Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
A - PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục là nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình phát triển của dân tộc,
quốc gia. Giáo dục Nho học ở Việt Nam trong hàng ngàn năm tồn tại đã góp
phần không nhỏ vào việc phát triển xã hội và con người Việt Nam. Ý thức
tầm quan trọng của giáo dục, từ nửa thế kỉ trước các bậc minh quân đã khẳng
định rằng: “ Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế
nước mạnh và vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp,
cho nên quý trọng kẻ sỹ không biết thế nào là cùng " [24;25] hay “ muốn
có nhân tài trước hết phải chọn người có học, phép chọn người có học thì
thi cử là đầu ". Vì vậy trong lịch sử phong kiến Việt Nam, chế độ giáo dục -
khoa cử giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Các sĩ tử “ cửa Khổng sõn Trình ",
các nhà khoa bảng trên mọi miền đất nước đã viết tờn mỡnh lờn những tấm
bia đá của sự cầu tài, cầu thị do các triều đại phong kiến dựng nên, họ chính
là sản phẩm cao cấp của nền giáo dục Nho học, là “ nguyên khí "đưa đất nước
ta “ thịnh " sánh vai với phong kiến Trung Hoa.
Ngày nay trong cuộc so tài chạy đua giữa các quốc gia mà thực chất là
cuộc chạy đua về sức mạnh kinh tế và sức mạnh trí tuệ thì những bài học về
truyền thống giáo dục thi cử của cha ông ta trong 500 năm qua vẫn còn nóng
bỏng tính thời sự của nó. Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt “ Lấy giáo dục
- đào tạo, khoa học - công nghệ làm những quốc sách hàng đầu", “Chúng
ta đang cùng nhân loại bước vào thiên niên kỉ mới, vào thời đại của nền
văn minh trí tuệ. Trong bối cảnh mới đó, giáo dục càng có vai trò quan
trọng đặc biệt, có thể nói là nhân tố quan trọng quyết định tương lai của
dân tộc ”. Nghị quyết 2 khóa VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng một
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
lần nữa khẳng định “ Giáo dục phải đi trước, đầu tư cho giáo dục là tích lũy
sản xuất mở rộng là khôn ngoan, thông minh nhất ".
Đức Thọ là mảnh đất có bề dày văn hiến lâu đời, thời nào cũng có hiền
tài trên mọi lĩnh vực. Nghiên cứu về giáo dục – khoa cử Đức Thọ sẽ góp
phần giúp chúng ta hiểu hơn về truyền thống của một vùng quê văn vật, đồng
thời qua đó giúp ta hiểu sâu sắc hơn lịch sử giáo dục khoa cử nước ta thời
phong kiến.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của việc tìm hiểu về truyền
thống khoa bảng của các thế hệ đi trước cũng như tính cấp thiết của việc
nghiên cứu lịch sử địa phương; đặc biệt đối với bản thân tôi là một người con
của miền đất học La Sơn - Đức Thọ, cũng là một giáo viên lịch sử tương lai
thì nghiên cứu về giáo dục huyện nhà không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ
sở giỳp tụi hiểu sâu sắc hơn về lịch sử địa phương mình. Quan trọng hơn qua
tìm hiểu đề tài còn cung cấp cho tôi nhiều kiến thức phong phú, góp phần
quan trọng trong việc giảng dạy về lịch sử địa phương, qua đó giáo dục niềm
tự hào quê hương dân tộc, kích thích lòng ham mê học tập phát huy truyền
thống cha ông trong hiện tại. Với tinh thần như vậy, được sự giúp đỡ của giáo
viên hướng dẫn em đã chọn đề tài: “ Bước đầu tìm hiểu truyền thống khoa
bảng của nhân dân huyện Đức Thọ ( Hà Tĩnh ) thời kì phong kiến " để làm
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề.
Giáo dục khoa cử ở Đức Thọ - Hà Tĩnh phát triển mạnh từ những buổi
đầu xây dựng và phát triển nền giáo dục Nho học, vì vậy sớm đó cú sự quan
tâm của nhiều người trong giới nghiên cứu về vấn đề này. Song mỗi tác
phẩm, mỗi công trình đề cập đến đề tài này ở những mức độ khác nhau qua
từng thời kì lịch sử.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Cuốn “ Địa chí huyện Đức Thọ " do Thái Kim Đỉnh chủ biên, NXB
Lao Động, Hà Nội, 2004. Đây là công trình nghiên cứu toàn diện, công phu
về Đức Thọ với hơn 700 trang, được chia làm nhiều mục, tiểu mục. Đặc biệt,
cuốn sách đã dành một dung lượng khá lớn cho việc nghiên cứu về tình hình
văn hóa, giáo dục của nhân dân trong huyện với con số và số liệu khá chi tiết;
ngoài ra tác giả còn cung cấp cho chúng ta cái nhìn khái quát về lịch sử chính
trị - kinh tế - xã hội của huyện Đức Thọ từ khi thành lập cho đến năm 2004.
Cuốn “ Danh nhân Hà Tĩnh " do Đức Ban chủ biên, Sở Văn hóa
Thông tin Hà Tĩnh xuất bản năm 1996, tác phẩm đã đề cập một cách khá cụ
thể đến sự nghiệp của một số danh nhân Đức Thọ từng đỗ đạt trong thời kì
phong kiến.
Cuốn “ Lịch sử Hà Tĩnh " ( tập I ) do Đặng Duy báu chủ biên, NXB
Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2000; cung cấp nhiều tư liệu và nhận định quan
trọng về tình hình kinh tế - văn hóa Đức Thọ nửa đầu thế kỉ XIX đặt trong
bối cảnh sự phát triển của các huyện trong tỉnh.
Cuốn “ Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh từ đời Trần đến đời Nguyễn "
do Thái Kim Đỉnh biên soạn, Hội Liên hiệp Văn hóa nghệ thuật Hà Tĩnh xuất
bản năm 2004; tập sách là nguồn tư liệu quý giá tập hợp những nét tiểu sử
của các nhà khoa bảng trong toàn huyện, trong đó số lượng các vị khoa bảng
Đức Thọ được trình bày khá đầy đủ với những cứ liệu khoa học chính xác.
Ngoài ra cũn cú cỏc tác phẩm “ Sự phát triển giáo dục và chế độ thi
cử ở Việt Nam thời phong kiến ” của Nguyễn Tiến Cường, NXB Giáo Dục,
Hà Nội 1998; “ Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075- 1919) " do Ngô Đức
Thọ biên soạn, NXB Văn học, Hà Nội 1993; cuốn “ Hương khoa lục Nghệ
Tĩnh thời Nguyễn " bản dỏnh mỏy của thư viện Hà Tĩnh và “ Quốc triều
Hương khoa lục ", của Cao Xuân Dục, NXB Thành phố Hồ Chí Minh năm
1993…là những công trình khoa học có giá trị trong việc tìm hiểu về tình
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
hình giáo dục Nho học và thi cử của nước ta trong thời kì phong kiến qua đó
cũng giúp chúng ta có cơ sở ban đầu trong việc nghiên cứu tình hình khoa
bảng của địa phương Đức Thọ - Hà Tĩnh.
Bên cạnh đú cũn một số báo viết đăng trờn bỏo Giáo dục thời đại, Nghiên
cứu giáo dục, Văn hóa Hà Tĩnh, Nghiên cứu văn học…của các cơ quan Trung
ương và địa phương.
Nhìn chung các tác phẩm trên đã đề cập đến tình hình học tập và
truyền thống khoa bảng của nhân dân Đức Thọ dưới thời phong kiến, tuy
chưa có công trình nào đi vào chuyờn sõu, cụ thể, song đây là những nguồn
tư liệu đáng quý cho việc nghiên cứu của đề tài.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: do nội dung của đề tài nghiên cứu về giáo dục
khoa cử, truyền thống hiếu học của nhân dân Đức Thọ nên quy định đối
tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình giáo dục khoa cử, truyền thống khoa
bảng của huyện Đức Thọ trong thời kì phong kiến, cụ thể là: về trường lớp,
tình hình nho sư, nho sinh và thành tựu khoa cử đạt được.
Nhiệm vụ nghiên cứu: mặc dù chỉ nghiên cứu về truyền thống khoa
bảng của Đức Thọ nhưng qua đó chúng ta phải nêu lên được một cách khái
quát về tình hình kinh tế - xã hội - văn hóa nơi đây. Qua đó giúp chúng ta có
cái nhìn sâu sắc hơn về nguyên nhân, biểu hiện của truyền thống khoa bảng
của huyện. Đặc biệt, chúng ta phải thu nhập và xác minh tư liệu, rút ra những
nhận xét, đánh giá về truyền thống khoa bảng cũng như việc đề ra những biện
pháp để tích cực đẩy mạnh truyền thống hiếu học của địa phương Đức Thọ và
của cả nước trong tình hình hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Truyền thống khoa bảng là một vấn đề lớn, vừa
mang tầm rộng lớn về mặt thời gian vừa mang tầm rộng lớn về mặt không
gian. Do tầm hạn chế của các nguồn tư liệu cũng như thời gian và khả năng
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
nghiên cứu của một sinh viên, đề tài không tham vọng tìm hiểu hết chiều dài
của truyền thống khoa cử của nhân dân huyện Đức Thọ từ trước đến nay mà
chỉ giới hạn trong thời kì phong kiến từ thế kỉ XI đến cuối XIX.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
Nguồn tư liệu: Truyền thống khoa bảng là một vấn đề xảy ra cách
ngày nay rất lâu. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài cần đảm bảo chính xác phải
dựa vào nguồn tư liệu gốc như:
- “ Lịch triều hiến chương loại chí " phần Khoa mục chí - Phan Huy
Chú - NXB Khoa học và xã hội, Hà Nội 1992.
- “ Quốc triều hương khoa lục " - Cao Xuân Dục – NXB Thành phố
Hồ Chí Minh, 1993.
Nhưng quan trọng hơn là nguồn tư liệu sưu tầm ở địa phương như:
“Địa chí huyện Đức Thọ", “ Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh từ đời Trần đến
đời Nguyễn " do Thái Kim Đỉnh biên soạn; “ Lịch sử Đảng bộ huyện Đức
Thọ "…
Phương pháp nghiên cứu: Trong nghiên cứu các vấn đề lịch sử,
phương pháp hàng đầu và quan trọng nhất là phương pháp logic và phương
pháp lịch sử. Tuy nhiên do việc ghi chép hay nhận thức vấn đề của mỗi tác
giả đôi chỗ không giống nhau, phạm vi nghiên cứu cũng khác nhau. Do đó,
ngoài hai phương pháp chủ yếu trờn thỡ cũn được kết hợp với các phương
pháp khác như phương pháp điền dã, sưu tầm tư liệu địa phương, so sánh đối
chiếu, phân tích tổng hợp…để rút ra kết luận, nhận xét đúng đắn nhất.
5. Đóng góp của khóa luận.
- Đây là một công trình nghiên cứu mang tính chất “chuyên" về vấn đề
giáo dục khoa cử ở huyện Đức Thọ trong thời kì phong kiến cụ thể là từ thế
kỉ XI đến cuối XIX.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
- Là tư liệu tham khảo bổ ích cho những công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài này.
6. Bố cục của khóa luận.
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì khóa luận gồm 3chương như sau:
Chương I: Đức Thọ, quê hương - con người - truyền thống.
Chương II: Tình hình giáo dục và truyền thống khoa bảng của nhân
dân huyện Đức Thọ ( Hà Tĩnh ) trong thời kì phong kiến.
Chương III: Nhận xét về truyền thống khoa bảng của nhân dân huyện
Đức Thọ.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
B - PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
ĐỨC THỌ, QUÊ HƯƠNG - CON NGƯỜI - TRUYỀN THỐNG
1.1 Quá trình hình thành và sự thay đổi địa giới hành chính của
huyện Đức Thọ.
Nằm trong khu vực Lam - La, tựa vào Trà Sơn, Thiên Nhẫn, vùng đất
Đức Thọ ngày nay đó cú một quá trình hình thành và nhiều lần thay đổi địa
giới, địa danh trong suốt trường kì lịch sử.
Ngược dòng thời gian trở về quá khứ, từ thời đại Đá Mới cách đây
khoảng 4000 - 5000 năm, căn cứ vào kết quả nghiên cứu khảo cổ, và nhiều
tài liệu lịch sử khác, chúng ta đã phát hiện dấu tích người Nguyên thuỷ ở di
chỉ Rú Dầu ( Đức Đồng - Đức Thọ ). Ngọn núi này nằm giữa hai xã Đức
Đồng và Đức Lạc và tại đây người nguyên thuỷ đã lập một xưởng làm rỡu
đỏ. Sản phẩm còn lại của họ tìm thấy chủ yếu là cỏc phỏc vật rìu - những
chiếc rìu mới đẽo chưa được mài. Tuy chưa phải là thành phẩm, nhưng
những phác vật rìu này đã có hình dáng cân đối “ chúng thường có hình tứ
giác, có những phác vật rìu dài đến 16cm chiều rộng từ 6 đến 8cm ”
[21;62]. Những chiếc rìu này được chở đi nơi khác để trao đổi và hoàn thiện.
Sở dĩ có thể chở đi trao đổi là vì ngay dưới chân rú Dầu có một con sông
thông với Ngàn Sâu. Như vậy “ ngay từ thời đại Đá Mới, ở rú Dầu - Đức
Thọ đó cú những hoạt động trao đổi hàng hoá - hoạt động thương mại đầu
tiên ” [12;14].
Trong giai đoạn văn hoá tiền Đông Sơn, trên đất Đức Thọ người ta cũng
tìm thấy bộ công cụ bằng đồng thau rất độc đáo ở xã Đức Đồng. Ở đây có đến
hai chiếc rỡu cú họng, một chiếc dài 8,5cm, một chiếc dài 11cm, cả hai có lưỡi
xoè rộng. Đặc biệt tại đây còn phát hiện các công cụ đồng thau khác như rìu
lưỡi xộo cú họng hình bầu dục, loại gót nhọn, gút trũn, gút vuụng, giỏo đồng…
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Cỏc công cụ và vũ khí đồng thau tìm thấy ở Đức Thọ nói riêng và Hà Tĩnh nói
chung trong thời kì này, chúng ta thấy có những đặc điểm giống với di vật văn
hoỏ Đụng Sơn ở các khu vực khác, ngoài ra cũn cú những đặc điểm riêng chỉ
giống với đồ đồng ở một số tỉnh cận kề như Nghệ An, Quảng Bỡnh…tạo thành
loại hình văn hoá địa phương: loại hình cực Nam.
Trong thời kì văn hoá tiền sử và sơ sử trên đất Đức Thọ còn tìm thấy
các mảnh gốm thô, hạt chuỗi bằng đá ngọc, các khuyên tai hai đầu thú,
khuyên tai ba mấu bằng đất nung…Những hiện vật trên minh chứng cho tính
bản địa từ rất sớm của cư dân nơi đây. Những dấu vết của họ tìm thấy chưa
nhiều, do việc nghiên cứu khảo cổ trờn vựng đất này chưa đầy đủ nhưng
chúng ta đã có thể hình dung những bước đi cơ bản của họ trên con đường
dài dằng dặc của thời nguyên thuỷ và buổi đầu dựng nước.
Trong thời Hùng Vương dựng nước, vùng Hà Tĩnh xứ Nghệ nói chung
và vùng đất Đức Thọ nói riêng thuộc bộ Cửu Đức trong 15 bộ của nhà nước
Văn Lang - Âu Lạc. Một chứng cớ nữa về sự tồn tại của con người thời các
Vua Hựng trờn đất Đức Thọ là hiện nay vẫn còn nhiều làng cổ có tiếng “ kẻ ”
ở trước một tờn Nụm đơn âm, “ kẻ ” được dùng để chỉ một đơn vị dân cư
trong thời cổ đại, ở Đức Thọ có tất cả 32 đơn vị được gọi bắt đầu bằng tiếng
“ kẻ ”, như là: kẻ Đông ( Đụng Dũng nay Đức Dũng ), kẻ Dạ ( Đức Quang ),
kẻ Lim (Đức Lâm ), kẻ Ngù, kẻ Thượng, kẻ Trại…
Theo sách “ Đại Việt sử kí toàn thư ” của Ngô Sĩ Liờn thỡ dưới thời
Bắc thuộc từ năm 220 đến năm 280 ( thời kì thuộc Tam Quốc và Lưỡng Tấn )
“ Đức Thọ nằm trong đơn vị hành chính với tên gọi là Cửu Đức, bao gồm
các huyện Thanh Chương, Nam Đàn, Hưng Nguyên và Đức Thọ ngày
nay” [22;9].
Đến nhà Ngụ, vựng đất Đức Thọ nằm ở địa phận Cửu Đức và một
phần nằm ở huyện Việt Thường - tức hai trong số sáu huyện của quận Cửu
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Đức ( tách riêng từ phần đất phía nam huyện Cửu Chân ), tờn huyện Việt
Thường xuất hiện từ đây.
Trong thời kì nhà Tấn đô hộ ( thế kỉ III – V ) chia Giao Châu làm 7
quận, quận Cửu Đức tương xứng với vùng Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay. Đức
Thọ thuộc huyện Cửu Đức, quận Cửu Đức và quận lỵ đúng trờn vựng đất
Đức Thọ ngày nay. Nhà Lương ( thời Nam Bắc triều 420 – 589 ), nhập hai
quận Cửu Đức và Nhật Nam thành Đức Châu. Nhà Tuỳ ( 581 – 619 ) lại đổi
Đức Châu thành Hoan Châu. Đến nhà Đường ( 618 - 907) đổi quận Nhật
Nam thành châu Đức Nam, sau đổi lại là Đức Châu. Sau khi đặt Giao Châu
đô hộ phủ rồi lại đổi An Nam đô hộ phủ, nhà Đường chia Đức Châu làm ba
châu là châu Hoan, châu Diễn và châu Phúc Lộc. Châu Hoan gồm bốn huyện
là Cửu Đức, Việt Thường, Phố Dương và Hoài Hoan. Năm 629, Đường Cao
Tổ đặt thêm ba huyện: Yên Viễn, Đàm La và Quang Yờn. Vựng đất Đức Thọ
ngày nay có thể ứng với đất của các huyện này. Năm Bính Tý niên hiệu
Thông Thuỵ, đời vua Lý Thỏi Tụng, đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An, rồi
Lý Nhõn Tụng lại đổi thành phủ Nghệ An gồm có 4 châu và 13 huyện. Vùng
đất Đức Thọ lúc đó có tên gọi chính thức là huyện Cổ La [28;49].
Đến nhà Trần đổi phủ Nghệ An thành trấn Nghệ An rồi lại chia làm
các lộ là Nghệ An nam, Nghệ An bắc, Nghệ An trung và lộ Nhật Nam. Năm
Quang Thái thứ 10 ( 1397) Trần Thuận Tông đổi Nghệ An thành trấn Lâm
An. Theo Bùi Dương Lịch, ở cả trong “ Nghệ An kí ” và “ Yên Hội thụn
chớ” thì La Sơn thời Trần gọi là Chi La, thời Minh cũng gọi thế, thời Lê Sơ
gọi là La Giang, đến thời Lê Trung Hưng để trỏnh tờn chỳa Trịnh Giang nên
đổi là La Sơn, thuộc phủ Đức Quang.
Thời Gia Long, vùng đất này vẫn có danh là La Sơn nhưng đến năm
Minh Mệnh thứ 3 ( 1822 ) vì kiờng huý nên đổi phủ Đức Quang thành phủ
Đức Thọ, địa danh Đức Thọ có từ đó đến nay.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Gần 200 năm tuy vẫn giữ địa danh Đức Thọ nhưng địa giới đã nhiều
lần thay đổi, điều chỉnh và tách hợp. Vào đầu thế kỉ XX, Đức Thọ gồm 7
tổng, 60 xó, thụn, trang:
- Tổng Việt Yờn cú 15 xó, thụn
- Tổng Yên Hồ có 8 xã
- Tổng Hoa Lõm cú 14 xó, thụn, trang.
- Tổng Lai Thạch có 5 xã
-Tổng Thịnh Quả có 6 xó, thụn
- Tổng Tự Đồng có 7 xó, thụn
- Tổng Thượng Bồng có 6 xã, phường.
Đến năm 1923 tổng Lai Thạch nhập về huyện Can Lộc, vì thế trước
cách mạng tháng Tám thì Đức Thọ có 6 tổng với số dân là 80.000 người. Và
trải qua nhiều lần phân hợp với diện tích là 203km², đến cuối năm 2000
huyện Đức Thọ có 27 xã, 1 thị trấn, dân số là 120.150 người, mật độ dân số
là 598 người/km².[12;127]
Tìm hiểu sự thay đổi địa danh và địa giới của vùng đất Đức Thọ cho ta
thấy sự vận động và phát triển không ngừng của nó trong tiến trình phát triển
của lịch sử dân tộc. Qua đó có thể có một cái nhìn toàn diện hơn khi xem xét
về vị trí của nó trong tổng thể lịch sử - văn hoá Hà Tĩnh và xứ Nghệ.
1.2 Khái quát về điều kiện tự nhiên.
1.2.1 Vị trí địa lý.
Huyện Đức Thọ nằm ở phía Bắc tỉnh Hà Tĩnh, toạ độ 18,18˚ đến
18,35˚ vĩ Bắc; 105,38˚ đến 105,45˚ kinh Đụng, cỏch thị xã Hà Tĩnh 30km về
địa giới. Nếu xét toạ độ của Nghệ Tĩnh - xứ Nghệ là 17˚53’50” đến
20˚00’10” vĩ Bắc và 103˚50’25” đến 105˚40’30” kinh Đụng thỡ Đức Thọ
nằm ở khu vực trung tâm.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Phía Bắc giáp hai huyện Hưng Nguyên và Nam Đàn ( tỉnh Nghệ An ),
phía Đông giáp thị xã Hồng Lĩnh, phía Nam giáp hai huyện Can Lộc và
Hương Khê, phía Tây giáp Hương Sơn và Vụ Quang.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
1.2.2 Địa hình.
Từ kiến tạo tự nhiên cùng với quá trình cải tạo của con người, trên đất
Đức Thọ có đủ các loại địa hình từ rừng núi, bán sơn địa và đồng bằng. Nhìn
đại thể yếu tố đồng bằng nổi trội hơn so với các huyện khác ở trong tỉnh.
Đồng bằng Đức Thọ nằm gọn trên một địa bàn gần như được khép kín
giữa sông và núi: phía Tây Bắc kề dưới chân Thiên Nhẫn và Trà Sơn, phía
Đông là Thiên Tượng và núi Cài, phía Bắc là sông La - Lam, tạo thành một
vùng trũng mà nhà Địa chí học Bùi Dương Lịch gọi nó là Đại Oa (nghĩa là
cái ổ khổng lồ, cái lòng chảo). Nó được nhận phù sa từ các nguồn Ngàn Sâu -
Ngàn Phố hợp lưu với sông La đổ xuống, cùng với các chi lưu khác như sụng
Mờnh, rào Hào, hói Trai, hói Hào đổ về, bồi đắp thành một đồng bằng màu
mỡ vào loại nhất nhì tỉnh.
Ở Đức Thọ đồng bằng được chia làm hai loại dựa vào địa hình của vùng
này: đồng bằng bồi tích ven sông La và đồng bằng thung lũng Ngàn Sâu.
Đồng bằng bồi tích ven sông La là một trong những đồng bằng rộng
lớn nhất Hà Tĩnh. Vùng ngoài đê La Giang được bồi đắp phù sa nên màu mỡ,
cây trồng tốt tươi.
Đồng bằng thung lũng Ngàn Sâu nhỏ hẹp và rải rác, độ phì nhiêu của
đất thấp hơn.
Núi đồi ở Đức Thọ chiếm một diện tích khá lớn, trong huyện có 11/27
xã là vùng núi. Theo “ Nghệ An kí ” của Bùi Dương Lịch thỡ cỏc nỳi ở Nghệ
Tĩnh đều bắt nguồn từ Mường Thanh - Ninh Biên ( Điện Biên ) và chia làm
hai hệ khác nhau.
Như vậy địa hình của huyện Đức Thọ trước đây có ba hệ nỳi: cỏc khối
núi ở Thượng Bồng thuộc đới Trường Sơn, nay đã cắt về huyện Vũ Quang,
khối núi nhỏ lẻ như núi Ngọc Sơn, Tiên Sơn nay đã cắt sang thị xã Hồng
Lĩnh, chỉ cũn cỏc khối nỳi Thiờn Nhẫn, Trà Sơn thuộc đới Hoành Sơn.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Sông ngòi của huyện Đức Thọ có điểm khác biệt hơn so với các huyện
khác trong tỉnh, đây là một huyện nhiều sông ngòi nhất trong tỉnh, do nằm
giữa hai triền núi là Trà Sơn và Thiên Nhẫn nên sông ngòi chảy theo hướng
các vùng trũng thấp ấy, sông dài nhất không quá 30km.
Cũng từ đó mà sông ở đây có 3 loại địa hình: một, là chảy trên vết đứt
gẫy của chân Trường Sơn, đó là sụng Sâu. Hai là, những tàn tích của những
cỏi phỏ chưa kịp lấp khẳm khi lùi biển. Ba là, “ sông cụt ”, chưa kịp bồi lấp
hết khi sụng Sõu, sụng La đổi dòng, đó là sông Hào, rào Trổ, Hạc Giang…
Đức Thọ cú cỏc hệ thống sông lớn như sau: sông Ngàn Sõu, sụng La,
sông Lam…Ngoài ra Đức Thọ cũn cú những hệ thống sông nhỏ nhưng không
kém phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế như Đò Trai kờnh, sụng
Mờnh…rồi cỏc khe, bàu, hói, đầm. Những con sông này góp phần bồi đắp
phù sa nên những cánh đồng phì nhiêu, “ Đức Thọ từ trước đến nay luôn
được coi là vựa lúa của tỉnh Hà Tĩnh ”[22;11].
1.2.3 Khí hậu.
Đức Thọ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, thời tiết hàng năm được
chia làm hai mùa rõ rệt. Với vị trí nằm trong vùng tiểu khí hậu khu vực Vinh -
Bến Thuỷ, Đức Thọ hằng năm có gió mùa hanh khụ, cú mùa mưa mùa nắng.
Mùa khô hanh kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3 thường có gió Đông Bắc.
Mùa nắng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8 thường có gió phơn Tây Nam nóng
bức, hạn hán kéo dài làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi,
đến sức khoẻ con người. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12,
lượng mưa năm cao nhất là 2.300mm, năm thấp nhất là 1.400mm, lượng mưa
trung bình hằng năm là 1.925mm. Ngoài lượng mưa trung bình, bão lụt
thường xảy ra vào tháng 8, 9 và tháng 10. Mỗi khi có lũ lụt, nước sông dâng
lên rất nhanh, lụt úng lan rộng, kéo dài gây khó khăn cho sản xuất nông
nghiệp, giao thông vận tải và đời sống của nhân dân [22;12- 13].
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
1.2.4 Thổ nhưỡng.
Đất Đức Thọ được hình thành từ nhiều yếu tố, vừa chụi tác động trực
tiếp của địa hình, khí hậu, sinh vật, thời gian và tác động của con người. Đất
Đức Thọ có cấu tạo khá phức tạp, độ dày không đều, phân bố khác nhau và
có độ phì nhiêu khác nhau.
Đất đai của huyện có thể chia làm ba khu vực khác nhau: đất đồng
bằng ven sông, đất đồng bằng thung lũng, núi và đất đồi núi.
Theo kết quả của đợt điều tra thổ nhưỡng năm 1972- 1973 thu được thì
Đức Thọ gồm có các 9 loại đất như sau:
1. Đất bùn phù sa được bồi chua hằng năm.
Đây là loại đất bị ngập lụt hàng năm, và hàng năm đều được bồi thêm
một lớp phù sa mới. Đất nay có ở 17 xã vùng ngoài đờ sụng La và ven sông
Sâu (Đức Tùng, Đức Châu, Đức La, Đức Quang, Đức Vịnh, Đức Lạc, Đức
Hoà, Đức Đồng, Trường Sơn, Liên Minh, Yên Hồ, Đức Yờn, Bựi Xỏ, Đức
Nhân, Đức Lạng, Tùng Ảnh, Đức Long ).
2. Đất phù sa không được bồi, khụng glõy hoỏ hoặc glõy hoỏ yếu.
Đê ngăn không cho lũ vào nên độ PH thấp, đất trở thành đất chua,
lượng mùn trung bình. Đất này có ở cỏc xó Đức Dũng, Đức Lập, Đức An,
Đức Yên, Đức Thanh, Yên Hồ.
3. Đất phù sa không được bồi, glõy hoỏ mạnh.
Loại đất này nằm ở các đồng thấp trong đê, phần lớn là đất sét, lượng
mùn là 1,99%. Loại này có ở cỏc xó như: Đức Lâm, Trung Lễ, Đức Thuỷ,
Đức Thanh, Thỏi Yờn, Đức Yờn, Bựi Xỏ, Đức Nhân, Đức An, Đức Dũng,
Đức Lập, Yên Hồ, Tùng Ảnh.
4. Đất phù sa cũ bạc màu có sản phẩm feratilic.
Loại đất này chỉ có ven núi phía Nam xã Đức Dũng
5. Đất phù sa glõy hoỏ mạnh.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Đất này nước ngập mùa mưa hoặc quanh năm, nằm ở các vùng trũng,
nhiều nhất ở Đức Thanh, Đức Thuỷ.
6. Đất dốc tu ven đồi núi, không bạc màu.
Đất này chứa nhiều thành phần khoáng vật cú sét, cỏt lẫn cuội. Loại này
có ở vùng núi Tân Hương, rồi một ít ở Đức Lạng, Đức Đồng.
7. Đất feralit trên núi.
Đất này ở các đồi cao từ 170m đến 700m, lượng mưa cao, độ PH trung
bình, có ở Đức Long, Đức An, Đức Hoà, Tùng Ảnh, Tân Hương.
8. Đất feralit vàng đỏ phát triển trên đá phiến thạch và đá biến chất
bên trên có rừng.
Loại này có thành phần cơ giới nặng hơn. Phần lớn các đồi này là đồi trọc
nên bị bào mòn mạnh, đất này có ở cỏc xó Đức Lạng, Đức Lạc.
9. Đất feralit xói mòn mạnh, trơ sỏi đá.
Đất này tập trung ở các đồi trọc có độ cao khoảng 300m, tầng đất mỏng,
vì vậy cây cối bị chặt trụi. Đất này nằm ở các ngọn núi thuộc xã Đức Lạng,
Đức Đồng, Đức Lạc, Đức Hoà, Đức Long, Đức Lập, Đức Dũng, Tân Hương
[12;56 – 59].
1.3 Khái quát tình hình kinh tế.
1.3.1 Nông nghiệp.
Tình hình ruộng đất: trong thời kì phong kiến huyện Đức Thọ có
hai hình thức sở hữu đó là: ruộng đất công ( ruộng đất do nhà nước quản lý,
ruộng đất do làng xã quản lý ); ruộng đất tư ( dòng họ, gia đình, cá nhân, nhà
chựa…)
Ruộng đất công ở La Sơn - Đức Thọ lúc bấy giờ bao gồm ruộng tế
các hậu phi, ruộng binh, ruộng lộc, bộ phận ruộng đất công làng xã.
Đến thế kỉ XIX, xu hướng tư hữu hoá ruộng đất công trở thành
thông lệ, việc buôn bán ruộng đất cụng đó trở nên phổ biến dưới thời Gia
Long: “ Tổng số ruộng dưới chân nỳi cú 26 mẫu, 5 sào, 2 thước là của
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
chung của hai thôn trong bản xã, đều do tư nhân mua bán làm của riêng ”
(Yên Hội thụn chớ). Ở La Sơn - Đức Thọ ruộng đất công không nhiều lắm,
chỉ chiếm 10% diện tích ruộng đất.
Ruộng đất tư: chế độ tư hữu về ruộng đất đã được nhà nước thừa
nhận cùng với quyền mua bán và nghĩa vụ đóng thuế ruộng đất từ thời Lý
vào thế kỉ X. Đến thế kỉ XIX, ruộng đất tư ở La Sơn - Đức Thọ bao gồm các
loại: làng xã bỏ tiền tậu mua, đền chùa tậu mua hay được tư nhân cúng hiến,
ruộng đất của phe giáp mua tậu từ ruộng tư nhân, và của cá nhân mua.
Tình hình sử dụng ruộng đất: Hiện nay ở Đức Thọ thì trong tổng số
đất tự nhiên thì đất dùng vào Nông nghiệp là 9.445ha; đất dùng vào Lâm
nghiệp 1.807ha bằng 8,91%; đất chuyên dùng 2.352ha bằng 11,59%; đất thổ
cư 690ha bằng 3,40%; và đất chưa sử dụng 5.993ha bằng 29,54% tổng số
diện tích đất của huyện [12;80] .
Diện tích đất chủ yếu sử dụng để sản xuất nông nghiệp, và nuôi
trồng. Cây trồng chủ yếu là lúa, ngoài ra cũn cú cỏc loại hoa màu khác như:
khoai lang, ngô, vừng, mía, sắn…Sản lượng lương thực quy thóc ( tấn ) năm
1995 là 50.700 (tấn) trong đó thóc chiếm 46.642, năm 2000 là 63.000 và thóc
chiếm 57.000 tấn.
Về chăn nuôi, các loài vật nuôi chủ yếu là lợn, bũ, trõu, gà, vịt,
ngan, ngỗng…Ngoài ra cũn nuụi nhiều loại thuỷ sản khác, theo thống kê thì
diện tích nuôi trồng mặt nước chiếm đến năm 1996 là 37,02ha; năm 2000 là
36,41ha. Trong đó diện tích ao nuôi cá là 2,8ha.
1.3.2 Thủ công nghiệp.
Nghề thủ công nghiệp xuất hiện khá sớm ở vùng đất Đức Thọ, và
“nơi đây được xem là một trong những huyện có nghề thủ công nghiệp và
buôn bán sản phẩm phát đạt nhất tỉnh Hà Tĩnh ” [12;86]. Đức Thọ nổi
tiếng với các ngành nghề thủ công như: nghề mộc Thỏi Yờn, gốm Cẩm
Trang, miến bột Bựi Xỏ, mật đường chợ Trổ, lụa Việt Yên, đóng thuyền
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Trường Xuân, vải Yên Hồ, nón lá Yên Đồng, ép dầu Nghĩa Yờn…Sản phẩm
thủ công của nhân dân huyện Đức Thọ làm ra được đánh giá khá cao, sách “
Đức Thọ phủ phong thổ kí ” cú chộp rằng: “ Mộc Thỏi Yờn, gốm Cẩm
Trang là những nghề đặc sắc. Đồ mộc chế tác rất tinh xảo, chum vại, ngói
gạch rất bền, tiêu thụ rộng khắp ”. Hay sách “ Yên Hội thụn chí ” của Bùi
Dương Lịch cũng cú chép: “…Nghề nón lá cũng rất tinh xảo, so với những
nơi khác là tốt nhất, truyền rộng ra cả nước…”.
Các nghành nghề thủ công truyền thống ở Đức Thọ cũng đi vào đời
sống tinh thần của nhân dân trong cỏc cõu ca xưa:
- Tiếng lành đồn xa, tiếng tốt đồn gần
Cái nghề sợ ( thợ ) mộc nhất là Thỏi Yờn.
- Làm quan Kẻ Hạ, làm hàng mạ Nghĩa Yên.
- Chợ Hôm ép dầu, chợ Cầu múc bột
- Khi mô cho đến đò Tuần (Tam Soa)
Để em mua lụa Hạ, may áo quần cho anh. [12;216]
Sản phẩm thủ công làm ra không chỉ được tiêu thụ trong phạm vi
cỏc xó trong huyện mà còn được đưa đi trao đổi với các huyện xung quanh,
mở rộng phạm vi ra cả chợ Vinh ( trung tâm buôn bán ở khu vực Bắc miền
trung lúc bấy giờ ), và rộng hơn nữa là cả nước.
1.3.3 Thương nghiệp.
Nhờ nông nghiệp phát triển và đặc biệt là sự phát triển mạnh của
nghề thủ công nên việc trao đổi hàng hoá ở Đức Thọ cũng được phát triển rất
sớm. Điều này được thể hiện rõ qua việc các chợ ở Đức Thọ được hình thành
sớm và phát triển đều trong cỏc vựng.
Thái Kim Đỉnh trong “ Địa chí huyện Đức Thọ ” có thống kê ở
Đức Thọ có tất cả 28 chợ, trong đó có 18 chợ có trước năm 1945 và 10 chợ
lập sau năm 1945.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Hiện tại chỉ còn 17 chợ trong đó có 11 chợ cũ và 6 chợ mới. Trong
số 11 chợ mất thỡ cú những chợ cổ, trước đây rất phồn thịnh, tấp nập, có
tiếng như chợ Hạ, chợ Cầu. Trong số các chợ mới thì chợ Thượng, chợ Hạ,
chợ Trổ là những chợ lớn hơn cả.
Chợ là nơi phản ánh đời sống vật chất và nếp sống văn hoá của cư
dân sở tại, và nhân dân huyện Đức Thọ đã xây dựng cho mình một đời sống
vật chất khá đầy đủ và một đời sống tinh thần phong phú bằng hệ thống 7 tụ
điểm giao lưu kinh tế:
- Cụm cầu Kênh - Linh Cảm ( Tùng Ảnh )
- Cụm cầu Nghiêng - ngã ba Lạc Thiện ( Trung Lễ )
- Cụm Ngã ba Trổ ( Đức Nhân - Yờn Hồ )
- Cụm chợ Chay ( Đức An )
- Cụm chợ Đàng ( Đức Đồng )
- Cụm chợ Giấy ( Đức Dũng )
- Cụm chợ Nhà Trắng ( Đức Lâm )
Sự phát triển của đời sống kinh tế nhân dân trong huyện là tiền đề,
cơ sở vật chất quan trọng để phục vụ cho sự phát triển của đời sống văn hóa
tinh thần phong phú đa dạng, mà quan trọng nhất là phát huy truyền thống
khoa hoạn lâu đời của miền “ đất học ".
1.4 Con người Đức Thọ.
Cư dân sống trên đất Đức Thọ chủ yếu là người Kinh; ngoài ra còn
có con cháu người Chàm, người Hoa, họ là di duệ của người Chăm đến đây
từ thế kỷ XIII, XIV.
Theo các gia phả của các dòng họ lớn ở La Sơn – Đức Thọ hiện nay
thỡ lõu nhất cũng chỉ mới có từ 24 đến 25 đời ( tức khoảng 500 năm đến 600
năm ). Làm một phép tính đơn giản, chúng ta có thể biết rằng hầu hết lớp
người hiện nay đều đến đây từ đời Lê đến triều Nguyễn. Họ là con cháu các
công thần thời nhà Lê được phong đất như Trần Duy, Phan Đán, Lờ Bụi,
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Nguyễn Lộng, Bùi Bị… Hay là con cháu của những người khai hoang: bà
Bạch Ngọc, và các gia thần Trần Quốc Trung, Nguyễn Thời Kớnh…Và về
sau rất nhiều người khác tiếp tục sự nghiệp này như: Bựi Thỳc Ngật, Nguyễn
Bá Lai và các vị tổ nhiều dòng họ khác.
Bởi mưu sinh để tồn tại thích ứng điều kiện tự nhiên và lịch sử xã
hội, người dân Đức Thọ trong suốt trường kì lịch sử đã dần hình thành cho
mình những nét tính cách dễ phân biệt được trên tổng thể cơ bản tính cách
của người Hà Tĩnh, người Xứ Nghệ. Đó là: thông minh, cần cù, chịu khó,
hiếu học, tình nghĩa, yêu nước, can trường nhưng có phần gân guốc, khô
khan, rắn rỏi của nghị lực và lớ trí.
Vẻ đẹp của con người Đức Thọ được khắc hoạ trong câu ca xưa:
Ai về Đức Thọ thì về
Nước trong gạo trắng nhiều bề làm ăn
Đức Thọ gạo trắng nước trong
Khuyên ai về Đức Thọ cho thong dong con người [12;121].
Đất Đức Thọ “gạo trắng nước trong”, “dễ bề làm ăn” nhưng con
người nơi đây lại giản dị, cần cù lao động, đặc biệt hình ảnh những người mẹ,
người vợ tần tảo nuôi chồng nuôi con. Có người nói rằng đất Hồng Lam là
“mảnh đất người mẹ nghèo vắt sữa nuôi những người con tráng kiệt”.
Người dân Đức Thọ đi đâu cũng tự hào về một mảnh đất giàu
truyền thống học hành khoa bảng. Đã từ ngàn xưa, việc thi cử ở Đức Thọ đã
trở thành phong trào thi đua trong mọi tầng lớp nhân dân, khụng riờng gỡ con
nhà quyền quý giàu sang hay những nhà Nho bần hàn, ai học giỏi đỗ đạt đều
được kính trọng. Nhờ có lòng hiếu học mà trong cỏc kỡ thi Hương, thi Hội,
thi Đỡnh cỏc sĩ tử Đức Thọ thường chiếm tỉ lệ cao hơn so với các huyện khác
trong tỉnh, và nó trở thành một nét truyền thống rất đẹp trong đời sống văn
hoá của nhân dân Đức Thọ.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Nhắc đến Đức Thọ, người ta lại nhắc đến vùng đất dân gian giàu
đời sống tinh thần, người Đức Thọ sống tình nghĩa là vậy, lịch thiệp là vậy,
nó được thể hiện sống động qua các lễ hội truyền thống, điển hình là “lễ tế
sống cha mẹ” để tỏ lòng thành kính, biết ơn đấng sinh thành. Ngoài ra cũn
cỏc phong tục tập quán thuần hậu khác như: hát ả đào ở Du Đồng, phường
tuồng ở Trường Xuân, hát ghẹo ở Mỹ Xuyờn…
Vẻ đẹp của đời sống tinh thần nơi đây được sách xưa ghi lại rằng:
“phong tục nơi đây đều trọng hậu, chỗ nào cũng có văn học, khoa giáp đỗ
đạt thì huyện Thiên Lộc ( tức Can Lộc), huyện Nghi Xuân, huyện La Sơn
(Đức Thọ) là thịnh hơn cả. Những người làm tôi có tiếng tốt, giúp nước có
đức hiền hơn cả một châu” [4;63].
Hình ảnh của con người Đức Thọ còn thể hiện trong quá trình chiến
đấu kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước, từ kẻ thù phong kiến phương Bắc đến
thực dân phương Tây. Và ngày nay vẻ đẹp đú cũn toỏt lờn trong công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước, nhân dân Đức Thọ anh hùng đã góp phần to
lớn vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, xây dựng một
Đức Thọ theo hướng hiện đại hóa nông thôn.
Tiểu kết chương I:
Như vậy chúng ta đó cú một cái nhìn khái quát nhất về bức tranh
chung của huyện Đức Thọ dưới nhiều góc độ khác nhau, những yếu tố trờn
đó tạo nên một Đức Thọ có bề dày lịch sử hàng nghìn năm, một bản sắc văn
hóa riêng độc đáo, một tính cách rất “Nghệ tĩnh" : cần cù, chụi khó trong lao
động, anh hùng quả cảm trong đấu tranh chống kẻ thù. Chính sức mạnh tổng
hợp này đã góp phần xây đắp nên một vùng quê văn hiến với truyền thống
giáo dục và khoa cử phát đạt ở đất Hồng Lam.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Chương 2
TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VÀ TRUYỀN THỐNG KHOA BẢNG
CỦA NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC THỌ ( HÀ TĨNH )
TRONG THỜI Kè PHONG KIẾN
2.1 Tình hình giáo dục.
2.1.1 Sự ảnh hưởng của yếu tố khách quan.
Thời kì Bắc thuộc là khoảng thời gian dân tộc ta chụi sự đô hộ của
bọn phong kiến phương Bắc. Sau đó mặc dù dân tộc ta giành được quyền tự
chủ, nhưng từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX bọn chúng vẫn không từ bỏ âm mưu
cai trị nước ta.
Trong thời kì nước ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, nên chương
trình học do chính quyền phong kiến Trung Quốc quy định cho người Trung
Quốc, thể hiện qua nội dung thi cử tuyển chọn mà nước ta là thuộc địa của
chúng cũng phải thực hiện. Vì vậy trong suốt quãng thời gian dài đó, từ việc
giáo dục cho đến thi cử các triều đại nước ta đã nương theo lề lối tổ chức bên
Trung Hoa và có sự cải biên thích nghi cho phù hợp với xã hội Việt Nam.
Chương trình giáo dục này bao gồm các kiến thức về văn học, lịch sử, xã hội,
đạo đức, chính trị, pháp luật…theo các quan điểm của Nho giáo thể hiện
trong Tứ thư ( Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học, Trung Dung ) và Ngũ Kinh
( Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu ). Việc tổ chức
dạy học ở nước ta thời kì này do bộ máy đô hộ tổ chức, chi phối nhằm thực
hiện công cuộc Hỏn hoỏ để mở rộng một cách vững chắc đất đai của Trung
Quốc như họ đã làm với các khu vực khác của Bách Việt, khiến cho biên giới
của Trung Quốc lan xuống phía Nam như ngày nay.
Song song với quá trình bành trướng lãnh thổ là quá trình du nhập
chữ Hán và đạo Nho vào nền văn hoá dân tộc ta của quân xâm lược. Trong
“Khoa cử và giáo dục Việt Nam ” xuất bản năm 1993, Nguyễn Quyết Thắng
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
ghi rằng: “Cứ theo sử chộp thỡ từ thời Bắc thuộc lần thứ nhất, nghĩa là
trong khoảng năm thú 3 trước Tây lịch đến năm 39 sau Tây lịch, chữ Nho
cựng Hỏn học mới được truyền vào nước ta ”. Những quan lại phong kiến
Trung Hoa sang cai trị nước ta trong thời Bắc thuộc quan niệm việc học chữ
Hán không cần thiết cho việc khai hoỏ dõn ta, mà chỉ cần trong vòng thực
dụng. Đó là cốt sao dạy cho người Việt Nam biết sử dụng chữ Hán văn trong
các đơn từ, khế ước, công văn…đồng thời để truyền bá những nguyên tắc lí
luận thông thường nhằm cai trị dân ta theo thể chế phong kiến chư hầu.
Trong buổi đầu đất nước tự chủ, Nho giáo với phương tiện truyền
bá là kinh điển chữ Hán, tỏ ra có hiệu lực trong việc xây dựng một chế độ
phong kiến tập quyền. Vì vậy các triều đại Việt Nam, từng bước sử dụng Nho
học và chữ Hán làm phương tiện đào tạo, lựa chọn nhân tài theo mô hình
Phương Bắc. Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Hán học, các “ụng
Nghè, ông Cống” Việt Nam đã vươn lên và khẳng định tài năng của mình
“không thua kém gì người Trung Nguyên” [11;7].
Trong bối cảnh nền giáo dục nước nhà chụi ảnh hưởng sâu sắc của
nền văn hoá - giáo dục Hỏn, thỡ cỏc sĩ tử Hà Tĩnh nói chung và Đức Thọ nói
riêng đã nhanh chóng thích nghi, khắc phục khó khăn để “quyết chí thành
tài”, những thành tựu khoa bảng của họ đạt được trong cỏc kỡ khoa hoạn thời
phong kiến đã minh chứng cho điều đó.
Chữ Hán là một loại chữ tượng hình rất khó học, nhưng các triều
đại Trung Quốc cũng như các quốc gia trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng
người Việt Nam học chữ Hán rất nhanh và rất giỏi. Trong thời kì bị đô hộ,
người Việt đã chấp nhận chữ Hán làm văn tự chính thức, tiếp thu những giáo
lý Nho học. Nhưng với truyền thống kiên cường bất khuất và với bản sắc dân
tộc được chung đúc từ khi dựng nước Văn Lang, người Việt đã không bị
đồng hóa sau một ngàn năm bị đô hộ, người Việt đã tiếp thu có chọn lọc nền
văn hóa ngoại lai, tuy sử dụng ngôn ngữ văn tự Hán nhưng vẫn giữ vững
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
được nền văn hóa bản địa, nếp sống cộng đồng làng xã, bảo vệ được tiếng nói
dân tộc, phát triển được chữ Nôm. Và ngày nay chữ Hán mặc dù không phải
là loại chữ thông dụng nhưng nó đó trở thành một nét đẹp trong bản sắc văn
hoá của dân tộc ta, khẳng định tài năng tầng lớp trí thức xuất thân từ cửa
Khổng sõn trỡnh ngày xưa.
2.1.2 Hệ thống trường lớp.
Căn cứ vào sử sách và những tàn tích của chế độ học ngày xưa để lại,
ta có thể chia trường học ngày xưa thành hai loại: trường công và trường tư.
2.1.2.1 Trường công.
Gọi là trường công vỡ cỏc trường này do triều đình mở và đặt dưới
quyền cai quản của bộ Lễ và bộ Học ngày xưa.
Quốc sử quán triều Nguyễn cú chộp, Hà Tĩnh dưới triều Nguyễn có
5 trường công bao gồm:
1. Trường học đạo Hà Tĩnh, đặt ở địa phận xã Đại Nại ( huyện Thạch Hà )
2. Trường học phủ Đức Thọ đặt ở phía Tây phủ lỵ (nay là thị trấn Đức Thọ)
3. Trường học huyện Kì Anh, được dựng từ năm Minh Mạng thứ 10 (1829)
4. Trường học huyện Can Lộc.
5. Trường học huyện Nghi Xuân, dựng từ năm Minh Mệnh thứ 13 ( 1823 )
Như vậy dưới thời phong kiến nhà Nguyễn, ở Đức Thọ đã xây
dựng trường học phủ ( nó cũng được coi như là trường huyện ), đây là cơ sở
ban đầu cho việc học hành, giáo dục và thi cử của con em nhân dân trong
huyện nói riêng và các huyện lân cận nói chung.
Trường học của huyện Đức Thọ, vào thời Lê được đặt ở xã Phi
Cảo, đời Nguyễn lại dời sang xó Bựi Xỏ, năm Thiệu Trị thứ nhất ( 1840 ) dời
đến xó Yờn Trung, phía Tây phủ lỵ, đến năm 1918 thì bãi bỏ cùng với chế độ
khoa cử chữ Hán. Đời Lê trường này do một Huấn đạo hàm Chánh cửu
phẩm, đời Nguyễn đặt một Giáo thụ hàm thất phẩm coi việc học và giảng
dạy, sát hạch chọn học trò đi thi.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
Chương trình học tập của các nho sinh trong huyện Đức Thọ cũng
giống như các trường ở tỉnh, phủ và huyện khác trong cả nước được chia ra
như sau:
- Việc giảng sách: Mỗi thỏng cỏc học quan quy định những kì giảng
sách nhất định. Theo lệ này, các học trò từ các Hương cống cùng với các học
trò trường Giáo ( trường cấp Giáo thọ ), trường Huấn ( trường cấp Huấn đạo )
đến đông đủ để nghe các vị học quan giảng sách kinh truyện.
- Việc tập văn: Mỗi tháng cũng định những kì làm văn như giảng
sách vậy. Vào ngày hôm ấy, các vị học quan ra đầu bài cho học sinh làm, có
hai lối tập văn: văn kì và văn nhật khắc.
Theo lối văn kỡ thỡ học sinh đem đầu bài về nhà làm và đỳng kỡ
hạn đem nộp bài. Lối văn nhật khắc thì buộc học sinh làm bài xong tại trường
ngay trong ngày hôm đó.
- Việc bình văn: học sinh nộp quyển cho học quan, khi đã chấm xong
định ngày hội học sinh trở lại để phê bình. Những đoạn văn hay, những bài
đặc sắc sẽ được đọc lên cho học sinh nghe. Kì bình văn thường được đặt vào
cuối tháng [23;62 - 63].
Bên cạnh sự thành lập của trường công thì để đáp ứng nhu cầu học tập
của con em nhân dân trong huyện nhà thì một hệ thống trường tư đã ra đời.
2.1.2.2 Trường Tư.
Trường tư mở tại các thôn ấp hay tư gia không liên quan gì đến
chính quyền nhà nước về mặt kinh phí hay tổ chức học tập. Đây là hình thức
dạy học phổ biến lúc bấy giờ.
Trong điều kiện của chế độ ngày xưa thì bất cứ một nho sĩ nào cũng
có quyền mở trường dạy học, cú cỏc kiểu như sau: những gia đình yêu chuộng
sự học cho con cái có thể rước thầy về tại tư gia mình để dạy cho con cái và có
thể biến lớp học tư gia thành trường học chung cho tất cả làng, xóm, quận…
Những trường như vậy có thể gọi là các trường Hương học, nó nằm rải rác ở các
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội
Khoá luận tốt nghiệp Đào Thị Hồng
Thắm
làng xã trong cả nước. Ở Đức Thọ do nhu cầu học tập ngày càng nhiều hơn nên
một hệ thống trường tư cũng được hình thành trong các thôn xã.
Thầy học gồm hai hạng người: hạng người đỗ đạt và không may
mắn đỗ đạt, hoặc cũng có những nho sĩ không thích làm quan cáo về ở ẩn hay
bị cách chức cũng về mở lớp dạy học. Những vị thầy đồ xưa rất được cung
kính và tôn trọng, quan hệ thầy trò và gia đình rất gần gũi.
Về chương trình học và lề lối giảng tập thì trường tư cũng giống
như trường công, do đó cho đến ngày đi thi thì không có sự phân biệt thí sinh
học trường công hay tư, tất cả những thí sinh nào có kiến thức đều được tham
dự, điều này cũng thể hiện tính bình đẳng trong giáo dục thời xưa.
* Cách tổ chức một trường tư thời phong kiến.
Lễ nhập môn: trẻ con lờn sỏu, lờn tỏm thỡ bắt đầu đi học, cha mẹ
phải đến xin thầy và xem ngày tốt định ngày cho con đi học. Vào ngày hôm
đó cha mẹ dẫn đứa bé ăn bận chỉnh tề với lễ vật như khay trầu rượu, gia đình
khá giả thỡ cú mâm xôi gà. Thầy giáo vui vẻ nhận lời và cùng cha đứa trẻ
ngồi trò chuyện uống rượu, xem tử vi của đứa trẻ và sau cùng đặt cho nó một
cái tên mới thay thế cái tên cũ. Người ta gọi buổi lễ đạm bạc nhưng trang
nghiêm ấy là lễ cúng “ vỡ lòng ” hay “ khai tâm ”.
Khai tâm: trong thời gian một vài tháng đầu thầy dạy cho đứa trẻ
những thói quen tốt, những cử chỉ và lời nói trong khi giao tiếp. Dạy cho trẻ
“sải tảo, ứng đối, tấn thối ” nghĩa là phải biết những công việc thông thường,
cách thức thưa hỏi; cách thức dạy học này thể hiện qua câu nói “ Tiên học lễ,
hậu học văn ”. Nội dung học là cỏc sỏch: Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Tam tự
kinh…
Kỉ luật: Thầy đồ cử ra hai người, trường tràng nội và trường tràng
ngoại giúp thầy trông coi việc trong và ngoài trường, có việc gì phải báo cáo
với thầy để thầy giải quyết. Phương pháp dạy học của thầy là học trò lớp lớn
dạy học trò lớp nhỏ, và thầy sẽ dạy bảo thêm.
Líp B - K53 Khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội