Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận duyên hải Nam Trung Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 16 trang )

[Type the company name]
2015
TIỂU LUẬN VÙNG DUYÊN
HẢI NAM TRUNG BỘ
12 TOÁN 1
Hoàng Anh Quân – Kiều Thị Thùy Dương – Trần Hữu Phúc – Phạm
Thị Quỳnh Trang – Nguyễn Thị Ngọc Mai – Bùi Thị Thu Hương
Vị Trí Địa Lý Và Lãnh Thồ Vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ bao gồm thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận;
có diện tích tự nhiên gần 44,4 nghìn km
2
, số dân gần 8,9 triệu người,
chiếm 13,4% diện tích và 10,5% số dân của cả nước (năm 2006).
Thuộc về Duyên hải Nam Trung Bộ còn có các đảo xa bờ là Hoàng
Sa (huyện đảo thuộc thành phố Đà Nẵng) và Trường Sa (huyện đảo
thuộc tỉnh Khánh Hòa).
Duyên hải Nam Trung Bộ có đặc điểm tự nhiên rất đặc sắc: một dải
lãnh thổ hẹp, mà phía tây là sườn Đông của Trường Sơn Nam, ôm
lấy Tây Nguyên rộng lớn, phía đông là Biển Đông. Phía bắc có dãy
núi Bạch Mã làm ranh giới tự nhiên với Bắc Trung Bộ, còn phía nam
là Đông Nam Bộ. Các nhánh núi ăn ngang ra biển đã chia nhỏ phần
duyên hải thành các đồng bằng nhỏ hẹp, tạo nên hàng loạt các bán
đảo, các vũng vịnh và nhiều bãi biển đẹp.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí địa lý kinh tế rất thuận lợi,
nằm trên trục các đường giao thông bộ, sắt, hàng khôngvà biển,
gần Thành phố Hồ Chí Minh và khu tam giác kinh tế trọng điểm
miền Đông Nam Bộ; cửa ngõ của Tây Nguyên, của đường xuyên Á
ra biển nối với đường hàng hải quốc tế.
2
BẢN ĐỒ TỰ NHIÊN VÙNG


DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
NGHỀ CÁ
Nơi đây thuận lợi vì có nhiều bãi tôm, bãi cá.
Đặc biệt ở vùng cực Nam Trung Bộ. Có ngư
trường lớn ở Hoàng Sa (TP Đà Nẵng) và
Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa).Sản lượng đánh
bắt hải sản năm 2006 đã hơn 624.000 tấn,
trong đó sản lượng cá chiếm 420.000 tấn.
Vùng có nhiều vũng, vịnh, đầm phá thuận
lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm
hùm, tôm sú đang phát triển mạnh, nhất là ở
Phú Yên và Khánh Hòa.
Tương lai ngành thủy hải sản sẽ giải quyết được vấn đề lương thực của vùng và cung cấp
được nhiều sản phẩm giúp chuyển dịch cơ cấu nông thôn ven biển.
Tuy nhiên, việc khai thác hợp lí và bảo vệ nguồn lợi thủy sản (nhất là Hoàng Sa - Trường Sa)
là rất cấp bách.
Trữ lượng nguồn lợi hải sản ở vùng
biển Trung Bộ ước tính khoảng 712
ngàn tấn (dao động trong khoảng
696 - 726 ngàn tấn), với 86,6% cá
nổi nhỏ và 13,3% hải sản tầng đáy.
Trữ lượng nguồn lợi ở vùng bờ,
vùng lộng chiếm tỷ lệ khoảng
31,2% và ở vùng khơi chiếm 68,8%
tổng trữ lượng. Khả năng khai thác
khoảng 294,4 nghìn tấn trong đó có những loài có giá trị kinh tế cao (cá thu, ngừ…). Trữ
lượng nguồn lợi hải sản vùng giữa biển Đông ước tính khoảng 1.036 ngàn tấn (với 99,4% cá
nổi lớn, 0,5% là cá nổi nhỏ và 0,1% cá rạn san hô, khả năng khai thác khoảng 414,4 nghìn
tấn) đặc biệt trong đó có trữ lượng ước tính cá ngừ đại dương (cá ngừ vây vàng và cá ngừ
mắt to) năm 2004 vào khoảng 44.853 - 52.591 tấn, khả năng khai thác bền vững khoảng

17.000 tấn. Trên thực tế, sản lượng đánh bắt cá ngừ đại dương năm 2004 ước đạt khoảng
10.000 tấn (Bộ Thủy sản, 2005). Theo báo cáo thống kê năm 2004, sản lượng cá ngừ xuất
khẩu đạt 20.783 tấn, trong đó cá ngừ đại dương chiếm khoảng 50% tổng sản lượng xuất
khẩu. Năm 2005, sản lượng cá ngừ xuất khẩu đạt 28.580 tấn, trong đó cá ngừ đại dương ước
tính khoảng 14.000 - 15.000 tấn (Trung tâm thông tin - Bộ Thủy sản, 2005). Như vậy, sản
lượng khai thác cá ngừ đại dương hiện nay có thể đã đạt đến mức khai thác bền vững tối đa ở
vùng biển Việt Nam.Diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản của Vùng hơn 43.000 ha, diện
tích các vùng nước ngọt nội địa không lớn, chỉ có khoảng 18.000 ha; vùng triều chỉ chiếm
hơn 1% diện tích tự nhiên của toàn Vùng; trên 22.000 ha eo vịnh kín gió có độ mặn rất cao
3
nên có thể phát triển nuôi biển với các quy mô và phương thức khác nhau. Trong những năm
qua, ngành thủy sản các tỉnh duyên hải miền Trung đã đạt được một số kết quả sản xuất đáng
ghi nhận: - Diện tích nuôi trồng ước đạt 26.800 ha; sản lượng ước đạt 83.000 tấn. - Số lượng
tàu thuyền khai thác hải sản là 44.433 tàu (trong đó có gần 11.000 tàu có công suất trên 90
CV), sản lượng khoảng 750.000 tấn (trong đó sản lượng cá ngừ ước tính của nghề lưới rê đạt
19.500 tấn, nghề câu vàng đạt 16.000 tấn. - Số lượng nhà máy chế biến trên 100 nhà máy, sản
lượng khoảng 100.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu khoảng 500 triệu USD. - Toàn Vùng có 41
cảng cá và 23 bến cá (trong đó có 4 cảng cá loại I); 57 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá
(trong đó có 7 khu neo đậu cấp vùng). Năm 2004, số lượng tàu câu vàng cá ngừ đại dương có
1.670 chiếc, tập trung ở các đội tàu có công suất >90CV (Bộ Thủy sản, 2004), chủ yếu tập
trung ở các tỉnh Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh
Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh và Kiên Giang. Theo thống kê mới nhất, tính
đến 31/5/2006, số lượng tàu câu vàng cá ngừ đại dương có công suất trên 90CV là 921 chiếc
trong tổng số 13.905 chiếc tàu khai thác xa bờ (Cục KT&BV Nguồn lợi Thủy sản, 2006).
Ưu tiên đầu tư hạ tầng, cảng cá
Tại Hội nghị phát triển bền vững vùng Duyên hải miền Trung được tổ chức tại Quảng Nam
(tháng 6/2014), ông Lê Phước Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam cho biết, trên địa
bàn 9 tỉnh, thành phố miền Trung có 17 khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá với sức chứa
khoảng 11.225 tàu có công suất dưới 400 CV. Nhưng trên thực tế, các khu này vẫn tận dụng
điều kiện tự nhiên là chủ yếu và chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của ngư

dân và yêu cầu tránh, trú trong tình huống thiên tai. Nguyên nhân, thiết kế, xây dựng không
đồng bộ do thiếu nguồn kinh phí, hệ thống luồng vào không đảm bảo do luôn bị bồi lấp.
Việc không có âu thuyền khiến ngư dân chưa mạnh dạn trong đầu tư ngư lưới cụ để phục vụ
khai thác trên phá và đánh bắt xa bờ. Ông Nguyễn Thu, ngư dân xã An Hải, huyện đảo Lý
Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) cho biết, khi vươn khơi đều đưa tàu vào đất liền nạp nhiên liệu, mua
nước đá và các vật dụng cần thiết. Mỗi chuyến ra vào như vậy tốn 200 lít dầu, tương đương
5 triệu đồng. "Ngư dân Lý Sơn chúng tôi mong muốn vùng neo đậu tàu thuyền Lý Sơn sớm
hoàn thiện để tránh trú bão an toàn cho khoảng 500 tàu công suất 400 CV, hình thành cơ sở
hạ tầng nghề cá tại địa phương để ngư dân an tâm bám biển làm ăn".
Mới đây, tại buổi làm việc tại Đà Nẵng, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Văn Ninh nhấn mạnh,
Chính phủ ưu tiên tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, các khu cảng, neo đậu, trú tránh bão cho
tàu thuyền khu vực miền Trung. Theo Quy hoạch khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 1349/2011/QĐ-TTg, vùng miền
Trung sẽ có 72 khu neo đậu, tránh bão cho tàu thuyền. Tổng vốn đầu tư thực hiện quy hoạch
11.230 tỷ đồng. Chính phủ đã có Quyết định số 346/QĐ-TTg ngày 15/3/2010 về việc Phê
duyệt quy hoạch cảng cá, bến cá Đà Nẵng đến năm 2020, trong đó cảng cá Thọ Quang là
cảng cá loại I, đồng thời bổ sung thêm 1 âu thuyền tại Đà Nẵng. Tại Quảng Nam, ngoài việc
nâng cấp âu thuyền Hồng Triều và An Hòa, UBND tỉnh đang đầu tư xây dựng khu neo đậu
4
Biểu đồ diện tích nuôi trồng thủy sản ở Duyên Hải Nam Trung Bộ
tàu thuyền Cửa Đại để sớm đưa vào hoạt động trước mùa mưa bão năm nay. Trong khi đó,
dự án âu thuyền Đề Gi (tỉnh Bình Định) cũng được tài trợ 47 tỷ đồng để mở rộng khu neo
đậu trú bão, các dịch vụ nghề cá.
Cảng cá bất cập, âu thuyền bất an
Các tỉnh Duyên hải miền Trung có nghề cá lâu đời, đội tàu đánh bắt tương đối lớn với hàng
trăm ngàn lao động trên biển, nhưng lâu nay công tác hậu cần nghề cá vẫn chưa được quan
tâm đúng mứ
Tại Quảng Nam có 3 cảng cá là Tam Kỳ, Cửa Đại và An Hòa, nhưng đều bất cập, thiếu đồng
bộ trong xây dựng các hạng mục và thiếu hợp lý khi lựa chọn địa điểm nên vô tình gây khó,
buộc ngư dân phải cập vào các cảng cá do tư nhân xây dựng manh mún và tự phát. Ông

Nguyễn Văn Khương, Trưởng phòng Kinh tế TP. Hội An cho biết: Cảng cá Cửa Đại được
phê duyệt và tiến hành xây dựng từ năm 1999 với số vốn đầu tư gần 19 tỷ đồng. Năm 2003,
dự án xây dựng xong bờ rào,
cầu cảng, nhà tiếp nhận thủy
sản và một vài hạng mục khác.
Sau đó, dự án phải tạm dừng
để chuyển giao cho Công ty
Đầu tư xây dựng, TM&DV Cù
Lao Chàm. "Từ khi chuyển
giao đến nay, công trình hoàn
toàn không được xây dựng
thêm nên không được sử dụng
cho mục đích thiết thực nào" -
ông Khương nói.
Cảng cá Tư Hiền, xã Vinh Hiền
(huyện Phú Lộc) do Bộ Chỉ huy
Quân sự tỉnh Thừa thiên - Huế
làm chủ đầu tư với kinh phí 29
tỷ đồng, được bắt đầu xây dựng
vào tháng 8/2004 và hoàn
thành vào tháng 8/2010. Tuy
nhiên, hơn 3 năm nay công
trình này phơi mưa, phơi nắng,
dẫn đến hư hỏng nặng
Nhật Bản chuyển giao công
nghệ câu cá ngừ đại dương
của Nhật cho ngư dân tỉnh
Bình Định
5
Ngày 10/6, tại cửa biển Tam Quan Bắc, xã Tam Quan Bắc, huyện Hoài Nhơn (Bình Định),

UBND tỉnh Bình Định phối hợp với Hội hữu nghị Nhật - Việt tại Sakai tổ chức Lễ Giao nhận
thiết bị và công nghệ câu cá ngừ đại dương của Nhật cho ngư dân tỉnh Bình Định.
Ông Masakazu Shoga, chia sẻ thêm: Hàng năm, Nhật Bản tiêu thụ khoảng 600.000 tấn cá
ngừ đại dương, trong đó có 300.000 tấn phải nhập từ nước ngoài, nhưng chỉ 100.000 tấn cá
tươi, 200.000 tấn là đông lạnh. Đặc biệt, các nước nhập khẩu cá sang thị trường Nhật thì có
tới 80% ngư dân đang sử dụng những thiết bị và công nghệ của chúng tôi cung cấp. Vì thế,
chúng tôi tin khi áp dụng thành công ở Bình Định, có thể áp dụng rộng rãi cho ngư dân Việt
Nam. Chúng tôi rất muốn những ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương sẽ bán được với giá
cao hơn giúp người dân đỡ khổ”.
1. Điểm mạnh - Hệ thống giao thông thủy, bộ, đường sắt, hàng không phát triển dọc ven
biển, bờ biển dài, sâu, có nhiều eo, vịnh vì vậy vùng này có lợi thế để xây dựng các trung tâm
nghề cá lớn gắn với ngư trường trọng điểm. - Toàn Vùng có hệ thống đào tạo tương đối hoàn
chỉnh, nổi bật nhất là các cơ sở có truyền thống trong đào tạo nguồn nhân lực thủy sản: Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III, Đại học Nha Trang, Đại học Nông Lâm - Đại học Huế.
Phần lớn dân cư phân bố dọc ven biển, cơ cấu dân số trẻ so với cả nước và các vùng kinh tế
khác, lao động nghề cá truyền thống đông đảo, có kinh nghiệm, dũng cảm, sáng tạo. - Vị trí
địa lý Vùng gần các ngư trường Hoàng Sa, Trường Sa, DK1 nên có tiềm năng phát triển khai
thác hải sản xa bờ, đặc biệt là khai thác cá ngừ đại dương. Nước biển khu vực ven bờ vùng
duyên hải Nam Trung Bộ có độ mặn cao và sạch, là điều kiện lý tưởng để Vùng trở thành
khu vực sản xuất giống hải sản tốt nhất ở nước ta. Diện tích mặt biển lớn với các eo, vịnh,
đầm phá rất thuận lợi phát triển nuôi biển.
2. Điểm yếu - Xuất phát điểm nền kinh tế của các địa phương thấp, tích lũy đầu tư nhỏ khó
cân đối nguồn lực phát triển ngành. Doanh nghiệp năng lực cạnh tranh thấp, thiếu liên kết
giữa các thành phần trong chuỗi giá trị sản xuất, chưa có sản phẩm chủ lực có thương hiệu.
Cơ sở hạ tầng, hệ thống dịch vụ hậu cần nuôi trồng, chế biến thương mại đặc biệt là cho khai
thác hải sản xa bờ rất yếu kém, không đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất. - Lao động nghề cá
chưa qua đào tạo còn lớn; tỷ lệ lao động lành nghề, đáp ứng cao yêu cầu doanh nghiệp thấp;
thiếu hụt nghiêm trọng nguồn lao động chất lượng cao, nhất là nguồn nhân lực trình độ cao.
- Các hoạt động phát triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) tự phát đã tác động tiêu cực đến môi
trường sinh thái, đa dạng sinh học, bùng nổ bệnh tôm, ô nhiễm nước cục bộ đã từng phát sinh

và ảnh hưởng đến tính bền vững của nuôi trồng thủy sản. Nguồn lợi thủy sản đang bị khai
thác bừa bãi cũng dẫn đến tình trạng suy giảm tính đa dạng sinh học, mất cân bằng sinh thái,
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
3. Cơ hội - So sánh lượng cung - cầu theo dự báo cho thấy nhu cầu thủy sản và các sản phẩm
thủy sản sẽ cao hơn lượng cung tiềm năng trong đó tiêu thụ thủy sản với nhịp độ cao hơn là
do sự gia tăng nhanh hơn về dân số và thu nhập. - Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng là cơ
hội mở rộng thị trường, tạo đầu ra, khuyến khích mở rộng sản xuất đồng thời tạo điều kiện
thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư, ứng dụng khoa học công nghệ và kinh nghiệm quản lý
6
của nước ngoài. - Tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ sinh học, trở thành động
lực thúc đẩy trong quá trình phát triển thủy sản.
4. Thách thức - Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng nhóm ngành
mà Vùng cũng có lợi thế phát triển như du lịch, công nghiệp hóa dầu, cảng biển và quá trình
đô thị hóa tạo nên mâu thuẫn trong sử dụng các nguồn lực để phát triển thủy sản (mặt đất,
mặt nước, nguồn nước, vốn, lao động). - Tranh chấp chủ quyền trên biển cản trở hoạt động
khai thác hải sản của ngư dân miền Trung tại các ngư trường truyền thống xa bờ. - Điều kiện
khí hậu và tự nhiên rất khắc nghiệt, nhiều thiên tai nhất là bão, lũ lụt, hạn hán, các cửa sông
lại hay bị bồi lấp làm cản trở di chuyển tàu thuyền, gây khó khăn cho hoạt động đánh bắt hải
sản trên biển, đồng thời chênh lệch nhiệt độ khá lớn làm nước bốc hơi nhanh, tôm cá dễ bị
sốc và chết gây thiệt hại cho hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản.
NGƯ TRƯỜNG HOÀNG SA TRƯỜNG SA
Thành Lập Nghiệp Đoàn Nghề Cá tại 2 ngư trường truyền thống Hoàng Sa – Trường Sa
Chiều nay (8/11), Liên đoàn Lao động tỉnh Khánh Hòa tổ chức Lễ thành lập Nghiệp đoàn
nghề cá xã Phước Đồng và Nghiệp đoàn nghề cá phường Vĩnh Thọ, TP Nha Trang với sự
tham gia của gần 40 chủ tàu và 200 ngư dân chuyên đánh bắt tại ngư trường truyền thống
Hoàng Sa- Trường Sa. Hai nghiệp đoàn nghề cá mới thành lập có nhiệm vụ tập hợp ngư dân
thường xuyên khai thác trên các vùng biển xa như: Trường Sa, Hoàng Sa, DK1, qua đó tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đoàn kết, giúp
đỡ nhau trong bám biển, khai thác hải sản. Dịp này, Quỹ Tấm lòng Vàng- Báo Người Lao
động đã chuyển 1 tỷ đồng từ đóng góp của đồng bào trong cả nước hỗ trợ ngư dân tỉnh

Khánh Hòa; Liên đoàn Lao động tỉnh Khánh Hòa trích 270 triệu đồng để hỗ trợ các chủ tàu
bị nạn, ngư dân gặp khó khăn. Ông Nguyễn Hòa, Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Khánh
Hòa cho biết, tỉnh này đã thành lập 4 nghiệp đoàn tập hợp gần 500 ngư dân và 100 tàu cá:
“Tập hợp bà con ngư dân đang đánh bắt ở khu vực Trường Sa- Hoàng Sa để các ngư dân
giúp nhau vươn khơi, bám biển trước sóng gió, thiên tai, địch họa gây khó khăn cho bà
con. Tổ chức công đoàn hỗ trợ cho ngư dân ngư cụ, các phương tiện khác như áo phao, tủ
thuốc y tế, máy móc thông tin liên lạc”
Mùa biển mới ở Trường Sa
Rất nhiều ngư dân ở Quảng Ngãi và Bình Định thu lợi hàng tỷ đồng trong mùa biển vừa rồi,
nhờ lòng dũng cảm, kinh nghiệm trên biển. Và quan trọng nhất, họ đã chuyển nghề đúng lúc
để có được lượng cá lớn từ ngư trường trên biển đảo quê hương. Tàu QNg 907068 TS của
ngư dân Phạm Hết thống kê thu nhập trong 4 phiên biển: 200 triệu - 250 triệu - 350 triệu -
400 triệu đồng. Nhìn chung, cứ mỗi phiên biển, thu nhập lại tăng lên
Giao thông vận tải
Thế mạnh về vị trí và cơ sở hạ tầng: Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí địa lý kinh
7
tế rất thuận lợi, nằm trên trục các đường giao thông bộ, sắt, hàng không và biển. Vùng gần
thành phố Hồ Chí Minh và khu tam giác kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ; là cửa
ngõ của Tây Nguyên, của đường xuyên Á
ra biển nối với đường hàng hải quốc tế.
 Việc phát triển cơ sở hạ tầng giao
thông vận tải tạo ra thế mở cửa hơn nữa cho
vùng và cho sự phân công lao động mới. Việc
nâng cấp quốc lộ 1 và đường sắt Bắc - Nam
không chỉ làm tăng vai trò trung chuyển của
Duyên hải miền Trung, mà còn giúp đẩy
mạnh sự giao lưu giữa các tỉnh Duyên hải
Nam Trung Bộ với thành phố Đà Nẵng (một
trung tâm phát triển ở phía bắc của vùng) và với Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, Đông
Nam Bộ nói chung.

 Các dự án phát triển các tuyến đường ngang (như các đường 19, 26…) nối Tây Nguyên
với các cảng nước sâu, giúp mở rộng các vùng hậu phương của các cảng này và giúp cho
Duyên hải Nam Trung Bộ mở cửa hơn nữa. Duyên hải Nam Trung
Bộ sẽ có vai trò quan trọng hơn trong quan hệ với các tỉnh Tây
Nguyên, khu vực Nam Lào và Đông Bắc Thái
 Hệ thống sân bay của vùng đã được khôi phục, hiện đại, gồm sân
bay quốc tế Đà Nẵng và các sân bay nội địa như Chu Lai, Quy
Nhơn, Cam Ranh, Tuy Hoà. Nam Trung bộ có sân bay Đà Nẵng là
một trong 3 cảng hàng không quốc tế lớn của Việt Nam. Vùng còn
có nhiều sân bay nội địa như Phú Cát (Bình Định), Nha Trang, Cam
Ranh (Khánh Hoà)… cùng hàng ngàn km đường bộ, đường sắt. Về
đường biển, vùng có nhiều cảng biển
quan trọng như cảng Đà Nẵng, Tiên Sa,
Liên Chiểu (Đà Nẵng), Kỳ Hà (Quảng
Nam)… tạo nên hệ thống cảng biển phục
vụ cho phát triển kinh tế vùng và tạo
thành con đường huyết mạch trên biển
thông thương với khu vực và thế giới.
Vùng có nhiều khu kinh tế mở như Chu
Lai (Quảng Nam), Dung Quất (Quảng
Ngãi), Nhơn Hội (Bình Định) với cơ sở
hạ tầng tương đối hoàn thiện.
DU LỊCH
8
Sân Bay Đà Nẵng
Vùng này có 3 địa bàn trọng điểm du lịch là:
1. Đà Nẵng - Quảng Nam gắn với Sơn Trà, Hải Vân, Hội An, Mỹ Sơn…
2. Bình Định - Phú Yên - Khánh Hòa gắn với các bãi biển Phương Mai, Đầm Ô Loan,
vịnh Nha Trang, Cam Ranh…
3. Bình Thuận gắn với biển Mũi Né, đảo Phú Quý

Vùng này có những bờ biển đẹp như Quy
Nhơn, Ninh Chữ, Sa Huỳnh và nhiều suối
nước nóng. Ngoài khơi nhiều đảo đá lớn,
nhỏ. Duyên hải Nam Trung Bộ có tiềm
năng du lịch dồi dào, với sự kết hợp hài hoà
giữa biển và núi, có nhiều vịnh đẹp như
Dung Quất, Đại Lãnh, Văn Phong. Nơi đây
có nhiều di tích như thành cổ Trà Bàn và
các tháp Chàm. Đặc biệt, Đà Nẵng - Quảng
Nam là vùng đất gắn liền với văn hoá Sa
Huỳnh, có nhiều cung điện, đền đài, thành
quách uy nghi, tráng lệ, vẫn còn để lại nhiều
dấu tích ở Mỹ Sơn, Trà Kiệu Ngoài ra còn các danh lam thắng cảnh Bà Nà, Ngũ Hành Sơn,
Cù Lao Chàm, đèo Hải Vân, các bãi biển Mỹ An, Non Nước với dải cát trắng mịn kéo dài
Đứng về góc độ du lịch, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí thuận lợi trong mối liên kết
vùng để phát triển du lịch.
Du lịch Duyên hải Nam Trung Bộ nằm trên tuyến du lịch xuyên Việt, là cầu nối du lịch Bắc -
Nam; điểm đầu của các tuyến du lịch “Con đường Di sản Miền Trung”, “Con đường xanh
Tây Nguyên”, "Cửa ngõ miền Đông Nam bộ", đầu cầu và cũng là cửa ngõ ra biển Đông của
hành lang du lịch Đông - Tây. Đây cũng là khu vực có nhiều tiềm năng nổi bật về du lịch
biển, du lịch sinh thái và du lịch văn hoá. Vì vậy, sự phát triển du lịch vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ không chỉ có ý nghĩa động lực đối với du lịch các tỉnh trong vùng nói riêng mà còn
đối với du lịch cả nước nói chung.
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ với có hệ thống tài nguyên du lịch hấp dẫn về tự nhiên và
văn hóa, bao gồm:
- Các tài nguyên tự nhiên gắn với biển, đảo duyên hải.
- Các di sản văn hóa gắn với văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa.
- Di tích lịch sử gắn với khởi nghĩa Tây Sơn, di tích lịch sử cách mạng gắn với hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc.
- Bản sắc văn hóa các dân tộc ít người phía Đông Trường Sơn.

Duyên hải Nam Trung Bộ cũng là nơi được thiên nhiên ưu đãi và ban tặng nhiều sản vật có
giá trị và nhiều đặc sản tự nhiên phục vụ văn hóa ẩm thực như mỳ Quảng (Quảng Nam), cá
9
Cáp treo Bà Nà
bống sông Trà, tỏi Lý Sơn (Quảng Ngãi), rượu Bàu Đá (Bình Định), bánh canh Phú Yên,
nem Ninh Hòa (Khánh Hòa), thanh long (Bình Thuận) v.v
Tài nguyên du lịch biển, đảo và di tích lịch sử văn hoá dân tộc là nguồn lực quan trọng, trong
đó nổi bật là dải Đà Nẵng - Non
Nước - Hội An (Quảng Nam, Đà
Nẵng) và Nha Trang - vịnh Cam
Ranh (Khánh Hoà), đặc biệt vịnh
Cam Ranh có thể phát triển thành
điểm du lịch biển, đảo có tầm cỡ
quốc tế.
Các điểm tài nguyên nổi bật: Bà
Nà, Sơn Trà, Non Nước (Đà
Nẵng); Hội An, Mỹ Sơn, Cù Lao
Chàm (Quảng Nam); Mỹ Khê,
Trường Lũy, Lý Sơn (Quảng
Ngãi), Phương Mai, Quy Nhơn (Bình Định), Vịnh Xuân Đài, Đầm Ô Loan (Phú Yên); Nha
Trang, Cam Ranh, Trường Sa (Khánh Hòa); Cà Ná, Ninh Chữ, Vĩnh Hy (Ninh Thuận), Phan
Thiết, Mũi Né, đảo Phú Quý (Bình Thuận).v.v
Với vị trí địa lý quan trọng, và những đặc thù về tài nguyên, Chiến lược phát triển Du lịch
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 định hướng vùng Duyên hải Nam Trung Bộ là một
trong bảy vùng du lịch cả nước, giữ vai trò hết sức quan trọng đối với du lịch Việt Nam.
Thời gian qua du lịch vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đã được các cấp chính quyền ở các địa
phương trong vùng quan tâm đầu tư khai thác có bước phát triển và đóng góp nhất định vào
sự nghiệp phát triển du lịch chung.
Năm 2011, là năm du lịch quốc gia Phú Yên với chủ đề du lịch biển đảo, ngành du lịch các
địa phương trong vùng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận.

Theo số liệu thống kê từ các địa phương, năm 2012 các tỉnh trong vùng đón được hơn 2
triệu (2.080.480) lượt khách du lịch quốc tế và hơn 7 triệu (7.072.320) lượt khách nội địa,
thu nhập du lịch đạt hơn 5.600 (5.622) tỷ đồng.
Sự phát triển du lịch đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và làm thay đổi diện
mạo của nhiều tỉnh trong vùng, tạo nên nhiều công ăn việc làm, đóng góp tích cực vào công
cuộc xóa đói giảm nghèo đối với đồng bào vùng sâu vùng xa, củng cố vững chắc quốc phòng
- an ninh vùng biển và hải đảo. Những kết quả thu được của sự phát triển du lịch ở các tỉnh
vùng Duyên hải Nam Trung Bộ trong thời gian vừa qua thực sự đáng ghi nhận.
Trong sự phát triển du lịch vùng có sự đóng góp của việc khai thác có hiệu quả tài nguyên du
lịch biển đảo gắn với đặc trưng của các di sản văn hóa, tạo nên sự thu hút nhất định đối với
khách du lịch trong nước và quốc tế.
10
Bãi biển Nha Trang
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự phát triển du lịch vùng vẫn còn nhiều
vấn đề cần quan tâm. Du lịch phát triển còn manh mún, chưa tương xứng với tiềm năng,
thiếu tầm nhìn tổng thể và sự liên kết phát triển du lịch toàn vùng, ảnh hưởng đến sự phát
triển ổn định, bền vững. Đó là bài học kinh nghiệm không chỉ cho vùng Duyên hải Nam
Trung Bộ mà còn cho các vùng khác thuộc lãnh thổ du lịch Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Khoáng Sản
Nhà máy lọc dầu Dung Quất
Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ khoáng sản không nhiều.
• Các loại khoáng sản như: sa khoáng nặng, cát trắng ở Khánh Hòa, vàng ở Bồng Miêu,
than ở Nông Sơn, đá ốp lát, nước khoáng, vàng, cao lanh, ti tan và dầu khí trên thềm
lục địa ở cựcNam Trung Bộ…
Với các nguồn tài nguyên khoáng sản tuy không nhiều nhưng nơi đây cũng đã tiến hành
khai thác và hình thành các trung tâm công nghiệp với quy mô trung bình và nhỏ phân bố
dọc ven biển như: lớn nhất là Đà Nẵng, tiếp đến là Dung Quất, Nha Trang, Quy Nhơn, Phan
Thiết công nghiệp chủ yếu là cơ khí, chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất hàng tiêu dùng,
VLXD, hóa dầu.

Bước đầu thu hút đầu tư nước ngoài vào hình thành các khu công nghiệp tập trung và khu
chế xuất.
Thủy điện Đa Nhim (Ninh Thuận) Khai thác cát thủy tinh ở Nha Trang
Để phát triển công nghiệp cũng như phát triển các hoạt động kinh tế khác thì cần phát triển
công nghiệp năng lượng, tuy nhiên nơi đây còn rất hạn chế về tài nguyên nhiên liệu, năng
lượng:
+ Sử dụng điện lưới quốc gia từ đường dây 500 KV.
+ Tiềm năng thủy điện có thế xây dựng các nhà máy công suất trung bình và nhỏ tận dụng
nguồn nước từ Tây Nguyên đưa xuống như thuỷ điện sông Hinh (Phú Yên), Hàm Thuận-Đa
Mi (Bình Thuận), Vĩnh Sơn (Bình Định), A Vương (Quảng Nam), thủy điện Đa Nhim.
+ Dự kiến xây dựng nhà máy điện nguyên tử đầu tiên ở nước ta tại vùng này.
Vựa muối tại Sa Huỳnh
• Do vùng địa lý khu vực này thời tiết gần như nắng nóng quanh năm, nhiệt độ không
khí cao, hàm lượng muối trong nước biển cao, địa hình bằng phẳng, người dân lại có
truyền thống kinh nghiệm lâu đời nên thuận lợi cho nghề làm muối.
11
Hiện nay, việc sản xuất muối công nghiệp đem lại năng suất cao.Các vùng sản xuất muối nổi
tiếng nơi đây như Cà Ná, Sa Huỳnh… Đề cập đến vùng muối thuộc 3 tỉnh Ninh Thuận, Bình
Thuận, Khánh Hòa có lợi thế về điều kiện tự nhiên để phát triển các đồng muối công nghiệp
có năng suất chất lượng cao. Dù vậy tình hình sản xuất muối của diêm dân chủ yếu vẫn theo
phương pháp thủ công, nên năng suất, chất lượng thấp, đời sống của người làm muối còn gặp
nhiều khó khăn. Diện tích muối công nghiệp (chiếm 18,1% tổng diện tích muối), muối sạch
còn chiếm tỷ lệ nhỏ, chưa được chú trọng đầu tư mở rộng sản xuất do vốn đầu tư lớn. Cơ sở
hạ tầng đồng muối hiện đang xuống cấp nghiêm trọng đặc biệt hệ thống thủy lợi. Thị trường
muối tiêu thụ muối còn gặp nhiều khó khăn nhất là muối của diêm dân. Báo cáo giới thiệu
công nghệ sản xuất muối theo phương pháp kết tinh trên ruộng trải bạt đã tăng năng suất (từ
20 – 80%), chất lượng sản phẩm và giá bán cao hơn muối thường từ 10 – 20%.
Dự kiến đến năm 2020 diện tích muối có 14.500 ha, sản lượng đạt 2 tiệu tấn. Trong đó diện
tích muối công nghiệp có 5.500ha, tập trung ở Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa.
Các đảo và quần đảo thuộc vùng Duyên hải Nam trung bộ

Vùng duyên hải Nam Trung Bộ có hai quần đảo lớn xa bờ: quần đảo Hoàng Sa ( Đà Nẵng)
và quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa) cùng với nhiều đảo nhỏ ven bờ: đảo Bình Đa, đảo Bình
Hưng (Khánh Hòa), đảo Phú Quý (Bình Thuận), đảo Lý Sơn,…
các đảo và quần đảo đều mang lại nhiều lợi ích cho kinh tế biển vùng này: đánh bắt gần bờ
và xa bờ, du lịch biển đảo, khai thác các đặc sản, khoáng sản từ biển, giao thông vận tải biển
và bảo vệ an ninh quốc cho đất nước ta tiêu biểu là hai quần đảo Hoàng Sa Trường sa.
Quần đảo Hoàng Sa
Quần đảo Hoàng Sa là một tập hợp trên 30 đảo san
hô, cồn cát, ám tiêu (rạn) san hô nói chung (trong đó có
nhiều ám tiêu san hô vòng hay còn gọi là rạn vòng) và
bãi ngầm thuộc biển Đông, ở vào khoảng một phần ba
quãng đường từ miền Trung Việt Nam đến phía
bắc Philippines. Quần đảo trải dài từ 15°45′ đến 17°15′
Bắc và từ 111°00′ đến 113°00′ Đông, có bốn điểm cực
bắc-nam-tây-đông lần lượt tại đá Bắc, bãi Ốc Tai
Voi, đảo Tri Tôn và bãi Gò Nổi. Độ dài đường bờ biển
đạt 518 km. Điểm cao nhất của quần đảo là một vị trí
trênđảo Đá với cao độ 14 m (hay 15,2 m). Vùng biển
Hoàng Sa trong biển Đông nằm trong vùng "xích đạo
từ".
12
Hiện nay, Biển Đông có vai trò quan trọng về phương diện kinh tế và quân sự đối với Trung
Quốc, các nước Bắc Á và các quốc gia trong vùng Đông Nam Á, bao
gồm Brunei,Campuchia, ĐôngTimor, Indonesia, Lào (không có lãnh
hải), Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Biển Đông còn là
thủy đạo nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương qua Eo biển Malacca. Mọi di chuyển
bằng hàng hải giữa các quốc gia thuộc Vòng đai Thái Bình Dương với vùng Đông Nam
Á, Ấn Độ, Tây Á, Địa Trung Hải và xuống châu Úc đều thường xuyên đi qua vùng biển
này. Hoàng Sa là một quần đảo nằm trên thủy lộ đó. Những tranh chấp căng thẳng đã và đang
xảy ra tại Hoàng Sa cho thấy việc kiểm soát Hoàng Sa vô cùng quan trọng trong việc nắm

quyền kiểm soát thuỷ đạo quan trọng của Đông Nam Á và của thế giới. Điều này ảnh hưởng
đến quyền tự do hàng hải của tất cả các quốc gia trên thế giới chứ không chỉ liên quan đến lợi
ích riêng của các nước tham gia tranh chấp quần đảo Hoàng Sa.
Ngoài ra, Biển Đông còn là nguồn cung cấp hải sản, dầu thô, và khí đốt rất đáng kể. Theo
Cục Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), ở Biển Đông chỉ có khoảng 11 tỷ thùng dầu và 190
nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên. Các mỏ dầu và khí đốt tại đây thường nằm trong các vùng
lãnh thổ không có tranh chấp, gần bờ biển của các quốc gia xung quanh biển Đông nhưng
Biển Đông đóng góp tới 10% sản lượng cá đánh bắt được trên toàn cầu tạo ra giá trị hàng tỷ
USD.
Việc kiểm soát Hoàng Sa là lợi thế đối với việc giành quyền kiểm soát biển Đông và các
nguồn tài nguyên tại đây.
Quần đảo Trường Sa
Quần đảo Trường Sa là một tập hợp gồm nhiều đảo san
hô, cồn cát, rạn đá (ám tiêu) san hô nói chung (trong đó
có rất nhiều rạn san hô vòng, tức rạn vòng hay còn gọi
là ám tiêu san hô vòng, "đảo" san hô vòng) và bãi ngầm
rải rác từ 6°12' đến 12°00' vĩ Bắcvà từ 111°30' đến
117°20' kinh Đông, trên một diện tích gần 160.000 km²
Tổng diện tích đất nổi của quần đảo rất nhỏ, không quá
5 km do số lượng đảo thực sự rất ít mà chủ yếu là các
rạn san hô thường và rạn san hô vòng chìm ngập dưới
nước khi thủy triều lên. Các hòn đảo san hô ở Trường
Sa tương đối bằng phẳng và thấp, ngay cả khi so sánh
với một quần đảo san hô khác gần đó là quần đảo Hoàng Sa. Theo CIA, điểm cao nhất của
Trường Sa nằm trên đảo Song Tử Tây với cao độ 4 m so với mực nước biển. Môi trường của
quần đảo Trường Sa bị xâm hại nghiêm trọng do ngư dân từ Việt Nam, Philippines và miền
nam Trung Quốc khai thác thuỷ sản bằng các phương pháp tận diệt như vét cá, đánh cá bằng
thuốc nổ và bằng chất độc natri xyanua. Binh lính các quốc gia đóng quân tại đây khai thác
rùa biển và trứng của chúng, đồng thời còn đe doạ các sinh vật nhạy cảm sống ở nơi nước
nông khi họ xây dựngcông sự và đường băng.

Nhiều năm qua đã có một số nỗ lực nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ở quần đảo. Ngày 8
tháng 6 năm 1982, Bộ Tài nguyên Philippines lập hai khu bảo tồn rùa biển ở đảo Loại Ta
và đá An Nhơn; từ tháng 8 năm 2008, có thêm khu bảo vệ rùa biển đẻ trứng trên đảo Thị Tứ;
13
trên đảo Vĩnh Viễn có khu bảo tồn chim. Ngày 3 tháng 3 năm 2007, Đài Loan lập khu bảo vệ
rùa biển đẻ trứng, lấy đảo Ba Bình là trung tâm rồi mở rộng ra 12 hải lý xung quanh. Việt
Nam thì có kế hoạch lập khu bảo tồn biển xung quanh đảo Nam Yết với diện tích 35.000 ha
từ năm 2010. Quần đảo Trường Sa vốn không có đất trồng trọt và không có dân bản địa sinh
sống. Các đảo thuộc Trường Sa thiếu khả năng duy trì đời sống kinh tế riêng đầy đủ bởi vì
chúng quá nhỏ, khô cằn và có rất ít tài nguyên trên đảo. Tuy trên các đảo chỉ có một vài tài
nguyên nhưng nguồn lợi thiên nhiên của vùng biển quần đảo Trường Sa thì lại rất có giá trị,
ví dụ hải sản và tiềm năng dầu mỏ - khí đốt. Vào năm 1980, dân chúng trong vùng đánh bắt
được 2,5 triệu tấn hải sản từ khu vực quần đảo Trường Sa. Từ tháng 5 năm 2005, Việt Nam
đã cho xây dựng trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá tại bãi đá Tây; diện tích đến 2013 đã đạt
3.000 mét vuông, sở hữu trang bị hiện đại, hỗ trợ nhiều mặt cho ngư dân nước này. Về tiềm
năng dầu khí và khoáng sản khác, hiện địa chất vùng biển quần đảo vẫn chưa được khảo sát
nhiều nên chưa có các số liệu đánh giá đáng tin cậy. Tuy nhiên, Bộ Địa chất và Tài nguyên
Khoáng sản Trung Quốc ước tính vùng quần đảo Trường Sa có trữ lượng dầu và khí thiên
nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỉ tấn so với con số 13 tỉ tấn của Kuwait, và họ xếp nó vào danh
sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới.
Vùng biển Trường Sa cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên
thế giới. Trong thập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất hai trăm bảy mươi lượt tàu đi qua quần
đảo Trường Sa, và "hiện tại" hơn một nửa số tàu chở dầu siêu trọng của thế giới chạy qua
vùng biển này hàng năm. Quần đảo Trường Sa hiện chưa có cảng lớn mà chỉ có một số cảng
cá và đường băng nhỏ trên các đảo có vị trí chiến lược nằm gần tuyến đường vận chuyển tàu
biển chính. Tuy nhiên, tàu thuyền lưu thông qua vùng này có thể gặp nhiều khó khăn do phải
đối mặt với nguy hiểm từ gió bão, sóng lớn và nguy cơ bị mắc cạn hay va phải các rạn đá
ngầm.
Nằm tại khu vực khí hậu nhiệt đới và có hệ sinh thái đa dạng, quần đảo Trường Sa có tiềm
năng để thu hút khách du lịch. Tháng 6 năm 2011, Tổng cục Du lịch của Việt Nam mở hội

thảo và công bố đề án phát triển du lịch hướng về biển đảo, trong đó đề cập đến dự định mở
tuyến du lịch ra Trường Sa.
Tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông
Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với
nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong
những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới.
Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm trọng yếu: Thứ
nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và Malaysia). Vị trí này vô
cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua. Ba eo
biển thuộc chủ quyền của lndonesia là Sunda, Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng
trong tình huống eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận
chuyển qua các eo biển này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu
cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn. Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đông, nơi có
nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Các tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước
Châu Á. Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước
Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung Quốc 22% (trị
14
giá khoảng 31 tỷ đô la).
Nếu khủng hoảng nổ ra ở
vùng biển này, các loại tàu
biển phải chạy theo đường
mới hoặc vòng qua Nam
Australia thì cước phí vận
tải thậm chí sẽ tăng gấp
năm lần và không còn đủ
sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới.
Ngoài ra, hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa có
vị trí chiến lược, có thể
dùng để kiểm soát các
tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm
thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè Các nhà chiến lược
phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được
cả Biển Đông.
Tất cả những nước tham gia tranh chấp Trường Sa , trừ Brunei, đều có quân đội đồn trú tại
nhiều căn cứ trên các đảo nhỏ và đá ngầm khác nhau. Tháng 3 năm 1988, Việt Nam và
Trung Quốc đụng độ quân sự tại ba rạn đá là Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao. Tháng 2 năm
1995 và tháng 11 năm 1998, giữa Trung Quốc và Philippines đã hai lần bùng phát căng
thẳng chính trị do hành động giành và củng cố quyền kiểm soát đá Vành Khăn của phía
Trung Quốc. Dù rằng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển đã ra đời nhằm xác định các
vấn đề về ranh giới trên biển nhưng bản thân Công ước không có điều khoản nào quy định
cách giải quyết các tranh chấp về chủ quyền đối với đảo
Các chính quyền Việt Nam từ thế kỷ 17-18 đã tổ chức khai thác quần đảo Hoàng Sa. Đến
đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn Việt Nam đã chính thức xác lập chủ quyền trên quần đảo. Tới đầu
thế kỷ 20, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp tiếp tục chủ quyền đối với quần đảo từ nhà
Nguyễn, nhưng bắt đầu có sự tranh chấp chủ quyền với các chính quyền Trung Quốc. Trước
năm 1974, Việt Nam Cộng hòa tiếp nối thực hiện
chủ quyền và kiểm soát một số đảo thuộc quần
đảo Hoàng Sa còn Trung Quốc kiểm soát phần
còn lại (từ năm 1956). Từ sau trận Hải chiến
Hoàng Sa 1974 đến nay, Trung Quốc kiểm soát
toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đồng thời tuyên bố
đây là lãnh thổ của họ. Chủ quyền của quần đảo
Hoàng Sa vẫn đang là chủ đề tranh luận giữa
Trung Quốc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam.Vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan HD-981

vào khu vực biển Đông gần quần đảo Hoàng Sa dẫn tới việc nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ra tuyên bố phản đối, đồng thời tàu thuyền của hai quốc gia đã có một số va
chạm.
15
Giàn khoan HD-981
MỤC LỤC
Vị trí địa lý và lãnh thồ ………………………………………………………………… 2
Nghề cá …………………………………………………………………………………… 3
Giao thông vận tải ……………………………………………………………………… 8
Du lịch ………………………………………………………………………………… 9
Khoáng sản ……………………………………………………………………………… 11
Các đảo và quần đảo ………………………………………………………………… 13
16

×