Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.34 KB, 11 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Từ thời nguyên thủy, con người chủ yếu phụ thuộc vào thiên nhiên, kinh tế
nông nghiệp là xương sống của nền kinh tế xã hội. Đến thế kỉ 15, nền kinh tế hàng
hóa ở Tây Âu khá phát triển, điều này chính là cơ sở cho sự xuất hiện cuộc cách
mạng công nghiệp đầu tiên tại Anh. Từ đây, lịch sử kinh tế bước sang trang mới,
thành tựu kinh tế con người đạt được tăng theo cấp số nhân. Cho tới ngày nay, ở các
nước phát triển và đang có xu hướng toàn cầu là hình thành nền kinh tế tri thức. Tri
thức được coi là “nguồn của cải mới”, động lực phát triển mới tạo ra sự thịnh vượng
trong xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, việc bảo hộ quyền tác giả là vấn đề rất quan trọng.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, xâm phạm quyền tác giả và vi phạm pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả ngày càng phổ biến và mức độ nghiêm trọng, phức tạp của tình hình
xâm phạm quyền tác giả ngày càng tăng. “Nhìn chung, bức tranh toàn cảnh của hoạt
động thực thi và bảo đảm thực thi quyền tác giả theo các quy định bảo hộ của Berne
vẫn còn những điểm tối và cần có giải pháp khắc phục” [1, trang 2].
Tóm lại, để khắc phục tình trạng vi phạm bản quyền hiện nay, cần tuân thủ các
quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả của công ước Berne một cách
nghiêm túc. Vấn đề thực thi công ước cần được chú trọng và quan tâm hơn nữa.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm quyền tác giả trong tư pháp quốc tế
Vào cuối thế kỉ 15 máy in ra đời, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho những
người có nhu cầu sử dụng tác phẩm có thể sao chép dễ dàng và sao chép được rất
nhiều bản. Nhưng đối với tác giả của những tác phẩm bị sao chép đó, máy in chưa
mang lại lợi ích gì đáng kể, mà thậm chí còn gây ra thiệt hại cho họ. Từ đây, quyền
tác giả đã bắt đầu được quan tâm, để nâng cao sự bảo vệ, quyền tác giả đã được luật
hóa lần đầu tiên trong đạo luật của Anh năm 1709 [2, trang 4].
Khái niệm quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
được tiếp cận dưới 2 góc độ: chủ quan và khách quan.
Về phương diện chủ quan, quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể của chủ thể với
tư cách là tác giả hoặc của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ


thuật, công trình khoa học và quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của
mình bị xâm phạm.
Về phương diện khách quan, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật
nhằm xác nhận và bảo vệ quyền tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định các
nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học, quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi
xâm phạm [3, trang 33].
Bên cạnh đó, khái niệm quyền tác giả cũng được quy định trực tiếp tại khoản 2
Điều 1 Luật Sở hữu trí tuệ.
Dưới góc độ của tư pháp quốc tế và trên cơ sở của quyền tác giả nói chung, có
thể hiểu quyền tác giả trong tư pháp quốc tế là quyền tác giả có yếu tố nước ngoài.
Yếu tố nước ngoài được thể hiện ở: chủ sở hữu tác phẩm là người nước ngoài hoặc
tác phẩm được sử dụng ở nước ngoài.
1.2. Bảo hộ quyền tác giả
Bảo hộ quyền tác giả là những cách thức, biện pháp được các chủ thể có thẩm
quyền sử dụng với mục đích tạo ra hành lang pháp lí nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng, xác lập quyền của chủ thể đối với đối tượng và quyền tác giả tương ứng
và bảo vệ quyền đó chống lại bất kì sự vi phạm nào của bên thứ 3.
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, tồn tại 3 hình thức để bảo hộ quốc tế
quyền tác giả như sau:
- Kí kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế đa phương, như công ước Berne
1886, hiệp định TRIPs 1994, hiệp ước WPPT 1994...
- Kí kết điều ước song phương, như hiệp định giữa Việt Nam - Hoa Kỳ 1997,
hiệp định giữa Việt Nam - Thụy Sĩ 1999...
- Bảo hộ theo nguyên tắc có đi có lại: các bên giành cho nhau sự bảo hộ đối với
tác phẩm của công dân mỗi bên.
2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG ƯỚC BERNE
Công ước Berne ra đời ngày 9/9/1886 tại Thụy Sĩ. Trong 125 tồn tại của mình,
công ước Berne đã được sửa đổi, bổ sung 8 lần, văn bản ngày 24/7/1971 tại Paris, sửa
đổi ngày 28/9/1979 là văn bản đang được thi hành tại 164 quốc gia thành viên [1,

trang 17]. Berne đã, đang và sẽ có giá trị lớn trong việc bảo hộ quyền tác giả trên
phạm vi toàn cầu.
- Nguyên tắc bảo hộ:
+ Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment): Theo khoản 1 Điều 5 Công
ước Berne, mỗi quốc gia thành viên sẽ dành sự bảo hộ cho các tác phẩm văn hoc,
nghệ thuật và khoa học của công dân quốc gia thành viên khác của Công ước tương
tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân chính quốc gia mình.
+ Nguyên tắc bảo hộ tự động (Automatic Protection): Quyền tác giả phát sinh
ngay khi tác phẩm định hình dưới một dạng vật chất nhất định mà không lệ thuộc vào
bất kì thủ tục nào (khoản 2 Điều 5).
+ Nguyên tắc bảo hộ độc lập (Independence of Proctection): Việc hưởng và thực
thi các quyền theo Công ước là độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xứ
của tác phẩm (khoản 2 Điều 5).
+ Nguyên tắc bảo hộ tối thiểu: Các quốc gia thành viên khi bảo hộ cho các tác
phẩm có xuất xứ từ các quốc gia thành viên phải đảm bảo ít nhất các tiêu chuẩn được
quy định trong Công ước.
- Tác phẩm được bảo hộ (Điều 2): Các tác phẩm gốc trong lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật, khoa học; Các tác phẩm phái sinh; Các tuyển tập tác phẩm văn học và
nghệ thuật.
- Điều kiện bảo hộ: Một tác phẩm muốn được bảo hộ phải thỏa mãn 2 tiêu chí:
quốc tịch của tác giả và nơi công bố tác phẩm lần đầu tiên.
- Các quyền được bảo hộ: Quy định cụ thể tại Điều 6 bis, Điều 8, Điều 9, Điều
10 bis, Điều 11 bis, Điều 11 ter, Điều 12, Điều 14, Điều 14 bis, Điều 14 ter, Điều 15,
Điều 16 bis, gồm: quyền kinh tế (Economic Rights), quyền tinh thần (Moral Rights)
và quyền tiếp theo (Droit de suit).
- Thời hạn bảo hộ quyền tác giả: Bắt đầu từ khi tác giả sáng tạo ra tác phẩm và
tiếp tục cho đến một khoảng thời gian sau khi tác giả chết. Có 2 nguyên tắc cơ bản là
nguyên tắc tính thời hạn bảo hộ theo đời người và không dựa theo đời người (Điều
7).
- Các quy định liên quan đến thực thi quyền tác giả: Quy định tại khoản 3 Điều

13, Điều 15 về quyền khởi kiện, Điều 16 và Điều 17 là các biện pháp được áp dụng
trong quá trình thực thi quyền tác giả.
- Hiệu lực hồi tố: Theo Điều 18 thì Công ước bảo hộ cả đối với các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học tồn tại trước khi Công ước có hiệu lực tại nước xuất xứ
tác phẩm nếu nó chưa hết thời gian bảo hộ theo quy định từ trước của quốc gia đó.
- Ưu đãi dành cho các quốc gia thành viên là các nước đang phát triển như Việt
Nam: Với mong muốn dành cho các nước đang có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
thấp những ưu đãi hơn so với các nước thành viên khác để các nước này có thể dễ
dàng tham gia vào sân chơi chung của Công ước, Công ước đã quy định những điều
khoản về ưu đãi, miễn trừ tại phần Phụ lục.
3. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
3.1. Sự tương thích của pháp luật Việt Nam hiện hành với Công ước Berne sau
khi gia nhập Công ước
Công ước Berne có hiệu lực ở Việt Nam từ 26/10/2004, từ đó trở về trước chỉ
có BLDS 1995 điều chỉnh vấn đề bảo hộ quyền tác giả. Đây là các quy định về bảo
hộ quyền tác giả nói chung, trong đó bao gồm cả quyền tác giả có yếu tố nước ngoài.
Sau khi gia nhập Công ước Berne, nhà nước ta đã ban hành một loạt văn bản luật và
dưới luật như BLDS 2005, Luật sở hữu trí tuệ 2005... nhằm đồng bộ hóa tới mức tối
đa hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả của nước ta với Công ước Berne.
- Về tiêu chuẩn bảo hộ: 737 BLDS 2005 quy định Nhà nước bảo hộ các tác
phẩm thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện nào, không phân biệt
nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào. Điều này phù hợp với
tinh thần của Công ước Berne. Đương nhiên việc thể hiện dưới hình thức và phương
tiện nào đi nữa thì cũng đều là chất xám, trí tuệ của tác giả sáng tạo ra và chúng xứng
đáng được Nhà nước bảo hộ. Ngoài ra, nếu lấy chất lượng tác phẩm làm thước đo bảo
hộ thì đây là điều vô cùng khó cho các nhà làm luật, vì một tác phẩm là hay hay dở là
rất khó xác định.
- Thời điểm phát sinh quyền tác giả: Tinh thần Điều 739 BLDS 2005 và Điều 6
Luật sở hữu trí tuệ 2005 khá khớp với nguyên tắc bảo hộ đương nhiên của Công ước

Berne là quyền tác giả sẽ phát sinh ngay sau khi tác phẩm được định hình dưới một
hình thức nhất định không lệ thuộc vào bất kì thủ tục hình thức nào. Thủ tục đăng kí
tác phẩm chỉ là quyền của tác giả, người sở hữu tác phẩm mà thôi.
- Giới hạn quyền tác giả: Tại Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2009
đã quy định tương đối phù hợp với Điều 10 và Điều 10 bis của Công ước về điều kiện
sử dụng tự do các tác phẩm đã công bố. Điều này khẳng định quyền tác giả là bất khả
xâm phạm, mặt khác các tác phẩm là tài sản của nhân loại nên cần có những điều
kiện vừa thuận lợi cho người sử dụng, lại vừa bảo vệ được lợi ích chính đáng của tác
giả, chủ sở hữu tác phẩm để công chúng có cơ hội tiếp cận kịp thời với tri thức của
thời đại.
- Thực thi quyền tác giả: Có thể áp dụng 3 loại thủ tục là dân sự, hành chính và
hình sự. Các biện pháp áp dụng cũng đã tương thích với pháp luật quốc tế về bảo hộ
quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài nói riêng.
- Công bố tác phẩm: Điều 3 Công ước Berne và khoản 9 Điều 4 LSHTT sửa đổi,
bổ sung 2009 đều coi việc công bố tác phẩm là phát hành với sự đồng ý của tác giả.
Trước đây, luật quy định việc công bố, phổ biến tác phẩm trái với quy định của Công
ước. Việc quy định lại điều này đã chứng minh sự cố gắng của các nhà lập pháp Việt
Nam muốn đồng bộ hóa tới mức tối đa giữa pháp luật quốc gia và Công ước.
3.2. Sự chưa tương thích của pháp luật Việt Nam hiện hành với Công ước
Berne sau khi gia nhập Công ước
- Về đối tượng bảo hộ: ở đây vẫn chưa có sự thống nhất, pháp luật Việt Nam quy
định những tác phẩm được nhà nước bảo hộ mang tính chất „đóng“, tức là không linh
hoạt, khoa học như quy định trong Công ước mang tính chất mở. Điều này sẽ bất cập

×