Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Tiểu luận môn tài chính doanh nghiệp tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (703.51 KB, 44 trang )

1


T
T
R
R
Ư
Ư


N
N
G
G


Đ
Đ


I
I


H
H


C
C




K
K
I
I
N
N
H
H


T
T




T
T
P
P
.
.
H
H
C
C
M
M



K
K
H
H
O
O
A
A


S
S
A
A
U
U


Đ
Đ


I
I


H
H



C
C














M
M
Ô
Ô
N
N


T
T
À
À

I
I


C
C
H
H
Í
Í
N
N
H
H


D
D
O
O
A
A
N
N
H
H


N
N

G
G
H
H
I
I


P
P









Đ
Đ




t
t
à
à
i

i


t
t
h
h
u
u
y
y
ế
ế
t
t


t
t
r
r
ì
ì
n
n
h
h
:
:



"Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu
quả"


GVHD: TS. NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN
Nhóm 6 thực hiện:
1/ Nguyễn Thị Hải Yến
2/ Nguyễn Đăng Khoa
3/ Vũ Thành Đồng
4/ Tạ Phương Thảo
Lớp Cao học khoa Ngân hàng - Đêm 4 - K22
TP.HCM, tháng 09 năm 2013

2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………… 03
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ ……………… 05
1.1 Mục đích của nghiên cứu thị trường hiệu quả ……………………… 05
1.2 Chúng ta cùng trở lại với NPV …………………………………………………… 07
1.3 Khái niệm thị trường hiệu quả ……………………………………………………… 08
CHƯƠNG 2: CÁC GIẢ THUYẾT TIỀN ĐỀ CỦA THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ 11
CHƯƠNG 3: CÁC HÌNH THỨC CỦA THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ …………… 13
3.1 Hình thức thị trường hiệu quả dạng yếu …………………………………………… 13
3.2 Hình thức thị trường hiệu quả dạng vừa phải ……………………………………… 14
3.3 Hình thức thị trường hiệu quả dạng mạnh …………………………………………. 14
3.4 Chứng cứ của các thị trường hiệu quả …………………………………………… 16
3.4.1 Thử nghiệm hình thức hiệu quả yếu của giả thuyết ………………………………… 16
3.4.2 Thử nghiệm hình thức hiệu quả vừa phải của giả thuyết …………………………… 17

3.4.3 Thử nghiệm hình thức hiệu quả mạnh của giả thuyết ……………………………… 18
CHƯƠNG 4: CÁC BẤT THƯỜNG CỦA THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ ………… 20
4.1 Bài toán phát hành mới …………………………………………………………… 20
4.2 Bài toán công bố tỷ suất sinh lợi …………………………………………………… 20
4.3 Khác ……………………………………………………………………………… 21
CHƯƠNG 5: MỐI QUAN HỆ GIỮA TÀI TRỢ DOANH NGHIỆP VÀ THỊ
TRƯỜNG HIỆU QUẢ 23
CHƯƠNG 6: SÁU BÀI HỌC CỦA THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ ………………… 26
Bài học 1: Thị trường không có trí nhớ ……………………………………………… 26
Bài học 2: Hãy tin vào giá thị trường ………………………………………………… 27
Bài học 3: Hãy đọc sâu ………………………………………………………………… 30
Bài học 4: Không có các ảo tưởng tài chính …………………………………………… 32
Bài học 5: Phương án tự làm lấy ……………………………………………………… 34
Bài học 6: Đã xem một cổ phần, hãy xem tất cả ……………………………………… 35
CHƯƠNG 7: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM THUỘC DẠNG THỊ
TRƯỜNG HIỆU QUẢ NÀO …………………………………………………………. 38
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………. 43
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………………. 44
3

LỜI MỞ ĐẦU
Giá trị của một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của ba loại quyết định tài chính: quyết
định đầu tư, quyết định tài trợ và quyết định quyết định phân phối. Trong chương 13 về
“Chính sách cổ tức”, lý thuyết của MM cho thấy chính sách cổ tức không tác động đến
giá trị của doanh nghiệp trong điều kiện thị trường vốn hoàn hảo. Với giới một tập hợp
hạn các giả định của MM như không có thuế, không có chi phí giao dịch, không có chi
phí phát hành… giá trị của doanh nghiệp chỉ phụ thuộc vào các quyết định đầu tư. MM
khẳng định rằng các thay đổi quan sát được trong giá trị doanh nghiệp là kết quả của các
quyết định chia cổ tức thật ra là do nội dung hàm chứa thông tin hay các tác động phát tín
hiệu của chính sách cổ tức.các kết luận của MM dựa trên những giả định thị trường vốn

hiệu hảo. Nhưng không ai khẳng định rằng mô hình của MM chín xác.Vì thế phát sinh
tranh luận về chính sách cổ tức cuối cùng rẽ vào các tranh luận về bất hoàn hảo và không
hiệu quả của thị trường vốn.
Chương 14 về “Chính sách nợ tác động như thế nào đến giá trị doanh nghiệp”, lại
một lần nữa với các giả định thị trường vốn hoàn hảo MM đã chỉ ra rằng giá trị của doanh
nghiệp độc lập với cấu trúc vốn. Ngoài ra MM cũng giả định là tất cả các nhà đầu tư đều
hợp lý và có các kỳ vọng đồng nhất về lợi nhuận của một doanh nghiệp. Hơn nữa, dù là
quyết định đầu tư hay quyết định tài trợ, mục tiêu trong mỗi trường hợp đều là tối đa hóa
NPV. Nếu việc bán một chứng khoán làm phát sinh NPV dương cho người bán, nó phải
phát sinh NPV âm cho người mua. Cơ may mà doanh nghiệp của bạn có thể thuyết phục
các nhà đầu tư mua chứng khoán phát sinh có NPV âm là bao nhiêu và việc tìm kiếm cơ
hội tài trợ NPV dương là rất khó. Trong các thị trường tài chính, đối thủ cạnh tranh của
bạn không chỉ là một vài đối thủ cạnh tranh chuyên về cùng một ngành kinh doanh ở
cùng một khu vực địa lý mà là tất cả các doanh nghiệp đang tìm kiếm nguồn vốn. Đồng
thời sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà đầu tư loại bỏ các tỷ suất sinh lợi và làm cho các
phát hành nợ và vốn cổ phần được định giá một cách công bằng. Điều này được gọi là thị
trường vốn hiệu quả.
4

Nhằm làm rõ hơn các vấn đề liên quan đến thị trường hiệu quả như trả lời cho các
câu hỏi thế nào là một thị trường hiệu quả; các dạng thị trường hiệu quả; có những bài
học nào trong từng dạng thị trường,…đề tài “Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu
quả” với cấu trúc như sau:
Chương 1: Lý thuyết về thị trường hiệu quả.
Chương 2: Các giả thuyết tiền đề của thị trường hiệu quả.
Chương 3: Các hình thức của thị trường hiệu quả.
Chương 4: Các bất thường của thị trường hiệu quả.
Chương 5: Mối quan hệ giữa tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả
Chương 6: Sáu bài học của thị trường hiệu quả.
Chương 7: Thị trường chứng khoán Việt Nam thuộc thị trường hiệu quả dạng nào.


















5

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ

1.1 Mục đích của nghiên cứu thị trường hiệu quả
Một thị trường hiệu quả dạng mạnh là một thị trường khó tồn tại trên thực tế. Tuy
nhiên, vẫn luôn có các nghiên cứu cũng như ứng dụng lý thuyết thị trường hiệu quả ở các
thị trường khác nhau, bao gồm các thị trường phát triển cũng như mới nổi với mục đích
tìm kiếm một phương thức gia tăng tính hiệu quả của thị trường, bởi một thị trường hiệu
quả sẽ mang lại một số lợi ích sau:
- Khuyến khích phân phối vốn một cách hiệu quả: Trong một thị trường hiệu quả,
đồng vốn sẽ tự tìm đến được những doanh nghiệp kinh doanh thực sự hiệu quả.
- Tạo sức hấp dẫn cho nhà đầu tư: Trong một thị trường hiệu quả, thông tin được

phản ánh vào trong giá cả một cách chuẩn xác và nhanh nhạy, đến lượt mình, thị
trường hiệu quả cũng luôn cho thấy các thông tin thị trường là những thông tin có
độ tin cậy cao. Thực tế đã cho thấy các thị trường chứng khoán có kênh cung cấp
thông tin tốt, minh bạch, hiệu quả luôn thu hút đông đảo nhà đầu tư tham gia thị
trường. Đây là kênh dẫn vốn vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp nói riêng và nền
kinh tế nói chung.
- Khuyến khích nhà đầu tư rót vốn vào thị trường: một nhà đầu tư tin tưởng vào lý
thuyết thị trường hiệu quả sẽ cho rằng không bao giờ gặp phải những rủi ro ngoài
tầm kiểm soát bởi một thị trường hiệu quả luôn có cơ chế tự cân bằng và ổn định.
Như vậy, trong các thị trường chứng khoán, việc nghiên cứu lý thuyết thị trường
hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản
lý, các nhà đầu tư. Cụ thể:
a) Đối với các nhà hoạch định chính sách
Hiểu được mức độ hiệu quả của thị trường, các nhà hoạch định chính sách sẽ tìm ra
cách thức nâng cao tính hiệu quả của thị trường. Việc kiểm định lý thuyết thị trường hiệu
quả ở các thị trường và tìm các nguyên nhân, yếu tố tác động đến tính hiệu quả của thị
trường sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách có các cách thức điều chỉnh, cải tiến thị
trường. Khi kết luận thị trường chưa hiệu quả, các nhà quản lý thị trường sẽ tìm hiểu
6

nguyên nhân của sự không hiệu quả. Khi thị trường không hiệu quả chứng tỏ có tồn tại
yếu tố đầu cơ, gây nhiễu thị trường, các điều kiện cơ bản cho thị trường hiệu quả đã bị vi
phạm, vì vậy phải có các biện pháp điều chỉnh kịp thời. Từ đó, các nhà hoạch định chính
sách có thể kiến nghị các giải pháp hoàn thiện yếu tố vĩ mô, cơ sở vật chất kỹ thuật…,
hoặc định hướng cho các thành phần tham gia thị trường thông qua các văn bản hướng
dẫn cho các đối tượng, tạo những điều kiện cần thiết để mọi người tham gia,tăng số tài
khoản nhà đầu tư, tạo tính thanh khoản cho thị trường.
b) Đối với các tổ chức trung gian tham gia thị trường

Các tổ chức trung gian như công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư… sau khi biết

được mức độ hiệu quả của thị trường cũng sẽ có những biện pháp phù hợp nhằm tăng
hiệu quả cho chính mình như chú trọng công tác minh bạch hóa thông tin, đầu tư cơ sở
vật chất – hạ tầng thông tin để xử lý, truyền tải thông tin một cách nhanh chóng, qua đó
làm tăng tính hiệu quả của thị trường.
c) Đối với các nhà đầu tư chứng khoán
Nhà đầu tư chứng khoán là thành phần chính quyết định đến sự thành bại của thị
trường. Nhà đầu tư luôn tính toán để sao cho đồng tiền mình bỏ ra tham gia thị trường là
an toàn và hiệu quả. Vì vậy, họ phải luôn trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để
trở thành các nhà đầu tư khôn ngoan cạnh tranh liên tục với nhau trên thị trường, tận
dụng mọi cơ hội. Mặt khác, họ cũng phải biết cách sử dụng kiến thức như thế nào, các lý
thuyết áp dụng trên thị trường sao cho phù hợp. Không nên và không thể áp dụng một
cách máy móc mọi lý thuyết trong mọi giai đoạn.
Việc xác định thị trường chứng khoán mình đang tham gia đang ở mức độ hiệu quả
dạng nào có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà đầu tư. Thông qua việc xác định mức độ
hiệu quả của thị trường kết hợp với các phương pháp, lý thuyết tài chính khác, nhà đầu tư
vẫn có khả năng thu được lợi nhuận vượt trội so với mức lợi nhuận trung bình của thị
trường. Khi thị trường không hiệu quả dạng yếu, nhà đầu tư có thể sử dụng phương pháp
phân tích kỹ thuật dựa trên thông tin, diễn biến giá cả, khối lượng giao dịch… của chứng
7

khoán trong quá khứ để tìm kiếm, tối ưu hóa mức lợi nhuận. Trong những thời điểm thị
trường không hiệu quả dạng trung bình, phương pháp phân tích cơ bản dựa trên việc phân
tích tình hình tài chính của công ty niêm yết được áp dụng sẽ là hợp lý.
1.2 Chúng ta cùng trở lại với NPV
Chương này bắt đầu bằng cách đối chiếu các quyết định đầu tư và các quyết định tài
trợ. Có các điểm giống nhau cơ bản trong quyết định đầu tư với các quyết định tài trợ vì
đều kết thúc bằng việc tính toán hiện giá ròng NPV khi hai quyết định đầu tư và tài trợ
tương ứng với việc định giá rủi ro, lợi ích từ việc mua một tài sản lớn hay bán một trái
phiếu.
Đối với một giám đốc tài chính cân nhắc việc có nên phát hành trái phiếu hay

không, bên cạnh những yếu tố chi phối như chính sách về cấu trúc vốn công ty thì một
điểm mà giám đốc tài chính cân nhắc đó là hiện giá ròng của khoản vay (trái phiếu) đó
như thế nào. Khái niệm hiện giá ròng NPV của một khoản vay có vẻ xa lạ với chúng ta,
nhưng bản chất nó đơn giản là hiện giá ròng của số tiền vay (dòng tiền vào) trừ đi hiện
giá của các khoản lãi vay, phần nợ gốc phải trả (dòng tiền ra).

NPV = số tiền vay – hiện giá của phần trả lãi – hiện giá của phần trả nợ gốc.
Các khác biệt giữa quyết định đầu tư và quyết định tài trợ:
- Các quyết định đầu tư đơn giản hơn các quyết định tài trợ: Số lượng các quyết định
tài trợ khác nhau liên tục được mở rộng thêm.
- Các quyết định tài trợ cũng dễ lập hơn các quyết định đầu tư theo nhiều cách:
 Các quyết định tài trợ không có cùng mức độ chắc chắn như các quyết định đầu
tư, và rất dễ đảo ngược. Nói cách khác, việc từ bỏ của các quyết định tài trợ thì
dễ thực hiện hơn.
 Trong một thị trường có các nguồn cung cấp vốn đa dạng và cạnh tranh thì việc
kiếm tiền hay mất tiền bằng các chiến lược tài chính thông minh hay ngu xuẫn
cũng khó hơn, tức là rất khó tìm được các kế hoạch tài trợ khác không một cách
đáng kể.
8

- Khi doanh nghiệp nhìn vào các quyết định đầu tư vốn, doanh nghiệp không cho là
mình đang đối phó với các thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Có thể doanh nghiệp chỉ
có vài đối thủ cạnh tranh chuyên về một ngành kinh doanh ở cùng một khu vực địa
lý. Và doanh nghiệp có thể sở hữu một số tài sản độc đáo riêng (thường là tài sản vô
hình) giúp doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh hơn các đối thủ. Tất cả nững tài sản
này mở ra các cơ hội để tạo siêu tỷ suất lợi nhuận và tìm kiếm các dự án có NPV
dương.
- Trên các thị trường tài chính, đối thủ cạnh tranh của bạn là tất cả các doanh nghiệp
đang tìm kiếm nguồn vốn. Những nhà đầu tư cung cấp tài chính nhiều vô số và rất
khôn ngoan.

- Một quyết định tài trợ tốt sẽ phát sinh một NPV dương cho người bán, và như vậy
nó sẽ phát sinh một NPV âm cho người mua. Xác suất mà doanh nghiệp có thể
thuyết phục các nhà đầu tư khôn ngoan mua chứng khóan phát sinh NPV âm cho họ
là bao nhiêu? Khá thấp. Nói chung các doanh nghiệp nên chấp nhận là chứng khoán
do mình phát hành phải được định giá phải chăng.
- Điều này đưa chúng ta đến chủ đề chính của chương: các thị trường vốn hiệu quả.
1.3 Khái niệm thị trường hiệu quả
Một thị trường được coi là hoàn hảo khi nó đảm nhiệm được chức năng của nền
kinh tế cạnh tranh hoàn hảo.Mọi thông tin được phản ánh công bố đầy đủ và chính xác có
độ tin cậy cao. Trong nghiên cứu kinh tế nói chung và trong phân tích tài chính nói riêng,
một thị trường được coi là hoàn hảo hay hiệu quả khi nó hiệu quả về các mặt: Phân phối
hiệu quả, tổ chức hoạt động hiệu quả, thông tin hiệu quả.
- Hiệu quả về mặt phân phối: thị trường được xem là hiệu quả về mặt phân phối khi
các nguồn tài nguyên khan hiếm được phân phối để sử dụng một cách tốt nhất. Điều
này có nghĩa là những người trả giá cao nhất cho các nguồn tài nguyên đó thì mới
giành được quyền sử dụng chúng. Đối với thị trường vốn nói chung và thị trường
chứng khoán nói riêng, vai trò của nó là phân phối các nguồn vốn có thể đầu tư sao
cho có hiệu quả nhất.
- Hiệu quả về tổ chức hoạt động của thị trường: thị trường được là hiệu quả về mặt
hoạt động khi tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc tham gia vào thị trường với
chi phí thấp nhất, từ đó thị trường đạt được đến độ thanh khoản cao; có các biện
9

pháp hữu hiệu chống lại các hoạt động đầu cơ gây phương hại đến đa số khách
hàng. Nghĩa là chi phí giao dịch trong thị trường đó được quyết định theo quy luật
cạnh tranh. Khi chi phí giao dịch bằng zero thì thị trường được coi là hiệu quả. Tuy
nhiên trên thực tế, các thị trường sẽ không tồn tại nếu chi phí hoạt động của những
người vận hành thị trường không được bù đắp.
- Hiệu quả về mặt thông tin: Một thị trường được coi là hiệu quả về mặt thông tin
khi giá cả của loại hàng hóa giao dịch trên thị trường được phản ánh đầy đủ và tức

thời bởi các thông tin mới có liên quan. Những thông tin đó bao gồm nhiều loại
khác nhau, như thông tin về môi trường kinh tế vĩ mô, thông tin về kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, thông tin về thị trường.
Thông tin mới là các thông tin không thể dự đoán được, do vậy sự thay đổi về giá cả
thị trường do tác động của các thông tin mới cũng là không thể dự đoán được. Tuy nhiên
cũng cần phải phân biệt về tính ngẫu nhiên của biến động giá (nghĩa là sự thay đổi giá cả
thị trường không tuân theo một quy luật nào, nó chỉ mang tính ngẫu nhiên) với sự bất hợp
lý về mức giá. Nếu giá được hình thành một cách hợp lý thì chỉ những thông tin mới mới
làm giá đó thay đổi. Vì vậy, tính ngẫu nhiên sẽ là kết quả tất yếu của giá khi giá này đã
bao hàm tất cả những thông tin hiện tại. Nếu giá của cổ phiếu có thể dự đoán được thì
đây là bằng chứng thị trường không hiệu quả, bởi vì các thông tin chưa được phản ánh
vào trong giá. Vì vậy một thị trường được coi là hiệu quả nếu giá của cổ phiếu phản ánh
tất cả các thông tin hiện có trên thị trường.
Các nghiên cứu thường xem xét lý thuyết thị trường hiệu quả về mặt thông tin, đánh
giá mức độ hiệu quả của thị trường mà ít đi sâu vào góc độ tìm hiểu về thị trường hiệu
quả trên phương diện phân phối hay tổ chức của thị trường, bởi vì trong thị trường chứng
khoán, tính hiệu quả về mặt thông tin có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của
toàn thị trường.
Chẳng hạn như, lý thuyết thị trường hiệu quả (trên phương diện thông tin) luôn cho
rằng khi tham gia vào một thị trường hiệu quả, nhà đầu tư sẽ ít có cơ hội vượt trội hơn so
với những người khác vì hiệu quả của thị trường chứng khoán sẽ khiến cho giá của các cổ
phiếu hiện có trên thị trường luôn gắn kết và cung cấp các thông tin tương thích, tức là
10

mọi người đều có khả năng tiếp cận thông tin như nhau. Theo thuyết này thì các chứng
khoán sẽ được mua/bán, trao đổi ngang giá trên các sàn giao dịch chứng khoán, do đó sẽ
không có cơ hội một cách hệ thống để một số “đại gia” mua ép giá cổ phiếu hoặc thổi
phồng mức giá khi bán (hiện tượng làm giá). Người chơi luôn được tin tưởng rằng thị
trường đối xử công bằng với tất cả mọi người.




















11

CHƯƠNG 2: CÁC GIẢ THUYẾT TIỀN ĐỀ CỦA THỊ TRƯỜNG
HIỆU QUẢ

Thứ nhất: Thị trường hiệu quả nó đòi hỏi một số lượng lớn các đối thủ cạnh tranh
tham gia vào thị trường với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, họ tiến hành phân tích và định
giá các loại chứng khoán một cách hoàn toàn độc lập với nhau.
Thứ hai: Những thông tin mới về chứng khoán được công bố trên thị trường một
cách ngẫu nhiên và tự động, và việc quyết định về thời điểm công bố thông tin cũng độc
lập lẫn nhau.
Thứ ba: Các nhà đầu tư luôn tìm mọi cách điều chỉnh giá chứng khoán thật nhanh

nhằm phản ánh chính xác ảnh hưởng của thông tin. Mặc dù sự điều chỉnh của giá có thể
là không hoàn hảo, tuy nhiên nó không hề ưu tiên cho một mặt nào. Có khi sự điều chỉnh
là quá mức, cũng có khi là dưới mức cần thiết, nhưng ta không thể dự đoán được điều gì
sẽ xảy ra ở mỗi thời điểm xác định. Giá chứng khoán được điều chỉnh một cách nhanh
chóng là bởi số lượng lớn các nhà đầu tư với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận cạnh tranh với
nhau.
Thứ tư: Vì giá chứng khoán điều chỉnh theo tất cả những thông tin mới nên giá của
những chứng khoán này sẽ phản ánh tất cả các thông tin có sẵn và được công bố rộng rãi
ở mọi thời điểm. Vì thế mà nó sẽ phản ánh không thiên lệch tất cả những thông tin có sẵn
hiện thời và đã bao gồm rủi ro của việc nắm giữ chứng khoán.
Các giả thuyết của thị trường hiệu quả là những điều kiện để một thị trường hiệu
quả hoàn toàn, hay hiệu quả dạng mạnh. Việc thiếu một trong các giả thuyết hay một giả
thuyết không tuyệt đối thỏa mãn không có nghĩa là thị trường không hiệu quả mà chỉ có
tác dụng hạn chế mức độ hiệu quả của thị trường, mà các hình thức của nó sẽ được trình
bày trong phần sau của đề tài.
Theo một cách diễn đạt khác, theo giáo sư Fama, điều kiện đủ của thị trường hiệu
quả tồn tại là:
12

- Không tồn tại chi phí giao dịch trong các giao dịch mua bán chứng khoán. Điều
kiện này giúp cho chứng khoán có cơ hội được điều chỉnh giá trở về giá trị nội tại
mà không bị cản trở bởi các chênh lệch gây ra bởi chi phí giao dịch.
- Mọi thành viên trên thị trường đều có thể tiếp cận với các thông tin mà không phải
tốn bất kỳ chi phí gì. Điều kiện này góp phần tạo ra một cuộc chơi công bằng trên
thị trường, mà ở đó tất cả những người tham gia thị trường không tạo được ưu thế
nhờ sở hữu những thông tin nội bộ (điều kiện của thị trường hiệu quả dạng mạnh).
- Kỳ vọng của các nhà đầu tư là thuần nhất. Nói một cách cụ thể hơn, tất cả các nhà
đầu tư đều có cách biên dịch và suy nghĩ về những gì ẩn chứa trong các thông tin về
chứng khoán, theo đó xác lập một kỳ vọng giống nhau về giá cả cũng như mô hình
phân phối xác suất giá cả trong tương lai. Điều kiện này cũng không có nghĩa là thị

trường hiệu quả đòi hỏi toàn bộ mọi thành viên thị trường phải có sự giống nhau
tuyệt đối trong kỳ vọng. Như đã đề cập, tương tự như các yếu tố khác, tùy mức độ
thuần nhất trong kỳ vọng của những người tham gia thị trường mà tính hiệu quả của
thị trường sẽ thể hiện ở các mức độ khác nhau.












13

CHƯƠNG 3: CÁC HÌNH THỨC CỦA THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ
3.1 Hình thức thị trường hiệu quả dạng yếu
Thị trường hiệu quả dạng yếu giả định rằng giá cả chứng khoán đã phản ánh đầy đủ
và kịp thời những thông tin trong quá khứ về giao dịch của thị trường như tỷ suất thu
nhập, khối lượng giao dịch, giá cả chứng khoán Nếu các thị trường hiệu quả ở mức yếu
thì không thể tạo ra được các siêu tỷ suất sinh lợi liên tục bằng cách nghiên cứu tỷ suất
sinh lợi quá khứ. Giá cả sẽ theo một bước ngẫu nhiên.
Giả thuyết thị trường kém hiệu quả giả định rằng giá chứng khoán hiện tại là sự
phản ánh đầy đủ mọi thông tin của thị trường chứng khoán, bao gồm các chuyển dịch liên
tục của giá, tỷ suất thu nhập, khối lượng giao dịch và các thông tin chung khác như: mua
bán lô lẻ, giao dịch lô lớn và các thương vụ của các chuyên gia ngoại hối hay của các
nhóm độc quyền khác. Vì nó giả định rằng mức giá thị trường hiện tại này đã phản ánh

tất cả các thu nhập trong quá khứ và mọi thông tin trên thị trường nên giả thuyết này có
nghĩa là tỷ suất thu nhập trong quá khứ cũng như các thông tin khác không có mối liên hệ
với tỷ suất thu nhập trong tương lai (các tỷ suất thu nhập độc lập với nhau). Bởi vậy, các
bạn có thể thu được thêm chút thu nhập khi ra quyết định mua hoặc bán chứng khoán dựa
trên các thông tin về tỷ suất thu nhập hay các thông tin khác của thị trường trong quá khứ.
Khi thị trường tồn tại dạng yếu thì các nhà phân tích kỹ thuật trở nên bị vô hiệu hóa.
Các nhà phân tích kỹ thuật thường theo dõi sự thay đổi giá của cổ phiếu một loạt các thời
điểm khác nhau. Nếu họ nhận thấy sự biến động giá tuân theo một số dạng nhất định, thì
dự đoán rằng điều này sẽ được lặp theo cùng một quy luật trong tương lai. Để làm được
điều này, các nhà phân tích sử dụng các phương pháp phân tích để phân tích giá cả quá
khứ của cổ phiếu, từ đó dự đoán cho giá tương lai. Tuy nhiên nếu trường hợp thị trường
tồn tại dạng yếu thì không có bất kỳ những thông tin nào trong quá khứ có tác dụng để dự
đoán cho tương lai. Bất cứ một thông tin nào có được trong quá khứ đều đã được nghiên
cứu bởi hàng nghìn nhà phân tích trên thị trường. Những chuyên gia này đã hành động
theo cách mà họ đã tìm ra và điều này được phản ánh rất nhanh trong giá cổ phiếu. Giả sử
14

những thông tin này chứa đựng những dấu hiệu về tương lai, khi đó tất cả các nhà đầu tư
sẽ tìm cách để khai thác triệt để dấu hiệu này. Cuối cùng, những thông tin này trở thành
sự hiểu biết của tất cả công chúng và do vậy giá cổ phiếu sẽ nhanh chóng được điều
chỉnh thăng bằng lại. Nói cách khác, không thể dự báo được giá chứng khoán trong tương
lai hay là có thể kiếm được lợi nhuận vượt trội bằng những căn cứ từ thông tin về giá cả
của chúng trong quá khứ.
3.2.Hình thức thị trường hiệu quả dạng vừa phải
Mức độ hiệu quả thứ hai này đòi hỏi giá cả phản ánh không chỉ giá cả trong quá khứ
mà còn phản ánh tất cả thông tin đã cộng bố ví dụ như là thông tin có được do đọc báo
chí về tài chính. Đây được gọi là hình thức hiệu quả vừa phải của thị trường
Giả thuyết thị trường hiệu quả vừa phải cho rằng giá cả của chứng khoán sẽ điều
chỉnh nhanh chóng trước bất kỳ thông tin công khai nào như là việc công bố tỷ suất sinh
lợi quý vừa qua, một phát hành cổ phần mới, một đề nghị sáp nhập hai công ty…., tức là,

mức giá hiện tại phản ánh đầy đủ mọi thông tin công khai nghĩa là mức giá hiện tại phản
ánh đầy đủ mọi thông tin công khai trong hiện tại cũng như trong quá khứ .Giả thuyết thị
trường hiệu quả vừa phải bao trùm lên giả thuyết hiệu quả dạng yếu vì tất cả các thông tin
trên thị trường đều phải được xem xét công khai dựa trên giả thuyết kém hiệu quả như là
giá cổ phiếu, tỷ suất thu nhập, và khối lượng giao dịch. Thông tin công khai cũng bao
gồm tất cả các thông tin phi thị trường như: các thông báo về thu nhập và cổ tức, tỷ lệ
P/E, tỷ lệ D/P, tỷ lệ thư giá/ thị giá, chia cổ phần, các thông tin về kinh tế cũng như chính
trị.
Giả thuyết này có ý nghĩa rằng các nhà đầu tư khi ra quyết định dựa trên các thông
tin mới sau khi nó được công bố sẽ không thu được lợi nhuận cao hơn mức trung bình bởi
mức giá chứng khoán này đã phản ánh mọi thông tin công khai đó.
3.3 Hình thức thị trường hiệu quả dạng mạnh
Thị trường hiệu quả dạng mạnh cho rằng giá chứng khoán phản ánh tất cả các thông
tin từ công khai đến đến nội bộ tức là giá cả chứng khoán sẽ phản ánh tất cả thông tin có
15

thể có được bằng cách phân tích tỉ mỉ về công ty và nền kinh tế. Điều này nói lên rằng
các thị trường phản ứng nhanh với bất kỳ thông tin nào kể cả những thông tin mang tính
chất nội bộ hay cá nhân, làm cho khả năng tìm kiếm lợi nhuận siêu ngạch khó xảy ra.
Như vậy trong một thị trường hiệu quả dạng mạnh, người sử dụng tất cả những thông tin
có thể có, dù rằng các thông tin đó có được phổ biến ra công chúng hay không, sẽ không
thể thu được lợi nhuận vượt trội so với người khác. Thị trường hiệu quả dạng mạnh
không cho phép tồn tại phân tích kỹ thuật lẫn cơ bản.
Giả thuyết thị trường hiệu quả mạnh nói rằng giá chứng khoán là sự phản ánh tất cả
các thông tin từ công khai đến nội bộ. Trong thị trường hiệu quả dạng này chúng ta sẽ
quan sát được các nhà đầu tư may mắn và không may mắn nhưng chúng ta sẽ không tìm
thấy bất kỳ siệu giám đốcđầu tư nào có thể liên tục đánh bại thị trường. Nghĩa là sẽ không
có một nhóm đầu tư nào độc quyền tiếp cận được các thông tin liên quan đến việc định
giá. Do đó, sẽ không ai thu được lợi nhuận vượt mức. Giả thuyết thị trường hiệu quả
mạnh là sự tổng hợp của cả giả thuyết thị trường hiệu quả yếu và giả thuyết thị trường

hiệu quả vừa phải. Hơn thế, giả thuyết thị trường hiệu quả dạng mạnh đưa ra giả định về
thị trường hiệu quả, trong đó giá chứng khoán lên xuống mạnh theo các thông báo công
khai, để nêu lên giả thiết về thị trường hoàn hảo khi tất cả các thông tin đều miễn phí và
sẵn có đối với mọi người ở cùng một thời điểm.
Có hai loại chuyên gia phân tích đầu tư có thể giúp làm cho thị trường có hiệu
quả:
- Các nhà phân tích cơ bản là những nhà phân tích nghiên cứu việc kinh doanh của
công ty, cố gắng phát hiện thông tin về khả năng sinh lợi và giá trị của cổ phần. Các
nổ lực cạnh tranh lẫn nhau giữa các nghiên cứu cơ bản sẽ có khuynh hướng bảo
đảm rằng giá cả phản ánh tất cả thông tin có liên quan và các thay đổi giá cả là
không thể dự đoán được.
- Các nhà phân tích kỹ thuật là những nhà phân tích nghiên cứu hồ sơ giá cả và tìm
kiếm các khuynh hướng hay các chu kỳ biến động của giá chứng khoán. Các nổ lực
trong nghiên cứu thị trường sẽ bảo đảm rằng giá cả hiện tại phản ánh tất cả thông
tin trong chuỗi giá cả quá khứ và các thay đổi giá tương lai không thể dự báo được
16

từ giá cả quá khứ.
3.4 Chứng cứ của các thị trường hiệu quả
- Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một giám đốc không khôn ngoan lại kiếm được tỷ
suất sinh lợi cao hơn các giám đốc khác.
- Chứng cứ về hình thức hiệu quả mạnh đã chứng tỏ một cách thuyết phục rằng các
quỹ chuyên nghiệp đã từ bỏ việc theo đuổi thành quả cao. Họ chỉ “mua chỉ số” hay
tối đa việc đa dạng hóa và tối thiểu hóa chi phí quản lý danh mục.
Về vấn đề này, có nhiều quan điểm không đồng nhất. Một số ý kiến tranh luận rằng,
chỉ có một bộ phận nhỏ cá nhân có thể có được những thông tin quan trọng trước khi
chúng được công bố ra công chúng, do đó họ có thể thu được lợi nhuận siêu ngạch (ví dụ
như thị trường bất động sản là minh chứng rõ nhất: khi có thông tin nội bộ về những vùng
đất đai quy hoạch thì những người có được thông tin này thực sự có được những đặc lợi
khó sánh). Nhưng thực tế, hầu như ở tất cả các nước, những hành động như vậy được

xem là vi phạm pháp luật. Do vậy hình thái thị trường này khó đứng vững.
3.4.1 Thử nghiệm hình thức hiệu quả yếu của giả thuyết
Hình 1: Mỗi điểm trong các biểu đồ rải rác này cho thấy tỷ suất sinh lợi trong các
tuần lễ kế tiếp của bốn chỉ số thị trường chứng khoán giữa tháng 8/1987 và tháng 4/1998.
Các điểm rải rác rộng cho thấy rằng hầu như không có tương quan giữa tỷ suất sinh lợi
trong một tuần và tỷ suất sinh lợi trong tuần kế tiếp. Bốn chỉ số này là: FTSE 100(Anh),
chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones (Mỹ), DAX(Đức) và CAC 40 (Pháp).

17


Để thử nghiệm hình thức yếu của giả thuyết các nhà nghiên cứu đã đo lường khả
năng sinh lợi của một vài quy luật giao dịch được sử dụng bởi các nhà phân tích kỹ thuật
và có vẻ như trên khắp thế giới chỉ có một vài mẫu mực tỷ suất sinh lợi từ tuần này sang
tuần khác.
3.4.2 Thử nghiệm hình thức hiệu quả vừa phải của giả thuyết
Để phân tích hình thức hiệu quả vừa phải của giả thuyết thị trường hiệu quả, các nhà
nghiên cứu đã đo lường xem giá cả chứng khoán đáp ứng nhanh đến mức nào đối với các
mục tin khác nhau như là: công bố tỷ suất sinh lợi hay cổ tức, sáp nhập hay tin tức kinh tế
vĩ mô .
Hình 2 dưới đây minh họa việc công bố các tin tức được phản ánh ngay lập tức vào
giá cả chứng khoán như thế nào; cho thấy rằng vào ngày công chúng được biết về nỗ lực
sáp nhập (ngày 0 trong biểu đồ), giá cổ phần tăng vọt rất cao. Sau chuyển động giá lớn
vào ngày công bố, việc tăng giá ngưng lại và không có chuyển biến thêm nào khác.
18


Một nghiên cứu của Patell và Wolfson cho thấy rằng, khi một doanh nghiệp thông
báo thu nhập mới nhất của mình hay công bố một thay đổi cổ tức, phần chính của điều
chỉnh giá cả xảy ra trong vòng từ 5 đến 10 phút sau khi thông báo.

3.4.3 Thử nghiệm hình thức hiệu quả mạnh của giả thuyết

19

Hình 3: Tỷ suất sinh lợi hàng năm bình quân của 1493 quỹ hỗ tương Mỹ và chỉ số
thị trường 1962-1992. Lưu ý rằng các quỹ hỗ tương có thành quả thấp hơn thị trường
trong khoảng phân nữa số năm.
Biểu đồ cho thấy các quỹ hỗ tương có thành quả thấp hơn thị trường trong khoảng
phân nửa số năm. Chứng cứ về hình thức hiệu quả mạnh đã chứng tỏ một cách đủ thuyết
phục rằng nhiều quỹ được quản lý chuyên nghiệp đã từ bỏ việc theo đuổi thành quả cao
vì không ai chiến thắng được thị trường. Các thử nghiệm về hình thức hiệu quả mạnh của
giả thuyết đã xem xét các khuyến nghị của các nhà phân tích chứng khoán chuyên nghiệp
và đã tìm kiếm các quỹ hỗ tương hay quỹ hưu bỗng có thể có thành quả vượt trội so với
thị trường một cách mà chúng ta có thể dự đoán được. Một vài nhà nghiên cứu đã tìm
thấy một thành quả khá cao liên tục nhưng nhiều nhà nghiên cứu khác đã kết luận rằng
các quỹ được quản lý một cách chuyên nghiệp đã không thành công trong công việc thu
hồi lại các chi phí quản lý.






















20

CHƯƠNG 4: CÁC BẤT THƯỜNG CỦA THỊ TRƯỜNG HIỆU
QUẢ
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu tìm ra các chứng cứ thực nghiệm ủng hộ giả thuyết
thị trường hiệu quả, nhưng có một điều cần phải thừa nhận: không một lý thuyết kinh tế
nào là đúng hoàn toàn tuyệt đối. Luôn luôn tồn tại trên thực tế những ngoại lệ mà lý
thuyết không giải thích được. Phần tiếp sau đây sẽ điểm qua ngắn gọn hai vấn đề cơ bản
đang tạo ra nhiều tranh luận cho những người ủng hộ lý thuyết thị trường hiệu quả.
4.1 Bài toán phát hành mới
Khi một doanh nghiệp lần đầu tiên phát hành cổ phiếu ra công chúng, các nhà đầu tư
thường có tâm lý đổ xô đi mua loại cổ phiếu mới được phát hành này. Xét trên trung
bình, các nhà đầu tư may mắn mua được cổ phiếu này từ những ngày đầu sẽ ngay lập tức
hưởng được một khoản lãi vốn. Tuy vậy, các nhà nghiên cứu đã cho thấy rằng, các khoản
lãi vốn này sẽ nhanh chóng bị loại bỏ sau đó và biến thành một khoản lỗ.
Thực tế nghiên cứu các phát hành mới giai đoạn 1970 – 1990 của Loughran và
Ritter đã phát hiện ra rằng: trong 5 năm tiếp theo kể từ khi phát hành lần đầu, tỷ suất sinh
lợi bình quân của các nhà đầu tư nắm giữ cổ phiếu này sẽ thấp hơn khoảng 30% so với tỷ
suất sinh lợi của một danh mục đầu tư các loại cổ phiếu của các doanh nghiệp cùng
ngành có quy mô tương tự nhưng không tiến hành phát hành mới.
4.2 Bài toán công bố tỷ suất sinh lợi
Trong một thị trường hiệu quả, giá cả chứng khoán phải điều chỉnh nhanh chóng tại

thời điểm tỷ suất sinh lợi được công bố, tức giá cả chứng khoán sẽ phản ánh hoàn toàn
mọi thông tin ngay tại cuối ngày công bố, khi đó sẽ không có sự chênh lệch nào trong tỷ
suất sinh lợi giữa các danh mục đầu tư. Tuy nhiên thực tế nghiên cứu diễn biến giá cả
chứng khoán sau khi tin tức về tỷ suất sinh lợi được công bố trong giai đoạn 1974-1986
của Bernard và Thomas đã cho thấy: giá cả chứng khoán trên thị trường vào cuối ngày
công bố dường như vẫn chưa phản ánh hết lượng thông tin được công bố.
21

Cụ thể, dữ liệu được thu thập cho 10 danh mục đầu tư (được đánh số từ 1 đến 10).
Danh mục đầu tư 1 bao gồm các chứng khoán có mức tỷ suất sinh lợi được công bố là
xấu nhất, danh mục đầu tư 10 bao gồm các chứng khoán có mức tỷ suất sinh lợi được
công bố là tốt nhất. Sau khoảng thời gian 60 ngày kể từ ngày công bố tỷ suất sinh lợi, tỷ
suất sinh lợi trên bình thường tích lũy giữa danh mục đầu tư 1 và danh mục đầu tư 10 vẫn
có sự chênh lệch nhau và sự chênh lệch này là vào khoảng 4%.


















Hình 1.2: Tỷ suất sinh lợi giữa các danh mục đầu tư
4.3 Khác
Ngoài ra, thực tế thị trường chứng khoán còn chứng kiến tỷ suất sinh lợi cao một
cách bất thường của chứng khoán của các doanh nghiệp nhỏ trong giai đoạn 1926 -1997.
Hoặc các bất thường liên quan đến các hành vi ngắn hạn của cổ phần như: Tỷ suất sinh
lợi trong tháng Giêng có vẻ cao hơn trong các tháng khác, trong ngày thứ Hai có vẻ thấp
hơn các ngày khác trong tuần, và hầu hết tỷ suất sinh lợi trong ngày đến vào lúc đầu ngày
và cuối ngày.
Tóm lại: Cho đến thời điểm này, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể xác định được,
liệu các bất hoàn hảo của thị trường có phải là các ngoại lệ của lý thuyết thị trường hiệu
22

quả hay là kết quả từ việc tìm ra các mẫu hình nào đó trong dữ liệu của các nhà nghiên
cứu. Những vấn đề mà bản thân lý thuyết thị trường hiệu quả không thể giải thích được
cũng là động lực và cũng là tiền đề ra đời của một hướng nghiên cứu mới trong ngành tài
chính, đó là “ tài chính hành vi”. Đây hiện đang là đề tài hấp dẫn các nhà kinh tế học và
hứa hẹn sẽ cung cấp những câu trả lời phù hợp cho những vấn đề còn tồn đọng hiện nay.


























23

CHƯƠNG 5: MỐI QUAN HỆ GIỮA TÀI TRỢ DOANH NGHIỆP
VÀ THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ

Trong một thị trường hiệu quả, giá cả chứng khoán phản ánh một cách hợp lý và
nhanh chóng những thông tin đang tồn tại về tình hình doanh nghiệp và nền kinh tế. Do
đó, giá cả chứng khoán sẽ phản ánh đúng đắn và phù hợp với giá trị nội tại của nó. Việc
nghiên cứu lý thuyết thị trường hiệu quả là điều rất cần thiết đối với các giám đốc tài
chính. Bởi lẽ, mức độ hiệu quả thị trường chứng khoán đến đâu ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định chiến lược tài chính của các giám đốc. Nắm bắt được thị trường mà chứng
khoán của công ty hiện đang giao dịch hiệu quả ở mức độ nào: không hiệu quả, hiệu quả
dạng yếu, trung bình hay mạnh, các giám đốc tài chính sẽ đưa ra những quyết định về tài
trợ một cách hợp lý, nhằm huy động vốn sao cho hiệu quả và tốn ít chi phí nhất.
Việc quyết định sẽ tài trợ bằng chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn, việc công bố
thông tin về phát hành mới, chia cổ tức hay chia nhỏ cổ phần vào thời điểm nào… cũng
cần được lưu tâm bởi mức độ nhạy cảm với thông tin được công bố đối với từng mức độ

hiệu quả của thị trường là khác nhau. Bởi lẽ, sự định giá chứng khoán của nhà đầu tư
trong từng mức độ hiệu quả của thị trường và khác nhau, và do đó sự chênh lệch giữa giá
thị trường và giá trị nội tại của chứng khoán cũng là khác nhau (sự chênh lệch này là lớn
nhất khi thị trường không hiệu quả và ngày càng thu hẹp khi thị trường càng hiệu quả).
Ngoài ra, các giám đốc tài chính cũng cần quan tâm đến các nhà đầu tư – những người sẽ
cung ứng vốn cho doanh nghiệp, xem họ có thể định giá chính xác giá cả chứng khoán
đến mức nào và bằng phương pháp nào đối với từng mức độ hiệu quả của thị trường, từ
đó có chiến lược tài chính thích hợp. Ví dụ, đối với thị trường hiệu quả dạng yếu, điểm
cần lưu tâm là giá cả chỉ phản ánh những thông tin đã được công bố trong quá khứ, giá cả
trong tương lai sẽ tuân theo những bước đi ngẫu nhiên, do đó các nhà đầu tư không thể sử
dụng phương pháp phân tích kỹ thuật để tìm kiếm lợi nhuận vượt trội được. Bên cạnh đó,
đối với thị trường hiệu quả dạng yếu, mức độ chênh lệch giữa giá thị trường và giá trị nội
tại vẫn còn tồn tại, do đó, đây chính là cơ hội để các giám đốc tài chính tung ra chiến
24

lược tài trợ có lợi cho mình: tài trợ bằng vốn cổ phần khi chứng khoán đang được định
giá cao hoặc tài trợ bằng nợ khi chứng khoán đang bị định giá thấp.
Quyết định tài trợ
Dạng thị trường
Nên
Thị trường không hiệu quả Cẩn trọng trong quyết định tài trợ: bởi khả năng thị
trường định giá sai chứng khoán của doanh nghiệp
là rất cao.
- Công ty có thực lực tài chính mạnh=> sử dụng
thế mạnh của mình để tạo ra lợi thế cho chứng
khoán rồi phát hành.
- Công ty thực lực trung bình và yếu => tiến hành
các trò chơi tài chính để đạt mục đích.
Thị trường hiệu quả dạng yếu - Ưu tiên tài trợ bằng vốn cổ phần khi chứng khoán
đang được định giá cao hoặc ưu tiên tài trợ bằng

nợ khi chứng khoán đang bị định giá thấp (bởi
chênh lệch giữa giá thị trường và giá trị nội tại của
chứng khoán vẫn còn), hoặc ưu tiên tuân theo lý
thuyết trật tự phân hạng khi chứng khoán được
định giá tương đối phải chăng.
- Tăng cường minh bạch hoá thông tin để tạo điều
kiện thị trường “hiểu” đúng giá trị doanh nghiệp
(DN tốt)
Thị trường hiệu quả dạng vừa
(trung bình)
Giá cả chứng khoản phản ánh đúng với các thông
tin đã công bố, tuy nhiên vẫn còn tình trạng bất cân
xứng thông tin giám đốc tài chính tận dụng lợi
thế thông tin nội bộ
Thị trường hiệu quả dạng mạnh Tùy vào tình hình công ty: Giá cả đã thể hiện một
cách hợp lý nhất dựa trên thông tin sẵn có về
doanh nghiệp, do đó các Giám đốc tài chính không
còn mối bận tâm về việc chứng khoán của công ty
mình bị định giá sai, hoặc làm cách nào để các
quyết định tài trợ của mình mang lại 1 khoản NPV
dương (vì lúc này thị trường hiệu quả ở mức độ
mạnh nhất, rất khó để tìm được các kế hoạch tài trợ
có NPV khác 0 một cách đáng kể), mà nên tập
trung vào kinh doanh
Trên cơ sở thị trường sẽ dần dần trở nên hiệu quả hơn, bên cạnh việc tận dụng lợi
thế thông tin nội bộ để sinh lợi cho công ty, giám đốc tài chính cũng cần xây dựng hình
25

ảnh công ty minh bạch trong mắt giới đầu tư, thị trường, đồng thời chú trọng việc phát
triển kinh doanh. Như thế doanh nghiệp sẽ tạo được niềm tin và thu hút nhà đầu tư trong

việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Việc doanh nghiệp nên tài trợ nhưng thế nào cũng
như các nhà đầu tư nên làm gì để có thể đạt được lợi ích cao nhất từ các mức độ hiệu quả
của thị trường sẽ được đề cập cụ thể trong phần tiếp theo - “6 bài học của thị trường hiệu
quả”.





















×