Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ đối với các quốc gia Đông Nam Á trong lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.55 KB, 42 trang )

1
Phần 1: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Đông Nam Á với vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên đặc biệt của mình nằm
giữa trục giao lưu Đông – Tây và Nam – Bắc, từ rất sớm đã trở thành con đường
giao thương trên biển nối thông thế giới Đông – Tây, giữa Trung Hoa với Ấn Độ
và thế giới phương Tây và trở thành ngã tư của các nền văn minh.
Trong một không gian như vậy, những nhóm cư dân Đông Nam Á với bản
sắc riêng của mình, ở một trình độ phát triển nhất định – trước ngưỡng cửa xây
dựng quốc gia dân tộc đã mở rộng cửa giao lưu với thế giới bên ngoài trong các
mối quan hệ đến từ biển. Nổi lên trong đó là mối quan hệ giao thương, buôn bán
với những thuyền buôn đến từ Ấn Độ và Trung Hoa. Chính từ con đường giao lưu,
buôn bán này đã là tiền đề, cơ sở để các cư dân Đông Nam Á tiếp thu, học hỏi ở
hai nền văn hóa lớn của thế giới cổ đại lúc bấy giờ.
Những dấu ấn, ảnh hưởng của hai nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa thể
hiện khá toàn diện và sâu sắc trên nhiều mặt trong suốt lịch sử phát triển của các
quốc gia Ấn Độ sơ kì. Đặc biệt, nền văn hóa Ấn Độ cổ điển với những nét gần gũi
về tâm linh, tôn giáo đã dễ dàng chinh phục các cư dân Đông Nam Á. Họ đã đón
nhận nó một cách hoàn toàn tự nguyện, hòa bình từ đó làm phong phú thêm nền
văn hóa bản địa của mình, xây dựng nên một nền văn hóa rực rỡ đóng góp vào kho
tàng văn hóa chung của loài người.
Chọn đề tài “Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ đối với các quốc gia Đông
Nam Á trong lịch sử” làm bài tập kết thúc chuyên đề là một vấn đề có ý nghĩa thực
tiễn giúp nâng cao nhận thức về lịch sử văn hóa của dân tộc và khu vực.
2. Lịch sử vấn đề - Giới hạn phạm vi
Tìm hiểu về lịch sử, văn hóa Đông Nam Á trong bối cảnh có sự giao lưu
tiếp xúc với văn hóa truyền thống Ấn Độ từ lâu đã thu hút khá nhiều sự quan tâm
của các học giả với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.
Trên cơ sở những công trình nghiên cứu của các tác giả, bài tiểu luận chỉ có
tính chất tổng hợp, trình bày lại một cách cơ bản sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
đối với Đông Nam Á trong lịch sử. Trong đó, tìm hiểu sâu hơn về ảnh hưởng của


Ấn Độ đối với văn hóa Chămpa.
3. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm tiểu luận, người viết đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
+ Phương pháp tiếp cận hệ thống: coi toàn bộ sự giao lưu tiếp xúc văn hóa
Ấn Độ - Đông Nam Á là một hệ thống liên hoàn, bao gồm các yếu tố hợp thành và
có mối liên hệ hữu cơ. Đặt mối quan hệ đó trong bối cảnh khu vực và thế giới để
nghiên cứu. Coi Đông Nam Á vừa tham gia vừa chịu sự tác động của những
2
chuyển biến trong mối quan hệ với bên ngoài. Phương pháp tiếp cận hệ thống là
cơ sở để trình bày các vấn đề trong tiểu luận.
+ Phương pháp phân tích và suy nghĩ gián tiếp: Phân tích vị trí địa lí cũng
như điều kiện khách quan và chủ quan khiến cho mối quan hệ Ấn Độ - Đông Nam
Á là trọng tâm diễn ra sớm về mặt thời gian, rộng về mặt phạm vi và chặt chẽ về
mức độ.
+ Phương pháp liên ngành: Tác giả đặc biệt chú trọng phương pháp này
trong quá trình thực hiện bài viết.
Là một đề tài lịch sử, quan điểm khi nghiên cứu là tuân thủ phương pháp
lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài việc phân tích, so sánh mối liên hệ giữa các
sự kiện lịch sử, đề tài cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở bám sát sự kiện
lịch sử, chân thực lịch sử, trình bày lịch sử đúng với những gì như nó đã từng tồn
tại.
4. Bố cục
Tiểu luận gồm 42 trang, được chia thành 3 phần: Mở đầu, nội dung, kết
luận. Trong đó, phần nội dung được chia thành 4 chương.
Chương 1: Khái quát về tự nhiên và lịch sử các quốc gia Đông Nam Á cổ
đại.
Chương 2: Vài nét về văn hóa Ấn Độ.
Chương 3: Nội dung ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ qua các phương diện ở
từng quốc gia Đông Nam Á.

Chương 4: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với trường hợp Chămpa.
Phần 2: Nội dung
Chương I. Khái quát về tự nhiên và lịch sử các quốc gia Đông
Nam Á cổ đại
Đông Nam Á là một khu vực rộng lớn với hai khu vực địa lí lục địa và hải
đảo. Thời cổ đại, ngoài vùng trên còn có Hoa Nam (Trung Quốc) ở phía Bắc, ở
phía Tây đến tận Asam của Ấn Độ.
Căn cứ vào những tài liệu khảo cổ học, dân tộc học, các nhà khoa học đã
xác định được phạm vi của khu vực Đông Nam Á thời cổ. Chính trong môi trường
đó mà cơ tầng văn hóa Đông Nam Á ra đời. Đông Nam Á là một trong những nơi
phát sinh loài người. Ở kỉ địa chất Plêixtoxen xuất hiện người Pitêcantơrốp. Tiếp
đó, người hiện đại Homo Sapiens cũng có mặt ở vùng này. Đại chủng Ôtxtralôit
phân bố chủ yếu ở Đông Nam Á, còn đại chủng Môngôlôit chủ yếu ở Mông Cổ và
Bắc Trung Quốc.
3
Tiếp sau giai đoạn đá cũ, khu vực Đông Nam Á bước vào giai đoạn đồ đá
giữa mà tiêu biểu là văn hóa Hòa Bình. Vào cuối thời kì Hòa Bình, cách đây
khoảng một vạn năm, Đông Nam Á là nơi chứng kiến nền nông nghiệp sơ kì. Do
có địa hình phân tán hẹp, bị chia cắt bởi các dãy núi đá và rừng nhiệt đới với thảm
thực vật dồi dào và quần thể động vật phong phú. Khác với Trung Quốc, Ấn Độ…
ở Đông Nam Á thiếu những cánh đồng rộng để trồng lúa, để chăn nuôi gia súc lớn.
Diện tích ban đầu để trồng trọt quá ít. Từ thời đá mới đến khoảng 4.000 năm TCN,
cư dân Đông Nam Á có đời sống vật chất và tinh thần cơ bản như sau: đã có thể có
nông nghiệp lúa nước, thuần dưỡng trâu bò, về sau đã biết sử dụng kim loại ở
dạng thô sơ, bước đầu làm quen với kĩ thuật khai thác hải sản. Về đời sống tinh
thần: nơi thờ cúng đặt ở chỗ cao, chôn người chết trong chum hoặc dưới các tràng
thạch, vai trò và vị trí của phụ nữ được đề cao.
Tiếp theo, Đông Nam Á cũng bước vào thời đại đồ đồng với nền văn hóa
Đông Sơn mà tính phổ quát của nền văn hóa này ngày càng được thừa nhận.
Đặc biệt, các hiện vật ở Đông Sơn cũng được tìm thấy ở Thái Lan,

Campuchia và nhiều nơi khác. Theo không ít các nhà khoa học, đồ đồng được chế
tạo ở Đông Nam Á có thể có cả trước Trung Quốc và Ấn Độ.
1
Trống đồng, hiện
vật tiêu biểu của thời đại đồ đồng Đông Nam Á được tìm thấy ở nhiều vùng khác
nhau và được những nhà khảo cổ học nhất trí khá cao về nguồn gốc của chúng:
được chế tạo ở Đông Sơn và những vùng phụ cận, rồi được đem trao đổi với các
địa điểm khác.
Tại sao chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn có thể đến cư trú ở các hải
đảo? Lý do trước hết là do cảnh quan địa lí Đông Nam Á. Khu vực Đông Nam Á
nói chung và đặc biệt là bán đảo Đông Dương và các đảo trong vùng, đều chịu ảnh
hưởng của gió mùa. Những luồng gió theo mùa và định hướng đã tạo điều kiện
cho con người có thể vượt biển bằng các phương tiện thô sơ, thuyền buồm. Theo
G. Coedes, tại các vùng Miến Điện, bán đảo Mã Lai và đảo Xumatơra… chế độ
gió hải lưu định kì tạo điều kiện cho hoạt động hàng hải, trao đổi với vùng duyên
hải châu Phi, Ảrập, vịnh Ba Tư, Ấn Độ, Đông Dương và xa hơn là Trung Quốc.
Khu vực nằm giữa bán đảo Đông Dương, dãy bán đảo Mã Lai do biển Trung Hoa,
Thái Lan hợp thành là một “Địa Trung Hải” thực sự.
2
Mặc dù có nhiều trở ngại
khu vực này vẫn là một cầu nối cho cư dân ven sông, biển.
Với việc bước đầu chinh phục biển đã diễn ra sự hội tụ đầu tiên của các yếu
tố văn hóa: rừng núi đồng bằng và biển. Sự hội tụ này đã được thực hiện trong thế
đan xen phức tạp rồi tự định hình những truyền thống chung cũng như riêng: nơi
thì làm ruộng cao, săn bắn, đánh cá nước ngọt, làm nông nghiệp lúa nước…
Sự đa dạng của cư dân Đông Nam Á còn thể hiện ở các sắc tộc nói các
nhóm ngôn ngữ khác nhau. Mặc dù các sắc tộc có sắc thái đa dạng, song các yếu
tố làm cơ tầng văn hóa chung của cư dân Đông Nam Á nói chung đã được định
hình. Trên nền chung của nông nghiệp lúa nước đã tạo nên sự gần gũi trong phong
tục, tập quán, yêu cầu hợp quần để xử lý nước mà trồng lúa, trị thủy – thủy lợi.

4
Đến khoảng thiên niên kỉ II TCN, cư dân Đông Nam Á đã dần dần chiếm
lĩnh các con sông lớn như Mê Công, Mê Nam, Iraoadi, sông Hồng, sông Mã…
Những con sông đó cùng với biển Đông có thể coi là phương tiện hinh thành giữa
các cộng đồng, cư dân trong vùng. Điều đó thể hiện trong những nét tương đồng
của cư dân các quốc gia Đông Nam Á.
Ngay trong thời kỳ tiền sử và sơ sử đã có sự giao lưu của cư dân Đông Nam
Á với các vùng Hoa Hạ và với Ấn Độ. Đó là mối quan hệ hai chiều. Cư dân Bắc
Đông Nam Á đã tiếp thu với văn hóa phương Bắc. Còn người phương Bắc đã tiếp
thu các thành tựu của các tộc phương Nam: những kinh nghiệm trồng lúa nước,
trồng chè, trồng dâu, nuôi tằm…
Đối với Ấn Độ, ngay từ thời kỳ này đã có sự giao lưu với khu vực Đông
Nam Á. Những điểm tương đồng về khí hậu, gần gũi về địa lý tộc người, là cơ sở
ban đầu cho điều đó. Những tộc người ở Đông Ấn có quan hệ mật thiết với một số
tộc người Đông Nam Á tiền sử, trước hết là nhóm tộc người thuộc ngôn ngữ Môn
– Khơme. Cả Ấn Độ và Đông Nam Á đều nằm trong vùng khí hậu châu Á, gió
mùa. Sự tương đồng đó đã tạo điều kiện cho các tộc cư dân Ấn Độ sớm có sự giao
lưu kinh tế, văn hóa với vùng Đông Nam Á.
Như vậy, trước khi có sự xâm nhập chính thức của nền văn minh Ấn Độ,
Trung Hoa, ở Đông Nam Á đã định hình một chỉnh thể. Mặc dù có những nét đặc
thù so với văn minh Trung Quốc, Ấn Độ, giữa Đông Nam Á và hai khu vực lớn
nói trên vẫn có sự giao lưu sơ khởi. Mặt khác, chính nhờ có bản sắc của mình
trước các yếu tố ngoại lai, các tộc người Đông Nam Á bước vào thời kì mới: thời
kì dựng nước và giữ nước.
Trong khoảng 10 thế kỉ đầu công nguyên, ở Đông Nam Á có hàng loạt
quốc gia nhỏ ra đời và phát triển. Thoạt đầu, trên vùng lục địa và hải đảo Đông
Nam Á có hàng chục tiểu quốc phân tán ở các địa bàn hẹp, riêng lẻ và thỉnh
thoảng cũng có những cuộc xung đột, tranh chấp với nhau.
Do nhu cầu trao đổi, bán các vật quý của địa phương mình để đổi lấy đồ thủ
công cao cấp và đồ trang sức của Ấn Độ, Tây Á mà việc buôn bán bằng đường

biển trở nên phát đạt. Trong đó nổi lên nhất là thị cảng Óc Eo ở Nam Bộ và
Táccôla thuộc bán đảo Malaixia.
Việc ra đời các quốc gia cổ Đông Nam Á không tách rời sự tác động về
kinh tế và ảnh hưởng của Ấn Độ. Trong các thế kỉ trước và sau đầu công nguyên,
nhiều quốc gia cổ đại Đông Nam Á đã lần lượt xuất hiện:
Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc: trong các dân tộc Đông Nam Á, người Việt
cổ có nhà nước sớm nhất: nhà nước Văn Lang – Âu Lạc hình thành vào nửa sau
thiên niên kỉ thứ I TCN. Điều này thể hiện khát vọng chung của toàn thể cư dân
Đông Nam Á;
Khu vực quần đảo Inđônêxia: là khu vực cư trú của các nhóm cư dân thuộc
ngữ hệ Mã Lai. Trong những thế kỉ đầu công nguyên, các nhóm đó đều lần lượt
5
thành lập tiểu quốc của họ. Đến khi sự giao lưu giữa các đảo tăng lên thì nhiều
vùng ven biển trở thành các thương cảng sầm uất. Một vài nước mạnh lên đã bắt
đầu muốn giành ưu thế với các xứ khác. Trong các thế kỉ VII – XIII, ở từng đảo
lớn Xuamtơra và Giava các tiểu quốc được thống nhất lại dưới quyền một quốc gia
có thế lực nhất;
Tiểu quốc Phù Nam: ra đời vào thế kỉ I, có địa bàn ở Trung và Hạ lưu sông
Mê Công, thời đại cực thịnh của nó bao gồm hầu hết Nam bán đảo Đông Dương,
thủ đô Vyada – Para (Svâyriêng). Cũng trên địa bàn sinh tụ của người Khơme, có
một loạt tiểu quốc ra đời như Sơretthapura, Isanapira…;
Quốc gia Chămpa: xuất hiện vào cuối thế kỉ II có địa bàn là Trung Bộ Việt
Nam ngày nay;
Các tiểu quốc trên bán đảo Mã Lai: xuất hiện từ cuối thế kỉ II như
Lancasuca, Tambralinga, Táccôla, Catara… của người Môn;
Các quốc gia sơ kì của người Thái: trên đồng bằng Mê Nam vốn có mặt các
tiểu quốc người Môn, người Thái vốn sống ở Nam Trung Hoa, di dân xuống Bắc
Thái Lan từ thế kỉ VII. Tại vùng này xuất hiện quốc gia Thái có kinh đô là Chiêng
Xen. Năm 1096, vương quốc Payao ra đời ở hạ lưu sông Ping, sông Oang. Thế kỉ
XIII, người Thái tiếp tục di cư ồ ạt xuống miền Nam cư trú lưu vực sông Mê Nam

và thượng lưu sông Mê Công. Đến giữa thế kỉ XV, các vua thuộc triều Authaya đã
chinh phục các nước khác thống nhất miền đồng bằng Mê Nam, lập nên vương
quốc Thái;
Vương quốc Campuchia: ở thế kỉ V, xã hội có giai cấp và nhà nước của
người Khơme đã được hình thành. Lúc đầu họ sống ở phía Bắc sau lấn dần xuống
phía Nam;
Vương quốc Lào: năm 1353, Pha Ngừm đã tập hợp, thống nhất các bộ lạc
lại, lập nên quôc gia mới gọi là Lan Xang.
Như vậy, trừ nước Văn Lang – Âu Lạc, từ sau CN, các vương quốc (hay
tiểu quốc) lần lượt đã được hình thành ở Đông Nam Á. Sau khi nhà nước được
thành lập, đời sống kinh tế xã hội và văn hóa ở Đông Nam Á có điều kiện phát
triển. Do ở vị trí địa lí thuận lợi, các nước Đông Nam Á được các nhà thám hiểm,
hàng hải, buôn bán lui tới; các hải cảng trở thành các trạm dừng chân của các đoàn
thuyền buôn với tiềm lực ngoại thương lớn. Đó chính là tiền đề cho sự giao lưu,
tiếp xúc văn hóa với bên ngoài.
Chương II. Vài nét về văn hóa Ấn Độ
1. Nguồn gốc và yếu tố cấu thành.
Ấn Độ là một địa hình tam giác lớn, một “tiểu lục địa” ở Nam Á, bị ngăn
cách với thế giới bên ngoài bởi Ấn Độ Dương và dãy núi Himalaya hùng vĩ.
6
Địa hình Ấn Độ rất đa dạng và được chia làm ba khu vực rõ rệt: vùng núi
Himalaya, vùng đồng bằng sông Ấn – Hằng và cao nguyên Đêcan. Địa hình chia
cắt là nguồn gốc phân tán Ấn Độ thành các tiểu quốc từ xa xưa.
Sự đa dạng của Ấn Độ còn thể hiện ở các mặt xã hội, dân tộc, ngôn ngữ,
tôn giáo… sự phân tán về chính trị. Tuy vậy, sự đa dạng, phức tạp của Ấn Độ từ
thời xa xưa vẫn được xem như trong một thể thống nhất.
Ngoài nguồn gốc lịch sử, văn minh Ấn Độ còn được cấu thành bởi những
yếu tố khác.
Nền văn minh trên bán đảo Ấn Độ phát triển một cách đều đặn lạ thường từ
thời Mohengiô – Đarô cho đến ngày nay, một xứ sở mà nền văn minh đã có từ bao

đời trước khi có người phương Tây đến “khai phá”.
Nền văn minh Ấn Độ được cấu thành bởi các yếu tố kinh tế, chính trị, xã
hội mà từ đó tạo ra đời sống văn hóa tinh thần sau:
Đời sống kinh tế của Ấn Độ truyền thống chủ yếu dựa vào nền kinh tế tự
nhiên, tự túc, tự cấp – kinh tế nông nghiệp. Trong các làng xã, tế bào kinh tế xã
hội Ấn Độ - người nông dân thường ở trong những nếp rơm rạ cổ truyền. Đã bao
đời, người dân Ấn thường vất vả với ba vụ gặt chính cùng ba loại cây ngũ cốc
riêng.
Ấn Độ là nước có truyền thống lâu đời về thủ công nghiệp. Ngay từ thời
Harappa, Mônhegiô – Đarô, đã có một số nghề thủ công phát triển cao như kim
hoàn, chạm khắc, đúc đồng, mộc… Kỹ thuật nấu và luyện sắt cũng có từ lâu. Dệt
là nghề thủ công nổi tiếng nhất của Ấn Độ. Người Ấn cũng nổi tiếng về nghệ thuật
làm đồ trang sức.
Về thương nghiệp, ngay từ thời cổ xưa, Ấn Độ đã phát triển thương nghiệp
nội địa, ngoại thương.
Đời sống chính trị - xã hội: nét nổi bật của xã hội Ấn Độ cổ đại là chế độ
đẳng cấp và công xã nông thôn.
Tế bào cơ sở của xã hội Ấn Độ truyền thống là cộng đồng làng xã. Đây là
một thiết chế kinh tế - xã hội xuất hiện từ sớm và được duy trì qua suốt các thời kì
lịch sử.
Sự tồn tại bền vững của công xã đã làm hạn chế đến sự phát triển của kinh
tế hàng hóa, đóng khung sự hiểu biết của thành viên công xã trong phạm vi nhỏ
hẹp của công xã, thờ ơ với vận mệnh của đất nước, cố giữ lấy tập tục cổ làm cho
xã hội Ấn Độ phát triển chậm. Tuy nhiên, chính cộng đồng làng xã Ấn Độ là một
trong những yếu tố quan trọng làm cho nước này giữ được bản sắc truyền thống
văn hóa cổ xưa.
Chế độ đẳng cấp Vacna: không ở đâu trong các quốc gia cổ trung đại, sự
phân cách về dòng họ, tổ tiên, tôn giáo, nghề nghiệp lại sâu sắc và khắc nghiệt như
ở Ấn Độ, đó là chế độ chủng tính Vacna – hình thức sơ đẳng của chế độ đẳng cấp.
7

Các chủng tính ở trên một vùng nhất định, có cùng nghề nghiệp, nghi lễ tôn
giáo, cùng một hạng người trong xã hội. Thoạt đầu, Vacna được dựa trên cơ sở
phân biệt màu da. Dần dần, trong xã hội Ấn Độ đã hình thành một hệ thống Vacna
với bốn đẳng cấp chính:
+ Đẳng cấp quý tộc tăng lữ Bàlamôn
+ Đẳng cấp Ksatơria, gồm quý tộc, vương công, võ sĩ
+ Đẳng cấp bình dân Vaisa gồm hầu hết người bình dân Aryan
+ Đẳng cấp Suđra là cư dân bản địa bị người Aryan chinh phục
Ngoài bốn đẳng cấp chính, còn có một số đẳng cấp bị coi là thấp hèn nhất,
như Paria, Chandala… với biết bao quy định ngặt nghèo được đặt ra: hôn nhân
giữa các đẳng cấp bị cấm, người Paria không được cắt tóc, không được đưa đồ
uống cho người Bàlamôn, thậm chí không được dẫm lên bóng người Bàlamôn…
3
Việc phân chia đẳng cấp vô lý đó được giải thích bằng các tôn giáo và được
các thành kiến tôn giáo củng cố, duy trì lâu dài trong lịch sử Ấn Độ. Ở Ấn Độ cổ
đại, có không ít những người nô lệ, song đó không phải là những nô lệ điển hình
như ở phương Tây mà là nô lệ gia trưởng tùy thuộc vào gia đình chủ và cũng có
nô lệ của tập thể.
Đến thời kì trung đại, ngoài chế độ Vacna còn có chế độ Giati, có nghĩa gốc
là thị tộc, bộ lạc. Tuy giống Vacna ở chỗ chia cư dân thành các nhóm xã hội đóng
kín, song Giati lạ có những mặt khác. Do có sự biến đổi của xã hội mà địa vị các
Giati có thay đổi và khác nhau tùy theo từng vùng do vai trò của nghề nghiệp mà
họ đảm nhận.
Gia đình: Tế bào cơ sở của xã hội Ấn Độ truyền thống là gia đình, vào đầu
thời kỳ Vêđa, địa vị của phụ nữ được coi trọng. Về sau, do sự phát triển của xã hội
mà vị trí người đàn ông đã được đề cao hơn và ngày càng được củng cố bởi các
quan niệm tôn giáo. Một số lớn gia đình Ấn Độ là gia đình đồng tộc gồm bố mẹ,
anh, chị, con cháu nội ngoại, đầy tớ… Đó là loại gia đình phụ hệ với quyền lực rất
lớn của người đàn ông. Sau nữa, do ảnh hưởng của đạo Hồi mà vị trí của người
phụ nữ càng suy giảm.

Về chế độ nhà nước: Lịch sử Ấn Độ từ khi có nhà nước đều theo chính thể
quân chủ, cha truyền con nối. Về nguyên tắc, nhà vua nắm quyền hành cao nhất,
có quyền lực tuyệt đối, có nhiệm vụ cai trị đất nước bằng sự công bằng, nhân từ và
chống lại sự xâm nhập từ bên ngoài. Ngoài ra, còn có các nước nhỏ theo chính thể
“cộng hòa” mà thực chất là phát triển thể chế dân chủ thị tộc.
2. Một số thành tựu văn hóa Ấn Độ cổ đại.
2.1 Tôn giáo và triết học
Có thể nói, Ấn Độ là đất nước của tôn giáo và triết học vì đây là quê hương
của hai tôn giáo lớn: Hinđu giáo và Phật giáo. Tỷ lệ cư dân theo tôn giáo ở Ấn Độ
rất cao. Ngoài ra còn có nhiều tôn giáo khác như đạo Hồi, đạo Xích, đạo Thiền…
8
Tôn giáo phản ánh sâu sắc vào hoạt động của mọi tầng lớp xã hội đã tạo nên
nguồn cảm hứng của các loại hình nghệ thuật, các công trình điêu khắc, hội họa.
Triết học và tôn giáo có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Tôn giáo là triết học
được nâng lên thành đức tin và triết học là những suy tư siêu hình của tôn giáo.
Ngay từ đầu, triết học Ấn Độ đã có những nét độc đáo riêng của mình, nó
thể hiện những suy tư và đời sống tâm linh của con người.
Từ các tác phẩm cổ đại như kinh Vêđa, nhất là Mahabaharata có thể thấy
được những nét tương đồng: đó là tính thống nhất, đa dạng. Các tôn giáo, trường
phái của triết học Ấn Độ ít khi bài trừ, đối lập nhau mà có không ít những khái
niệm chung cho cả tôn giáo, triết học như nghiệp báo (Karma), luân hồi (Samara),
cấm sát sinh (Ahimsa)… Một trong những vị thần tối cổ nhất là Visnu, thì hóa
thân “thứ 9 của vị thần này là Thích Ca của đạo Phật”. Đó chưa kể sự vay mượn
nội dung của giáo lý.
+ Đạo Hinđu: Đạo Hinđu hay (Ấn Độ giáo) là tôn giáo chính của người Ấn
Độ. Đạo Hinđu có nguồn gốc từ những tín ngưỡng Vêđa cổ xưa, trải qua giai đoạn
phát triển của đạo Bàlamôn. Điều khác biệt là nó không lan tỏa ra các nước để trở
thành một tôn giáo có tính chất thế giới. Trong suốt lịch sử của mình, đạo Hinđu
không phải là một tôn giáo đóng kín mà luôn tiếp thu giáo lý của các tôn giáo khác
và thay đổi cho phù hợp.

+ Đạo Phật (Buddhism): là tôn giáo thế giới xuất hiện sớm nhất, đã và đang
đóng vai trò quan trọng trong lịch sử các dân tộc châu Á. Quê hương của đạo Phật
là một xứ sở nhỏ ở Đông Bắc Ấn Độ. Từ khi xuất hiện (vào cuối thế VI TCN) cho
đến nay đạo Phật đã được truyền bá tới hầu hết các nước Đông Á và Đông Nam Á.
Tuy nhiên, chính tại quê hương của đạo Phật, số phật tử chỉ chiếm chưa đến 1%.
+ Đạo Giaina (Jainism): Đạo Giaina hay còn gọi là đạo thiền do Mahavina
sáng lập vào thế kỉ VI TCN, cùng thời với sự ra đời của đạo Phật. Về sự tích ra đời
và giáo lý căn bản, đạo Giaina khá giống đạo Phật. Giaina giáo đặc biệt đề cao
Ahimsa (không mưu hại sinh linh) và sống theo chủ nghĩa khổ hạnh.
+ Đạo Xích (Sikhism): Đạo Xích ra đời trên cơ sở kết hợp đạo Hinđu và
đạo Hồi. Người đứng đầu tôn giáo này là pháp sư Guru. Trong lịch sử đạo Xích
chỉ có 10 Guru. Guru thứ 10 thành lập một đạo quân tôn giáo để chống lại sự đàn
áp của Hồi giáo. Trong mấy thế kỉ tồn tại, tín đồ đạo Xích thường bị lợi dụng gây
nhiều hoạt động khủng bố, ám sát…
2.2 Thần thoại và văn học
Ở Ấn Độ, thần thoại đã in dấu đậm nét lên đời sống, vừa thể hiện những
khát vọng tâm linh cao siêu, vừa thấm đượm sâu sắc tính trần tục của con người
trần thế.
Gắn liền với tôn giáo, thần thoại bắt nguồn cùng sự ra đời và lan tỏa của
các tôn giáo ở Ấn Độ, đồng thời thần thoại cùng tồn tại và phát triển với triết học
và đôi khi hòa tan với nhau.
9
Kinh Vêđa và các tác phẩm cổ điển đã ghi lại những truyện thần thoại cổ
xưa của Ấn Độ nhằm lí giải về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc các loài và thủy tổ
loài người… Những quan niệm về vũ trụ, về tự nhiên, con người… trong thần
thoại Ấn Độ cũng biến đổi dần theo quá trình biến đổi của đời sống vật chất, tinh
thần, tôn giáo và xã hội của họ.
Những biểu tượng thần thoại chủ yếu được đề cập tới là các vị phúc thần,
hung thần, các thần linh làm những nhiệm vụ trấn giữ bầu trời, trái đất, nhà cửa,
ao hồ, sông suối… Các biểu tượng về loài vật cũng chiếm vị trí quan trọng. Loài

vật thường được linh hóa trong các thần thoại như ngựa, voi, rắn, khỉ, bò. Chúng
cũng có mặt trên các công trình điêu khắc, hội họa ở Ấn Độ cổ xưa. Hình ảnh con
linh điểu (garuđa) – một loại đại bàng – đã xuất hiện nhiều trong thần thoại, truyền
thuyết và cổ tích.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng sâu sắc của đạo Hinđu, thần linh trong thần thoại
Ấn Độ thường là hóa thân của các thần Brama, Visnu và Siva… với cả nam thần
và nữ thần, hung thần và phúc thần…
Ngôn ngữ biểu đạt cơ bản trong nhiều thế kỉ là tiếng Phạn (Sanscrit). Đó là
một ngôn ngữ có nguồn gốc từ ngữ hệ Ấn – Âu và có quan hệ mật thiết với các
ngôn ngữ Ba Tư, Ả Rập. Nhưng dù có ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống tinh
thần Ấn Độ, tiếng Phạn vẫn là một ngôn ngữ bác học, ít phổ biến trong quần
chúng. Tiếng Phạn đã biến thái thành một số ngôn ngữ gần gũi khác như tiếng Pali
hay tiếng Prakít.
Từ thế kỉ XII trở đi, nhiều phương ngữ, thổ ngữ được sử dụng trong các tác
phẩm văn học, trong đó, tiếng Hinđi, tiếng Bengali, tiếng Uôcđu và nhóm ngôn
ngữ Đraviđa ở Nam Ấn Độ là phổ biến hơn cả.
Các tác phẩm văn học cổ điển ở Ấn Độ là bộ kinh Vêđa, kinh sách Phật
giáo. Các bộ sử thi đồ sộ ra đời và được phổ biến khá rộng rãi trong quần chúng
nhân dân. Hai bộ sử thi lớn nhất và nổi tiếng nhất của Ấn Độ là Mahabharata và
Ramayana. Đây là những công trình văn học nổi tiếng, được bổ sung từ thế hệ này
sang thế hệ khác và trở thành niềm tự hào của nền văn hóa cổ đại Ấn Độ.
2.3 Nghệ thuật
Các ngành nghệ thuật Ấn Độ sớm ra đời và phát triển gắn liền với tôn giáo
và các quan niệm triết học. Từ thời xa xưa đã có nhiều bức vẽ trên vách đá hang
động. Những thành phố thời văn hóa Harappa đã để lại dấu vết của nhiều công
trình kiến trúc và nhiều bức tượng bằng đá rất nổi tiếng. Sự phát triển của đạo Phật
được ghi nhận qua di tích các ngôi chùa tráng lệ, những mộ tháp cao vút và những
tượng Phật uy nghiêm. Có thể kể đến ngọn tháp Sanchi ở Trung Ấn cao 16m, xung
quanh có lan can và 4 cửa lớn đều bằng đá được khắc rất công phu. Những gian
chùa hang khoét sâu vào vách đá ở Agianta có nhiều cột chống là công trình hết

sức độc đáo, được xây dựng từ thế kỉ II TCN. Khoảng 500 bức bích họa ở Agianta
mô tả sự tích đức Phật Thích Ca với nhiều màu sắc, nhiều nét vẽ linh hoạt để lại
giá trị mỹ thuật rất cao, bao đời qua vẫn không phai mờ. Ở miền Tây và miền
10
Trung Ấn Độ như Bhaja, Kacla, Elêphanta… cũng có nhiều chùa hang tương tự
của đạo Phật, đạo Giaina và đạo Hinđu. Các đền thờ vùng Trung và vùng Nam
thường hợp thành những quần thể di tích rất đặc biệt, mang đậm bản sắc dân tộc.
Nét tiêu biểu nhất trong nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ là tượng Phật và tượng
Thần của đạo Hinđu. Những bức tượng Phật Thích Ca bằng đá và một số ít bằng
đồng thường được thể hiện ở ba tư thế: đứng – tượng trưng quyền lực, ngồi – thiền
định, nằm chống tay lên thái dương – nhập tịch Niết Bàn. Đối với đạo Hinđu, có
một số ít là tượng Brahma và Visnu, còn phần nhiều là tượng thần Siva.
Các tượng thần hoặc được thể hiện như người, hoặc là hình ảnh các hóa
thân như lợn rừng, nhân sư mình người đầu sư tử. Có thể thấy tượng thần Siva ở
khắp các miền Ấn Độ với con mắt thứ ba ở giữa trán (con mắt hướng nội tâm)
cùng những dấu hiệu khác như tượng bò rừng Nanđin là vật cưỡi của thần, hoặc
trụ đá Linga là biểu tượng sinh thực khí nam giới. Bên cạnh tượng thần linh còn có
nhiều tượng thú vật gắn liền với một điển tích tôn giáo như tượng sư tử ở cột đá
Sacnat, tượng voi và bò rừng ở khu đền Mahabalipurami, tượng khỉ Hanuman ở
miền Nam Ấn Độ cũng như các loài vật mang tính thần linh như chim thần
Garuđa, rắn thần Naga, thủy quái Makara…
Đạo Hồi cũng ghi dấu ấn đậm nét trong nền kiến trúc và nghệ thuật điêu
khắc Ấn Độ. Những nhà thờ Hồi giáo, các cung điện, lăng tẩm mang nhiều dáng
dấp Ảrập, Ba Tư hay cũng đã “Ấn hóa” với những đặc điểm kiến trúc Ấn Độ.
Đêli, Phatecpua Sikri và Agra là 3 thành phố trung tâm kiến trúc đạo Hồi vì đã
từng là kinh đô của các vương triều Hồi giáo. Tháp Kutup Minar ở Đêli, cao 73m
gồm 5 tầng với 376 bậc cuốn vòng dẫn lên đỉnh, được xây dựng vào đầu thế kỉ
XIII. Tòa thành Lan Kila (Thành Đỏ) có bức tường thành cao 22m bằng sa thạch
đỏ, bên trong có nhiều cung điện, giáo đường nguy nga lộng lẫy. Còn rất nhiều
công trình kiến trúc cùng những tác phẩm hội họa và điêu khắc tạo nên niềm tự

hào của nền văn hóa Ấn Độ.
2.4 Khoa học
Khoa học cổ đại khá phát triển, lúc đầu, nó gắn liền với tôn giáo. Các tăng
lữ Bàlamôn giáo đã nghiên cứu thiên văn, thời tiết, mùa màng để dùng trong nghi
lễ (xác định ngày giờ hành lễ, tổ chức tắm nghi lễ vào mùa xuân đầu năm…). Các
bàn thờ trong đạo Bàlamôn phải kê theo những hướng nhất định với những kích
thước và thể tích thống nhất, do đó đã thúc đẩy khoa hình học và số học phát triển.
Từ những chữ số đầu tiên đó, các nhà bác học Ấn Độ đã phát minh ra những chữ
số mà sau này người ta gọi lầm là “chữ số Ảrập”, biết được 8 phép tính cơ bản của
số học và những khái niệm về số vô tỉ, lý thuyết về đại số học cao cấp, về lượng
giác học… Những nhà toán học, nhà thiên văn học nổi tiếng nhất của Ấn Độ cổ
đại là Aryabhata (thế kỉ V), Brahma Gupta (thế kỉ VII), Mahavira (thế kỉ IX) và
Bhaskara (thế kỉ XII).
Người Ấn Độ cũng đã soạn ra Niên lịch từ rất sớm. Buổi đầu họ dùng âm
lịch có 12 tháng, mỗi tháng chia làm 2 nguyệt bán, mỗi nguyệt bán gồm 15 ngày
11
và cứ hai hoặc ba năm lại có một tháng nhuận. Từ thời đại Gupta, dương lịch đã
được du nhập vào Ấn Độ: một năm được chia thành 12 tháng, gọi tên theo 12 cung
trong hoàng đới, tuần lễ có 7 ngày, cũng theo tên của các tinh tú như lịch Hy Lạp –
Rôma. Từ thế kỉ I TCN, người Ấn Độ cũng đã đặt ra các kỷ nguyên để ghi chép
các biến cố quan trọng. Thoạt đầu, đó là những năm lên ngôi của các vua. Về sau,
một số kỷ nguyên được đặt ra có tính toán lâu dài.
4

Người Ấn Độ cổ đại cũng đạt được nhiều thành tựu trong ngành thực vật
học và y dược học. Sự hiểu biết về các loại cây cỏ cần thiết cho sự chuẩn bị cúng
tế và làm thuốc. Về dược liệu, người Ấn Độ biết sử dụng cả hai loại vô cơ và hữu
cơ. Một vài chất có công hiệu rất cao (như chữa bệnh hủi). Trong khoa học giải
phẩu, tuy chưa hiểu biết được đầy đủ và chính xác về cơ thể con người, thầy thuốc
Ấn Độ đã có thể mổ bệnh nhân để lấy sạn bệnh nhân trong bàng quan, mổ dạ con

để lấy thai nhi ra khỏi bụng mẹ, giải phẩu thẩm mĩ, vá môi, chữa mũi, tai… người
Ấn Độ rất quan tâm đến khoa trường sinh học, chú ý phòng bệnh, giữ vệ sinh. Hai
thầy thuốc nổi danh ở Ấn Độ cổ đại là Charaka (thế kỉ I – II), ngự y của vua
Kaniska và Suskuta (thế kỉ IV). Trong xã hội Ấn Độ cổ đại, giới Vaidyas (y sĩ) rất
được mọi người tôn trọng.
3. Quá trình lan tỏa và thâm nhập của văn minh Ấn Độ đến khu vực
Đông Nam Á
Người Ấn Độ đã biết đến Đông Nam Á khá sớm. Ramayana có nhắc đến
đảo Giava và Xumatơra. Theo các tài liệu cổ của Ấn Độ, mối quan hệ giữa bán
đảo Hindustan với xứ Đông Nam Á có từ lâu. Có khả năng từ xưa, người Ấn Độ
đến đây tìm vàng vì các tài liệu đó gọi đây là xứ sở vàng hay đảo vàng
Niddesa, một thư tịch Phật giáo bằng tiếng Pali đã kể tên các địa danh
người Ấn thường qua lại: Takkola ở Bắc Mã Lai, Kapuradvipa, Nakikeladvipa và
Đảo Vàng – chỉ vùng Inđônêxia. Như vậy có khả năng, ngoài vàng, người Ấn Độ
xưa kia đến buôn bán các sản vật quý, đá quý, gia vị, hương liệu… với Đông Nam
Á để trao đổi ở các xứ khác.
Đặc biệt sau Đại hội Phật giáo (năm 242 TCN) ở kinh đô Pataliputra, hoàng
đế Asôca đã cho nhiều nhà tu hành đến truyền bá đạo Phật ở các xứ thuộc Đông
Nam Á mà trước hết là Xâylan, Miến Điện, Mã Lai, Sumatơra…
Tại lưu vực sông Mê Nam, người ta đã tìm thấy bằng chứng về điêu khắc
và kiến trúc kiểu Phật giáo Amaravati. Có thể kể thêm những hiện vật tìm thấy ở
Óc Eo (Nam Bộ, Việt Nam), tượng Phật ở Đồng Dương (Quảng Nam), ở
Sumatơra… Tóm lại có nhiều bằng chứng cho thấy có sự ảnh hưởng của văn hóa
Ấn Độ đến Đông Nam Á từ những thế kỉ TCN.
Từ thế kỉ I, II trở đi ảnh hưởng đó càng mạnh do từng đợt sóng di cư từ Ấn
Độ tràn sang phía Đông và Đông Nam, đến Xâylan, Miến Điện, Mã Lai, Giava,
Sumatơra, Bocnêo, Xiêm, Campuchia… một số khác đi ra biển. Quá trình này
diễn ra trong một thời gian dài.
12
Người Ấn di dân trực tiếp (hoặc qua khâu định cư trung gian) đều do nhà

nước tổ chức và tên các khu định cư đó thường là địa danh Ấn Độ cũ: như
Campuchia, xưa gọi là Kambja – một thành phố nổi tiếng của Ấn Độ cổ xưa ở
vùng Tây – Bắc Ấn Độ.
Nguyên nhân thúc đẩy sự lan rộng mạnh mẽ của văn minh Ấn Độ đến
Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, trước hết là do sự gần gũi về địa
lý, sự tương đồng của cơ tầng văn hóa nông nghiệp cổ xưa, sự giống nhau về
phong tục tập quán, văn hóa dân gian, các di tích khảo cổ… Tiếp đó, là do nhu cầu
tìm sản vật địa phương và địa bàn buôn bán mới.
Việc các lái buôn Ấn Độ thi nhau tìm vàng ở vùng này đã đẩy nhanh tốc độ
giao lưu giữa hai khu vực. Hơn nữa, sự phát triển giao lưu nói trên lại được điều
kiện vật chất kỹ thuật cho phép, đó là nhờ tiến bộ của kỹ thuật hàng hải. Người Ấn
Độ đã học được kỹ thuật đi biển, kỹ thuật đóng tàu lớn của người Ba Tư biết lợi
dụng gió mùa ở Ấn Độ Dương để chạy những thuyền buồm có sức chở 600 - 700
người và thực hiện được những chuyến đi dài ngày trên biển. Từ Ấn Độ tới Đông
Nam Á có thể đi bằng đường bộ qua vùng Assam và Arakan, nhưng đi bằng
đường biển sẽ nhanh hơn và chở được nhiều hàng hóa hơn. Do vậy, tiền đồng Ấn
Độ ở thế kỉ II, III đều có hình vẽ một chiếc tàu có hai buồm.
5
Cuộc chinh phục
Xâylan được tiến hành bởi các thuyền chở voi của Ấn Độ. Các hải cảng ở Nam
Ấn, Đông Ấn là nơi xuất phát thuận tiện cho các chuyến đi biển dài ngày.
Như vậy, một nền kinh tế đang phát triển, mở rộng và tìm kiếm thường
xuyên thị trường xa, cùng với nó là sự phát triển của hàng hải là nguyên nhân quan
trọng thúc đẩy sự lan rộng của nền văn hóa Ấn Độ đến Đông Nam Á.
Một nguyên nhân đáng kể nữa là do sự phát triển cao của văn hóa Ấn Độ,
của các tôn giáo, nhất là Phật giáo. Tư tưởng Ấn Độ nói chung, của các tôn giáo
Ấn và nhất là của Phật giáo nói riêng, được truyền bá thuận lợi và do bản thân
giáo lý của nó. Trước kia, người Ấn Độ theo Bàlamôn giáo rất sợ uế tạp vì phải
tiếp xúc với các “chủng tộc dã man”. Giáo lý Bàlamôn cấm bất kì tín đồ nào vượt
biển để tiếp xúc với người nước ngoài mà họ coi là “không trong sạch”. Nếu ai vi

phạm sẽ bị khai trừ khỏi đẳng cấp. Quy định ngặt nghèo đó phần nào cản trở việc
xuất dương của họ. Những tín đồ Phật giáo và các tôn giáo khác đã gạt bỏ được
những trở ngại về tâm lí đó. Nhờ tinh thần truyền giáo và không có thành kiến
chủng tộc, Phật giáo đã mở đường cho người Ấn Độ đến Đông Nam Á. Các tôn
giáo khác cũng phát triển thuận lợi ở “vùng đất mới”. Dần dần, cản trở tâm lý đối
với việc “xuất dương” mất đi và trong số những người Ấn Độ đến Đông Nam Á
giai đoạn đầu người ta còn thấy có cả các tu sĩ Bàlamôn.
Như vậy, nguyên nhân chính của việc truyền bá văn hóa Ấn Độ ra bên
ngoài là do hoạt động của các thương nhân, thủy thủ và sự truyền bá tôn giáo ở
miền ngoại Ấn và sự tăng trưởng giao lưu kinh tế đã kéo theo việc đẩy mạnh giao
lưu văn hóa giữa Ấn Độ với Đông Nam Á.
13
Theo sau các thương nhân, thủy thủ và nhà tu hành là những người thuộc
tầng lớp trí thức thượng lưu, những người thuộc đẳng cấp vũ sĩ Ksatơra bị thất thế,
các tăng lữ Bàlamôn vứt bỏ thành kiến xuất dương. Đất đai Đông Nam Á, nơi có
một cơ tầng văn hóa gần gũi với Ấn Độ, điều kiện tự nhiên phong phú với dân cư
hiền lành, mến khách đã hấp dẫn họ. Những địa bàn dần trở thành nơi cư trú riêng
của người Ấn Độ. Tại những nơi này, dần dần hình thành các trung tâm văn hóa,
kinh tế với những biểu hiện ngày càng rõ nét của văn hóa Ấn Độ, đồng thời có sự
đan xen với văn hóa địa phương.
Ở những nơi thuận lợi, từ các tổ chức kinh tế sơ khởi đã hình thành quốc
gia chính trị có tổ chức. Các quốc gia Đông Nam Á loại này được các học giả
phương Tây gọi là các quốc gia “Ấn Độ hóa”. Mặc dù cách dùng như vậy không
chính xác lắm vì các quốc gia Đông Nam Á vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc
đậm nét của mình, có nền tảng khác Ấn. Chúng ta dùng thuật ngữ “Ấn Độ hóa” đó
với ý nghĩa để chỉ các quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Ấn Độ.
Vậy thực chất của công cuộc “Ấn Độ hóa” là gì? Đây không phải là một
cuộc xâm lược bằng vũ lực để chiếm đất đai, di dân lập ấp, mà đó là một sự thâm
nhập hòa bình không có kế hoạch vạch ra từ đầu. Các quốc gia “Ấn Độ hóa” đó lại
không lệ thuộc gì đến Ấn Độ, mà chỉ duy trì các mối liên hệ văn hóa và văn minh

chung, quan hệ bình đẳng với Ấn Độ. Tuy nhiên, kết quả của sự xâm nhập đó hết
sức lớn: đó là sự truyền bá rộng rãi của văn minh Ấn Độ sang khu vực Đông Nam
Á, góp phần đẩy mạnh quá trình tan rã của chế độ công xã nông thôn và quá trình
hình thành xã hội có giai cấp và nhà nước đầu tiên ở đây. Đồng thời, ảnh hưởng đó
còn tiếp tục tồn tại trong suốt chiều dài lịch sử của các nước Đông Nam Á.
Chương III. Nội dung ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ qua các
phương diện ở từng quốc gia Đông Nam Á
Theo nhận xét của J. Nehru trong cuốn Phát hiện Ấn Độ người Ấn Độ khi
vượt qua hàng rào núi cao, biển rộng, không chỉ mang theo cả các lý tưởng khác,
nghệ thuật, buôn bán, ngôn ngữ, văn học và các phương pháp cai trị. Họ đã góp
phần mang theo cả các lý tưởng khác, nghệ thuật, buôn bán, ngôn ngữ, văn học và
các phương pháp cai trị. Họ đã góp phần xây dựng các quốc gia “Ấn Độ hóa” hay
một Đại Ấn mà tinh thần không kém Đại Hi Lạp. Ảnh hưởng của Ấn Độ lan trên
một địa bàn khá lớn. Nền văn minh Ấn Độ đặc biệt bắt rễ nhanh ở các nước Đông
Nam Á. Bằng chứng về điều đó có thể tìm thấy ở khắp nơi, trên phương diện ngôn
ngữ, văn học hoặc các di tích văn hóa khác. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trong
khu vực Đông Nam Á đã đem lại nhiều thành tựu cho sự phát triển lịch sử của khu
vực này. Đó là những ảnh hưởng trong các lĩnh vực tôn giáo (đạo Phật và đạo
Hinđu), mĩ thuật (chủ yếu là điêu khắc và kiến trúc), chữ viết (chữ Phạn), văn học
(nhất là văn học dân gian)… Đó là chưa kể đến những ảnh hưởng về phong tục tập
quán, lối sống. Ngoài ra, những ảnh hưởng về thiết chế xã hội, nhà nước của Ấn
Độ cũng tác động đến sự hình thành, phát triển của nhà nước ở Đông Nam Á.
14
Văn hóa Ấn Độ dung hợp với văn hóa bản địa tạo nên nhiều sắc thái đa
dạng song không mất đi bản sắc địa phương. Giáo sư Lương Ninh đã nhận xét một
cách xác đáng: “Hình như mỗi nước Đông Nam Á đã chọn trong cây cổ thụ xum
xuê của Ấn Độ một vài cành lá thích hợp với mình”.
6
1. Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ ở Đại Việt
Trong thời kì Văn Lang – Âu Lạc, chúng ta chưa tìm thấy bằng chứng của

ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Ảnh hưởng đó chỉ thấy rõ trong những thế kỉ đầu của
công nguyên, mà trước hết là Phật giáo.
Phật giáo vào Giao Châu từ rất sớm, có rất nhiều ý kiến nhất trí cho rằng,
Phật giáo đã thâm nhập đến Giao Châu bằng cả đường biển từ phương Nam và
đường bộ từ phương Bắc. Ở đời Hán, có ba trung tâm Phật giáo thì Luy Lâu (Giao
Châu) là một trong số đó và có thể sớm hơn hai trung tâm Bành Thành và Lạc
Dương (Trung Quốc).
Cuối thế kỉ II, học giả Mâu Bác xứ Thương Ngô (Quảng Tây) sang Giao
Châu để học về đạo Phật. Người thứ hai sau Mâu Tử từ Trung Quốc sang vào đầu
thế kỉ III là Tăng Hội. Tại Giao Châu, Tăng Hội nghiên cứu đạo Phật, biên dịch
sách từ tiếng Phạn sang tiếng Hán.
Cũng trong thế kỉ III, có hai tăng sĩ nữa sang truyền đạo Phật ở ta là Chi
Lương Cương Tiếp và Maha kỳ Vực. Chi Lương Cương Tiếp đến Giao Châu dịch
Kinh Pháp Hoa Tam Muôi, còn Maha Kỳ Vực (người Tây Trúc, Ấn Độ) đến Giao
Châu rồi sang Trung Quốc. Thế kỉ V, Đạt ma đề bà (người Ấn Độ) đến Giao Châu
để giảng về phương pháp thực hành Thiền học. Còn Thiền sư Huệ Thắng được
mời sang cả Bành Thành để chỉ bày Thiền pháp Đại thừa cho miền Giang Đông.
Giai đoạn thứ hai của việc truyền bá đạo Phật bắt đầu từ thế kỉ VI.
Tinidachilưu là người Ấn Độ sang Trường An (Trung Quốc) rồi sang Giao Châu.
Ông đã ở đây 15 năm và có nhiều học trò, trong đó có sư Pháp Hiền nổi tiếng.
Có thể nhận thấy, nếu như từ đầu công nguyên đến thế kỷ VI chỉ có các sư
Ấn Độ sang truyền bá đạo Phật thì giai đoạn này chủ yếu có các nhà sư từ Trung
Quốc sang. Từ đây, nhiều chùa chiền đã được xây dựng từ Phong Châu, Hoan
Châu và Ái Châu. Nhiều sư tăng địa phương bắt đầu đi sâu vào giáo lý nhà Phật và
Phật giáo trở thành một lực lượng xã hội.
Cũng từ đây, một số nhà sư Giao Châu thông thạo kinh Phật, giỏi chữ Phạn
đã đi nghiên cứu Phật Giáo tận Ấn Độ hoặc đến kinh đô nhà Đường. Nhiều nhà sư
được mời sang Trung Quốc để giảng kinh cho vua Đường. Các danh sư người Việt
như Vân Kỳ, Mộc xoa đề bà, Trí Hạnh, Đại Thắng Đăng… đã sang Ấn Độ.
7

Giai đoạn thứ ba trong lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam gần với cuộc
đấu tranh giành tự chủ thắng lợi của nhân dân ta. Chùa chiền mọc lên ngày càng
nhiều. Mỗi ngôi chùa trở thành một trang viên cho các hào chủ. Phật giáo góp
15
phần tạo thành một tầng lớp trí thức bản địa và Phật giáo cũng nhập thế giúp các
hào trưởng, cự tộc lãnh đạo nhân dân.
Từ thế kỉ X, khi quốc gia Đại Việt được thành lập, các nhà vua vừa học
Nho giáo vừa học Phật giáo. Phật giáo giúp cho các vua cai trị nhất là trong công
việc đối ngoại. Thời Lý – Trần, chủ yếu các nhà sư làm công tác ngoại giao. Vai
trò của các nhà sư thời Ngô, Tiền Lê, Lý, Trần rất lớn: sư Ngô Chân Lưu làm quân
sư cho Ngô Quyền, sư Vạn Hạnh giúp Lê Hoàn, Lý Công Uẩn. Nhà Lý – Trần dựa
hẳn vào Phật giáo để cai trị. Nhà Lý coi Phật giáo là quốc giáo, nhà Trần coi “Phật
giáo như tôn giáo, Nho như trị đạo”. Nhà Lý gắn liền với vai trò của các vị sư như
Viên Thông, Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải… Nhiều ông là quốc sư, có thế
lực kinh tế chính trị lớn. Đạo Phật thịnh hành là một trong những điều kiện cho
việc ra đời của nền văn minh Đại Việt vào thế kỉ XI – XVI. Đặc biệt, đến thế kỉ
XIII, Đại Việt đã trở thành trung tâm liên lạc giữa Việt - Ấn – Hoa thay thế cho
con đường Trung - Ấn qua Tây vực trước đây.
Ở thời Trần, mặc dù Phật giáo còn giữ vị trí quan trọng song các nhà sư
không còn làm chính trị nữa, lui về chỗ cư trú của mình là các chùa chiền, nhường
chỗ cho Nho gia đang lên. Đến thời Lê, nhà nước coi đạo Nho là quốc giáo. Còn
trong dân gian, đạo Phật vẫn phát triển. Phật giáo có vị trí nhất định của mình vào
thời Lê Trung Hưng. Thời Trịnh – Nguyễn, Phật giáo cũng được chú ý: nhiều chùa
chiền được xây dựng, trùng tu. Nhà Nguyễn về sau này dù không ủng hộ Phật
giáo, dùng đạo Nho làm quốc giáo, song Phật giáo vẫn tồn tại.
Trong quá trình tiếp xúc và thu nhận đạo Phật trực tiếp từ Ấn Độ hoặc qua
Trung Quốc, giáo lý đạo Phật ở Việt Nam chủ yếu mang đậm Thiền tông Đại thừa
Trung Quốc. Cao hơn nữa, ở thời Lý – Trần, một số vua còn dùng Phật giáo làm
cơ sở cho ý thức hệ của mình (Trúc Lâm). Mặt tích cực của đạo Phật đáp ứng với
mong mỏi về tình thương, lòng bác ái của người dân xứ này. Ngôi chùa trở nên

gắn bó hữu cơ với cảnh sắc dân tộc, “đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”.
Trong văn học dân gian, Phật (Bụt) được nhắc đến nhiều trong chuyện cổ
tích. Về mặt ngôn ngữ, chữ “Bụt” bắt nguồn từ chữ Budda còn chữ chùa là là từ
chữ Stupa của tiếng Phạn. Đôi khi, hình tượng Phật giáo chỉ là cái vỏ bên ngoài,
còn tín ngưỡng dân gian là nội dung chủ yếu. Tồn tại một dòng Phật giáo dân gian
mà có người coi là sự hòa đồng giữa Phật giáo Ấn Độ với văn hóa Việt Nam
truyền thống. Sự cộng sinh ấy cho phép dạng Phật giáo dân gian tồn tại lâu dài mà
không bị mất đi như một số Thiền phái khác.
Ảnh hưởng của Phật giáo khá rõ nét trong văn học Đại Việt. Ở thời Lý, số
đông thi sĩ là nhà sư, họ sáng tác theo tinh thần Phật giáo. Đến thời Trần, văn học
Nho giáo dần dần lấn lướt văn học Phật giáo.
Về văn học dân gian, có khá nhiều truyện cổ Việt có nguồn gốc Ấn Độ. Sử
thi của Mahabharata kể về cục thịt của Gadhari đã sinh ra 100 con trai có thể là
khởi đầu cho mô típ truyện Âu Cơ đẻ bọc trăm trứng. Sách Lĩnh Nam trích quái
16
được biên tập từ thời Trần có chép truyện Hồ Tôn Tinh được coi như một bản tóm
tắt biến thể của sử thi Ramayana.
Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cũng thể hiện qua phong cách kiến trúc,
điêu khắc ở một số đền chùa miền Bắc Việt Nam.
Trên đây là những biểu hiện của văn hóa Ấn Độ ở địa bàn Đại Việt. Tuy
vậy, ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến khu vực Bắc Việt Nam chưa thật lớn.
Càng về sau, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa càng lấn lướt do việc Nho giáo
càng ngày càng chiếm địa vị thống trị trong xã hội Đại Việt.
2. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ với vương Phù Nam
Theo truyền thuyết, Kaundinya – một tăng lữ Bàlamôn từ Bắc Ấn Độ đến
đây sáng lập ra vương quốc Phù Nam, khởi đầu chính thức cho việc truyền bá văn
hóa Ấn Độ. Song tài liệu thành văn về vương quốc này rất ít ỏi. Sử Trung Quốc
ghi lại rằng, khoảng vào năm 375, vương quốc Phù Nam được đặt dưới sự trị vì
của vua người Ấn Chanđan. Dù đánh giá ở dưới góc độ nào thì các vị vua có gốc
gác Ấn Độ mở đầu cho một thời kỳ “Ấn Độ hóa” lần thứ hai.

Tài liệu khảo cổ đã bổ sung cho sự hiếm hoi của tài liệu chữ viết. Những
cuộc khai quật khảo cổ do Louis Mallerer thực hiện năm 1942 ở Óc Eo (Hà Tiên)
đã giúp ta thấy diện mạo của một thị trấn – hải cảng Phù Nam. Các sử gia đã nhất
trí đặt tên cho di tích nói trên là văn hóa Óc Eo vì nó đặc trưng cho cả một khu vực
rộng lớn, một giai đoạn. Nhiều đồ trang sức bằng bạc, ngọc trai có khắc chữ Phạn,
những con dấu (triện) bằng vàng, đồng, chữ khắc cổ Brahmi (một loại chữ cổ Ấn
Độ) để làm tin trong quan hệ giao dịch. Những chiếc nhẫn ngọc chạm nổi hình con
bò liên quan đến tôn giáo Ấn Độ, những tượng thần Hinđu, tượng Phật cũng được
tìm thấy. Các loại sản vật và đồng tiền của các nước khác như Rôma, Bacrơria,
Trung Hoa được tìm thấy ở đây cho thấy, thị trấn Oc Eo này là một trong những
trung tâm thương mai lớn nhất Đông Nam Á thời đó.
Tài liệu văn hóa cho thấy, tôn giáo Phù Nam thịnh hành ở thời kì này là đạo
Bàlamôn, thuộc phái Siva giáo. Theo mô tả của các sử gia Nam Tề, chỉ có thể
thấy, người Phù Nam thờ ba vị thần Ấn Độ giáo theo tam vị nhất thể. Đạo Phật
cũng khá thịnh hành cả về Đại thừa và Tiểu thừa. Thậm chí có cả một nhà sư Ấn
Độ Nagasena được vua Javakarman cử đi sứ Trung Quốc. Ở vương quốc Phù
Nam, các tôn giáo (Ấn Độ giáo, Phật giáo), giữa các giáo phái của Phật giáo (Tiểu
thừa, Đại thừa), tồn tại khá hòa hợp.
Đến nửa đầu thế kỉ VII, vương quốc Phù Nam suy vong.
3. Ảnh hưởng văn minh Ấn Độ đối với văn minh Ăngco
Kế tiếp Phù Nam là Chân Lạp và sau nữa, trên cơ sở hai vương quốc cổ
xưa, đó là vương quốc Khơme. Giai đoạn này, về mặt văn hóa nói chung được gọi
là Tiền Ăngco (thế kỉ VI – VIII). Trong giai đoạn này, nghệ thuật kiến trúc càng
có sự khác biệt với nền nghệ thuật Ấn Độ, riêng có điêu khắc thì còn lưu giữ nhiều
nét Ấn Độ. Về tôn giáo: Phật giáo và hai giáo phái của Ấn Độ vẫn tiếp tục tồn tại
17
bên nhau. Hầu hết các vua Khơme cổ đều có góp phần vào phát triền những tôn
giáo đó, cho xây dựng nhiều chùa chiền đạo Phật, đền đài cho cho đạo Hinđu.
Trong quá trình song song tồn tại hai tôn giáo kể trên, có thời gian tôn giáo này
thịnh, tôn giáo kia suy. Chẳng hạn, Phật giáo bị bạc đãi vào thế kỉ VII song lại

phát triển vào thế kỉ VIII.
Đến thời kì Ăngco (thế kỉ IX – XV) các nhà vua tìm đến tín ngưỡng Vua –
Thần, một tín ngưỡng bắt nguồn từ sự sùng bái thần Siva của Ấn Độ. Đây là một
sáng tạo độc đáo của người Khơme trên cơ sở văn hóa Ấn Độ. Thần Siva được
nhân hóa dưới dạng nhà vua, còn vua được thần hóa dưới dạng tượng thần Linga
của Siva. Chùa tháp mô phỏng ngọn núi vũ trụ Mêru, nơi ở của thần Indra, chúa tể
của thần linh theo quan niệm của người Ấn Độ. Vị trí của Phật giáo Đại thừa cũng
có sự thay đổi. Trước thế kỉ XIII, Phật giáo lưu hành ở Ăngco là Phật giáo Đại
thừa. Từ giữa thế kỉ XIII, với sự xâm nhập của người Thái, Phật giáo Tiểu thừa
dần dần đi vào nhân dân, loại bỏ các tôn giáo khác và giữ địa vị độc tôn, chính
thống trong tín ngưỡng Khơme cho đến tận ngày nay.
Trong bộ máy nhà nước, tầng lớp tăng lữ Bàlamôn nắm trong tay những
chức vụ quan trọng khác của chính quyền. Họ vừa là những giáo chủ chi phối mọi
hoạt động tôn giáo trong cả nước, vừa là các đại thần thân cận của nhà vua trong
chính quyền thế tục. Có thể thông qua tầng lớp quý tộc tăng lữ, mà văn hóa Ấn
Độ, nhất là văn học, sử thi, luật pháp thâm nhập sâu vào văn hóa Ăngco.
Về chữ viết, trước thế kỉ VII, chữ Phạn là văn tự thông dụng và chính thức
trong triều đình. Từ thế kỉ VII trở đi, trên cơ sở kiểu chữ Phạn, hệ thống chữ viết
kiểu Khơme được sáng tạo. Chữ Khơme dần dần thay chữ Phạn. Các bài văn bia
viết theo kiểu luật thơ Ấn Độ thể hiện trình độ học vấn thời kì Ăngco.
Về văn học, hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana đã đem lại cho dân tộc
Campuchia nguồn cảm hứng thú vị và dồi dào để xây dựng nên nền văn hóa dân
tộc riêng. Ở Campuchia, nếu Mahabharata sớm bị lãng quên vì nó nói đến sự tranh
chấp nội bộ hoàng tộc, thì Ramayana, ca ngợi những lý tưởng cao đẹp, dưới dạng
Khơme hóa thành Riêm Kê vẫn sống mãi với thời gian. Riêm Kê ra đời từ thế kỉ
IX đến thế kỉ XIV như là mốc ghi nhớ thời kì ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ và
xây dựng vương quyền Campuchia.
Về kiến trúc, đây là thời kì phát triển rực rỡ nhất của văn hóa Ăngco truyền
thống qua các công trình xây dựng Ăngco. Trong 6 thế kỉ liên tục, kinh đô Ăngco
được tô điểm bằng hàng loạt những công trình xứng đáng là kì quan của thế giới.

Những tháp nhiều tầng cao vút tượng trưng cho núi Mêru trong thần thoại Ấn Độ
song được chạm trổ tinh vi, tỉ mỉ theo phong cách độc đáo của người Khơme.
4. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ với Thái Lan.
Sự thành lập các quốc gia người Môn (chủ nhân xa xưa trên đất Thái, người
về sau trở thành thiểu số, cộng cư với người Thái, nói ngôn ngữ Môn – Khơme)
vào những thế kỉ đầu CN có mối quan hệ giao lưu và buôn bán chặt chẽ với Ấn
18
Độ. Nằm trên con đường giao lưu kinh tế, văn hóa của Ấn Độ, các quốc gia người
Môn đã ra đời.
Sự phát triển của Thái Lan tiếp tục chịu ảnh hưởng từ Sri Lanca vào Thái từ
những thế kỉ đầu CN thuộc phái tiểu thừa. Đạo Phật được coi là quốc giáo với
95% tín đồ. Thái Lan có trên 25.000 ngôi chùa lớn nhỏ với hai kiểu kiến trúc: kiểu
Prapang theo hình tháp chóp nhọn trên nền vuông, hoặc tròn với nhiều bậc kiểu
Prachadi thấp hơn, nhỏ, ngắn có mái uốn cong và dốc. Nhiều ngôi chùa lớn còn
được coi như những thư viện với các bộ kinh Phật cổ hết sức quý báu. Chùa vừa là
trường học vừa là nơi sinh hoạt tinh thần của nhân dân, nơi diển ra các lễ hội. Đạo
Phật ảnh hưởng đến cách sống, quan niệm sống của người Thái: hiền hòa, nhường
nhịn, ưa bình thản, vị tha, mến khách. Mặt khác, do quan niệm Phật – Thánh gần
gũi nhau nên trong khi thờ Phật, người Thái hòa lẫn cả việc thờ cúng vật linh.
Truyền thống mô phòng theo khuôn mẫu trong di sản văn hóa Ấn Độ cũng
xuất hiện trong hàng loạt vương triều của quốc gia Thái thời kì cổ trung đại. Tên
của vị anh hùng bất tử Rama được đặt cho các vương triều Ram Khamheng, ông
vua nổi tiếng của vương quốc Ayuthaya (giữa thế kỉ XIII), Ramadipati người sáng
lập vương triều Xu Khô Thai (từ năm 1350) hay các triều vua Rama I, Rama II.
5. Ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ với Inđônêxia
Người Ấn Độ biết đến quần đảo Inđônêxia khá sớm. Ramayana cũng từng
nhắc đến xứ sở này. Tuy nhiên, đến đầu CN, quan hệ giữa Ấn Độ với quần đảo
này mới nhộn nhịp. Điều đó xuất phát từ cơ sở vị trí địa lý (quần đảo Inđônêxia và
bán đảo Mã Lai nằm trên con đường buôn bán trực tiếp giữa Trung Quốc cổ và Ấn
Độ), sự giàu có về khoáng sản, hương liệu, lương thực Ấn Độ những sản vật giá trị

của xứ sở này. Từ Giava xuất phát từ Savađripa hoặc “xứ sở của cây kê” (ngày
nay Ấn Độ, Giava có nghĩa là cây kê). Chính mối quan hệ đó đã góp phần làm ra
đời các quốc gia Ấn Độ hóa đầu tiên.
Các quốc gia cổ (Taruma ở Giava, Catuli ở Sumatra…) dùng chữ Phạn
trong văn tự, gọi tên vua theo cách của người Ấn Độ và theo tôn giáo Ấn Độ (đạo
Phật và đạo Hinđu). Tại Inđônêxia, đạo Phật và Hinđu giáo song song tồn tại cho
đến thế kỉ XIII. Từ thế kỉ XIII, người Ấn theo đạo Hồi cũng đưa Hồi giáo đến đây.
Tôn giáo mới phát triển nhanh chóng và đẩy lùi các tôn giáo cũ. Thế lực đạo Hồi
về sau lớn đến mức mà, vào thế kỉ XV, một số quý tộc Hồi giáo dựa vào người Ấn
– Hồi để thành lập các tiểu quốc, thậm chí, chính người Ấn Hồi cũng lập nên một
số tiểu quốc. Một số tiểu quốc Hồi giáo đã ra đời. Quần chúng khi đối lập giai cấp
thống trị cũng xa dần các tôn giáo gắn liền với nó. Văn hóa Phật giáo, Hinđu giáo
bị đẩy lùi. Dấu vết chủ yếu chỉ còn lại trên đảo Bali. Tại Bôrôbuđua (Giava) toàn
bộ cuộc đời Phật tổ được khắc trên đá lưu giữ đến tận ngày nay.
Về ngôn ngữ, người Giava đã học tập mẫu tự Ấn Độ bằng chữ Phạn để tạo
ra chữ viết riêng của mình.
Về văn học, hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana được biên soạn lại từ
thế kỉ X, XI, nhiều tập thơ nổi tiếng mà đề tài rút ra từ sử thi Ấn Độ đã xuất hiện.
19
Ở khu đền Prambanam trên đảo Giava có nhiều phù điêu minh họa câu chuyện về
hoàng tử Rama và công chúa Sita.
Về nghệ thuật, có thể nhận thấy các điệu múa nổi tiếng của Giava, Bali bắt
nguồn từ Ấn Độ.
6. Ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ với Lào
Có thể nói, lịch sử xã hội – chính trị của nước Lào từ trước thế kỉ XIV, nhất
là từ trước thế kỉ XI được biết đến quá ít ỏi. Các tài liệu về sự ảnh hưởng của văn
hóa Ấn Độ đối với Lan Xang cũng không nhiều.
Về ngôn ngữ, gia nhập vào vốn cổ của tiếng Lào, có một khối lượng từ đa
tiết trong tiếng Phạn, nhất là tiếng Pali (về triết học, tôn giáo, văn hóa, khoa học)
qua con đường kinh viện, song khi trở thành tiếng dân gian, các từ này được biến

động, biến âm theo quy luật âm thanh của tiếng Lào.
Về hình thái, chữ Lào cũng như chữ Thái, giống chữ Khơme cổ, Lào đã
sáng tạo ra một loại chữ tròn, đơn giản, duyên dáng.
Văn học Lào cũng có những nét chung với kho tàng thần thoại Ấn Độ. Tuy
nhiên, người Lào chỉ mượn đề tài cốt truyện rồi dựng lại trong bối cảnh Lào với
những nhân vật Lào phản ánh xã hội Lào đương thời, mặc dù vẫn giữ tên người,
địa danh Ấn Độ. Các truyện Xin Xay, Kalakệt, Champa siton… vẫn đậm tính dân
gian Lào.
Tính chất tôn giáo của kiến trúc, số lượng chùa và sư sãi… nói lên tầm
quan trọng của đạo Phật ở Lào. Riêng ở Viêng Chăn có 100 chùa, các chùa Pạ
Kẹo, Thạt Luông… là những công trình có thể sánh với các di tích Đông Nam Á
cùng thời.
Đạo Phật ở Lào là tôn giáo phổ biến của người Lào Lùm và một bộ phận
người Lào Thơng. Mặc dù đại bộ phận người Lào Thơng, Lào Xủng vẫn theo tín
ngưỡng thần linh của mình, nhưng họ vẫn quý chùa, trọng sư. Phật giáo phổ biến ở
Lào là Tiểu thừa với chính phái là Mahanikai. Về lịch pháp, ở Lào sử dụng lịch
Phật Kỷ Saka.
Tóm lại, đạo Phật ở Lào cũng như văn học, nghệ thuật Lào nói chung chịu
ảnh hưởng của Ấn Độ, song những ảnh hưởng đó chỉ dưới dạng thích nghi với cơ
sở tín ngưỡng và đạo lí cố hữu của người Lào.
Chương IV. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với trường hợp
Chămpa
1. Sự ảnh hưởng đến thể chế chính trị
Khi đánh giá về ảnh hưởng của Ấn Độ đối với khu vực Đông Nam Á. Học
giả người Pháp G. Coedes đã viết: “Ảnh hưởng của nền văn minh Ấn chủ yếu là
sự bành trướng của một nền văn hoá có tổ chức, dựa trên quan điểm Ấn về vương
quyền…”.
8
Người Ấn Độ không hề tiến hành một cuộc xâm lăng nào, không hề
thôn tính tên tuổi một quốc gia hay một kinh thành nào ở Đông Nam Á, nhưng các

20
quốc gia chịu ảnh hưởng Ấn Độ trong khu vực Đông Nam Á lại lấy khuôn mẫu tổ
chức chính trị và thiết lập vương quyền theo mô hình Ấn Độ. Thoạt nhìn thì dường
như đây là một nghịch lí. Có thể thấy ở hiện tượng hơi đặc biệt này hai nguyên
nhân: một là, các quốc gia mới hình thành ở Đông Nam Á cần có một mẫu hình
phù hợp để thiết lập vương quyền; hai là, thế mạnh ghi chép thành văn bản về mọi
phương diện của Ấn Độ cổ đại, từ nghệ thuật, trò chơi đến pháp luật và chính trị.
Chính thông qua những văn bản do người Ấn đem tới mà các quốc vương ở Đông
Nam Á đã học được và đem sử dụng những ghi chép của các văn bản đó vào tổ
chức quốc gia của mình. Hơn thế nữa, khi đã tự nguyện tiếp thu thì bao giờ sự tiếp
thu đó cũng đến nơi đến chốn và triệt để. Vương quốc cổ Chămpa không nằm
ngoài quỹ đạo chung của cả khu vực Đông Nam Á.
Trong những tài liệu mà bia kí cung cấp, chúng ta biết chắc rằng các vua
chúa Chămpa không chỉ đã biết tới mà còn rất thông hiểu các trước tác về chính
trị, luật pháp, đạo pháp của Ấn Độ cổ đại, như: Luận về chính trị, Luận về đạo
pháp, Luật Manu… Ví dụ, bia Mỹ Sơn
9
ca ngợi vua Jaya Indravarman IV là người
hiểu mọi điều trong Đharmasatra và theo theo con đường của Manu (nhân vật
huyền thoại được coi là đã viết bộ luật Manu). Còn hoàng thân Pâng, khi lên ngôi
vua, đã được tán tụng bằng một loạt những thuật ngữ lấy từ Arthasastra.
Theo những quan niệm truyền thống của Ấn Độ, vua chính là hiện thân của
thần trên mặt đất. Mỗi khi làm lễ đăng quang, vị thần tế chính thường hướng tới
các thần linh, đọc những lời như sau: “Người lên ngôi hôm nay có một uy quyền
hùng mạnh; từ hôm nay trở đi, người đó chính thức trở thành thần, vậy các thần
hãy bảo vệ ông ta”
10
. Như vậy là ở Ấn Độ, vua thường được gắn với một nguồn
gốc thần linh nào đó. Tác giả của bộ sách Arthasastra cũng cho rằng vua có nguồn
gốc thần thánh, là người thực thi chức năng của thần Indra (chúa tể của các thần)

và của thần Yama (Diêm vương) trên mặt đất, và mọi sự không kính trọng đối với
vua đều bị trừng phạt không chỉ bằng uy lực của thần linh. Bên cạnh đó, những lời
ca ngợi vua trong Luật Manu còn cho thấy vua không chỉ là người bảo vệ thần dân
và giữ gìn trật tự đất nước theo những “luật thiêng”. Cũng theo quan niệm Ấn Độ,
vua không phải là người tạo ra luật lệ, mà luật lệ là thiêng liêng với mọi người.
Thậm chí, nếu vua phạm luật một cách trắng trợn thì sẽ bị thần dân lật đổ. Trong
những trường hợp như vậy thì đẳng cấp Bàlamôn và triều thần sẽ là lực lượng
chính lật đổ vua.
Cũng như ở Ấn Độ, đã có trường hợp phế vua xảy ra ở Chămpa. Vua Jaya
Indravarman II bị phế vì còn trẻ và không biết điều tốt xấu để cai trị quốc gia. Sau
khi phế vua, triều đình đã lập lên làm vua một người “có tất cả các dấu hiệu của
một Maharatja (đại vương)”
11
Theo quan niệm về chính trị của Ấn Độ, đất nước không thể thiếu vua, hay
nói một cách văn chương như Mahabharata, “việc đầu tiên của con người là chọn
vua, sau đó mới chọn vợ và sau cùng mới là tích luỹ tài sản. Vì rằng thế giới mà
không có vua thì điều gì sẽ xảy ra với vợ và tài sản”.
12
Chính vì thế mà các trước
21
tác về chính trị và luật pháp của Ấn Độ nói rất rõ và cụ thể về chức năng của một
ông vua.
Trong những nhiệm vụ của vua mà các văn bản ghi chép, không chỉ có việc
bảo vệ lãnh thổ khỏi sự xâm lấn của kẻ thù bên ngoài mà còn phải bảo vệ cuộc
sống, tài sản và phong tục của mọi người khỏi bị kẻ thù bên trong phá hoại. Vua
phải bảo vệ sự trong sạch của đẳng cấp, gìn giữ trật tự của từng gia đình, trừng
phạt sự phản bội giữa các cặp vợ chồng, bảo vệ người giàu khỏi bị người nghèo
cướp bóc, bảo vệ người nghèo khỏi bị người giàu bóc lột quá đáng. Theo truyền
thống Ấn Độ, vua bao giờ cũng phải là người ủng hộ các tôn giáo một cách nhiệt
thành nhất ngay cả khi những tôn giáo đó đối nghịch nhau, và là người am hiểu và

bảo trợ hào phóng cho nghệ thuật, văn học…
Việc các vua Chămpa tự ví mình với Siva có thể “đem lại hạnh phúc cho
đất nước Chămpa”, coi mình như “Indra của các vị thần trên trái đất” hay so sánh
mình như Vikrama “nâng quả đất lên bằng hai cánh tay”… phần nào minh họa
một cách hình tượng cho chức năng và nhiệm vụ của vua chúa Chămpa. Để làm
được chức năng bảo vệ thần dân và đất nước của mình, các vua Chămpa hiểu rõ
những gì mình phải làm theo đúng những quy định của “luật thiêng” mà các trước
tác đã ghi lại. Bia kí Chămpa đã ghi nhiều về các vua của mình. Bia ở Pô Nagar ca
ngợi vua Indravarman III là người thông thái, hiểu biết sáu bộ triết học bắt đầu
bằng Mimansa (nghiên cứu các kinh Vệ đà), rồi đến các học thuyết của Phật, văn
Phạn của Panini, các bài luật, các truyền thuyết và Uttarakalpa cua Siva giáo. Văn
bia cuối thế kỉ XI ở Mỹ Sơn cho biết, vua Harivarman thông thạo trong việc thi
hành bốn phương pháp tu luyện: saman, đàra, đanđa và bheđa và rèn luyện tinh
thần bằng tĩnh tâm, còn hoàng thân Pâng (sau này sẽ làm vua) thì rất am hiểu bộ
sách Arthasastra. Bia Mỹ Sơn còn ca ngợi hoàng thân Pâng là người có 32 dấu
hiệu đã thắng được lục tặc: tham, sân, si, dục vọng, kiêu mạn, làm những điều sai
trái, đã tu thiền, am hiểu yoga…
Các vua Chămpa, cũng như các vua Ấn Độ, là những người nhiệt thành với
các tôn giáo. Bia kí cho biết, hầu như tất cả các vua Chămpa đều hào phóng trong
việc hiến đất đai, tiền của và nô lệ cho các đền miếu của những tôn giáo khác
nhau. Điều này cũng đã được thể hiện trong phần trình bày về ảnh hưởng của tôn
giáo Ấn Độ đến Chămpa.
Mặc dầu, về nguyên tắc, ngôi vua được truyền theo huyết thống (thường là
cho con cả), nhưng “luật pháp thiêng liêng” cũng như các văn bản khác của Ấn Độ
không cho phép những hoàng tử yếu đuối, bệnh tật nối ngôi. Arthasastra nhấn
mạnh: “Vua không được truyền ngôi, thậm chí cho người con duy nhất, nếu người
con đó nông nổi, trác táng”.
13
Trong trường hợp đó và trường hợp vua chết mà
không có con nối dõi thì triều thần phải họp lại để chọn vua.

Vì tuân theo những quy định “thánh luật” Ấn Độ, nên nhiều khi việc truyền
ngôi trong triều đình Chămpa diễn ra hoặc không theo dòng họ, hoặc do triều đình
cử. Điều đó thường diễn ra trong tất cả các thời kì của lịch sử Chămpa. Ngay ở thế
22
kỉ III, vua hậu duệ cuối cùng của Khu Liên không có con trai nên cháu ngoại là
Phạm Hùng (270 – 280) nối ngôi. Năm 336, Phạm Dật chết, một người Trung
Quốc tên là Phạm Văn tự lập làm vua Lâm Ấp. Vào thế kỉ V, sau khi Dịch Chân từ
bỏ ngai vàng đi Thiên Trúc, ngôi vua về tay Phạm Dương Mại – một người không
rõ gốc tích. Ở thế kỉ VII, vua Phạm Trấn Long bị một đại thần giết năm 645,
không có con trai, các quan lập người con của em gái vua lên làm vua. Sau đó, các
đại thần lại phế người này để lập con gái đích của Phạm Đầu Lê (cha của Phạm
Trấn Long) làm vua. Nữ vương này không cai trị được đất nước, nên năm 653, các
đại thần lập con của cháu ngoại Rudravarman I là Vikrantavarman I làm vua…
Việc Chế Bồng Nga lên ngôi vào cuối thế kỉ XIV rồi mất ngôi vào một vị tướng
tên là La Khải cũng là một sự kế vị không theo dòng họ…
Cũng giống như Ấn Độ và các quốc gia chịu ảnh hưởng Ấn Độ ở Đông
Nam Á, lịch sử chính trị của Chămpa là lịch sử mở mang đất đai, thôn tính lẫn
nhau giữa các vùng hay các tiểu quốc và là lịch sử của những vị vua hay vương
triều mạnh. Trong suốt hơn mười thế kỉ tồn tại, các vua Chămpa luôn gây hấn với
những người láng giềng ở phía bắc, phía nam và phía tây nam. Vào thế kỉ XII, vua
Chămpa là Jaya Harivarman còn đánh chiếm lên Tây Nguyên của người Thượng
mà các bia kí Chăm thường gọi là người Kiratas. Lịch sử Chămpa còn là lịch sử
luôn thay đổi nhau quyền bá chủ của các vua chúa địa phương. Cho đến đầu thế kỉ
VIII, trung tâm chính trị và vương quyền của Chămpa là miền bắc. Từ giữa thế kỉ
VIII, nổi lên quyền bá chủ của các vua phía nam (vùng Panduranga) mà sử sách
gọi là thời kì Hoàn Vương. Đến năm 875 tại Indrapura (Đồng Dương) ở miền bắc,
trỗi dậy một vương triều mà chỉ ít năm sau đã làm bá chủ cả Chămpa – vương
triều Indrapura. Với sự lên ngôi ở Vijaya của Sri Harivarman II năm 988, các vua
chúa ở vùng trung (miền Bình Định) trở thành chúa tể cả Chămpa. Ngay lịch sử
từng giai đoạn của Chămpa cũng là lịch sử luôn thay thế các vương triều: khi

Phạm Văn (người Trung Quốc) lên ngôi sau khi hãm hại các con của Phạm Dật
vào năm 336 thì vương triều thứ nhất của Chămpa chấm dứt, nhường chỗ cho
vương triều thứ hai (336 – 420); vương triều thứ ba (420 – 528) bắt đầu bằng việc
Phạm Dương Mại – một người không rõ lai lịch lên ngôi; vương triều thứ tư được
thiết lập bởi vua Rudravarman I vào năm 529 và chấm dứt vào năm 757 khi
Rudravarman II chết; vào băm 759, khi mà lịch sử Trung Quốc gọi Chămpa là
Hoàn Vương, một vương triều mới ra đời – vương triều thứ năm. Cứ như thế cho
đến ngày cuối cùng của vương quốc, triều đình Chămpa liên tục bị thay vua đổi
chúa, đến nỗi giai đoạn từ giữa thế kỉ XII trở đi, người ta không thể định được
thành các vương triều như trước nữa.
Từ những sự kiện vừa nêu, chúng ta thấy khá rõ một điều là, ở Chămpa,
giữa các vua chúa luôn có sự thoán đoán hoặc thay thế theo một nguyên tắc: kẻ
nào mạnh thì thắng, hoặc kẻ nào không có đủ phẩm chất làm vua phải rút lui – một
nguyên tắc khác hẳn với truyền thống trung quân của Trung Quốc và các nước
chịu ảnh hưởng của Trung Quốc (trong đó có Việt Nam). Mà những nguyên tắc
23
vừa nêu, lại chính là truyền thống chính trị được ghi thành “thánh luật” của Ấn Độ
cổ đại.
Ở Ấn Độ, ngay vào thời kì hậu Vệ đà, đã xuất hiện một phong tục: các thủ
lĩnh phụ thuộc phải thần phục và nộp cống cho các thủ lĩnh mạnh hơn. Trong các
văn bản thời kì đó, chúng ta đã gặp các thuật ngữ “Adhiratja” và “Samrat”, nghĩa
là “đế vương” – vị vua có các chư hầu. Không phải ngẫu nhiên mà Arthasastra
khuyên các vua yếu, trong trường hợp cần thiết, nên tự nguyện thần phục bá quyền
các nước láng giềng mạnh hơn.
Từ những “thánh luật” quy định việc thần phục lẫn nhau giữa các thủ lĩnh,
đã đẻ ra ngay từ thời xa xưa ở Ấn Độ những xu hướng quân phiệt. Điều này đã
được ghi trong Arthasastra:“Vị vua yếu cần phải giữ hoà bình, còn vị vua mạnh thì
phải tiến hành chiến tranh”.
14
Theo các nhà nghiên cứu, chính những xu hướng

quân phiệt đó đã khiến cho Ấn Độ không bao giờ tạo lập ra một đế chế bền vững
trong phạm vi cả đất nước và là lý do cản trở lớn nhất đối với việc thống nhất Ấn
Độ. Và đó cũng là nguyên nhân khiến cho Chămpa cũng như các quốc gia cổ đại
chịu ảnh hưởng Ấn Độ khác ở Đông Nam Á luôn bị chia cắt và không bao giờ tạo
ra được một đế chế thống nhất và bền vững lâu dài.
Nếu tổng hợp tất cả các nguồn tư liệu hiện có, chúng ta ít nhiều có thể hình
dung ra bộ máy chính trị và hành chính của Chămpa thời cổ. Toàn bộ đất nước
được chia làm ba (có khi làm bốn) quận lớn: Amaravati ở phía bắc, Vijaya ở giữa,
Panduranga ở phía nam (có giai đoạn Kauthara – Khánh Hoà hiện nay – tách ra
thành khu vực thứ tư lấy Yanpunagara – Nha Trang hiện nay - làm thủ phủ). Theo
các sử liệu Trung Quốc, Chămpa được chia thành 38 châu lớn, nhỏ, phía nam là
châu Thi – Bị, phía bắc là châu Ô - Lý, phía tây là châu Thượng Nguyên, có hơn
100 thôn lạc có từ 300 đến 500, có khi tới 700 hộ. Cũng có đặt huyện, trấn. Vua
thường dùng anh em làm phó vương hoặc thứ vương. Có tám quan lớn chia nhau
trong coi mọi việc ở bốn miền. Có hơn 50 văn lại coi việc cai trị và thu thuế, 12
quan giữ kho đụn, 50 quan coi việc quan. Quân đội khá đông, có quân cấm vệ, kị
binh, tượng binh và thuỷ binh. Một số sử liệu khác của Trung Quốc như Tuỳ thư,
Tân Đường thư còn ghi chép khá tỉ mỉ về bộ máy quan lại của Chămpa. Theo các
tài liệu trên, các quan có ba hạng: Tôn quan, thuộc quan và ngoại quan. Ngoài ra,
còn có chức Bà-man-địa, đứng đầu tất cả các quan.
Thông qua các bia kí, tuy không đầy đủ, chúng ta vẫn có thể hiểu một cách
cơ bản về bộ máy tổ chức nhà nước của Chămpa. Các vua Chămpa thường được
gọi là đại vương (maharaja) hay đại vương tối cao (maharajadhiraja) hay vua tối
cao (adhikaraja). Dưới vua là các bậc kế vương hay hoàng thân (yuvaraja). Qua
các bia kí chúng ta có thể biết thêm về một số quan chức trong triều đình Chămpa:
tổng tư lệnh (agrasenapati), thượng thư (amàtya), và một số nhân vật có tên là Po
khun Pilih Ràjadvara được vua Bhadravarman phong hàm Po khun Sundandavasa,
được vua Indravarman phong hàm Akàladhipati và là người giữ hương hoả cho
vua Indravarman II, một người khác tên là Prà-leyesvara Dharmaraja có chức vị là
24

tiểu vương. Cũng các bia kí, đôi chỗ, còn có nói tới một vài tổ chức hành chính
của Chămpa, như đô thị, quận…
Từ những tư liệu vừa dẫn ra ở trên, chúng ta thấy rõ một điều là: Chămpa
đã mô phỏng một cách khá trung thành những quy tắc tổ chức chính trị của Ấn Độ
như chia đất nước thành các quận, huyện, làng mạc, đô thị, như việc sử dụng một
loạt những chức quan phụ trách những công việc khác nhau: thượng thư, tư lệnh
quân đội, quan tư pháp, tiểu vương, lãnh chúa, quan phụ trách hương hoả của
vua… Hơn thế nữa, tên gọi các chức quan hay các đơn vị hành chính đều có
nguồn gốc từ các thuật ngữ Ấn Độ như: đại vương (maharaja), tư lệnh (agras-
enapati), tướng (senapati), đại tướng (mahà senapati), thượng thư (amatya), đô thị
(pura hay nagara)…
Những bằng chứng khảo cổ học cũng như dân tộc học cho biết, khi người
Ấn tới, những cư dân Chămpa đã sống trong một xã hội tiền nhà nước, nghĩa là
trong xã hội đã có một tầng lớp tù trưởng lớn hay những thủ lĩnh lớn. Những
người Ấn chắc hẳn đã bén rễ vào tầng lớp xã hội bên trên này ở giai đoạn đầu khi
họ tới đây. Một điều tự nhiên là, các thủ lĩnh hay các tù trưởng của Chămpa đã rất
nhanh chóng tiếp nhận những cách tổ chức xã hội và chính quyền của Ấn Độ để
tạo lập ra những quốc gia, những nhà nước lớn.
Do đó, có thể nói, “tính vương quyền hay mục đích thiết lập và củng cố
vương quyền là đặc trưng đầu tiên, nổi bật nhất của quá trình bành trướng và du
nhập văn hoá Ấn Độ vào Chămpa cũng như vào các quốc gia cổ đại khác ở Đông
– Nam Á”.
15
Các đại diện tầng lớp trên của Chămpa đã tiếp nhận, thông qua người
Ấn, hầu như tất cả những thành tựu văn hoá của Ấn Độ là để phục vụ cho việc
thiết lập và củng cố vương quyền theo mô hình Ấn Độ. Không phải ngẫu nhiên mà
hầu như tất cả những di sản văn hoá Chămpa hiện còn đều mang tính vương quyền
và phục vụ vương quyền. Đặc trưng này không chỉ riêng cho Chămpa mà còn
chung cho các quốc gia cổ đại khác ở Đông – Nam Á. Điều này đã lý giải vì sao
khi các vương triều chịu ảnh hưởng của Ấn Độ sụp đổ thì những ảnh hưởng Ấn

Độ cũng hoặc biến mất luôn hoặc phải biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới
hay kiểu vương triều mới. Có thể kể ra các trường hợp điển hình như đế chế
Ăngco ở Campuchia, đế chế Pagan ở Mianma, Môgiôpahit ở Inđônêxia và với
Chămpa ở Việt Nam. Tất nhiên, lịch sử đã chứng minh quá trình tiếp nhận đó
không phải diễn ra một cách một cách rập khuôn, vẫn thấy có những cải biến,
chọn lọc trong hệ thống chính trị Chămpa như đã nói ở trên, tạo nên một nét riêng
biệt so với các quốc gia khác.
2. Sự ảnh hưởng của tôn giáo
Trong khu vực Đông Nam Á cổ thì tôn giáo Chămpa mang đậm dấu ấn văn
hoá tôn giáo Ấn Độ. Yếu tố đó đã góp phần vào bức tranh văn hoá dân tộc Việt
Nam đa dạng phong phú, làm cho Việt Nam là Đông Nam Á thu nhỏ. Các tôn giáo
Ấn Độ như Bàlamôn, Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo đã thâm nhập sâu hơn vào
trong quê hương đời sống tinh thần người Chăm, thậm chí còn đậm cho đến ngày
25
nay hơn cả quê hương nó là Ấn Độ mà các nhà văn hoá học gọi là thuyết “Thuyết
hoá thạch ngoại vi trên biển”.
Dù ảnh hưởng rất lớn của tôn giáo Ấn Độ nhưng do nằm trong cơ tầng văn
hoá Đông Nam Á, dân tộc Chăm có nền văn hoá bản địa lâu đời, là những nguyên
nhân làm cho các tôn giáo Ấn Độ khi du nhập vào đều bị bản địa hoá.
Các tôn giáo Ấn Độ truyền bá tới Đông Nam Á theo hai con đường, đường
thuỷ và đường bộ: Một đường từ bờ biển Coromamdel Ấn Độ theo qua eo biển
Malacca tới quần đảo Mã Lai, một con đường khác là Át Xan tiến vào Myanma,
rồi từ Myanma truyền vào lưu vực sông Mê Công đến Chân Lạp và Chămpa.
Hiện nay, các nhà khoa học chưa tìm được tư liệu nói về sự truyền bá các
tôn giáo Ấn Độ đến Chămpa. Chỉ biết rằng bằng những tư liệu khảo cổ học, nhất
là các bia kí Chămpa cho thấy tôn giáo Ấn Độ đã đến các vương triều Chămpa từ
rất sớm, thậm chí ngay từ khi lập quốc, Chămpa đã xây dựng nhà nước vương
triều kết hợp với thần quyền.
Trong phạm vi hẹp của bài tiểu luận, người viết chỉ đi vào tìm hiểu ảnh
hưởng của hai tôn giáo: Phật giáo và Ấn Độ giáo.

2.1 Ảnh hưởng của Phật giáo
Bằng chứng cho thấy niên đại sớm nhất mà Phật giáo được truyền đến
Chămpa là tấm bia kí Võ Cạnh viết bằng chữ Phạn có niên đại thế kỉ III – V được
tìm thấy gần Kauthara (Nha Trang). Tấm bia cho biết về một triều vua đầu của
Chămpa mà người sáng lập có tôn hiệu là Sri Mara. Bia còn nói tới ảnh hưởng rất
rõ của văn hoá Ấn Độ, của các tăng lữ Ấn Độ đối với tôn giáo và xã hội của
vương quốc này. Chỉ qua vài dòng chữ Phạn viết theo kiểu chữ Amaravati như
“Lokasỳ- aya gatàgati” (Sự chết hoặc sự phục sinh của thế giới này) hay “Prajànàn
karuna” (Từ bi trắc ẩn đối với chúng sinh), các nhà kho học cho rằng nội dung tấm
bia toát lên tư tưởng của Phật giáo. Với tấm bia Võ Cạnh, chúng ta có một “bằng
chứng vật chất đầu tiên và cũng là cổ nhất ở Đông Nam Á nói về Phật giáo ở khu
vực này”.
16
Dù tôn giáo chính của Chămpa là Siva giáo, tuy nhiên, trong những thời
điểm nhất định trong lịch sử đất nước, dấu ấn Phật giáo vẫn rất quan trọng. Biểu
trưng rõ nét là các tượng Phật. Khi nói đến điêu khắc Chămpa thời Phật giáo hưng
thịnh không thể không nói đến nghệ thuật Đồng Dương. Không phải ngẫu nhiên
mà danh xưng “Phật viện Đồng Dương” được dùng để đặt tên cho cả một phong
cách nghệ thuật Chămpa ở một giai đoạn nhất định. Các hiện vật điêu khắc và
trang trí Đồng Dương thật phong phú và đa dạng: Tượng Phật, tượng Bồ Tát,
tượng Môn thần (Dvarapala), tượng người lễ bái. Ngoài ra còn có những phù điêu
tuyệt đẹp trang trí cầu kì. Chất liệu bằng đồng, đá, bằng đất nung bền chặt. Trong
nền điêu khắc Chămpa, các nghệ phẩm thuộc phong cách Đồng Dương có những
sắc thái đặc biệt: cung mày nối liền nhau gờ lên và lượn sóng, môi dày có viền,
mũi rộng và dẹt… Đẹp nhất, độc đáo nhất trong phong cách Đồng Dương là các
môn thần. Các vị thần này được tạc trong nhiều tư thế: Đứng trên khuôn mặt động

×