Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tiểu luận Sự phát triển kinh tế nông nghiệp miền Nam Việt Nam trong vùng Mỹ - Ngụy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.33 KB, 16 trang )

Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975), miền Nam là mặt trận
trực tiếp phải đương đầu với cuộc chiến tranh giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ
cùng tay sai. Miền Nam tiếp tục phải làm cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, nhằm thống nhất đất nước và giành lại quyền dân chủ cho nhân dân miền
Nam. Sự phân chia của hai khu vực vùng giải phóng và vùng kiểm soát của
chính quyền Sài Gòn là một cản trở lớn đối với sự thống nhất. Trong hai khu
vực là sự tồn tại của hai chính quyền với đường lối phát triển kinh tế khác nhau,
trong vùng kiểm soát của địch sự phát triển kinh tế không phải là ở mức độ cao
song nó là một bộ phận quan trọng của kinh tế miền Nam, nông nghiệp là một
ngành đóng vai trò quan trọng và cũng có những bước chuyển đáng kể. Nó cung
cấp về lương thực và thực phẩm nuôi sống bộ máy quân sự Sài Gòn và nhân dân
trong vùng kiểm soát của chúng, tìm hiểu về sự phát triển nông nghiệp của vùng
này được nhìn nhận trên nhiều phương diện trong cơ cấu ngành này và mối quan
hệ của nó trong cơ cấu nền kinh tế chung, và cũng từ đó xem xét các chính sách
phát triển kinh tế nông nghiệp của chính quyền Sài Gòn mà đặc biệt là chính
sách ruộng đất nó ảnh hưởng sâu sắc đến nông nghiệp. Đất đai là tư liệu sản xuất
quan trọng nhất đối với sự phát triển nông nghiệp nói chung và sản xuất cây
lương thực nói riêng. Tuy nhiên, sự phát triển đó còn bị chi phối của nhiều yếu
tố khác nhau nhất là chiến cuộc miền Nam.
Nhìn chung, việc tìm hiểu về kinh tế nông nghiệp miền Nam trong vùng
Mỹ Nguỵ kiểm soát góp phần vào nghiên cứu tình hình kinh tế miền Nam trong
thời kháng chiến chống Mỹ và có những nhận xét đánh giá bước đầu về tác
dụng của nền kinh tế nông nghiệp thời kỡ đú.
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
1
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐIỀU KINH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TRONG VÙNG KIỂM SOÁT CỦA MỸ NGỤY
1. Hoàn cảnh lịch sử thời kì 1955 – 1975.
Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy đã kết thúc cuộc kháng chiến chống
Pháp, mở ra một thời kỳ mới độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng
thắng lợi của ta lại bị hạn chế bởi Hiệp định Giơnevơ, đất nước được chia cắt
thành hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Tại miền Nam, Mỹ đã thành lập
lên một chính quyền bù nhìn Ngụ Đỡnh Diệm và viện trợ trực tiếp cho Diệm cả
về kinh tế, quân sự nhằm thực hiện âm mưu chia cắt đất nước lâu dài. Một mặt
chỳng phỏ hiệp nghị Giơnevơ, ngăn trở sự hiệp thương tổng tuyển cử tự do
thống nhất Nam Bắc, một mặt chúng muốn biến miền Nam thành một quốc gia
biệt lập với miền Bắc, mà chúng gọi là nước “Cộng hoà Việt Nam” với một chế
độ chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội … riêng biệt đối lập với miền Bắc. Về mọi
mặt, chúng xây dựng hàng rào ngăn cách với miền Bắc nói riêng và với phe dân
chủ hoà bình, với các nước không thuộc chính sách “ viện trợ” Mỹ nói chung.
Chúng muốn miền Nam trở thành “Một bộ phận của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ở
chân trời Đông Nam Á” và tách ra khỏi mảnh đất liền Việt Nam, khỏi khu vực
tự nhiên của nó ở Đông Nam Á. [10;9]
Song, trước những hành động của Mỹ - Nguỵ nhân dân cả nước đặc biệt
là nhân dân miền Nam đã đấu tranh quyết liệt trên mọi mặt trận: Từ quân sự,
kinh tế, văn hoá xã hội, ngoại giao, tranh giành với địch từng mét vuông đất đợi
đến ngày giải phóng đất nước, thống nhất lãnh thổ. Năm 1960, ở miền Nam đã
thành lập Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam và hình thành vùng giải phóng
rộng lớn do chính quyền cách mạng kiểm soát. Năm 1964, trên cơ sở mặt trận
giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam đã ra đời tiếp
tục quản lý vùng giải phóng. Hai chính quyền cùng tồn tại kiểm soát hai vùng,
vùng do chớnh quyền Sài Gòn kiểm soát và vùng do chính phủ cách mạng lâm
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử

2
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
thời kiểm soát, vùng giải phóng của ta ngày càng mở rộng, và vùng đất do chính
quyền Mỹ Nguỵ kiểm soát dần dần bị thi hẹp. hai vùng không có sự cách biệt
hoàn toàn mà vẫn có sự giao lưu kinh tế nhất định. Song cũng có nhiều nét khác
nhau về sự phát triển kinh tế.
2. Điều kiện tự nhiên tác động đến phát triển nông nghiệp miền Nam.
Khi quy định giới tuyến tạm thời ở vĩ tuyến 17 là để đáp ứng một nhu cầu quân
sự tạm thời: Chia hai miền tập kết thực hiện đình chiến theo hiệp nghị Giơnevơ. Cho
nên miền Nam Việt Nam lúc đó được kể từ vĩ tuyến 17 trở vào, với diện tích là
170000 km
2
. Giới tuyến này nằm trên địa phận phía Bắc tỉnh Quảng Trị, chia đôi lưu
vực sông Bến Hải.
“Từ phương diện địa lý chủ yếu là cái mặt địa thế và ảnh hưởng của địa thế và
dân số”, “Kiến trúc tự nhiên của nước ta trong bán đảo Đông Dương do địa thế hình
thái vòng cung của các dải núi Tây Bắc Bắc Bộ và Trường Sơn quyết định các dải núi
này bao phủ cả miền Nam Trung Bộ, miền Thượng Lào và chạy dài liên tục tới cuối
miền Nam Trung Bộ. Do đó đã chia hệ thống các đồng bằng thuộc Đông Dương cũ
cũng coi như thuộc Việt Nam ta làm hai hệ thống Phía Đông và Phía Tây với hai tính
chất khác nhau. Các đồng bằng Nam Trung Bộ của miền Nam thuộc hệ thống Phía
Đông theo hệ thống các con sông ngắn, diện tích nhỏ hẹp. Phần Nam Bộ là các đồng
bằng rộng lớn thuộc hệ thống sông cửu Long, đất phù sa châu thổ phì nhiêu. Ngoài ra
cũn cú một miền đồi núi phía Tây đất đai khá màu mỡ, đặc biệt là các Cao Nguyên đất
bazan thuận lợi cho trồng cây công nghiệp. Xét chung Miền Nam Việt Nam thì có rất
nhiều điều kiện thuận lợi để phục vụ cho nông nghiệp phát triển từ đất đai, khí hậu
nóng ẩm, nguồn nước phong phú với các hệ thống sông lớn như sông Cửu Long và
sông Đồng Nai và nhiều sụng khỏc …Nông nghiệp Nam Bộ có nhiều điều kiện thuận
lợi về thuỷ lợi hơn miền Bắc, tỷ lệ phù sa của lưu lượng sụng Mờkụng lớn, và vùng

đồng bằng này luôn được làm mới hằng năm rất thuận lợi cho sản xuất lúa gạo, và cõy
trụng hoa màu.
Dưới sự kiểm soát của Mỹ - Nguỵ chúng cũng đã phát triển ở miền Nam kinh
tế thời chiến nhằm thực hiện “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.Vì vậy, Mỹ - Nguỵ
khai thác triệt để sức lao động của nhân dân ta vào những hoạt động kinh tế đồn điền
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
3
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
của chúng. Sản xuất nông nghiệp là nguồn lương thực trực tiếp nuôi sống quân
đội Mỹ - Nguỵ nên cũng được đặc biệt
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
4
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
Chương 2
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP MIỀN NAM VIỆT NAM
TRONG VÙNG MỸ - NGỤY KIỂM SOÁT THỜI KÌ (1955 – 1975)
1. Những chính sách của Mỹ - Nguỵ đối với kinh tế nông nghiệp.
Nông nghiệp và nông thôn là địa bàn quan trọng đối với chính quyền Mỹ
- Ngụy, từ khi can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương đặc biệt trên
chiến trường miền Nam Việt Nam, Mỹ đã bắt đầu xây dựng cơ sở kinh tế của
mình và đội quân tay sai. “Ngay từ năm 1952, trong bản tuyên bố của Mỹ về các
mục tiêu của Đông Nam Á, bọn cầm đầu Nhà trắng đã giúp đỡ chính quyền tay
sai ở Đông Dương thực hiện cải cách điền địa. Tháng 12/1952, chúng cho thành
lập “ Uỷ ban cải cách điền địa”, ngày 4/6/1953, chính quyền bù nhìn Bảo Đại -
Nguyễn Văn Tâm công bố chính sách “cải cách điền địa” gồm 4 đạo dụ:
Dụ 19 ấn định thể thức thu hồi về tư sản địa phương sở quan, những phần

đất không được trồng tỉa của những doanh điền.
Dụ 20 ấn định quy chế tá điền “giao kèo muốn rộng phải làm bằng giấy
tờ, thời hạn ngắn nhất là 5 năm, quyền canh tác được đảm bảo. Địa tô ấn định
nhất loạt là 15% hoa lợi ruộng đất”.
Dụ 21 ấn định suất lưu trí ruộng đất trồng tỉa “ghi suất lưu trí (diện tích
tối đa mà một chủ điền có quyền sở hữu và khai thác) ấn định là: Từ 12 – 36 ha
ở Bắc phần, từ 15 – 45 ha ở Trung phần, từ 30 – 100 ha ở Nam phần”.
Dụ 22 ấn định quyền hưởng huê lợi các ruộng đất trồng tỉa. [4]
Tuy nhiên, chính sách cải cách điền địa của chúng không đạt được hiệu quả
bởi trong kháng chiến chống Pháp, ở những vùng Việt Minh, chính phủ kháng
chiến đã thực hiện chính sách “ruộng đất cho dân cày”, tịch thu ruộng đất của Pháp
và Việt gian chia cho dân cày, tạm cấp ruộng đất vắng chủ cho nông dân, thực hiện
giảm tô 25%. Theo thống kê của Tạp san kinh tế Sài Gòn, trong thời kì kháng chiến
có 600 địa chủ sở hữu trờn 50 ha và 18500 địa chủ sở hữu dưới 50 ha đã bỏ về
thành thị. Do đó, có 349500 ha bị bỏ hoang tạm chia cho nông dân.
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
5
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
Như chính Ladejinki khẳng định: “khụng lấy gì làm lạ rằng những người
cộng sản đã tìm được các làng mạc miếng đất tốt cho các mục đích chính trị của họ.
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ hai, họ đã bắt đầu tấn công và làng mạc, thì họ
được hưởng ứng ngay lập tức, họ kiểm soát dược nông thôn và được nông dân ủng
hộ không phải chỉ vì họ kêu gọi đánh đuổi Pháp, một nguyện vọng ăn sâu vào trong
nông dân, mà cũn vỡ họ đã đề cập đến vấn đề ruộng đất”[5;249 sđd].
Từ sau hiệp định Giơnevơ, cỏc vựng kháng chiến được bàn giao cho quân
đội Pháp và sau đó là do Chính phủ Ngụ Đỡnh Diệm quản lớ, chỳng đó tỡm mọi
cách để xoá bỏ nền kinh tế dân tộc dân chủ nhân dân, xoá bỏ những ảnh hưởng
của cách mạng trong nhân dân miền Nam.

Với sự cố vấn của chuyên gia phía Mỹ, Ngụ Đỡnh Diệm thấy cần phải
tiến hành những điều chỉnh trong chế độ sở hữu ruộng đất. Hai yêu cầu của sự
điều chỉnh đó là: Một mặt tranh thủ được một chừng mực nào đó tầng lớp nông
dân để đối diện với cộng sản. Mặt khác vẫn phải đảm bảo lợi ích của tầng lớp
địa chủ, là chỗ dựa vững chắc của chính quyền Diệm. Chủ trương này được sự
cố vấn của chuyên gia Mỹ là Wolf Ladejinki.
Chương trình Cải cách điền địa được tiến hành qua 3 bước, từ đầu năm
1955 cho tới cuối năm 1956, bằng 3 văn bản pháp luật, mà lỳc dú gọi là “Dụ”.
Dụ số 2, Dụ số 7 và Dụ số 57.
Bước 1 là Dụ số 2, ban hành ngày 8/1/1955, quy định về khế ước tá điền
và mức địa tô đối với những ruộng thực dang canh tác. Về mức địa t, điều 13 Dụ
số 2 quy định, không dưới 15% hoa lợi và khụng trờn 25% hoa lợi, tính theo giá
trị hoa lợi vị mựa chớnh trong năm.
Bước 2, Dụ số 7, ban hành ngày 5/2/1955, quy định về những ruộng đất
bỏ hoang trong thời kì kháng chiến. Theo Dụ này, tất cả những ruộng đất của
những điền chủ bỏ vào thành phố thời kháng chiến mà chính phủ kháng chiến đã
chia cho nông dân, thì trong một tháng kể từ khi ban hành Dụ này, các địa chủ
có quyền trở về làm thủ tục khai báo để chiếm hữu trở lại và tiếp tục cho thuê
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
6
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
như trước. Tá điền dự đó từng được cấp số ruộng đó cũng phải kí khế ước, gọi là
khế ước loại B.
Nếu quá hạn 1 tháng sau khi ban hành Dụ số 7 mà điền chủ không trở lại
để khai báo và làm các thủ tục cần thiết, hoặc địa chủ xác nhận không có nguyện
vọng khai thác trở lại ruộng đất của mình nữa, thì số ruộng đó được giao về cho
Hội đồng Hương chính quản lí để cấp cho tá điền…
“Thực chất của hai đạo dụ trên là chính quyền Diệm đã tước đoạt ruộng

đất của nông dân trả lại cho địa chủ, khôi phục quan hệ sản xuất phong kiến.
Việc làm đó của Diệm khụng phự hợp với ý đồ của Mỹ là từng bước hướng nền
nông nghiệp tiểu nông miền Nam đi vào con đường phát triển tư bản chủ
nghĩa”[2;361]. Vì vậy, phải thực hiện bước thứ 3, là nhằm giải quyết vấn đề giới
hạn quyền hạn sở hữu của địa chủ, bằng biện pháp gọi là “truất hữu” ban hành
đạo dụ số 57 ngày 22/10/1956, mọi địa chủ ở miền Nam không được chiếm hữu
quá 100 ha trở lên. Trong những năm 1956 – 1957, chính quyền Sài Gũn đó mua
lại 47 vạn ha đất đai canh tác để bán cho nông dân.
Dưới thời Nguyễn Văn Thiệu với sự giám sát, giúp đỡ của Viện nghiên
cứu Stanđfor (Mỹ), cải cách điền địa lần thứ hai đã được đẩy lên ở mức triệt để
hơn. Mỹ và chính quyền Thiệu chủ trương “hữu sản hoá” nông dân miền Nam
củng cố và nâng đỡ tần lớp tay sai ở nông thôn.
Mỹ và chính quyền Thiệu chủ trương “hữu sản hoá” nông dân Việt Nam
củng cố và nâng đỡ tầng lớp tay sai ở nông thôn. Ngày 26/3/1970 chính quyền
Thiệu đã ban hành “Luật người cày có ruộng” quy định mức sở hữu ruộng đất
của địa chủ chỉ còn lại là 15 ha và phải xoá bỏ phương thức canh tác thu tô.
Chính quyền sẽ bỏ tiền mua đất đai và cấp cho nông dân với mức bình quân đạt
3 ha và không phải trả tiền. Theo thụng kờ của Mỹ - Nguỵ, cuộc cải cách điền
địa của chính quyền Thiệu đã chuộc lại 1,3 tr ha ruộng đất của 16000 địa chủ để
cấp không cho hơn 60 vạn hộ nông dân. Đối tượng được ưu tiên hưởng luật này
là những người tay chân thân tín, phục vụ cho Mỹ Nguỵ. Song dù sao so với
thời Diệm, chính sách ruộng đất của chính quyền Thiệu có tiến bộ hơn hẳn.
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
7
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
Quan hệ sản xuất phong kiến bị xoá bỏ căn bản, sức sản xuất được giải phóng,
lối kinh doanh tiểu nông tư bản chủ nghĩa phát triển.
Cùng với việc thực hiện các cuộc cải cách điền địa, chính quyền Sài Gòn

với sự “cố vấn” và tài trợ của Mỹ đã lập ra trong nông thôn miền Nam hàng loạt
các hình thức tổ chức sản xuất như “dinh điền”, “khu trù mật”, “ấp chiến
lược”…về danh nghĩa là để cải cách lại cơ cấu xã hội trong nông thôn, nhưng
thực chất nó ẩn giấu mục đích thâm độc là cô lập và chống phá cách mạng.
Những chính sách ruộng đất của chính quyền Mỹ Nguỵ đã làm thay đổi
cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở miền Nam, và tác động lớn đến những biến động
về diện tích, năng suất và sản lượng cây nông nghiệp. Bên cạnh đú, cỏc hình
thức tổ chức tín dụng trong nông thôn ngày càng phát triển để phục vụ cho xu
hướng phát triển nông nghiệp theo con đường tiểu nông tư bản chủ nghĩa, tổ
chức các “hiệp hội nụng dõn”, “nghiệp đoàn tá điền” để đưa về nông thôn phân
bón, thuốc trừ sâu, máy nông nghiệp, các giống mới có năng suất cao …, cử về
nông thôn hàng nghìn đội quõn “phát triển nông nghiệp”, để phổ biến và hướng
dẫn kĩ thuật nông nghiệp.
Như vậy, chính quyền Sài Gũn đó có nhiều cố gắng để phát triển nông
nghiệp nông thôn miền Nam, trong quá trình tác động đến quan hệ sản xuất
nông nghiệp phong kiến lạc hậu tồn tại lâu đời đã xuất hiện quan hệ sản xuất
mới trong nông nghiệp đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, và ít nhiều nông
nghiệp trong vùng Mỹ Nguỵ kiểm soát đó cú bước phát triển hơn trước.
2. Thực trạng kinh tế nông nghiệp Miền Nam Việt Nam trong vùng
Mỹ Nguỵ kiểm soát thời kỳ 1955 – 1975
Chính quyền Mỹ - Nguỵ đã cố gắng thúc đẩy nông nghiệp lôi cuốn nông
dân đưa nền kinh tế tiểu nông theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cùng với việc
thực hiện luật cải cách điền địa mới, chính quyền Sài Gòn đã mở các ngõn hàng
phát triển nông nghiệp, thay cho nụng tín cuộc, tổ chức nhập khẩu các loại vật tư
như phân bón, thuốc trừ sâu, máy móc nông nghiệp, các giống lúa mới có năng
suất cao để đưa vào nông thôn,thực hiện “đa canh hoá nông nghiệp". Tuy nhiên,
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
8
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt

Nam
kết quả lại không như Mỹ - Nguỵ mong đợi “sản xuất nông nghiệp ở miền Nam
Việt Nam giảm sút nghiêm trọng tê liệt từ 30 – 80%, nông dân bỏ đi, một nửa diện
tích canh tác hoang hoá. Giới quân sự Mỹ - Nguỵ cũng vạch rõ hiện trạng nông
nghiệp sa sút nặng nề trong vùng nó kiểm soát. “Tình hình nông nghiệp của miền
Nam gần như ở tình trạng ngưng trệ nói chung và kiệt quệ đối với một vài loại
nông sản đặc biệt, diện tích canh tác giảm sút, sản lượng thì kém hơn". [9]
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp cây lương thực chiếm chủ đạo trong đó
sản xuất lúa gạo vẫn là quan trọng nhất, là nền tảng của kinh tế miền Nam. Song
sản xuất lúa gạo không có tiến triển mà còn thụt lùi so với thời kỳ Pháp thuộc
diện tích và sản lượng đều giảm sút “năm 1939, diện tích trồng lúa của Nam Bộ
là 3 triệu ha và đã xuất cảng gần 1 triệu tấn. Năm 1960 diện tích canh tác vùng
Mỹ Nguỵ kiểm soát là 2 triệu ha” [9]. Sản lượng lúa cũng có tăng nhưng không
ổn định trong nhiều năm. Thời kỳ 1955 – 1965 sản lượng lúa cũng tăng đáng kể:
Sản lượng lúa trong thời kì 1955 – 1965
Năm Sản lượng ( triệu tấn)
1955 2,817
1956 3,412
1957 3,192
1958 4,235
1959 5,092
1960 4,955
1961 4,607
1962 5,205
1963 5,327
1964 5,185
1965 4,822
Với sự gia tăng của sản lượng lúa cũng làm cho năng suất lúa của thời kỳ
này tăng lên tuy nhiên không được cao bởi diện tích tăng chậm và có xu hướng
giảm, theo Tờ báo Việt Nam, số ra ngày 18/5/1959 dựa theo báo cáo của nhà

kinh tế Mỹ J.P.Gittinger, cố vấn nông nghiệp ở Miền Nam viết về năng suất ở
Miền Nam như sau: Năng suất cao nhất về cấy lúa đạt 1,7 tấn ở Vinh Bình, Trà
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
9
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
Vinh và năng suất thấp nhất là 5 tạ một ecta của tỉnh An Xuyên và các tỉnh Cao
Nguyên và 8 tạ/ecta ở Nam Trung Bộ. Như vậy trung bình là 1,2 tấn/ecta [7;93].
Như vậy, ở thời kì đầu khi mới tiếp quản miền Nam và với những chính
sách cải cách điền địa, “hữu sản hoỏ” nông dân thì sản xuất lúa cũng có bước
phát triển nhất định. Nhưng từ năm 1966 đến năm 1968 thì sản lượng lúa cũng
đã giảm sút mỗi năm chỉ đạt hơn 4,3 triệu tấn và thời kì sau cũng có dấu hiệu
kém đi.
Bên cạnh đó, cây lượng thực chính là lúa gạo cũn cú cỏc cây hoa màu như
ngô, khoai, sắn, bắp…cũng chiếm một tỉ lệ không nhỏ song cũng có xu hướng
giảm dần.
“Theo số liệu của báo chí Sài Gòn, số khoai lang thu hoạc năm 1963 là 300170
tấn, năm 1966 là 246150 tấn, năm 1970 là 219150 tấn. Về trồng khoai mì mỗi năm
giảm, sản lượng năm 1970 chỉ bằng 1/2 sản lượng năm 1963, năm 1963 số khoai mì
thu hoạch là 389400 tấn, năm 1965 là 236020 tấn, năm 1970 sản lượng còn 215700
tấn. Bắp cũng được trồng nhiều và sản lượng cũng giảm thu hoạch năm 1970 chỉ bằng
một nửa năm 1964” [4].
Nhìn chung, diện tích, sản lượng năng suất lúa gạo và các cây lương thực
khác đều giảm sút, thua xa trước chiến tranh, nông dân phải rời bỏ ruộng đất dồn
đi các trại dinh điền, khu trù mật, những cuộc đánh phá bằng quân sự liên miên
và đặc biệt “từ năm 1961, việc cướp đoạt lương thực, phá huỷ mùa màng ảnh
hưởng lớn tới việc sản xuất lương thực ở nông thôn. Năng suất lúa thấp còn là
do sức kéo không đủ, thiếu phân bón và kĩ thuật canh tác không được cải tiến…
trong khi đất đai đã bị kiệt quệ do cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp,

và chính sách kinh tế của Mỹ - Nguỵ. Mặc dù chính quyền miền Nam lại ầm ĩ về
cái gọi là “chương trình cải tiến kĩ thuật”. “Nông cụ ở miền Nam vẫn là cái cày,
cái bừa cũ kĩ, một số nông cụ cơ giới được đưa vào miền Nam qua con đường
viện trợ Mỹ thì phục vụ chủ yếu trong các dinh điền. Theo báo “Chấn hưng kinh
tế”, số ra ngày 3/7/1958, thì Mỹ viện trợ cho miền Nam máy móc nông nghiệp
xe cộ chuyên chở trị giá trên 3 triệu đô la và 235.540.300 đồng miền Nam. Do
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
10
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
đó, dinh điền đó cú 237 máy kéo, 23 máy ủi đất, 150 máy bừa, 45 mỏy phỏ bụi
dậm…”[7;94].
Nông nghiệp miền Nam cũng sử dụng một lượng phân bón để nâng cao
năng suất lúa, tuy nhiên chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất lúa gạo ở nơi đây và cỏc
cõy trồng khác. Song một bước đổi mới quan trọng trong sản xuất lúa là việc áp
dụng giống mới, ngay từ năm 1955, Bộ nông nghiệp Mỹ đó giỳp chính phủ Ngụ
Đỡnh Diệm phát triển một số giống lúa mì lai tạo năng suất cao. Và đến giai
đoạn từ năm 1969 đến 1975 thì được áp dụng rộng rãi gọi là lúa “thần nụng”.
“Phát triển giống lúa mới ở Miền Nam
Năm Diện tích (1000ha) Sản lượng(1000 tấn) Năng suất (tấn/ha)
1969 204 927* 4,5
1970 519 2100* 4,5
1971 674 1578* 2,3
1972 835 1859* 2,2
1973 890 1914* 2,1
1974 964 2102* 2,1
1975 1.900 2625** 1,1
Nguồn: Bộ Canh nông.
Trích theo “Tỡnh hỡnh kinh tế Việt Nam 1955 – 1975”, đd, tr.119.

* Sản lượng tính bằng gạo, theo tỷ lệ quy đổi ở miền nam lúc đó là 1 tấn
lúa cho 600 kg gạo.
** Năm 1975 chỉ tính số thu hoạch vụ đụng xuõn”. [6;185]
“Tính chung cả năm 1970 đã đạt hơn 438000 tấn lúa gạo, máy móc, nông
cụ nhập khẩu với số lượng lớn như máy bơm, máy cày, máy đuôi tôm (1970
nhập khẩu 69000 chiếc) [1;59]. Năm 1973 sản lượng lúa đạt 7025000 tấn cao
nhất ở miền Nam Việt Nam.
Ngoài lúa gạo, nền nông nghiệp miền Nam cũn cú một bộ phận rất phong
phú và quan trọng là những diện tích trồng cây công nghiệp và cây ăn trái. Theo
tài liệu của Sở thống kê và Kinh tế nông nghiệp của chính quyền Sài Gòn, diện
tích cây công nghiệp và cây ăn quả như sau:
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
11
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
Các loại cây công nghiệp và cây ăn trỏi chớnh ở miền Nam Việt Nam
Loại cây 1960 1961 1962
Cây ăn trái 46.163 45.890 57.435
Cây có sợi 8.954 12.175 8.412
Cao su 109.470 126.200 135.630
Trà 8.335 9.140 9.350
Cà phê 9.755 10.350 10.410
Dừa 41.818 42.340 43.420
Thuốc lá 9.484 9.390 9.000
Mía 32.759 31.85 28.620
Nguồn: Điều tra của Bộ Lao động Sài Gòn. Theo tin AFP, ngày 1/5/1963. [6;815].
“Sản lượng một số cây công nghiệp cũng tăng lên như cà phê, năm 1955
là 0,1 nghìn tấn, cao su : 62 nghìn tấn, mía : 680 nghìn tấn, chố bỳp : 26 nghìn
tấn. Tương ứng năm 1960 thỡ có 2,7 nghìn tấn; 77,6 nghìn tấn; 1000 nghìn tấn;

4,5 nghìn tấn. Năm 1965 là 3,6 nghìn tấn; 6,4 nghìn tấn; 1092 nghìn tấn; 5,9
nghìn tấn.
Bước sang những năm 1966 – 1968, sản lượng các cây công nghiệp khác
cũng giảm mạnh nhất là cây cao su chỉ còn 40% so với năm 1964.
Sụ phát triển cây công nghiệp có tác dụng rất lớn trong nền kinh tế của
chính quyền Mỹ - Nguỵ, nó còn là loại cây phục vụ cho công nghiệp chiến
tranh, và quân đội quốc gia cộng hoà, và hầu hết sự phát triển cây công nghiệp
được trồng ở các đồn điền lớn và là nơi bóc lột nặng nề sức lao động của nhân
dân miền Nam. Là đây là chính sách hết sức thâm độc của bọn chúng.
Trong nông nghiệp do chính quyền Sài Gòn kiểm soát, thì lĩnh vực chăn
nuôi cũng được phần nào chú ý để đáp ứng nhu cầu thực phẩm cho nhân dân
trong vùng và đặc biệt là quân đội Mỹ - Ngụy. Những vật nuôi chủ yếu như đàn
bò, đàn trâu , lợn…Sản lượng gia tăng của những vật nuôi này không ổn định.
Trong đó đàn bũ khỏ phát triển đạt sản lượng cao vào thời kì 1960 đến 1967 và
cũng có xu hướng giảm vào các thời kì sau, đàn lợn ngày càng tăng và với số
lượng lớn.
Sản lượng chăn nuôi ở miền Nam
Đơn vị: nghìn con
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
12
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
Năm Trâu Bò Lợn
1955 285 474 2095
1956 379 595 2565
1957 544 688 2564
1958 556 840 2329
1959 561 831 2725
1960 754 1078 3620

1961 817 1110 3350
1962 803 1119 2952
1963 848 1183 3331
1964 827 1150 3655
1965 733 1101 3473
1966 751 1014 3247
1967 665 1033 3185
1968 647 953 3553
1969 627 940 3772
1970 565 908 3956
1971 560 898 4072
1972 501 852 4275
1973 491 826 4065
1974 504 995 4358
1975 360 797 1955
[6;821 sđd]
Sự phát triển của ngành chăn nuôi cũng là do ở miền Nam có nhiều điều kiện
thuận lợi như có nguồn thức ăn từ nông nghiệp, thuận lợi về địa hình từ vùng cao
nguyên rộng lớn ở vựng tõy Nguyờn cũng như vùng đồng bằng rộng lớn ở Nam bộ.
Nó cũng góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở miền Nam. Song nó bấp
bênh bởi tình trạng chiến tranh kéo dài và sự thay đổi trong chiến lược kinh tế của Mỹ
- Nguỵ và sự viện trợ của Mỹ đối với quân đội tay sai tại miền Nam Việt Nam.
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
13
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
Nhìn chung, nông nghiệp miền Nam trong vùng kiểm soát của Mỹ - Nguỵ cũng
có sự thay đổi lớn, có nhiều kĩ thuật mới được áp dụng vào nhằm nâng cao hiệu quả
phát triển kinh tế nói chung, miền Nam phát triển kinh tế không chỉ phục vụ tại vùng

mà còn sản xuất theo hướng xuất khẩu như các nông sản lúa gạo và cao su để đổi lại
nhập khẩu những sản phẩm công nghiệp như máy móc, phõn bún…từ cỏc nước trên
thế giới và đặc biệt từ Mỹ người đỡ đầu cho nền kinh tế của chính quyền Sài Gòn.
“Trong nông nghiệp miền Nam trước năm 1975 tồn tại các loại hình kinh tế
như sau:
- Kinh tế tiểu nông, gồm những gia đình nông dân có chút ít ruộng đất và công
cụ sản xuất, nhưng thị thường lĩnh canh thêm ruộng đất của địa chủ.
- Kinh tế trang trại của các hộ gia đình nông dân, đây là hình thức sản xuất
hàng hoá nhỏ trong nông nghiệp, có quy mô ruộng đất lớn hơn tiểu nông nhưng nhỏ
hơn địa chủ, và phú nông. Lực lượng lao động chủ yếu là gia đình, có thuê mướn thêm
một ít lao động nhưng không thường xuyên.
- Kinh tế trang trại của địa chủ, phú nông. Kinh doanh theo phương thức phát
canh, thu tô và người làm thuê.
- Kinh tế đồn điền, do các chủ đồn điền người Pháp kinh doanh. Với quy mô
diện tích ruộng đất canh tác hàng ngàn hộcta chiếm đoạt được, kinh doanh theo
phương thức tư bản chủ nghĩa” [1; 60].
KẾT LUẬN
Sự chia cắt về lãnh thổ của Việt Nam do âm mưu chia cắt của đế quốc Mỹ
và tay sai của chúng đã để lại hậu quả rất nặng nề về nhiều mặt từ phát triển
kinh tế đến văn hoá, xã hội lối sống của cư dân hai miền. Trong suốt hai mươi
năm, với những cố gắng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
14
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
đế quốc Mỹ mà chúng ra sức xây dựng một nền kinh tế thuộc địa và từ đó mà
kinh tế miền Nam được chuyển từ nền kinh tế mang tính chất thuộc địa nửa
phong kiến trở thành nền kinh tế thuộc địa kiểu mới phụ thuộc nặng nề vào bên
ngoài, mà trước hết là Mỹ. Mỹ chi phi cho cuộc chiến tranh Việt Nam khoảng

500 tỷ USD, trong đó viện trợ tài chính cho chính quyền Sài Gòn gần 8 tỷ USD,
còn lại là chi phí quân sự và chi phí khác. Nông nghiệp là một ngành kinh tế
quan trọng không chỉ chung với nền kinh tế Miền Nam, mà còn rất quan trọng
đối với vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Mặc dù nhìn một cách tổng quát
nền kinh tế đú khụng đạt được hiệu quả cao và có tác dụng phát triển đời sống
kinh tế của nông dân miền Nam thời kỡ đú mà chủ yếu phục vụ mục tiêu chiến
tranh của Mỹ - Nguỵ nhưng nó cũng có bước phát triển thay đổi quan hệ kinh tế
lỗi thời tồn tại lâu dài ở miền Nam và có bước phát triển nhất định. Trong quá
trình đấu tranh quân sự và kinh tế với địch Mặt trận giải phóng dân tộc miền
Nam ngày càng đạt kết qủa cao, vùng giải phóng của cách mạng ngày càng được
mở rộng do đó làm thu hẹp vùng kiểm soát của chính quyền Nguỵ, vì vậy, diện
tích canh tác, sản lượng của nông nghiệp có xu hướng giảm dần, song chúng ta
không nên phủ định hoàn toàn sự phát triển kinh tế của miền Nam trong vùng
chính quyền Mỹ - Nguỵ bởi nó cũng có tác dụng nhất định trong sự phát triển
kinh tế chung của cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Văn Chiến. Lịch sử kinh tế Việt Nam. NXB Đại học Quốc Gia Hà
Nội, 2003.
2. Nguyễn Trí Dĩnh, Phạm Thị Quý. Giáo trình Lịch sử kinh tế Việt Nam.
NXB Thống kê, Hà Nội, 2005.
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
15
Bài tiểu luận Chuyên đề: Lịch sử kinh tế Việt
Nam
3. Lê Mậu Hãn (cb). Đại cương lịch sử Việt Nam. Tập III. NXB Giáo dục, Hà
Nội, 2004.
4. Cao Văn Lượng. Chính sách ruộng đất của Mỹ Nguỵ. Nghiên cứu lich sử,
số 6 /1976.
5. Đặng Phong. Kinh tế miền Nam Việt Nam thời kì 1955 – 1975. NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội, 2004.
6. Đặng Phong (cb). Lịch sử kinh tế Việt Nam (1945 – 2000). Tập II (1955-
1975). NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.
7. Nguyễn Phong và Hoàng Linh. Vấn đề nông dân ở miền Nam Việt Nam.
NXB Khoa học, 1962.
8. Lê Quốc Sử. Một số vấn đề lịch sử kinh tế Việt Nam. NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998.
9. Phạm Quang Toàn. Hậu quả 20 năm “bỡnh định” tàn bạo và thâm độc của
Mỹ Nguỵ đối với nông thôn miền Nam Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử, số 6
năm 1976.
10. Phạm Thành Vinh. Kinh tế miền Nam Việt Nam. NXB Sự thật, 1957.
Nguyễn Minh Trang Líp: K54B Khoa Lịch
sử
16

×