Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận Sự ra đời và quá trình phát triển của Phố Hiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.62 KB, 17 trang )

Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
Bài làm
Nói đến các đô thị cổ Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới địa danh
Phố Hiến. Nhân dân ta có câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Vậy, Phố Hiến
là đô thị như thế nào mà lại có vai trò quan trọng “thứ nhì” của nước ta vào những thế
kỷ XVI - XVIII?.
1. Vị trí địa lý
Phố Hiến còn được gọi là chợ Hiến (Hiến thị), dinh Hiến (Hiến danh) hoặc có
khi là chợ dinh Hiến (Hiến danh thị).
Phố Hiến ngày nay thuộc địa phận thị xã Hưng Yên. Xưa kia Phố Hiến nằm sát
bên bờ tả ngạn sông Hồng, nhưng do phù sa bồi đắp nên ngày nay đã ở cách dòng
sông khoảng chừng 2 km. Theo đường sông, Phố Hiến cách Hà Nội 55 km. Trước đây
từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên Kinh
đô mất 3 ngày.
Vị trí của Phố Hiến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tuyến giao thông
đường thuỷ thuộc hệ thống sông Hồng - sông Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng
Bắc Bộ. Bằng đường thuỷ, từ Phố Hiến có thể liên lạc tới hầu hết các địa phương
thuộc các trấn Sơn Nam, Hải Dương, An Quảng. Phố Hiến là nơi trung chuyển, cửa
ngõ án ngữ hoặc thông thương của mọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển
Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh thành Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông
Hồng, sông Thái Bình. Vị trí này được thể hiện rõ trên Bản đồ dòng chảy Sông Đàng
Ngoài từ Cacho (Hà Nội) ra đến biển do một nhà hàng hải người Anh vẽ vào thế kỷ
XVII.Trong chuyến du hành đến Đàng Ngoài Việt Nam năm 1688, một nhà hàng hải
người Anh tên là William Dampier đã nhắc đến hai cửa sông chính từ biển Đông vào
Đàng Ngoài là cửa Rokbo và cửa Domea.
Cửa Rokbo là cửa sông Đáy, cửa sông lớn nhất kể từ phía Nam, trong các thư
tịch cổ còn mang tên Cửa Đại, Cửa Đại Ác hoặc Cửa Liêu. Tên Rokbo là biến âm của
Độc Bộ, tên đoạn hạ lưu sông Đáy thông ra biển, ngược lên sông Vị Hoàng (thuộc
Nam Định), ăn thông vào sông Hồng. Vào thế kỷ XVII, cửa sông này tương đối nông,
độ nước sâu không quá 12 bộ (khoảng 3,648 m), nhưng đáy là một lớp phù sa mềm,


nên rất tiện lợi cho các thuyền nhỏ. Cho đến khoảng giữa thế kỷ XVII, đó là lối vào
chính của các thuyền mành Trung Quốc và Xiêm La ngược sông lên bỏ neo ở Phố
Hiến. J. B. Tavernier trong Du ký năm 1679 gọi là “Cua Dag” và nhận xét: “Tất cả
những tàu lớn đều phải dừng lại ở cửa này, không thể vào đường sông lớn Kẻ Chợ, vì
nó đã bị bồi đầy cát từ vài năm nay”. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi: “Cửa Liêu là
cửa biển trọng yếu ở Bắc Kỳ, sau vì cát bồi lấp, thuyền ghe không thông”.
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
Cửa sông thứ hai, cửa Domea, nơi các tàu thuyền từ biển Đông, nhất là các tàu
phương Tây có trọng tải lớn thường hay vào, chính là cửa Thái Bình. Trong chuyến du
hành của mình, William Dampier viết: “Các tàu buôn phương Tây thường nhờ hoa tiêu
dẫn theo một luồng nước giữa hai dải cát ngoài cửa sông, tiến ngược qua hạ lưu sông
Thái Bình, tới bỏ neo tại một thị trấn có tên Domea cách cửa sông khoảng chừng từ
20-28 km” (có nhiều khả năng đây là làng An Dụ, xã Khởi Nghĩa, huyện Tiên Lãng,
Hải Phòng). Từ đó, dùng thuyền ngược lên theo sông Luộc tới Phố Hiến. Cửa sông
Domea chính là cửa Sông Đàng Ngoài nổi tiếng trên các bản đồ và trong thư tịch cổ
phương Tây thế kỷ XVII-XVIII với tư cách là tuyến giao thương quan trọng nhất của
người châu Âu tại khu vực miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ này. Sông Đàng Ngoài là
một phức hợp sông, bao gồm sông Hồng chảy từ Hà Nội đến Phố Hiến, sông Luộc và
hạ lưu sông Thái Bình thuộc Hải Phòng ngày nay.
Cùng với các tuyến giao thương đường sông, các tuyến giao thương ven biển đã
nối liền Phố Hiến với các thị trường xa hơn. Từ thời nhà Trần (1226-1400), các thương
nhân người Hoa ở Xích Đằng đã có những mối liên hệ với các cảng Hội Triều (Thanh
Hoá), Càn Hải và Hội Thống (Nghệ An). Thế kỷ XVII-XVIII, các quan hệ thương mại
giữa Phố Hiến và vùng Sơn Nam với các phố cảng miền Trung và Đàng Trong thông
qua các khách buôn nước ngoài càng được tăng cường, như các bến đò Phục Lễ (Nghệ
An), Phù Thạch (Hà Tĩnh) và xa hơn là Thanh Hà (Thuận Hoá), Hội An (Quảng Nam).
Cuối cùng, cùng với các liên hệ giao thông nội địa trong các thế kỷ XVII-XVIII, qua
hai hệ thống sông Đàng Ngoài và sông Đáy, Phố Hiến còn bắt nhịp với các tuyến giao
thương quốc tế ở biển Đông, như Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á, cũng

như với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, Phố Hiến là một thương cảng, một giang
cảng của Đàng Ngoài, là cửa ngõ quan trọng nhất của Thăng Long lúc bấy giờ.
2. Sự ra đời và quá trình phát triển của Phố Hiến
Phố Hiến có một lịch sử khá sớm và lâu dài, nhưng thời kỳ hưng đạt nhất của
nó là vào khoảng nửa sau thế kỷ XVII.
Trong giai đoạn tiền Phố Hiến, ngay từ thế kỷ X, các nhà nghiên cứu đã từng lưu
ý đến vùng Đằng Châu phía bắc thị xã Hưng Yên ngày nay. Vùng này vốn là một lãnh
địa của sứ quân Phạm Phòng Ất (Phạm Bạch Hổ), đến thời Tiền Lê là thực ấp của Lý
Công Uẩn. Thế kỷ XVIII, dưới thời nhà Trần, khi nhà Nguyên diệt Tống, một số kiều
dân Trung Quốc tị nạn đã kéo sang Việt Nam, lập nên làng Hoa Dương (hàm ý những
Hoa kiều tị nạn thờ Dương Quý Phi). Vung này về sau bao gồm các xã Mậu Dương,
Lương Điền và Phương Cái. Cùng lúc đó, một số người Việt từ nhiều địa phương khác
nhau cũng dần dần đến sinh sống tại địa điểm tụ cư này để buôn bán và làm ăn.
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
Có nhiều khả năng là tên gọi Phố Hiến lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ
XV. Khi đó, trong công cuộc cải cách hành chính của mình, vua Lê Thánh Tông
(1460-1497) đã chia nước thành 12 đạo Thừa tuyên. Ở mỗi Thừa tuyên có lập một ty
Hiến sát sứ trông coi việc kiểm sát, giám sát trong đó có việc kiểm soát các thuyền bè
đi lại trên sông. Người dân đã lấy tên Phố Hiến để đặt cho khu phố chợ trước đây mà
nay có thêm lị sở của ty Hiến sát sứ đặt ở đấy.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVII, Phố Hiến mới trở thành một đô thị sầm uất,
nổi tiếng trong cả nước, một trung tâm chính trị - kinh tế có nhiều mối giao lưu quốc
tế. Lúc này, ở Phố Hiến có lị sở của trấn thủ sứ Sơn Nam, ty Hiến sát sứ Sơn Nam, các
trạm tuần ty kiểm soát thuyền bè trong ngoài nước, một đoạn sông tấp nập các thuyền
bè đi lại và đỗ bến, những chợ phố đông đúc, các thợ thủ công và thương nhân người
Việt, người Hoa, Nhật Bản và phương Tây. Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử
quán triều Nguyễn có chép: “Cung cũ Hiến Nam ở địa phận xã Nhân Dục, huyện Kim
Động là lị sở trấn Sơn Nam đời Lê, phàm người nước ngoài đến buôn bán thì tụ tập ở

đây, gọi là Vạn Lai Triều, phong vật phồn thịnh, nhà ngói như bát úp”.
Địa điểm Hiến ty Sơn Nam chủ yếu đặt ở địa phận thị xã Hưng Yên ngày nay.
Cùng với Hiến ty, các triều đình phong kiến có đặt ra những trạm tuần ty, kiểm soát
thuyền bè, có thể ở cả hai bên bờ sông. Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú thì trạm Lãnh Trì ở sát Phố Hiến về phía bắc thuộc huyện Kim Động (tả
ngạn sông Hồng). Trên bản đồ dòng chảy Sông Đàng Ngoài từ Hà Nội ra đến biển do
một nhà hàng hải Anh vẽ vào thế kỷ XVII, ngoài địa điểm Phố Hiến ở bên tả ngạn được
ghi là “Thành phố ở đó người Anh có một thương điếm”, thì cũng đánh dấu một địa
điểm tụ cư hoặc một lị sở đáng chú ý ở phía đối diện ở bên kia (hữu ngạn) sông Hồng.
3. Đặc điểm diện mạo Phố Hiến thế kỷ XVII - XVIII
Ngoài sự tồn tại của một lị sở trấn thủ Sơn Nam như một hạt nhân chính trị,
một ty Hiến sát sứ Sơn Nam đóng vai trò một trạm hải quan tiền cảng, Phố Hiến trong
lịch sử chủ yếu mang diện mạo của một đô thị kinh tế. Kết cấu của nó bao gồm một
bến cảng sông; một tập hợp chợ; khu phường phố; và hai thương điếm phương Tây
(Hà Lan và Anh).
3.1. Giang cảng Phố Hiến
Mạch máu giao thương của Phố Hiến là sông Xích Đằng - đoạn sông Nhị Hà
chảy sát Phố Hiến. Đoạn sông này sau bị cát bồi lấp, đến nay đã ở cách thị xã Hưng
Yên khoảng 2 km. Sự thuận tiện của Phố Hiến là ở chỗ đây là nơi trung chuyển và là
điểm tụ hội của những đoạn đường sông từ biển Đông vào tới Kinh thành Thăng Long
như tuyến Sông Đàng Ngoài, nhiều tuyến sông khác.
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
Bến cảng Phố Hiến là nơi các tàu thuyền ngoại quốc lưu đỗ để làm thủ tục kiểm
soát và xin giấy phép đi tiếp tới k inh đô. Các thuyền mành Trung Quốc, Xiêm La và
châu Á khác thường đi thẳng từ biển Đông qua các cửa sông tới Phố Hiến rồi ngược
lên Thăng Long. Các tàu buôn phương Tây có trọng tải nặng hơn thường bỏ neo tại
một địa điểm cách biển không xa được gọi là Domea (Đò Mè) rồi dùng thuyền nhỏ và
vừa chuyển lên Phố Hiến. Tuy nhiên, cũng có khi các tàu phương Tây lên tận Phố
Hiến, thậm chí Thăng Long - Kẻ Chợ. Năm 1637, khi thương nhân Hà Lan Karel

Hartsinck tới Phố Hiến đã gặp nhiều tàu thuyền Bồ Đào Nha đi lại trên sông, chở đầy
tơ sống. Năm 1644, người Hà Lan, đã cho tàu của mình lên tận Kẻ Chợ. Hay năm
1672, tàu Zant của Công ty Đông Ấn Anh đã đi suốt dọc Sông Đàng Ngoài. Nhật ký
của Công ty Đông Ấn Anh cũng đã ghi lại, trong hơn 10 năm (1672-1683), đã có
khoảng 30 chuyến tàu phương Tây cập bến tại Phố Hiến, gồm cả tàu Bồ Đào Nha, Hà
Lan và Anh. Ở phía bắc Phố Hiến, bến Xích Đằng là một bến đò quan trọng, nhất là
đối với việc buôn bán nội địa. Theo Đại Nam nhất thống chí, bến Xích Đằng có 4 bến
đò: Kệ Châu, Quan Xuyên, Nhân Dục và Phương Trà. Bên kia sông lại có trạm tuần ty
Lãnh Trì là một trạm tuần lớn. Đền thờ bà hàng nước ở Xích Đằng kể rằng chỉ nhờ vào
việc bán nước cho các khách thương của các thuyền bè qua lại mà bà giàu tới ức vạn.
Ở phía nam có bến Nễ Châu, còn gọi là Bến Mới, có thể là nơi các tàu thuyền phương
Tây thường đỗ đậu. Địa danh truyền lại “Bến Đá”, “Dốc Đá” có thể gợi đến những kè
đá táp vào bờ sông cho những tàu thuyền lớn bỏ neo. Ở đấy người ta còn tìm thấy một
bệ cột cờ bằng đá, có thể đó là di vật của các thương điếm phương Tây ngày trước.
Những người Việt và khách thương Trung Hoa thời đó gọi chung Phố Hiến là “Vạn
Lai Triều”, có nghĩa “bến nước mà từ đó các tàu thuyền sau khi được phép sẽ đi vào
triều đình (ở Thăng Long)”. Điều đó nói lên vai trò quan trọng có tính quyết định của
bến cảng ở Phố Hiến, tính chất thương cảng đối với toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội
của Phố Hiến.
3.2. Chợ
Cùng với bến cảng sông là một các khu chợ khá sầm uất. Chợ Vạn ở bến Xích
Đằng là một chợ sầm uất nổi tiếng trong dân gian. Chợ Hiến (tức chợ Nhân Dục) bên
cạnh lị sở Sơn Nam là chợ chính, theo Đại Nam nhất thống chí, đây là “chợ lớn nhất
trong tỉnh hạt”. Phía dưới lại có chợ Bảo Châu, bên cạnh bến Nễ Châu. Những chợ này
đã vượt khỏi khuôn khổ những chợ địa phương để chở thành các chợ liên vùng.
Thuyền bè từ Thăng Long - Kẻ Chợ và các trấn gần xa trong nước cũng như nước
ngoài đã đến đây buôn bán, trao đổi hàng hoá. Một số các thương nhân đã trở nên giàu
có từ việc buôn bán trong các chợ này.
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử

3.3. Khu phường phố
Khu phường phố là khu định cư của người Việt và các kiều dân ngoại quốc
(chủ yếu là người Hoa) sản xuất và buôn bán với tính chất cố định ở Phố Hiến. Dựa
theo các văn bia ở chùa Hiến (1709) và chùa Chuông (1711), Phố Hiến thời đó có
khoảng 20 phường, gồm: 9 phường có tên chỉ địa vực: Cựu đê thị (phường đê cũ);
Ngoại đê thị (phường ngoài đê); Thuỷ đê nội thị (phường trong đê sông); Hà khẩu thị
(phường cửa sông); Hậu bi thị (phường Sau bia); Thuỷ giang nội thị (phường trong
kênh sông); Thuỷ giang ngoại thị (phường ngoài kênh sông); Vạn mới thị (phường bến
mới); Cửa cái phường; 7 phường sản xuất hàng thủ công nghiệp: Hàng Sũ phường
(phường Đồ gỗ); Thổ Oa phường (phường Nhuộm vải); Hàng Chén thị (phường Bát
Chén); Thuộc bì thị (phường Thuộc da); Hoa lạp thị (phường Nón hoa); Hàng Sơn
phường (phường Hồ sơn thếp); 4 phường buôn bán nông thuỷ sản; Hàng Nhục phường
(phường Hàng thịt); Hàng Cá phường (phường Hàng cá); Mộc lang phường (phường
Bán rau); Hàng Bè phường (phường Bán tre nứa).
Qua các bi ký, có thể đọc được 13 phố và 32 tên cửa hiệu buôn bán như các Tân
Thị, Tân Khai, Tiên Miếu, Hậu Trường… Nổi tiếng và nhộn nhịp nhất là các phố do
các thương gia Hoa kiều cư trú và buôn bán. Theo Đại Nam nhất thống chí, “hai phố
Bắc Hoà thượng và Bắc Hoà hạ đời Lê có dinh Hiến Nam, nhà ngói như bát úp, là nơi
người Trung Quốc tụ hội buôn bán”. Phố Nam Hoà đối diện với Phố Bắc Hoà, cũng do
người Trung Quốc ở. Năm 1688, du khách Trung Quốc Phan Đỉnh Khuê đến Phố Hiến
đã mô tả như sau: “Người ta thấy ở đây những phố buôn bán, con số có đến hàng mấy
chục, được gọi là Thiên triều nhai hay phố người Trung Quốc. Thực vậy, người Trung
Hoa ở đây đã được người ta tôn kính gọi là Thiên triều. Và các Hoa kiều cũng vậy,
được gọi là người của Thiên Triều. Đấy là một thông lệ truyền thống”.
Diện mạo của Phố Hiến trong cùng năm đó cũng được nhà hàng hải Anh
William Dampier mô tả như sau: “Đó là một thành phố khá lớn, có độ 2000 nóc nhà
nhưng dân cư phần lớn là những người nghèo và lính tráng, họ đóng giữ một đồn binh
ở đấy, dù rằng không hề có tường luỹ, thành quách hoặc súng lớn gì cả. Đây là một
đường phố thuộc các thương nhân Trung Quốc. Vài năm trước đây, đại bộ phận trong
số họ đã sinh sống ở Kẻ Chợ, cho đến khi họ phát triển thành đông đúc quá, đến nỗi

bản thân những người bản xứ cũng bị họ lấn át. Nhà vua nhận thấy điều đó, bèn ra
lệnh cho phải rời khỏi nơi đây, cho phép họ có thể sống ở bất kỳ nơi nào khác nhưng
không phải ở Kinh thành. Một số lớn họ đã ở lại đây suốt từ khi đó. Những thương
nhân này, mặc dù đã có lệnh cấm, vẫn thường xuyên lên Kẻ Chợ mua bán hàng hoá,
nhưng không được phép thường trú ở đó”.
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
3.4. Các thương điếm phương Tây
Trong thế kỷ XVII, có hai thương điếm phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến:
thương điếm Hà Lan (1637-1700) và thương điếm Anh (1672-1683). Đây là văn phòng
đại diện kiêm nhà kho của các Công ty Đông Ấn của Hà Lan và Anh. Công ty Ấn Độ của
Pháp cũng được phép thành lập một thương điếm ở Phố Hiến vào năm 1680, nhưng trên
thực tế đã không có hoạt động gì đáng kể. Đây là một quần thể kiến trúc được xây bằng
gạch, nằm ở phía dưới Phố Hiến, quãng gần thôn Nễ Châu và Vạn Mới.
Từ thế kỷ XVIII, quần thể kiến trúc này đã bị huỷ hoại trở thành đồng ruộng.
Đến cuối thế kỷ XIX, tác giả người Pháp G. Dumoutier đã miêu tả: "Nằm ở phía sau
các vườn tược, ở giữa đường phố lớn của Phố Hiến và con đê, các thương điếm này
bao gồm nhiều địa khu hình tứ giác, đất nền đã được nâng cao lên, lấy từ con hào được
đào bao bọc xung quanh. Đường hào này hình chữ nhật rộng và sâu, thường khô về
mùa đông, và cung cấp nước cho việc trồng lúa về mùa mưa. Vào thời kỳ có các
thương điếm nước ngoài, dòng sông mà ngày nay đã ở cách xa 2 km, còn chảy sát gần
chân đê và mặt bằng đê ở trước các ngôi chùa đã được dùng làm bến đậu dỡ hàng cho
thương cảng".
Thế kỷ XVII, các thương nhân Hà Lan và Anh đã cho đào một con kênh từ
sông Hồng vào tới các thương điếm cho thuyền bè thuận tiện đi lại, hai bên bờ có đắp
đê con. Con kênh này cũng nối các thương điếm phương Tây với một đầu là cảng sông
và một đầu bên kia là khu phố châu Á (tức Phố Khách), hơn nữa còn có thể là một
phương tiện cung cấp nước sinh hoạt cho khu thương điếm.
3.5. Các công trình kiến trúc văn hoá
Phố Hiến là đô thị của các thương gia người Việt và ngoại quốc, vì vậy nó

mang những nhu cầu tâm linh văn hoá của nhiều cộng đồng người khác nhau, thể hiện
qua những công trình kiến trúc. Có thể nói, đã có một thời kỳ trong lịch sử mà Phố
Hiến đã là một đô thị đa văn hoá và mang dáng dấp quốc tế.
Nổi bật là các phong cách kiến trúc Việt Nam và phong cách kiến trúc Trung
Hoa (với sắc thái vùng Phúc Kiến, phía Nam Trung Quốc), thấp thoáng có phong cách
kiến trúc châu Âu (nhà thờ Gôtích Phố Hiến). Nhiều khi, các phong cách kiến trúc đó
pha trộn lẫn nhau. Tại Phố Hiến tổng cộng có tới 60 di tích lịch sử văn hoá. Những
kiến trúc tôn giáo của người Việt ở Phố Hiến gồm nhiều loại hình như đền, chùa, đình,
miếu Có thể kể đến những công trình nổi tiếng như đền Mây ở Xích Đằng (thờ tướng
quân Phạm Phòng Ất), đền Ngọc Thanh ở Nễ Châu (thờ vợ thứ của vua Lê Hoàn), đền
Trần (thờ Trần Hưng Đạo), đền Ủng (thờ Phạm Ngũ Lão) Các chùa lớn ở Phố Hiến
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
có chùa Chuông, chùa Hiến (Thiên Ứng tự), chùa Nễ Châu. Ngoài ra còn có nhiều
đình, văn miếu. Người Hoa sinh sống ở Phố Hiến đã để lại nhiều công trình kiến trúc
tôn giáo như đền Mẫu (thờ Dương Quý Phi), đền Thiên Hậu (thờ Lâm Tức Mặc), Võ
Miếu (thờ ba anh em Lưu Bị, Quan Vân Trường và Trương Phi)….
Nhà thờ Kitô giáo ở Phố Hiến là một nhà thờ cổ, xây dựng từ thế kỷ XVII theo
kiểu Gôtích, chưa rõ lai lịch, tương truyền là do các giáo sĩ Bồ Đào Nha và Tây Ban
Nha xây. Mặt khác, du ký của William Dampier lại nói đến hai vị giám mục người
Pháp ở Phố Hiến lúc đó là Deydier và J.de.Bourges. Hai giám mục này đã cho xây
"một ngôi nhà đẹp nhất thành phố. Đó là một toà dinh thự thấp, mỹ lệ ở đầu phía bắc
thành phố, cạnh bờ sông. Nó có một vòng tường bao khá cao, có một cổng lớn trông ra
mặt phố, từ hai bên người ta có thể nhìn thấy nhà cửa trại đến tận toà dinh".
Cũng như ở các đô thị Việt Nam khác, bên cạnh những kiến trúc bằng gạch
ngói, đại bộ phận nhà ở của dân đều bằng gỗ tre nứa, lại ở sát nhau. Nhiều vụ hoả hoạn
đã xảy ra. Tài liệu của Công ty Đông Ấn của Anh cho biết: năm 1673, hàng trăm nóc
nhà Phố Hiến đã bị cháy. Lưu trữ của Hội truyền giáo đối ngoại ghi lại vụ cháy ở Phố
Hiến tháng 7 năm 1867, "đã thiêu huỷ một nửa thành phố".
4. Đặc điểm cư dân

Phố Hiến thế kỷ XVII-XVIII Trong lịch sử, Phố Hiến là một thành phố đa quốc
tịch, trong đó thành phần chủ thể là người Việt và người Hoa. Những kiều dân ngoại
quốc khác ở đây là Nhật, Xiêm La, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp….
4.1. Người Việt
Số cư dân người Việt có quê gốc lâu đời ngay tại Phố Hiến là tương đối ít. Phần
lớn dân cự ngụ ở Phố Hiến là từ các địa phương khác đổ về sinh sống làm ăn, đó là
một cộng đồng cư dân tứ xứ. Theo tấm bia Chùa Hiến dựng năm 1709, đã có tới hơn
50 địa phương rải rác khắp miền Bắc đã có người di cư tới Phố Hiến làm ăn, như các
huyện Chương Đức (Hà Tây ngày nay), Đường Hào (Hưng Yên), Thuỷ Nguyên (Hải
Phòng), Nông Cống, Hoằng Hoá (Thanh Hoá), Bố Chính (Quảng Bình), Thanh Trì, Từ
Liêm (Hà Nội).
Bộ máy hành chính có các cơ quan của Trấn Sơn Nam như Thừa ty, Trấn ty,
Hiến ty. Ở Phố Hiến cũng có đồn binh với nhiều quân sĩ đồn trú, nhưng không hề có
thành luỹ bao bọc xung quanh. Các nhà nghiên cứu thường gọi Phố Hiến là “một đô
thị bỏ ngỏ”. Quan chức trị nhậm Phố Hiến vào thời kỳ thịnh đạt nhất của đô thị này
(trong nửa cuối thế kỷ XVII) là Lê Đình Kiên (1620-1704). Ông quê làng Thiết Danh,
Thiệu Yên, Thanh Hoá, giữ chức Trấn thủ Sơn Nam trong suốt 41 năm (1664-1704.
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
Viên trấn thủ Sơn Nam kế nhiệm Lê Đình Kiên vào năm 1704 đóng lị sở ở Phố Hiến
là Đặng Đình Tướng, người quê làng Lương, huyện Chương Đức (Hà Tây), có họ
hàng thuộc đàng ngoại với chúa Trịnh. Bia chùa Thiên ứng cho biết Đặng Đình Tướng
và bà vợ là Bùi Thị Khang, hai vợ chồng đều rất sùng Phật, đã cúng tiền bạc cho nhà
sư Châu Thuận và ni cô Diệu My xây dựng lại đền Linh Hiên ở làng Hoa
Dương.Ngoài hai trấn thủ còn có hai chức quan là Hiến sát và Phó Hiến sát sứ ty Sơn
Nam.
4.2. Hoa kiều và Nhật kiều
Bên cạnh cộng đồng người Việt, đông đảo người Hoa đã đến cư trú sinh nhai tại
Phố Hiến. Trước đây Phố Hiến còn được gọi là Phố Khách, điều đó nói lên tính trội
của yếu tố Hoa trong đô thị này. Người Hoa đến cư trú tại Phố Hiến từ nhiều địa

phương khác nhau trong đó có hai nguồn chính. Thứ nhất là những người Hoa vượt
biển từ Trung Quốc sang Việt Nam. Một số là những Hoa kiều di tản tị nạn - những
người trung thành với nhà Tống và sau là nhà Minh, một số là những chủ tàu thương
nhân buôn bán đường dài xuyên đại dương. Đại bộ phận những người Hoa này có quê
gốc ở các tỉnh miền Nam Trung Hoa, đặc biệt ở các huyện phủ thuộc tỉnh Phúc Kiến
(như Tân Giang, Triều Châu…). Nguồn thứ hai là những Hoa Kiều từ Trung Hoa từ
lâu đời đã di cư bằng đường bộ sang Việt Nam, sau đó lại tiếp tục di chuyển đến Phố
Hiến. Trong đó có các Hoa Kiều từ Vạn Ninh (Móng Cái) và Vân Đồn, đặc biệt là từ
Thăng Long - Kẻ Chợ đã đổ dồn về Phố Hiến.
Địa điểm tụ cư đầu tiên của người Hoa ở Phố Hiến là Hoa Dương, sau gộp thêm
các xã Hoa Điền (Lương Điền), Hoa Cái (Phương Cái) hợp thành Tam Hoa. Các cửa
hiệu của Hoa Kiều được tập trung ở Phố Khách, phố Bắc Hoà, Nam Hoà; nhiều nhà
xây gạch ngói. Họ xây dựng nhiều đình, đền, chùa, miếu, quảng hội thờ các vị nhân
thần người Trung Quốc như Quan Vân Trường, Dương Qúy Phi, Lâm Tức Mặc.
Tuyệt đại bộ phận người Hoa ở Phố Hiến làm nghề buôn bán. Một số có cửa
hiệu ở các phố Bắc Hoà, Nam Hoà, bán các mặt hàng nhập từ Trung Quốc như vải
vóc, đồ sứ, tạp hoá và thuốc bắc. Đại Nam nhất thống chí ghi, ở hai phố đó có làm và
bán bông, vải, mật, đường cát. Một số phú thương Hoa Kiều buôn bán đường dài vượt
biển, buôn bán Phố Hiến với vùng Hoa Nam, các đảo Hải Nam, Đài Loan. Đặc biệt, từ
khi Nhật Bản có lệnh toả quốc (sakoku) vào năm 1636 cấm người Nhật xuất dương,
thì các phú thương Hoa Kiều đã thay chân người Nhật độc quyền buôn bán tuyến Nhật
Bản (Hirado, Nagasaki) - Phố Hiến, hoặc trực tiếp, hoặc chở thuê hàng hoá cho người
phương Tây, nhất là người Hà Lan. Một số Hoa Kiều khác cũng chở các thuyền hàng
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
buôn bán giữa Phố Hiến và các nước Đông Nam Á phía nam, trong đó có thành phố
Batavia ở Inđônêxia. Nhật kí lưu trữ của Công ty Đông ấn Anh có ghi lại trong khoảng
8 năm (từ 1672 đến 1680) các thuyền buôn Trung Hoa đã có 16 lần qua lại giữa Phố
Hiến và Nhật Bản, 6 lần qua lại giữa Phố Hiến và Nam Dương. Các mặt hàng buôn
bán thường là: các loại tơ (xuất sang Nhật Bản); bạc, đồng (nhập từ Nhật); hồ tiêu,

đường, lưu huỳnh, diêm tiêu (nhập từ phía nam); tơ lụa, đồ gốm, đồ sơn (xuất đi
Batavia)….
Sang thế kỷ XVIII và XIX, trong khi việc buôn bán giữa phương Tây và Phố
Hiến sa sút thì các Hoa thương vẫn trụ lại ở đô thị này, gần như nắm giữ độc quyền
các hoạt động ngoại thương. Lúc này cũng có hiện tượng một số Hoa thương ở Phố
Hiến di cư ngược trở lại Thăng Long - Hà Nội. Hiện nay, vẫn có tới 14 họ thuộc các
Hoa Kiều sinh sống ở Phố Hiến - Hưng Yên như các họ Ôn, Tiết, Hoàng, Lý, Trần,
Bạch, Quách, Mã, Thái, Hà, Hứa, Từ, Lâm, Khu.
Người Nhật cũng đã đến Phố Hiến từ rất sớm vào khoảng đầu thế kỷ XVII. Họ
thường mang bạc, đồng đến mua đổi lấy các loại tơ hoặc vải lụa. Một số khác là các
giáo sĩ và giáo dân Nhật Bản, có tên đạo theo chữ La Tinh, đã đi theo và phục vụ các
giáo sĩ phương Tây tới Đàng Ngoài giảng đạo. Sau lệnh toả quốc của Mạc phủ
Tokugawa, các kiều dân Nhật này không dám trở về tổ quốc mình vì sợ bị kết tội tử
hình, đã nương náu ở lại Đàng Ngoài, trong đó có Phố Hiến.
Vì đã sinh sống lâu năm ở Việt Nam, những người Nhật này thường làm một số
nghề như hoa tiêu dẫn tàu vào cửa sông, phiên dịch, môi giới…. Người môi giới Nhật
Bản và một người phiên dịch Nhật Bản “rất giỏi tiếng Đàng Ngoài và tiếng Bồ Đào
Nha”. Theo nhật kí tàu Grol, người ta có thấy ở Đàng Ngoài cả một làng kiều dân Nhật
làm đồ gốm theo kiểu gốm Nhật Hizen và một đoàn vũ nữ Nhật Bản. Tại Phố Hiến
trước đây có một khu đất được gọi là Nghĩa trang Nhật Bản, chứng tỏ sự có mặt của
một cộng đồng người Nhật tại đó, nhưng nay đã bị huỷ hoại, trở thành hoang phế.
Ở Phố Hiến, ngoài người Trung Quốc và Nhật Bản còn có các thương nhân
châu Á khác đến buôn bán như Xiêm La, Mã Lai, Lữ Tống (Philíppin), nhưng không
rõ họ có lưu trú lại không.
4.3. Các khách thương phương Tây
Ngoài hai thành phần chính là người Hà Lan và người Anh đã từng lập thương
điếm ở Phố Hiến, còn một số người Bồ Đào Nha và Pháp.
Người Bồ Đào Nha là người phương Tây đến Đàng Ngoài nói chung và Phố
Hiến nói riêng sớm nhất. Ngay từ 1626, giáo sĩ Baldinotti đã từ Macao qua Phố Hiến
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch

sử
tới Kẻ Chợ. Sau đó nhiều thuyền buôn Bồ Đào Nha đã đến Đàng Ngoài, qua lại trên
sông từ Phố Hiến đến Kẻ Chợ. Đó là những thương nhân độc lập, không lập công ty,
không đặt thương điếm. Nhật kí hành trình tàu Grol đã ghi lại, vào năm 1636, ba
thuyền buôn Bồ Đào Nha đã đến Đàng Ngoài, ngược Phố Hiến lên Kẻ Chợ mua tơ
sống, đổi lại bán các loại vải dạ nhung, làm giá tơ tăng vọt lên. Những năm về sau, do
sự cạnh tranh của Hà Lan và do chúa Trịnh nghi ngờ người Bồ đã ủng hộ giúp đỡ chúa
Nguyễn chống lại Đàng Ngoài, việc buôn bán của người Bồ ở Phố Hiến có giảm sút.
Tuy nhiên, một số người Bồ Đào Nha vẫn ở lại sinh sống ở Phố Hiến.
Tuy đến sau so với những người phương Tây khác, đã có không ít những người
Pháp sống ở Phố Hiến vào những năm 80 của thế kỷ XVII. Thương điếm của Công ty
Đông Ấn của Pháp thành lập ở Phố Hiến năm 1680. Nhưng hoạt động của nó không
đều và không sinh lợi như Công ty Đông ấn Hà Lan và Anh. Người Pháp xoay ra hoạt
động truyền giáo, nói đúng hơn là kết hợp việc buôn bán với việc truyền giáo. Gyfford
phụ trách thương điếm Anh ở Phố Hiến năm 1672 cho biết rằng: “người Pháp có một
ngôi nhà ở đây, nhưng chúng tôi không thể phân biệt được rằng nó dùng cho những
mục đích tôn giáo hay vì phương tiện kinh tế”. Các giáo sĩ Pháp ở Phố Hiến khi muốn
lên kinh đô Thăng Long đều phải xin và được cấp phép, và họ thường tìm cách nấn ná
ở lại đó một thời gian…”. Mặt khác, năm 1680, thương nhân người Pháp Chappelain
đi trên con tàu Tonquin đã đến Phố Hiến và theo lời khuyên của giám mục Deydier,
mang nhiều đồ hiếm đẹp mà làm quà dâng tặng vua chúa và các quan, bán hàng rẻ hơn
người Anh để được phép mở thương điếm. Nhưng sau do hoạt động không kết quả,
Chappelain đã bỏ đi Bantam (Inđônêxia).
5. Các hoạt động kinh tế của Phố Hiến thế kỷ XVII - XVIII
5.1. Buôn bán nội địa
Trong quá trình thành lập và phát triển, Phố Hiến từ khi còn là nơi tụ cư, một
thị trấn sau đó phát triển thành một đô thị lớn vào thế kỷ XVII đã luôn mang tính nổi
trội đậm sắc thái kinh tế. Lúc đầu là các hoạt động buôn bán quá mạng lưới chợ và các
hoạt động dịch vụ. Sau đó, thương nghiệp ngày càng phát triển và trở thành hoạt động
kinh tế mũi nhọn chủ yếu, đặc biệt là ngoại thương. Điều kiện tự nhiên thuận lợi của

Phố Hiến là một bến sông, đầu mối của các tuyến giao thông vùng. Trên cơ sở đó, các
yếu tố kinh tế - xã hội mang tính kích thích là một cụm chợ, một số phường thủ công
(với 20 phường, chủ yếu phục vụ tại chỗ đời sống của cộng đồng cư dân địa phương).
Điểm tụ cư ban đầu của số người Hoa tị nạn (làng Hoa Dương) cũng là một hạt nhân
kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ trong những thời kỳ sau. Bước chuyển về chất trong đời
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
sống kinh tế của Phố Hiến là khi có sự tác động của một nhân tố chính trị (sự thành lập
Hiến sát sứ ty Sơn Nam) vào cái nền tảng kinh tế đó và hệ quả là sự chuyển dịch trọng
tâm từ những yếu tố nội sinh (thủ công thương nghiệp địa phương) sang những yếu tố
ngoại sinh (buôn bán với nước ngoài). Khi ngoại thương đã chiếm vị trí trọng yếu, thì
đồng thời nó cũng đã kích thích cả thủ công nghiệp và thương nghiệp nội địa.
5.2. Buôn bán với nước ngoài
Ngoài các hoạt động buôn bán của các thương nhân người Hoa, Nhật, Bồ, Pháp
đã được phần nào đề cập ở trên, đặc biệt đáng chú ý là các hoạt động kinh tế của các
thương nhân Hà Lan và Anh, những công ty Đông Ấn đã đặt ở Phố Hiến những
thương điếm của mình và làm ăn buôn bán tương đối có hiệu quả.
Các lái buôn Hà Lan là những người phương Tây đặt thương điếm sớm nhất ở
Phố Hiến. Ngay sau chuyến đi của Karel Hartsinck trên chiếc tàu Grol từ Hirado (Nhật
Bản) đến Đàng Ngoài năm 1637, thương điếm ở Phố Hiến đã được mở. Ý đồ của họ là
lợi dụng lệnh cấm xuất dương (toả quốc) của Nhật Bản, người Hà Lan sẽ thay thế
người Nhật trong việc buôn bán với Đàng Ngoài. Về phía Việt Nam, chính quyền chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài cũng có ý ưu tiên người Hà Lan, mong muốn một sự viện trợ
quân sự của Hà Lan cho Đàng Ngoài trong cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Công
việc buôn bán của Công ty Đông Ấn Hà Lan với Đàng Ngoài cũng khá phát đạt. Liên
tiếp các năm sau đó đều có các tàu buôn của Hà Lan đến Phố Hiến và Kẻ Chợ để mua
hàng hoá, chủ yếu là tơ.
Năm 1638, Karel Hartsinck lại đến Phố Hiến, mang theo tiền mặt và hàng hoá.
Cùng năm đó, đến Phố Hiến cũng có tàu của người Hà Lan. Năm 1639, N.
Couckebaber đi trên tàu Rijp và đến Phố Hiến, mang theo tiền, mua được 685 tạ tơ.

Năm 1640, K. Hartsinck trên tàu Lis và Egel, mang tiền mua tơ sống và các hàng lụa,
lĩnh. Năm 1641, K. Hartsinck lại đến Phố Hiến trên chiếc tàu Klein Rotterdam và
Meerman, mang theo tiền mua được 50 kiện tơ và 500 tấm lụa. Năm 1642, Anthonio
van Brouckhorst đến Phố Hiến trên chiếc tàu Zeeuwsche Nachtegqal mag theo hai vạn
lạng bạc. Cùng năm đó, Liesvelt đến Phố Hiến trên chiếc Meerman mua được 250 tạ
tơ sống và 41 tạ quế. Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến tồn tại được 64 năm.
Những thập kỷ đầu, công việc buôn bán của thương điếm Hà lan ở Phố Hiến diễn
ra khá suôn sẻ và được nhà nước Lê - Trịnh chiếu cố ưu tiên so với những người ngoại
quốc khác. Những người Hà Lan ở Đàng Ngoài cũng như ở những nơi khác “chịu biết
uốn mình theo hoàn cảnh”. Họ thường đi lại tặng các món quà cho vua Lê chúa Trịnh và
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
các quan phụ trách khám tàu, thu thuế. Mặt khác các chúa Trịnh cũng muốn tranh thủ sự
ủng hộ và viện trợ vũ khí của Hà Lan trong cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn.
Tuy nhiên, trong thời gian sau, thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến đã làm ăn kém
phát đạt, dần sa sút. Sau khi cuộc chiến Trịnh - Nguyễn chấm dứt (1672), chúa Trịnh
dần tỏ thái độ lạnh nhạt với Hà Lan. Tình hình buôn bán trở nên khó khăn hơn, lại
thêm sự cạnh tranh của các lái buôn phương Tây khác, đặc biệt là người Anh. Những
vụ rắc rối và chạm giữa lái buôn Hà Lan với các quan chức địa phương và nhà nước
Lê - Trịnh ngày càng nhiều. Lái buôn Hà Lan than phiền về chính sách gây phiền hà,
mua rẻ bán đắt của chính quyền Lê - Trịnh, cũng như thái độ sách nhiễu, tham nhũng ăn
hối lộ của các quan tuần hà kiểm soát tàu thuyền. Ngược lại, chính quyền Lê - Trịnh
trách cứ người Hà Lan là không biết điều, tuy đã được chiếu cố ưu tiên mà vẫn không
chịu tuân theo các luật lệ của Đàng Ngoài. Theo đó, các tàu buôn Hà Lan thường khai
man để trốn lậu thuế, thường là chỉ khai man một nửa số hàng hoá có thực, gây thiệt hại
cho triều đình. Sau khi cân nhắc, năm 1700 giám đốc thương điếm J.Van-Lô đã quyết
định đóng cửa vĩnh viễn thương điếm Đàng Ngoài, rút nhân viên, thiết bị về Batavia,
không gặp lại nhà vua. Chúa Trịnh cũng tỏ thái độ lạnh nhạt, không tiễn đưa, nhưng có
gửi thư cho toàn quyền Batavia, theo đó, “nhà vua không thể không chống lại việc toàn
quyền đã rút về các nhân viên công ty của mình, ngừng buôn bán với Đàng Ngoài, tuy

nhiên nhà vua vẫn hy vọng rằng sau này Batavia sẽ thay đổi ý kiến”.
Người Anh đến Phố Hiến muộn hơn người Hà Lan. Sau những thất bại trong
công việc buôn bán với Đàng Trong, Gyfford tới Phố Hiến ngày 13/7/1672 và được
các quan chức địa phương cho phép thành lập ở đó một thương điếm cùng với thương
điếm Hà Lan đã có trước đó. Tuy nhiên vì lúc đó vua Lê Gia Tông và chúa Trịnh Tạc
đang bận đi đánh chúa Nguyễn, nên phải đợi đến năm sau (1643), khi quay lại,
Gyfford mới được chúa Trịnh cho tiếp kiến. Ngay từ đầu, Gyfford đã được thông báo
rằng chỉ được phép ở lại Phố Hiến và rằng “đừng có nghĩ đến việc thành lập thương
điếm ở Kẻ Chợ, vì những người ngoại quốc đều không được lưu trú tại Kinh đô, trừ
người Hà Lan”. Cho đến tháng mãi tháng 8/1679, người Anh mới được cấp cho một
miếng đất gần thương điếm Hà Lan ở Kẻ Chợ và được xây dựng thương điếm của
mình ở đó. Nhưng người Anh vẫn còn ở lại Phố Hiến cho đến năm 1683, trước khi rời
hẳn lên Kẻ Chợ.
Trong những năm đầu, thương điếm Anh ở Phố Hiến làm ăn tương đối phát đạt,
cạnh tranh với các đối thủ của mình như các thương nhân Hà Lan, Trung Quốc, một
phần nhờ tài tháo vát, ứng xử khôn khéo của W. Gyfford. Ngoài tàu Zant, một số các
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
tàu buôn Anh xuất phát từ Bantam thường qua lại buôn bán ở Phố Hiến. Các mặt hàng
nhập của Công ty Đông Ấn Anh vào Đàng Ngoài qua cửa khẩu Phố Hiến thường là
lưu huỳnh, diêm tiêu (nguyên liệu tạo thuốc súng), vũ khí, hợp kim kẽm-đồng-sắt dùng
để đúc tiền, các loại dạ và vải khổ rộng Anh, những đồ kỹ xảo ngoại quốc dành cho
vua chúa. Mặt hàng người Anh ở Phố Hiến đặt mua để xuất khẩu nhiều nhất và chủ
yếu là các loại tơ lụa, nhung, dưới dạng tơ sống, tơ đã chuốt, đã dệt thành tấm, trợ
hoặc dệt hoa với rất nhiều loại hạng khác nhau. Trong đó loại được ưa chuộng nhất và
cũng giá đắt nhất là các loại lĩnh. Thường thường, thương điếm Anh giao mẫu đặt
hàng gia công cho các thợ dệt Đàng Ngoài, một số lớn tập trung ở các Xứ Bắc (tức
Kinh Bắc) và Xứ Tây (Sơn Tây), đem về giao hàng tại thương điếm Phố Hiến. Sau tơ
lụa, một mặt hàng Đàng Ngoài mà thương điếm Anh ở Phố Hiến ưa chuộng, tìm mua
để xuất cảng là đồ sơn, nhất là trong những năm 1680. Năm 1682, Luân Đôn đặt mua

hàng đồ sơn đủ mọi loại, nhất là các mẫu mã mới lạ và quí hiếm. Sản phẩm có thể là
những đồ sơn được chế tạo ở Đàng Ngoài mà cũng có thể là những đồ gỗ được chế tạo
tại các công trường thủ công nước Anh rồi mang sang Đàng Ngoài gia công sơn thếp,
bao gồm các loại bàn ghế, hòm rương, hộp, khay, khung gương, ngăn kéo, mành
che… sơn màu đen hoặc có trang trí hoa lá, chim muông. Ngoài ra thương điếm Anh
còn đặt mua một số vật liệu sản phẩm khác như đồ gốm sứ, hương liệu, xạ hương, lâm
thổ sản…. Phương thức mua bán ngoài việc trả tiền mặt còn có trao đổi hàng hoá như
diêm tiêu, lưu huỳnh đổi lấy tơ lụa, lĩnh. Trong công việc giao dịch buôn bán, thương
điếm Anh ở Phố Hiến cũng đã gặp phải một số khó khăn, trục trặc. Người Anh than
phiền nhiều về thái độ sách nhiễu của một số viên quan tàu vụ, những việc cầu cạnh,
hối lộ cho giới quan chức, những món hàng bị ép trả giá thấp hoặc những món nợ
không đòi được. Sau những lần cân nhắc, kể cả dự định huỷ bỏ, thương điếm Anh ở
Phố Hiến đã được chuyển rời lên Kẻ Chợ vào năm 1683, tiếp tục kinh doanh, sau đó
đến năm 1697 thì đã đóng cửa vĩnh viễn.
6. Quá trình suy thoái của Phố Hiến
Thời kỳ hoàng kim, phồn thịnh nhất của Phố Hiến là vào khoảng giữa thế kỷ
XVII, từ những năm 30 đến những năm 80 của thế kỷ này. Sau đó tiếp theo là một quá
trình suy thoái, dần dần diễn ra trong gần hai thế kỷ để cuối cùng đô thị sầm uất thứ
hai trong cả nước này chỉ còn để lại chút ít phế tích, trở thành một tỉnh lị Hưng Yên
nhỏ bé và bị nông thôn hoá hoàn toàn như ngày nay.
Biểu hiện rõ nhất của sự suy thoái của Phố Hiến là sự sa sút trong các hoạt động
buôn bán với nước ngoài, vốn là thế mạnh kinh tế chủ yếu của đô thị. Mặt khác, lúc
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
này tình hình chính trị khu vực và hệ thống kinh tế thương mại biển Đông cũng đã có
những chuyển biến. Trung Quốc, sau khi dẹp yên cuộc nổi dậy của Trịnh Thành Công
ở Đài Loan năm 1683, một lần nữa đã bãi bỏ lệnh hải cấm, mở ra một thị trường đông
đúc hấp dẫn đối với các Công ty Đông Ấn phương Tây cũng như một nguồn xuất khẩu
quan trọng các mặt hàng tơ lụa và đồ gốm sứ. Nhật Bản cũng chuyển sang chiến lược
xuất khẩu bạc, vàng, tơ lụa. Các tuyến buôn bán đường biển trực tiếp trở nên thông

thoáng hơn, không cần qua khâu trung gian trung chuyển, như trường hợp Đàng
Ngoài, nữa. Trong hoàn cảnh đó, bước sang thế kỷ XVIII, ngoại thương Việt Nam và
ở Phố Hiến nói riêng đã giảm thiểu đáng kể. Các thương điếm phương Tây ở Phố Hiến
và Kẻ Chợ lần lượt đóng cửa, các tàu buôn phương Tây hầu như rất ít còn lại vùng
Đàng Ngoài. Phố Hiến vắng hẳn các khách buôn nước ngoài, trừ người Trung Quốc là
còn ở lại buôn bán. Tuy nhiên các hoạt động kinh tế của những Hoa Kiều ở Phố Hiến
lúc này cũng đã khác trước. Những tàu buôn mà các chủ tàu là các đại thương Trung
Quốc qua lại giữa Phố Hiến và Nhật bản không còn nữa. Việc buôn bán trực tiếp giữa
Việt Nam và Trung Quốc một phần lớn đã chuyển qua đường Cửa Cấm với bến Ninh
Hải, một số khác theo đường sông và đường bộ. Ở Phố Hiến, các Hoa thương đã
chuyển sang hình thức mở cửa hiệu buôn bán tại chỗ và kinh doanh dịch vụ.
Thế kỷ XIX, khi kinh đô chuyển vào Huế, một làn sóng của thương nhân Trung
Hoa ồ ạt nhập cư vào Hà Nội, một số gia đình Hoa Kiều trước kia từ Kẻ Chợ di cư đến
Phố Hiến nay quay ngược trở về Hà Nội, phần nào cũng làm cho Phố Hiến trở nên
vắng vẻ đi. Cũng trong quá trình suy thoái về kinh tế, Phố Hiến đã mất dần đi vai trò
quan trọng về chính trị. Bến cảng Phố Hiến do sự bồi lở của sông Hồng ngày càng trở
nên bất tiện, làm Phố Hiến ngày càng cách xa dòng sông. Vì vậy, năm 1726, chính
quyền Lê - Trịnh đã chuyển dời trấn lị Sơn Nam sang bên hữu ngạn sông Hồng thuộc
huyện Duy Tiên. Tuy năm 1737, Thừa ty Sơn Nam có di chuyển trở lại Phố Hiến
nhưng Hiến ty vẫn còn được giữ lại ở thôn Tường Lân, xã Trác Văn bên hữu ngạn.
Năm 1741, trấn Sơn Nam được tách thành Sơn Nam thượng và hạ, trọng tâm chính trị
đã chuyển xuống mạn dưới, ở Vị Hoàng (Nam Định ngày nay).
Cũng trong thế kỷ XVIII, nhiều biến động xã hội - chính trị đã diễn ra tại địa
bàn Phố Hiến. Năm 1730, đê Mạn Trù vỡ, dân của nhiều vùng ở Sơn Nam trở nên
nghèo đói, phải tha phương cầu thực. Tiếp đến là những cuộc khởi nghĩa của Hoàng
Công Chất và Nguyễn Hữu Cầu đã tàn phá vùng này, càng làm cho tiềm lực kinh tế
của Phố Hiến kiệt quệ. Rồi sau đó là cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh. Sang đến
thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, vai trò một đô thị kinh tế, một thương cảng quốc tế
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử

của Phố Hiến ngày nào giờ đây không còn nữa. Năm 1804, dưới thời Gia Long, trấn lị
Sơn Nam thượng từ Phố Hiến đã được di chuyển về Châu Cầu (Phủ Lý ngày nay).
Năm 1831, với cuộc cải cách của vua Minh mạng, tỉnh Hưng Yên được thành lập,
thành tỉnh được xây dựng trên địa bàn Phố Hiến cũ, mang nhiều chức năng quân sự,
nhưng đã mất đi hoàn toàn vai trò kinh tế của một trạm hải quan, lúc này đã được
chuyển qua bến Ninh Hải (Hải Phòng). Cuối thế kỷ XIX, sách Đại Nam nhất thống chí
ghi: “Cung cũ Hiến Nam, phàm người nước ngoài đến buôn bán thời đều tụ tập ở đây,
phong vật phồn thịnh […] nhưng nay thì không còn được như trước”.
Như vậy, do đường lối, chính sách, cách thức buôn bán của Nhà nước Lê - Trịnh
chủ yếu là lợi dụng thương nhân nước ngoài trong việc mua vũ khí và giúp đỡ trong
cuộc nội chiến với Đàng Trong; do tệ tham nhũng, cửu quyền của quan lại làm cho
thương nhân nước ngoài chán nản; do sự thay đổi về mặt địa lý; do hoạt động thương
mại biển Đông đến thế kỷ XVIII bắt đầu suy thoái, người Nhật và người Trung Quốc
bắt đầu mở cửa thu hút thương nhân nước ngoài, mà chủ yếu là thương nhân phương
Tây… đã làm cho đô thị Phố Hiến dần suy tàn và bị nông thôn hoá nhanh chóng.
Với những đặc điểm kể trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, Phố Hiến là một
đô thị quan trọng nổi tiếng đã góp phần làm cho diện mạo nước ta vào những thế kỷ
XVI – XVIII trở nên phồn thịnh và phát triển không thua kém gì những nước khác
trong khu vực. Một đô thị sầm uất nổi tiếng trong cả nước, chỉ đứng sau Kinh Kỳ bây
giờ chỉ còn là phế tích. Những gì còn lại của Phố Hiến ngày nay cho thấy việc tiến
hành đô thị luôn phải lường trước cả hiện tượng bị nông thôn hoá trở lại để có những
biện pháp phát triển phù hợp và bền vững.
Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử
Phố Hiến hôm nay



Bài điều kiện Hoàng Thị Vân - K54B Lịch
sử

×