẫn có thể toả sáng. Cách mà
các trường Tiểu học ở Mỹ lựa chọn để dạy học trẻ tài năng và trẻ có năng
khiếu cao đó là dạy học cá nhân hoá ngay trong các lớp học, trong các trường
tiểu học thông thường và có sự thống nhất để tạo thành một hệ thống
giữa các
cấp học, lớp học. ở Mỹ, cha mẹ có thể lựa chọn cho con mình theo học tại các
trường công lập hoặc dân lập. Tại các trường công lập trẻ em có thể theo học
miễn phí 12 năm. Tuy nhiên ở Hoa kỳ không có một hệ thống giáo dục chung
thống nhất cho mọi lứa tuổi như ở Việt Nam hay ở Nga, chương trình giáo
dục ở các thành phố khác nhau và ở các bang cũng khác nhau. Các bang có
thể tuỳ vào vào thực tế để lựa chọn môn học phù hợp tuy nhiên vẫn phải căn
cứ vào các yêu cầu chung của nhà nước do Bộ giáo dục ban hành.( T6)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Trong các trường công cũng như trường tư ở Mỹ cũng có các lớp
chuyên sâu về một môn nào đó thường xuyên được thực hành theo chương
trình riêng, mức độ tài năng được đánh giá theo kết quả của Test Standart
Achivement. ở Mỹ không có hệ thống đánh giá chung của toàn quốc gia, tại
một số trường thì áp dụng thang điểm số, một số trường lại áp dụng thang
điểm chữ. Do các trường công lập hoạt động do nhà nước cung cấp kinh phí
nên các trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho học tập hạn chế hơn hẳn các
trường tư thục huy động được sự đóng góp của gia đình học sinh. ở các
trường tư mỗi năm cha mẹ học sinh phải trả từ 2 - 10 ngàn đô la mỗi năm trên
đầu 1 học sinh vì vậy các trường có điều kiện thuê giáo viên giỏi và trang b
ị
cho lớp học tốt hơn. Hầu hết trẻ tài năng của Mỹ đều được trưởng thành từ
những trường tiểu học tư thục, nơi trẻ có điều kiện thuận lợi hơn để học tập và
tiếp cận được tri thức.
Phân tích các tài liệu tâm lý - giáo dục ở Mỹ cho phép xác định một
loạt các tiền đề lý luận chỉ ra việc tổ chức có hiệu quả quá trình dạy các học
sinh tài năng ở các lớp dưới của Mỹ. Tại đây trong nhiều năm đã áp dụng hệ
thống giáo dục chung được xây dựng trong việc tìm kiếm cá nhân, chọn lọc
và tính đến yếu tố bẩm sinh của mỗi học sinh khi mới bắt đầu vào học cũng
như trong quá trình học tập của cá nhân học sinh đó sao cho phù hợp với
những tư chất được bộc lộ. Từ đó tạo
ra những điều kiện thuận lợi để phát
triển khả năng và tài năng của mỗi học sinh. Khi dạy cho học sinh tài năng
cần tính đến sự kế thừa giữa các khâu của quá trình giáo dục Mỹ.
Giáo dục Tiểu học có vị trí vô cùng quan trọng vì nó chính là giai đoạn
đặt nền móng của tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, chủ yếu không chỉ xác định tính chất
sau này của việc dạy học mà cả đường đời của mỗi cá nhân học sinh. Trường
tiểu học có mối liên hệ chặt chẽ với các bậc học tiếp theo của thang giáo dục,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
phát hiện được những đặc điểm học tập ở bậc tiểu học nghĩa là hiểu được nhiều
đặc điểm của toàn bộ hệ thống giáo dục. Trường tiểu học ở Mỹ là hiện
tượng độc đáo với hàng loạt những nét khác biệt với các trường tiểu học ở các
nước phát triển khác trên thế giới.
Đã rất nhiều năm việc dạy cho trẻ em tài năng tại các trường tiểu học
không được chú ý quan tâm đúng mức. Trước những năm 50 của thế kỷ XIX
có 3 môn học truyền thống của trường tiểu học (còn gọi là trường sơ cấp) ở
Mỹ có vai trò quan trọng bậc nhất là làm toán, đọc, viết với sự tái tạo lại
những dữ liệu sẵn có là cơ bản. Phân tích nguồn gốc chỉ ra sự thay đổi căn
bản trong quan niệm về giáo dục tiểu học diễn ra trong khoảng thời gian từ
1870 - 1920. Điều đó liên quan đến việc thông qua những đạo luật bắt buộc
về việc học tập ở bậc tiểu học. Thời kỳ này số học sinh tăng lên hơn 2 lần và
chương trình dạy học cũng được mở rộng. Các đề tài thực hành gắn liền với
đời sống
cá nhân và đời sống xã hội được đưa vào giảng dạy. Các nghiên cứu
của các nhà bác học Châu Âu đã tạo điều kiện xem xét lại các nguyên tắc dạy
học tiểu học. I.F Robert ( 1776 - 1841) đề nghị tính đến quyền lợi của trẻ em
trong quá trình dạy học và thiết lập mối liên kết giữa các môn học. Những ý
tưởng của Ph.Phơrebel (1782 - 1852) về tự hiện thực hóa nhân cách đứa trẻ
trong quá trình tham gia tích cực vào hoạt động nhóm và ý tưởng của Maria
Mongtexoro (1870 - 1952) về cá thể hoá việc dạy học và thích nghi với việc
học tập tích cực có ảnh hưởng lớn đến ý tưởng giáo dục của nước Mỹ. Vai trò
đáng kể trong việc thay đổi luận thuyết về dạy học tiểu học thuộc về Đơruyi
(1859-1952) và những người kế nghiệp đã
thống nhất vào khuynh hướng
"Giáo dục tiến bộ" trong đó trình bày quan niệm lý thuyết dạy học. Vào năm
1896,Ông đã thành lập trường tiểu học thực nghiệm dành cho lứa tuổi này và
cố gắng thể hiện lý luận của mình và trình bày dạng dạy học mới. Trẻ em
trong trường tiểu học lúc này được tiếp cận với những luồng thông tin khác