Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

luân văn thạc sĩ Nghề rèn ở Lý Nhân (xã Lý Nhân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) từ năm 1990 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.39 MB, 83 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm
trước đây, nhiều nghề thủ công đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được cư dân
tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là vụ mùa chính. Theo thời
gian, nhiều nghề phụ này đã thể hiện được vai trò to lớn của nó trong việc phát
triển kinh tế, mang lại lợi ích thiết thực cho cư dân. Nghề phụ từ chỗ chỉ phục
vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi và mang lại giá trị kinh tế to
lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trong chờ vào các vụ lúa.
Nhìn nhận lại toàn cảnh nông thôn Việt Nam ta thấy, nhiều nghề thủ
công truyền thống của cha ông vẫn được lưu giữ trong cộng đồng làng Việt.
Tại mảnh đất Vĩnh Phúc có sự xuất hiện rất nhiều nghề, trong đó phải kể đến
Vĩnh Tường. Vĩnh Tường là mảnh đất địa linh, nhân kiệt và là nơi hội tụ của
rất nhiều nghề thủ công truyền thống như nghề nuôi Rắn ở Vĩnh Sơn, nghề
Mộc ở An Tường, nghề mộc ở Bích Chu, nghề rèn ở Lý Nhân và nhiều nơi
đã được công nhận là làng nghề. Thời gian ra đời của các nghề thủ công ở nơi
đây đều rất sớm. Những nghề ấy có những thời kỳ là nguồn thu nhập chính;
là nơi hội tụ những bàn tay nghệ thuật, tinh hoa và sáng tạo của con người.
Tuy nhiên, trong một thời gian dài, nghề thủ công truyền thống ở Vĩnh
Tường do thiếu sự quan tâm đúng mức của người dân cũng như của chính
quyền nên sản xuất có phần chững lại và không mang lại hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, với sự quan tâm trở lại của Nhà
nước, các nghề thủ công ở địa phương đã hưng khởi và góp phần đắc lực vào
công cuộc xây dựng đất nước.
Nghề rèn ở Lý Nhân đang có những bước chuyển mình dưới sự tác
động của nền sản xuất hàng hóa. Điều này đã đưa đến việc sản xuất nghề rèn
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP


Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

biến đổi không ngừng từ năm 1990 đến năm 2010. Việc tìm hiểu về nghề rèn
ở Lý Nhân trong giai đoạn này có vai trò quan trọng trong việc định hướng
chính quyền địa phương đề ra kế hoạch phát triển làng nghề và cân đối cơ
cấu kinh tế vùng trong những năm tiếp theo.
Với tính cấp thiết trên mà tôi đã chọn đề tài: “Nghề rèn ở Lý Nhân
(xã Lý Nhân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) từ năm 1990 đến năm
2010” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Vấn đề nghiên cứu về các nghề thủ công và làng nghề thủ công truyền
thống đã được rất nhiều tác giả đề cập đến cũng như tham gia nghiên cứu.
Mỗi một vùng đất lại mang trong mình một mảnh hồn quê, một nét văn hóa
riêng, một lợi thế riêng. Chính sự ưu ái của thiên nhiên và tài hoa của con
người đã vun đắp nên nhiều vùng quê trù phú và tươi đẹp. Trong một tổng
thể chung ấy, cái riêng ngày cái khởi sắc và ngày càng khẳng định mình đối
với chính vùng quê mà nó tồn tại.
Về vấn đề này, giáo sư Trần Quốc Vượng và phó tiến sĩ Đỗ Thị Hảo có
tác phẩm nghiên cứu:” Nghề thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ
nghề”, NXB Văn hóa dân tộc, 1996. Tác phẩm đã đưa ra một cách khái quát
các định nghĩa liên quan đến nghề thủ công và qua đó trình bày một số nghề
thủ công tiêu biểu trên khắp mọi miền đất nước. Đây là một công trình mang
tính tổng hợp cao và có giá trị tham khảo rất lớn.
Tác phẩm:” Một số chính sách về phát triển nghề thủ công ở nông
thôn”, NXB Nông nghiệp, 1999. Tác phẩm đã đưa ra phương hướng chung
cho việc chỉ ra phương hướng phát triển cho làng nghề nói chung. Qua đó,
giúp người nghiên cứu có thể chỉ ra được bước đi mới cho nghề thủ công ở
chính địa phương mình. Đây thực sự là một tài liệu bổ trợ có giá trị.

Tác phẩm :” Một số làng nghề thủ công ở Vĩnh Phúc” của Trần Văn
Xuân, H :Sở văn hóa thông tin Vĩnh phúc, 2000. Tác phẩm đã đề cập khá cụ
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

thể một số nghề và làng nghề thủ công của Tỉnh trong đó có nghề rèn ở Lý
Nhân của huyện Vĩnh Tường. Tuy nhiên, đây chỉ là những cái nhìn sơ lược
nhất, chưa đi sâu nghiên cứu những đặc trưng của nghề rèn nơi đây.
“Nghị quyết về khôi phục và phát triển làng nghề thủ công” đăng trên
báo Vĩnh Phúc số 3, 2000. Nghị quyết đã đưa ra một số số liệu về sự đóng
góp của nghề rèn Lý Nhân trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Nhìn nhận lại
những thành tựu, đồng thời nghị quyết còn đưa ra những giải pháp để phát
triển làng nghề nói chung. Đây thực sự là một tư liệu quý để người nghiên
cứu có thể áp dụng vào địa phương Vĩnh Tường – một vùng quê có nhiều
làng nghề truyền thống trong đó có nghề rèn.
Làng rèn với với những thăng trầm và những khó khăn và giải pháp để
phát triển được tác giả Quang Nam trình bày khái quát trong bài báo:” Lý
Nhân, tiếng vọng làng rèn” số 508 ra ngày 26/5/2000 và số báo ngày
30/6/1998 với tiêu đề: "Nghề rèn Lý Nhân" do tác giả Đặng Quang Giới viết
bài. Đây thực sự là những trăn trở của người viết, lo lắng cho tương lai của
một nghề truyền thống có thể bị mai một. Những bài viết tuy là những phác
họa sơ sài nhưng đó thực sự là những tư liệu quý báu để chính quyền địa
phương có những bước đi phù hợp để duy trì làng nghề.
“Vĩnh Tường trên hành trình đổi mới và phát triển” do Đào Xuân
Hiển, Đoàn Mạnh Phương biên soạn, xuất bản năm 2006 là một cái nhìn
toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội trên con
đường đổi mới theo chủ trương của Đảng. Trong tất cả nội dung ấy thì có đề
cập đến một số ngành nghề thủ công, sự nhận thức của người dân và những

nỗ lực của chính quyền địa phương trong việc duy trì và phát triển nghề trên
con đường hội nhập.
Qua những công trình trên ta có thể thấy được, các nhà nghiên cứu qua
nhiều thế hệ đã đưa ra được bức tranh khái quát về nghề thủ công Việt Nam
nói chung cũng như là nghề và làng nghề ở Vĩnh phúc, trong đó có nghề rèn
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Lý Nhân. Tuy nhiên, việc đề cập đến nghề rèn với những kĩ thuật cổ truyền
của cha ông để làm nên thương hiệu Lý Nhân; sự tác động mạnh mẽ của cơ
chế thị trường đến sự biến đổi làng nghề thì ít tác giả đề cập đến. Muốn làm
được điều đó đòi hỏi người nghiên cứu phải đi sâu nghiên cứu để tìm ra cái
hay, cái đẹp, cái riêng của nghề. Trải qua quá trình tìm hiểu, các tư liệu qúy
trên đây đã cung cấp cho người nghiên cứu nhiều gợi ý, phương hướng để
tôi nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
3. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Nhiệm vụ của nghiên cứu là tìm hiểu quá trình phát triển của nghề rèn
Lý Nhân ở Vĩnh Tường từ năm 1990 đến năm 2010. Qua đó còn thấy được
nét khái quát về nguồn gốc ra đời nghề rèn Lý Nhân; những kỹ thuật rèn với
đầy đủ các công đoạn của nghề rèn nói chung. Mặt khác, người nghiên cứu
còn có nhiệm vụ chỉ ra được ảnh hưởng của nền sản xuất hàng hóa đến tất cả
quy trình sản xuất của nghề rèn Lý Nhân. Đồng thời chỉ ra được sản phẩm
tiêu biểu của nghề, thấy được mối quan hệ giao lưu buôn bán để chỉ ra được
sự phát triển cũng như là các giải pháp phát triển làng nghề.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình chuyển
biến của làng rèn Lý Nhân trong bối cảnh mới; những khó khăn cũng như
thành tựu đạt được của làng nghề này trong xu hướng hội nhập và đòi hỏi

những kĩ thuật cao hơn trong sản xuất.
Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: luận văn chỉ nghiên cứu từ năm 1990 đến năm 2010
(Năm 1990 là năm các hợp tác xã rèn ở Lý Nhân bị phá sản và bước đầu đi
vào con đường làm ăn theo kinh tế hộ gia đình. Mốc 2010 là mốc đánh dấu
hoàn thành chương trình 5 năm thực hiện chương trình khôi phục và phát
triển làng nghề và đạt được nhiều thành tựu trong công cuộc đổi mới.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Về không gian: bao gồm toàn bộ khu vực xã Lý Nhân, trong đó tập
trung chủ yếu vào làng Bàn Mạch - cái nôi của nghề rèn.
5. Những đóng góp của luận văn.
Luận văn khôi phục, phục dựng một cách hệ thống sự ra đời, quá trình
hình thành và phát triển của nghề rèn Lý Nhân. Từ những phông nền cơ bản
đó, luận văn đã chỉ ra những kỹ thuật cơ bản trong nghề rèn; những nét riêng
và nổi bật để giúp cho nghề rèn Lý Nhân phát triển và đi vào cuộc sống của
mọi người dân trên khắp mọi miền của Tổ Quốc. Qua đó, góp phần tìm hiểu,
nghiên cứu lịch sử địa phương. Từ đó phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa
phương ở các trường phổ thông.
Đóng góp vào việc tìm hiểu các ngành nghề thủ công trên đất Vĩnh
Tường nói riêng và cả nước nói chung.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn tập trung sử dụng các phương pháp chuyên ngành như:
phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu liên
ngành như: điền dã, phân tích, tổng hợp…
7. Bố cục của khóa luận.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung
chính của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về làng Lý Nhân.
Chương 2: Nghề rèn Lý Nhân từ 1990 – 2010.
Chương 3: Vai trò của nghề rèn đối với kinh tế, văn hóa, xã hội ở làng
Lý Nhân.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LÀNG RÈN LÝ NHÂN
1.1 Điều kiện tự nhiên.
Làng Lý Nhân (còn gọi là làng Thùng Mạch) xưa kia nằm trong châu
Tam Đới thuộc lộ Đông Đô. Đời Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1882)
thuộc phủ Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây. Từ năm 1899 thành lập tỉnh Vĩnh Yên,
phủ Vĩnh Tường thuộc về Vĩnh Yên. Thời kỳ này phủ Vĩnh Tường có 8 tổng
(78 làng), làng Lý Nhân thuộc tổng Đông Phú. Đến tháng Tám năm 1945,
Quốc hội đã họp và quyết định xóa bỏ đơn vị hành chính cấp Tổng, mở rộng
các xã. Xã nhỏ hơn tổng nhưng lớn hơn làng trước kia, xã bao gồm một số
thôn xóm nhất định. Chính làng Lý Nhân được đổi thành xã Lý Nhân. Từ đó,
xã Lý Nhân có ba làng: làng Đọ, làng Vân và làng Thùng Mạch.
Trải qua quá trình phát triển tên gọi các làng đã thay đổi. Hiện nay,

người ta biết đến Lý Nhân với ba thôn: Văn Giang, Văn Hà và Bàn Mạch.
Trong đó, Bàn Mạch là thôn lớn nhất xã và nghề rèn chính là nghề chính của
thôn và người ta thường quen gọi là làng rèn Lý Nhân.
Xã Lý Nhân nằm ở phía Tây Bắc huyện Vĩnh Tường của tỉnh Vĩnh
Phúc. Phía Bắc giáp xã Tân Cương, phía Nam giáp xã Tuân Chính, phía Tây
giáp xã An Tường, phía Đông giáp làng Phú thuộc xã Thượng Trung. Xã có
282,6 ha diện tích đất tự nhiên và diện tích đất canh tác là 141,7 ha. Đi vào cụ
thể hơn ta thấy, làng rèn Lý Nhân nằm trong chân đê Trung ương, bên tả
ngạn sông Hồng. Tuyến đê trung ương chạy qua này được cứng hóa đã đạt
chuẩn đường cấp đường 40km/h. Nhờ con đường đê dài và uốn éo lượn
quanh làng đã tạo ra một con đường đi khác, phục vụ cho cư dân nằm xa con
đường quốc lộ chính. Con đường đó đã tạo ra mối giao lưu xung quanh làng,
kết nối tất cả các vùng và các địa phương xung quanh. Làng bám theo chân
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

đê dài 1,5km, chiều rộng của làng vào khoảng 400m. Giữa làng có trục
đường xương cá. Từ xa nhìn vào ta thấy, làng là một vạt xanh hình chữ nhật.
Bên phải làng là con đê cao, bên trái làng là con đường liên xã từ Tân Cương
đi xuống. Các cụ già thường giải nghĩa cho con cháu là đất làng ta ở thế có
“Long ngăn xà đón”. “Long” tức là rồng – chỉ con đê to cao, dài tựa con rồng
ngăn nước sông Hồng mùa mưa lũ. “Xà đón” tức là con đường cái dài liên
xã, liên huyện, uốn lượn đón đưa người làng đi làm ăn ở mọi nơi. Đó phải
chăng là do lòng yêu quê hương mà người dân đã hình tượng hóa. Tuy nhiên,
nó cũng phản ánh một phần nào đó địa thế của làng cũng như hoạt động giao
thông thủy bộ ở nơi đây.
Nhìn xa hơn ta thấy, làng này có vị trí gần thị xã Sơn Tây - là trung
tâm thương mại lớn của tỉnh Hà Tây, cách chợ Thổ Tang hơn 1km. Địa bàn

thị xã Sơn Tây là một khu vực năng động với nhiều loại mặt hàng kinh
doanh. Nơi đây nổi tiếng với nhiều ngành nghề thủ công đa dạng và nhiều
khu vực chợ sầm uất. Đó thực sự là điểm thuận lợi để nghề rèn tiêu thụ một
lượng sản phẩm lớn đi ra các vùng lân cận.
Địa bàn còn có hệ thống giao thông tương đối thuận lợi gần đường
quốc lộ 2A, 2C cộng với 2km đường sông đã nối liền các địa phương lại với
nhau. Điều kiện ấy đã tạo ra mối quan hệ thương mại thuận lợi cho các vùng.
Sản phẩm thủ công dễ dàng luân chuyển đến các vùng miền.
Vị trí địa lý như vậy giúp làng Lý Nhân tạo điều kiện thuận lợi cho
kinh tế của làng phát triển. Vì vậy, khu vực này đã thu hút đông đảo các nhà
buôn từ khắp nơi đổ về tiến hành trao đổi sản phẩm và buôn bán.
Với vị trí địa lý thuận lợi như trên đã góp phần thúc đẩy quá trình giao
lưu văn hóa giữa khu vực với các địa bàn xung quanh như Sơn Tây, Phú Thọ,
Tuyên Quang…Chính điều này không chỉ mang lại thuận lợi cho phát triển
kinh tế mà còn góp phần làm cho văn hóa của làng ngày càng trở nên đa dạng
và nhiều điều mới mẻ hơn.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

1.2 Dân cư và đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội làng Lý Nhân.
1.2.1 Dân cư.
Xã Lý Nhân hiện có 4.397 người với tổng số hộ là 1133 hộ. Trong đó
số người đến độ tuổi lao động là 2.980 người. Đây thực sự là nguồn lao động
dồi dào, là lực lượng vàng trong vai trò phát triển kinh tế của xã nói chung và
làng nói riêng. Với tổng số 1133 hộ thì có tới 559 hộ làm nghề thủ công
truyền thống với 394 hộ làm nghề rèn và 265 hộ làm nghề mộc, chiếm tới
60% tổng số gia đình tham gia các làng nghề. Với tỉ lệ số hộ tham gia nghề
rèn đông đảo như vậy đã chứng tỏ nghề rèn nơi đây đã có từ lâu đời, cư dân

sống gắn bó với nghề và thực sự nghề là một nguồn lợi nuôi sống cư dân tại
làng Lý Nhân.
Số lượng người đang trong độ tuổi lao động ở làng chiếm tỉ lệ rất lớn. Vì
vậy mà bên cạnh nghề nông, nghề rèn đã thu hút được đông đảo lực lượng tham
gia sản xuất. Với lượng người trong độ tuổi lao động như vậy, chính quyền địa
phương cần có chính sách và các bước đi phù hợp để phát huy nội lực; đồng
thời tránh chi phí cho việc mướn lao động bên ngoài tham gia sản xuất.
1.2.2 Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.2.2.1 Kinh tế.
Kinh tế làng Lý Nhân ngày càng khởi sắc và có những bước tiến mới
trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
Từ xa xưa, làng Lý Nhân cũng như các làng nông nghiệp khác trong
vùng đồng bằng châu thổ, nền kinh tế chính là kinh tế nông nghiệp. Đất canh
tác của làng ít nên thời gian nông nhàn nhiều. Tương truyền rằng: thủa xưa,
làng Lý Nhân là làng ăn chơi có tiếng, ngoài vụ cày cấy gặt hái người dân chỉ
lo chơi cờ bạc, rượu chè nên đời sống vật chất của nhân dân rất khó khăn.
Cho đến khi làm thêm nghề thủ công (nghề rèn, nghề mộc) bộ mặt làng mới
có những chuyển biến.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Về kinh tế nông nghiệp: vào những ngày mùa vụ, người dân trong làng
chú trọng tăng gia sản xuất, trồng lúa, hoa màu để đảm bảo nguồn lương thực
tại chỗ cho người dân. Với chất đất là đất đồng bằng, có lượng phù sa đáng
kể của con sông Hồng chảy qua nên nơi đây diện tích trồng lúa và hoa màu
cũng chiếm tỉ lệ lớn. Mặc dù vậy, sản lượng lương thực tạo ra chỉ đủ đáp ứng
nhu cầu hằng ngày của người dân.
Từ giữa thế kỷ XVIII, nghề rèn du nhập vào làng, mọi nhà đều hăng

say học nghề, làm nghề. Từ đó, hoạt động kinh tế thứ hai của làng là sản xuất
thủ công nghiệp (làm nghề rèn). Lúc đầu nghề rèn chỉ là nghề thủ công được
làm thêm lúc nông nhàn, thu nhập bổ trợ cho sản xuất nông nghiệp. Về sau,
ngành kinh tế này đã phát triển hơn và có quan hệ mật thiết phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp. Khi nghề thủ công phát triển mạnh, hiệu quả lao động đạt
cao hơn sản xuất nông nghiệp, hầu hết các gia đình đều mở lò rèn và cả làng
làm nghề rèn. Vì vậy mà kinh tế thủ công nghiệp dần dần đóng vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế làng. Xuất phát từ truyền thống cha truyền con nối,
nghề rèn tồn tại và phát triển ở Lý Nhân cho đến ngày nay và đã trở thành
một nghề có tiếng một vùng. Chính vì vậy, trong những năm trở lại đây
nguồn thu nhập chủ yếu của người dân là do nghề rèn và nghề mộc mang lại.
Có thể nói, với việc hỗ trợ đắc lực của máy móc, sản phẩm làm ra nhiều và
có chất lượng nên được mọi người tin dùng.
Mức thu nhập bình quân trên đầu người hiện nay của địa bàn xã Lý
Nhân lên tới 4.4 triệu đồng/người/tháng, trong đó, riêng các hộ gia đình sản
xuất tiểu thủ công nghiệp thu nhập bình quân trên 7 triệu/người/tháng. Nhiều
hộ gia đình thu nhập hàng năm trên 100 triều đồng. Năm 2009 doanh thu từ
làng nghề đạt sấp xỉ 15 tỉ đồng.
Ngoài hai hoạt động kinh tế trên, do thủ công nghiệp được đẩy mạnh
nên Lý Nhân còn phát triển cả hoạt động thương nghiệp. Khi nói đến hoạt
động này ta phải nhắc đến hoạt động buôn bán ở chợ Thùng Mạch. Tuy đây
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

là chợ vùng quê nhưng thực sự nó đã phát huy được vai trò của mình trong
việc kết nối hoạt động buôn bán giữa vùng với vùng. Thông qua hoạt động
chợ này, các sản phẩm mới của làng rèn được đem trao đổi, bán lẻ cho các hộ
gia đình để phục vụ cho hoạt động nông nghiệp. Mặt khác, những nhà buôn

nhỏ của làng cũng hoạt mạnh, đảm bảo cung cấp đủ các sản phẩm, phục vụ
nhu cầu thiết yếu của người dân. Phối hợp các hoạt động kinh tế, các hoạt
động dịch vụ ở địa phương cũng phát triển mạnh như: cho thuê cho chở nông
cụ hoặc trực tiếp vận chuyển các sản phẩm đến nơi cần giao hàng để hưởng
lợi nhuận…
Qua đó ta thấy được kinh tế của làng rèn Lý Nhân ngày càng khởi sắc
mà phần lớn là bắt nguồn từ hoạt động tiểu thủ công. Nền kinh tế ngày càng
phát triển góp phần vào việc ổn định đời sống. Theo đà phát triển kinh tế thì
nhiều lĩnh vực khác cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
1.2.2.2 Xã hội.
Từ xưa đến nay, người dân Lý Nhân vẫn lưu truyền truyền thống,
phong tục tập quán của làng xã nông nghiệp với tinh thần đoàn kết tương
thân tương ái trong tình làng nghĩa xóm, mối quan hệ “ bán anh em xa, mua
làng giềng gần”.
Bên cạnh mối quan hệ làng xóm thì trong làng còn có mối quan hệ
huyết thống giữa các dòng họ. Ở làng Lý Nhân có 7 dòng họ cùng chung
sống đó là : họ Nguyễn, họ Lê, họ Trần, họ Vũ, họ Phùng, họ Lữ, họ Hoàng.
Các dòng họ định cư tại làng do quá trình tiếp nhận nhập cư, quá trình xáo
trộn, li tán, chạy giặc giã, chạy thiên tai qua hàng ngàn năm mà hợp thành
như ngày nay. Theo các cụ cao niên kể lại: Ở Lý Nhân xưa kia có ba nhà thờ
họ lớn có từ lâu đời nhưng đến thời Pháp thuộc đã bị Pháp đốt phá hết. Đó là
nhà thờ họ Lê, Trần, Vũ. Theo sử sách và tương truyền lại thì họ Lê nhập cư
đến từ những năm 980 đến 1005 do vua Lê Đại Hành cho con thứ tư là Ngư
Nam Vương Long Đỉnh lên trấn giữ vùng Phong Châu, cùng đoàn thê tử giai
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

nhân quân binh đi theo mà ngụ cư lại [13; 9]. Họ Trần nhập cư đến từ thế kỷ

XIII – XIV do thời Trần nhiều vương hầu, công chúa nên được phong đất ở
khắp nơi. Trần Nguyên Đán đã đem con cháu, nô tỳ, nông nô lên lập điền
trang ở hương Bạch Hạc, Vĩnh Tường.
Các dòng họ ở Lý Nhân đều có xuất xứ du nhập đến làng khác nhau
nhưng đều có truyền thống cha truyền con nối, đều làm nghề rèn, lấy nghề
rèn làm nghề chính để lập nghiệp.
Xuất phát từ đặc điểm kinh tế là hoạt động tiểu thủ công nghiệp phát
triển nên ở làng lý Nhân còn xuất hiện mối quan hệ giữa chủ - thợ. Mặc dù
mối quan hệ này khá thân thiết nhưng sự phân chia địa vị ấy là sự minh
chứng cho trình độ của mỗi người. Mối quan hệ này dần dần bị xóa nhòa bởi
cơ chế thị trường, bởi sự chuyên môn hóa trong nền sản xuất hiện đại.
Mối quan hệ trong cộng đồng làng xã là mối quan hệ có từ lâu đời với
nhiều sợi dây liên kết. Dung hòa các mối quan hệ ấy sẽ thúc đẩy nền kinh tế
địa phương phát triển. Đây chính là mục đích hướng tới của cộng đồng dân
cư Lý Nhân trong quá trình phát triển của mình.
1.2.2.3 Văn hóa:
Là một vùng quê bắt nguồn từ kinh tế nông nghiệp nên nơi đây vẫn
phổ biến tín ngưỡng thờ mẫu, thờ tổ nghề và thờ thành hoàng làng với những
kiến trúc đình, chùa, miếu, chợ, tục cầu mưa, tục cúng cơm mới…
Về tín ngưỡng thờ tổ nghề ta có thể nhận thấy: đây là một tín ngưỡng
từ lâu đã đi vào tiềm thức của người dân Vĩnh Phúc, nhất là trong các vùng
quê có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa. Khi nói đến ông tổ của nghề ta
có thể hiểu đó là những nhân vật có thật hoặc thần thoại hóa, dân gian hóa.
Họ chính là những người đã có công gây dựng hoặc đem nghề đến nơi khác
truyền đến cho dân chúng ở một miền nào đó, để nhân dân nơi ấy mở mang
phát triển, được người sau ghi nhớ công ơn và lập đền thờ. Trên nền tảng
chung của tín ngường thờ tổ nghề tại Vĩnh Phúc, tín ngưỡng tổ nghề được
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị

Hạnh

phát huy một cách rộng rãi ở Lý Nhân. Vị tổ nghề được coi là hóa thân của
cuộc sống, cho nên nơi thờ các vị bao giờ cũng được đặt ở một vị trí trọng đại
trong làng – nhà thờ tổ. Về sau nhà thờ tổ bị phá nát do chiến tranh loạn lạc.
Hiện nay, người làng chỉ biết rằng gò đất đầu làng chính là nơi nhà thời tổ.
Hàng trăm năm nay, người dân có tục lệ thờ tổ nghề tại lò rèn của nhà mình.
Hàng năm vào ngày 14 tháng Giêng các gia đình sắm lễ vật, lập ban thờ tại lò
rèn của gia đình tập trung khấn vái, cúng bái tổ nghề, thổ lò, tổ tiên để tưởng
nhớ đến người khai nghề và cầu mong một năm lò luôn đỏ lửa [ 21; 29]. Tấm
lòng của người dân Lý Nhân đối với vị Quận Công đã thể hiện đạo lý uống
nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây, tôn sư trọng đạo, biết ơn những
người có công với làng xóm. Đây chính là truyền thống tốt đẹp của cha ông
đã được kế thừa và phát huy trong suốt quá trình lịch sử, góp phần vào việc
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Lễ hội: Khi nhắc đến làng Lý Nhân còn có lễ hội đình Kim – đình thờ
“Bạch Hạc Thống Chế Quan Đại Vương”. Đình đã bị giặc Pháp đốt và phá
mất nhưng trên bãi đất nền đình cũ, người dân đã dựng miếu nhỏ và vẫn duy
trì tổ chức lễ hội đình vào ngày 16 tháng Giêng hàng năm.
“Dù ai rèn ngược rèn xuôi
Đừng quên lễ hội đình Kim quê nhà”
(Ca dao làng rèn Lý Nhân).
Trong ngày lễ hội, các dòng họ sắm lễ vật đến tế lễ ở miếu, sau đó tổ
chức các trò chơi dân gian như: chơi đu, đánh cờ, kéo co và hát ghẹo…Đây
cũng là dịp các dòng họ họp mặt đông đủ con cháu để trò chuyện, trao đổi
kinh nghiệm làm ăn trong các năm qua. Những người đi trước truyền đạt kinh
nghiệm cho con cháu với hi vọng con cháu của dòng họ đều trở thành thợ
giỏi, thành chủ lò trong tương lai.
Lý Nhân là một vùng đất giàu tiềm năng; một vùng quê có bề dày văn
hóa. Ở đó, những con người mang trong mình tinh thần học hỏi, tính cần cù,

Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

chịu thương chịu khó. Tất cả hội tụ lại, tạo cho Lý Nhân phát triển không chỉ
nền kinh tế nông nghiệp đơn thuần mà còn góp phần xây dựng nền kinh tế thủ
công nghiệp với tiềm năng của một nền sản xuất hàng hóa trong tương lai.
1.3 Quá trình hình thành và phát triển nghề rèn ở Lý Nhân.
Nghề rèn đã gắn kết con người, gắn kết văn hóa làng để tạo ra những
giá trị bền vững ngự trị trong từng thôn xóm Việt. Tuy nhiên mốc ra đời của
nghề còn có nhiều bàn cãi. Nghề rèn Lý Nhân chưa rõ thời kỳ ra đời nhưng
có người cho rằng nó có cách đây khoảng 500 năm. Trong tiến trình phát
triển của mình, nghề rèn nơi đây đã được Tỉnh công nhận là làng nghề truyền
thống. Tuy nói là làng rèn nhưng chỉ có thôn Bàn Mạch mới là cái nôi của
nghề rèn thủ công.
Ở Vĩnh Tường, nhất là ở Lý Nhân, mọi người đều quen thuốc với câu
ca dao từ xưa truyền tụng lại:
“Muốn ăn cơm trắng cá kho
Lên đây kéo bệ kéo lò cùng anh”
Đã là người dân Vĩnh Tường, ai ai cũng biết đến làng Lý Nhân nổi
tiếng với nghề rèn. Theo truyền thuyết kể lại, xưa thôn Bàn Mạch rất nghèo,
con người chỉ biết tìm đến nông nghiệp, trồng lúa và hoa màu nhưng đều
không có năng suất. Trong khi đó, tiềm lực đất đai của Bàn Mạch lại rất lớn.
Con người Bàn Mạch chưa có những công cụ sản xuất đắc lực phục vụ cho
nông nghiệp nên họ nản chí không biết canh tác để phục vụ đời sống. Chính
điều đó đã làm cho thôn xóm tiêu điều, xơ xác, đời sống của cư dân vùng này
gặp nhiều khó khăn. Đối mặt với cái nghèo đói, một vụ Quận Công đã về
đây, thấy phong thủy và đất đai tốt đã lập ra kế sách giúp người dân có cơ hội
đổi đời. Vị Quận Công này đã cho một đội ngũ thợ giỏi khắp nơi về dạy nghề

và truyền nghề cho bà con để tạo dựng công ăn, việc làm cho vùng đất đói
nghèo và nghề rèn ra đời từ đó.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Truyền thuyết thứ hai: Theo các cụ già cao niên kể lại, nghề rèn du nhập
vào Lý Nhân theo con đường di dân của gia đình người họ Vũ quê ở Thanh
Hóa. Tương truyền vào thời Lê Mạt bốn phương loạn lạc, Trịnh Cán, Trịnh
Tông là con của Trịnh Sâm tranh ngôi thứ đưa đến loạn kiêu binh ở Kinh
thành dẫn đến loạn bốn phương, nhân dân khốn khó, chạy loạn, ly tán các nơi.
Có gia đình người họ Vũ mãi tận Thanh Hóa chạy loạn đi tìm đất sống, đến Lý
Nhân thấy đất hẹp, dân lành nhưng không có nghề, lúc nông nhàn chỉ biết ăn
chơi nên xin định cư lại và mở lò rèn dạy nghề cho người dân.
Truyền thuyết thứ ba: Có tài liệu cho rằng: ở nước ta có một số làng
rèn cổ truyền như Nho Lâm (Nghệ An), Vân Chàng (Hà Nam), Đa Sĩ (Hà
Đông), Đa Hội (Bắc Ninh) và Lý Nhân (Vĩnh Phúc). Cả năm làng đều thờ
chung một vị tổ nghề của mình là ông Đùng (có tên thật là Lư Cao Sơn). Ông
Đùng sống ở thời Hùng Vương dựng nước, vốn quê Nga Sơn. Bấy giờ quân
Thục có nhiều khí giới, ông muốn học kỹ nghệ rèn sắt song quân Thục không
mở lò rèn ở nước ta. Chính vì vậy mà ông Đùng nảy ra ý nghĩ giả làm tù binh
để quân Thục mang về nước và ở liền bên nước Thục bảy năm, quyết chí học
thành thạo nghề. Về nước, ông Đùng đến Nho Lâm (Diễn Châu, Nghệ An)
mở lò lập nghề. Tương truyền lúc đầu chưa có đe, búa, ông vốn có sức khỏe
nên thường đặt thanh sắt tì vào đùi mà uốn cong, dùng nắm tay nện sắt thay
búa. Thấy ông giỏi nghề nên dân làng kéo đến xin học. Khi ông mất, dân làng
tôn ông làm tổ nghề. Về sau này,nhiều người làm nghề rèn ở Nho Lâm đã
kéo ra Bắc, lập nghề và truyền nghề.
Dù có nhiều luận giải khác nhau về sự xuất hiện cũng như là ông tổ

nghề của nghề rèn ở Lý Nhân nhưng ta có thể nhận thấy những nét tương
đồng trong các tương truyền trên đó là: Hiện nay dân làng Lý Nhân giỗ tổ
nghề tại lò rèn nhà mình vào ngày 14 tháng Giêng hàng năm cũng trùng với
ngày giỗ của họ Vũ vào ngày 14 tháng Giêng có quê gốc từ Thanh Hóa. Sự
xuất hiện của nghề rèn đã mang lại diện mạo mới cho làng xóm nơi đây.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Nghề rèn Lý Nhân bắt đầu từ khoảng thế kỷ XVIII, cứ thế tồn tại, phát
triển cùng với lịch sử hình thành và phát triển của làng Lý Nhân. Nhưng làng
rèn Lý Nhân phát triển chỉ khoảng hơn 300 năm nay. Đầu tiên người ta làm thủ
công, làm ở nhà; sau có điều kiện thì người ta phát triển lên làm tiểu thủ công.
Đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ XIV, khóa II (11/1958 – 1960)
đã xác định:” Đảng chủ trương đưa họ vào hợp tác xã thủ công nghiệp, cung
cấp nguyên liệu và dụng cụ, thiết bị cho các hợp tác xã đó, giúp cho ngành
thủ công nghiệp từng bước cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, cải tiến
chất lượng sản phẩm, góp phần thực hiện kế hoạch hóa Nhà nước”. Xuất phát
từ chủ trương đó nên từ tiểu thủ công phát triển lên hợp tác xã cao cấp.
Thành quả đạt được của hợp tác xã là rất lớn. Trong năm 1959, sản lượng
thu được đạt 853.363 con dao và đến 1960, giá trị tổng sản lượng đạt 383.894
sản phẩm. Mặc dù có sự giảm đi nhưng nó đã thể hiện được lối làm ăn mới,
đạt hiệu quả trong thời gian thực nghiệm.
Trải qua một thời gian dài tồn tại, từ làm thủ công phát triển lên hợp
tác xã bậc cao; từ hợp tác xã cao cấp biến chuyển theo cơ chế mở cửa. Quá
trình đó là làm từ thô sơ(tất cả các hoạt động đều làm bằng tay, kể cả quay
búa…) đến hiện đại với sự hỗ trợ của máy búa, máy cán và máy dập. Hoạt
động theo cơ chế tự tiêu, tự sản với thương hiện là các sản phẩm nông cụ chủ
yếu là dao, quốc, xẻng để phục vụ cho toàn thể nhân dân trong hoạt động

nông nghiệp.
Nhìn nhận lại quá trình ra đời và phát triển của nghề rèn Lý Nhân ta
thấy có những bước thăng trầm nhất định. Tuy vậy, mỗi lần thất bại là mỗi
bước thử nghiệm nghề. Trở lại những năm gần đây, với sự tác động của cơ
chế mới, nghề rèn đã chứng tỏ được thương hiệu của mình và ngày càng
được chú ý đầu tư để nghề trở thành nguồn thu, là niềm tự hào của cư dân
làng rèn.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

CHƯƠNG 2
NGHỀ RÈN LÝ NHÂN TỪ 1990 – 2010
2.1 Bối cảnh lịch sử.
Nghề rèn Lý Nhân từ năm 1960 – 1989 vẫn là hình thức tổ chức sản
xuất theo mô hình hợp tác xã thủ công. Hợp tác xã thủ công tồn tại và phát
triển trong vòng ba mươi năm. Đến năm 1990, trong thời kỳ chuyển đổi,
hợp tác xã thủ công giải thể. Tuy nhiên, những mầm mống của sự khủng
hoảng đã xuất hiện từ năm 1989 khi tình hình trong nước và thế giới có
nhiều biến chuyển.
Vào thời gian này, nhà nước chủ trương bao cấp đối với nền kinh tế.
Nhà nước lo cung cấp nguyên liệu, dụng cụ, thiết bị, đầu ra cho các hợp tác
xã… Để thực hiện điều đó, nước ta nhận sự trợ giúp của các nước xã hội
chủ nghĩa, trong đó chủ yếu là Liên Xô trên nhiều phương diện. Sự phụ
thuộc nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế Liên Xô đã khiến cho kinh tế
nước ta bị suy yếu khi Liên xô lâm vào khủng hoảng (1989). Sự khủng
hoảng ấy làm cho ngành tiểu thủ công ở các địa phương đi vào suy yếu và
không có nguồn vốn để duy trì hoạt động. Đặc biệt, thị trường đầu ra của
sản phẩm cũng gặp rất nhiều khó khăn (thời kỳ trước đó, vào năm 1962,

mười vạn dao Lý Nhân đã vượt Thái Bình Dương sang Cu Ba tham gia thu
hoạch mía cũng là thị trường tiêu thụ lớn). Nguồn vốn bị cắt nên kĩ thuật
sản xuất lạc hậu đã ngày càng lạc hậu hơn.
Năm 1986 nước ta tiến hành Đại hội đổi mới với trọng tâm là đổi mới
nền kinh tế. Nhà nước với chủ trương: phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, có sự quản lý của nhà nước vận hành theo cơ chế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển bước đầu của kinh tế thị trường đã làm
cho các làng nghề không nắm bắt được thị trường, sản xuất không tập trung,
công nghệ sản xuất lạc hậu. Bên cạnh đó, thủ công không có hợp đồng lớn,
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

không chủ động trong kế hoạch sản xuất hàng năm, sự cạnh tranh quyết liệt
của các sản phẩm công nghệ cao, không thay đổi được mẫu mã sản phẩm nên
tiêu thụ chậm.
Sự giải thể của Hợp tác xã đã đánh dấu bước phát triển mới của làng
rèn Lý Nhân. Kinh tế hộ gia đình ngày càng thích nghi và phát huy được vai
trò của mình trong thời kỳ mới. Hàng vạn công cụ cầm tay của Lý Nhân tiếp
tục tìm đường đi đến khắp miền của Tổ quốc. Với hướng phát triển mới này,
nghề rèn Lý Nhân ngày càng phát triển, công cụ, thiết bị, dụng cụ được đổi
mới, cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Từ sau năm 1990 đến nay, nghề rèn đã có những bước phát triển
nhanh, mạnh với việc áp dụng các trang thiết bị hiện đại vào trong sản xuất,
sản phẩm làm ra nhiều, đa dạng và chất lượng tốt. Hiện nay, nghề rèn đã trở
thành nguồn thu nhập chính cho người dân.
Phân tích bối cảnh lịch sử thế giới và trong nước để thấy được con
đường phát triển của ngành tiểu thủ công ở nước ta nói chung và ở các địa
phương nói riêng. Mặt khác, qua những biến động ấy còn giúp ta nhận thấy

được khả năng nắm bắt thời cơ của cư dân để duy trì nghề cha ông và nâng
cao cuộc sống cư dân.
2.2 Tổ chức sản xuất và phân công lao động.
2.2.1 Tổ chức sản xuất.
Về trình độ sản xuất: Trong các giai đoạn trước, trình độ sản xuất chủ
yếu là lao động bằng chân tay. Lao động chân tay đã làm cho năng suất lao
động được hiệu quả không cao. Mặt khác, hàng hóa sản xuất hạn chế mà sức
lực của người dân bỏ ra là rất lớn. Thành phẩm tạo ra có yếu kém về kiểu
dáng và mẫu mã. Chính vì vậy mà sản phẩm chủ yếu chỉ bán cho nhân dân
trong vùng để phục vụ nhu cầu hàng ngày của người dân: liềm, cày, cuốc…
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các khâu trung gian cũng như
các khâu đòi hỏi sức lao động lớn đã bị giảm hẳn: như khâu dập phôi. Sự trợ
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

giúp của máy càn thép, búa máy thì công việc đe và đập của người thợ đã
được thay thế.
Trang bị sản xuất: về Lý Nhân hôm nay ta sẽ thấy một diện mạo nông
thôn đổi khác. Cùng với các chính sách hỗ trợ, phát triển làng nghề thì mô
hình xây dựng: điện – đường – trường - trạm đã được chú ý phát triển. Ở Lý
Nhân, hệ thống điện đã được điện khí hóa, xây dựng các trạm biến áp. Theo
quyết định của Ủy ban nhân dân về phát triển làng nghề đã xây dựng ở đây
hệ thống thủy điện nhỏ, sử dụng năng lượng mới và năng lượng tái tạo có
công suất lắp đặt dưới 10.000KW để cung cấp điện cho làng.
Áp dụng công nghệ bằng cách đầu tư hàng loạt các trang thiết bị máy
móc hiện đại như: Máy gọt kim loại, những búa máy hạng nặng 100 – 200
thay thế sức người, máy cán thép (5 cái trong quy mô toàn xã), máy dập phôi
(4 chiếc trong quy mô toàn xã), máy cắt hiện đại, lò nung điện, búa tự động,

hệ thống máy mài…Với các trang thiết bị hiện đại này, sản phẩm cũng như
chất lượng được nâng lên đáng kể. Thu nhập của người dân từng bước được
cải thiện và mức sống của họ cũng tăng nhiều hơn so với các thời kỳ trước.
Không chỉ sản xuất trong quy mô hộ gia đình mà nghề rèn nơi đây đã
được chính quyền địa phương quan tâm đúng mức bằng rất nhiều biện pháp,
trong đó có chương trình liên kết với các trường dạy nghề ở Vĩnh Phúc. Với
chương trình hoạt động như vậy, nghề rèn ở Lý Nhân đã được rất nhiều
người biết đến và nỗi lo về sự mai một nghề đã vơi đi trong lòng mỗi nghệ
nhân làng nghề.
Hình thức tổ chức sản xuất: Trước năm 1990, nghề rèn Lý Nhân phát
triển trong khuôn khổ hợp tác xã. Do đặc điểm chung của mô hình này là
được nhà nước tìm kiếm nguồn vốn, nguyên vật liệu và cả đầu ra nên sản
xuất mang tính thụ động; người dân thì kém nhạy bén…
Năm 1990, với sự giải thể của hợp tác xã, những người là thành viên
cũ của hợp tác xã đã trở về với kinh tế hộ gia đình. Kinh tế hộ gia đình là một
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

mô hình kinh tế nhỏ (từ 4 - 5 người), gọn, tự điều chỉnh vốn và tự tìm kiếm
thị trường…Chính vì vậy mà nó rất nhạy bén, có những thay đổi để phù hợp
với nền kinh tế thị trường. Mặc dù nguồn huy động vốn ít nhưng hoạt động
của các lò rèn gia đình này đã góp phần nhiều vào sự ổn định trong đời sống
của nhân dân trong nhiều năm liền. Lúc này, vai trò của người thợ cả (người
chủ lò) có vai trò quan trọng hơn cả bởi họ là người đứng ra tìm đầu ra cho
các sản phẩm. Người chủ lò là người đại diện đứng ra kí các hợp đồng sản
xuất để tìm kiếm việc làm cho những người trong lò.
Trong những năm gần đây, các ngành chức năng của huyện Vĩnh
Tường phối hợp với trung tâm khuyến nông và tư vấn phát triển công nghiệp

tỉnh triển khai chương trình hỗ trợ phát triển khuyến nông quốc gia cho 3 cơ
sở sản xuất, trong đó có làng rèn Lý Nhân. Xuất phát từ chủ trương trên mà
làng rèn Lý Nhân đã có riêng một khu vực tập trung sản xuất lớn. Khu tập
trung này chiếm 50ha được quy hoạch dành cho các hộ có vốn lớn ở đó ra mở
rộng quy mô sản xuất. Ở đây, trình độ chuyên môn hóa được tăng cường với
những trang thiết bị hiện đại. Khu sản xuất này thu hút 30 hộ dân tham gia
với hơn 100 lao động thường trực. Sản xuất mang tính chuyên môn hóa cao
(mỗi người làm một công đoạn) nên nơi đây trung bình mỗi ngày làm được
8000 đến 10.000 sản phẩm mỗi ngày.
Khi sản xuất theo hộ gia đình, nguồn vốn huy động sản xuất chủ yếu là
gia đình tự có cộng thêm vốn vay tín dụng của xã. Trong khi đó, người dân
làng nghề trông chờ vào nguồn vốn đầu tư thì cả xã cũng chỉ có khoảng vài
chục hộ với vốn đầu tư trên dưới 100 triệu đồng. Số còn lại chỉ vài ba chục
triệu đồng và thậm chí thấp hơn. Việc thành lập khu sản xuất lớn cho nghề
rèn Lý Nhân đã không chỉ thu hút đầu tư của chính quyền xã mà còn thu hút
sự quan tâm của các ngân hàng. Với sự năng động vốn có, họ dễ thuyết phục
được đối tác tăng cường đầu tư bởi nguyên liệu đầu vào được đảm bảo và đầu
ra cũng an toàn. Đặc biệt, ở rèn Lý Nhân đã thành lập được hợp tác xã cơ khí
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Anh Đức – hình thức tồn tại như một công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên
cung cấp phôi sản xuất sẵn cho các hộ gia đình rèn nông cụ. Đây là một bước
tiến mới để từ đó tính chuyên môn hóa sẽ được phát huy rộng rãi trong quy
mô toàn làng. Trong tương lai, các mô hình dịch vụ này sẽ ngày càng phát
triển và đạt được hiệu quả kinh tế cao.
2.2.2 Phân công lao động.
Nghề rèn Lý Nhân phân công lao động theo từng lò. Mỗi lò là một hộ

gia đình. Sở dĩ có điều này là do sau khi hợp tác xã giải thể, các thợ rèn là xã
viên đã trở về với lò rèn của gia đình. Lao động trong lò rèn chủ yếu là các
thành viên trong gia đình, nếu thiếu lao động thì thuê người làm thợ phụ. Sự
phân công lao động trong các lò rèn thường được tiến hành như:
Thợ cả: thường cũng là chủ lò, đồng thời cũng là người chủ gia đình,
người chồng, người cha, người truyền nghề trực tiếp cho con trai. Người thợ
cả là người làm nghề lâu năm và có tay nghề. Người thợ cả nhìn ngọn lửa
trong lò biết độ nóng ở mức nào; nhìn màu đỏ rực ở thanh sắt nung biết nên
dừng hay nên tiếp. Người thợ cả cầm búa tay làm hiệu lệnh chỉ huy. Búa tay
đập vào chỗ nào thì búa tạ đập theo vào đó. Búa tay là loại búa dễ điều khiển
với đập nhanh, đập chậm, đập nhịp nhàng…Người thợ cả còn dùng cả ánh
mắt, lời nói để ra hiệu lệnh cho thợ phụ và thợ kéo bể; đồng thời còn giảng
giải các khâu để người thợ phụ nắm bắt được các thao tác kỹ thuật. Người thợ
cả luôn đảm trách các khâu quan trọng, yêu cầu kĩ thuật cao như: tạo dáng,
tôi luyện, lấy màu cho sản phẩm…
Thợ phụ: chủ yếu làm nhiệm vụ đập búa. Yêu cầu đối với người thợ
phụ là phải khỏe mạnh và cũng phải biết qua kỹ thuật. Đập búa nặng hay nhẹ,
nhanh hay chậm, đập vào thời điểm nào, nhất nhất theo búa con của người
thợ cả. Ngoài việc đập búa, người thợ phụ còn phải biết làm nguội, tức là làm
các khâu gọt, giũa, mài, bào, lắp cán cho sản phẩm, hoặc cắt trấu liềm, trấu
hái…vừa làm vừa học nghề ở thợ cả.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Thợ thổi bể: đây là phần việc đơn giản, lao động nữ hoặc lao động phụ
cũng có thể tham gia. Người kéo bể đứng, hai tay cầm hai cần bể kéo lên thụt
xuống tạo gió thổi vào lò than cho cháy đều, lửa đỏ rực để nung sắt thép. Tuy
vậy, kéo bể cũng phải biết kĩ thuật: khi nhanh lúc chậm, khi mạnh lúc nhẹ,

phải luôn quan sát ánh mắt của người thợ cả để xử lý.
Vai trò của người phụ nữ trong nghề khá quan trọng. Dù là một nghề
nặng nhọc nhưng số lao động nữ tham gia làm rèn vẫn chiếm tỉ lệ cao. Họ
được ưu tiên những công việc nhẹ nhàng và đòi hỏi sự dẻo dai như: thổi bễ,
tra cán dao, vuốt dầu Thói quen nghề nghiệp đã rèn cho họ khá dẻo dai
trong công việc nặng nhọc của đàn ông.
Như vậy, trong gia đình có đủ lực lượng lao động, cha, con, chồng,
vợ…họ vừa làm vừa giảng giải truyền nghề, dạy nghề cho nhau, cứ thế cha
truyền con nối:
“Phì phò kéo bể ngắm xem
Năm sau khôn lớn búa quai suốt ngày
Nhịp nhanh nhịp chậm theo thầy
Đập mạnh đập nhẹ mỏng dày dàn ra
Bao giờ con được như cha
Được cầm búa bé được là chỉ huy”.
(Ca dao làng rèn Lý Nhân)
Tuy nhiên, với sự hỗ trợ của máy móc hiện đại, nhiều búa máy đã thay
thế cho búa cầm tay. Ở Lý Nhân, những búa máy hạng nặng 100 – 200
khoảng hơn 100 chiếc đã thay thế sức người. Tuy nhiên, để trở thành người
thợ rèn thực sự không thể không trải qua giai đoạn cầm búa. Với những lò
rèn đã sử dụng búa máy thì người thợ đỡ vất vả hơn. Những công việc cán
thép sau khi nung đến việc dàn thép đều do người thợ cả điều khiển búa máy
mà thợ phụ chưa thể làm được.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Một lò rèn gia đình có trung bình từ 4 – 5 người. Mỗi thành viên trong
gia đình này thường xuyên giúp đỡ công việc của các thành viên. Tuy nhiên,

những công việc khó phải đảm bảo tính chuyên chỉ có những người có kinh
nghiệm mới có thể làm được. Người phụ nữ trong gia đình càng có vai trò
quan trọng hơn khi vừa là đối tượng trực tiếp tham gia sản xuất, vừa là người
làm các việc khác trong gia đình để đảm bảo được đời sống đi vào quỹ đạo.
Những lò rèn gia đình rất nhạy bén và nhanh chóng tiếp thu được những
chuyển biến của thị trường để có những bước đi phù hợp với thị hiếu của
người tiêu dùng.
Trong quá trình phát triển làng nghề, khoa học kĩ thuật dần dần được
đưa vào trong sản xuất. Song hành với nó chính là lối làm ăn theo hướng
chuyên môn hóa trong các khâu sản xuất. Nếu như trước kia, một hộ gia đình
thường đảm bảo tất cả các khâu trong quy trình sản xuất thì nay có sự phân
chia rõ rệt. Các xưởng lớn vẫn sản xuất nhiều loại sản phẩm. Các hộ nhỏ có
vốn ít làm nghề ngay tại gia đình đã mua phôi của Hợp tác xã rèn Cơ khí Anh
Đức về chuyên làm một sản phẩm như: nhà làm dao, nhà làm cuốc, nhà làm
liềm, nhà làm chuôi…Các sản phẩm này sẽ được một số hộ thu mua thành
thành phẩm và mang đi bán. Chính nhờ quá trình chuyên môn hóa ấy mà các
hộ gia đình sẽ thành thạo hơn với công việc của mình. Sự chuyên môn hóa đã
làm cho năng suất lao động tăng nhanh và mức thu nhập theo đó cũng tăng
lên đáng kể.
2.3 Quy trình rèn.
2.3.1 Chuẩn bị nguyên liệu và nhiên liệu.
Việc chọn và chuẩn bị nguyên liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng góp
phần quyết định sự thành công sản phẩm. Nguyên liệu có tốt, có đảm bảo thì
sản phẩm mới đạt chất lượng và ngược lại. Nguyên liệu phục vụ cho nghề rèn
chủ yếu là sắt và thép các loại. Đây là loại nguyên liệu quyết định sự tồn tại
và phát triển của nghề rèn.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội
Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh


Ngay từ khâu chọn nguyên liệu người Bàn Mạch cũng đã hết sức cẩn
thận. Theo họ, mỗi một loại sắt thép lại có một tính năng và hiệu quả khác
nhau, không phải loại nào cũng cho ra sản phẩm như ý muốn. Chính vì vậy,
khi chọn mua nguyên liệu, người Bàn Mạch phải dựa vào kích thước và công
dụng của sản phẩm mà chọn loại sắt cho phù hợp. Thường mỗi gia đình lại
chọn sản xuất những loại sản phẩm khác nhau, vì thế mà nguyên liệu cũng
khá đa dạng và phong phú.
Hiện nay ở thời kỳ kinh tế thị trường, nguyên liệu làm sản phẩm do các
gia hộ gia đình tự lo nguyên liệu bằng cách tự mua sắt vụn về nấu hoặc để
chọn lọc và sử dụng lại. Do nguồn sắt thép phế liệu rất phong phú nên các gia
đình rất chủ động trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu. Trong giai đoạn
trước ở Lý Nhân có hẳn một lực lượng lao động đi mua sắt vụn, sắt phế liệu ở
các làng xã trong và ngoài huyện. Mua phế liệu như dao, cuộc, xẻng…đã bị
hỏng; sắt thép phế liệu các loại: sắt thanh, sắt cây, thép tấm…thu gom từ các
công trình lớn thải loại về rồi nhập cho các chủ lò. Ngoài ra còn có lực lượng
buôn bán ở nơi khác đem tận nơi bán cho các chủ lò rèn. Nguyên liệu mua về
được các thợ chọn và phân loại ra các loại tương ứng với nhiều loại sản phẩm
khác nhau. Loại sắt thép tốt, dày dùng để rèn dao quắm, dao tông, đục…; loại
mỏng như sắt nhíp ô tô dùng để rèn liềm, hái, cuốc, dao…; loại tròn dùng để
rèn xà beng; loại cục thỏi dùng để rèn búa chim; đầu kíp, quang nhíp ô tô để
rèn búa, rèn rìu; các loại sắt lá, sắt chứ V để rèn cào, rèn kéo…
Qua đó ta thấy, nguồn nguyên liệu sắt để rèn rất đa dạng. Tuy nhiên,
với kinh nghiệm của người thợ rèn Lý Nhân thì nguyên liệu tốt nhất là thép
nguyên chất chưa qua cán, chưa bị ôxi hóa khi đó sản phẩm rèn được đưa vào
sử dụng đỡ hoen rỉ hơn. Chính vì vậy, nguyên liệu được chọn là các kim loại
càng ít tạp chất, bề mặt càng nhẵn thì khả năng chống gỉ càng tốt, càng thích
hợp cho quá trình rèn.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội

Khóa luận tốt nghiệp Hà Thị
Hạnh

Về nhiên liệu: Than là nhiên liệu quan trọng trong quy trình rèn. Muốn
có thành phẩm thì tất cả các vật rèn đều phải trải qua quá trình nung. Đặc
biệt, khi rèn thủ công các lò rèn thường duy trì trạng thái mở nên dễ mất
nhiệt. Vì vậy, nhiên liệu phải có độ sạch cao để đạt được hiệu quả trong quá
trình rèn, phát huy được sự khéo léo của người thợ. Trước đây người thợ rèn
đốt bể than bằng củi gỗ bằng cách lên rừng chặt cây đốt gỗ lấy than. Tuy vậy,
do xa rừng, xa núi nên chủ lò chủ yếu mua than của thợ đốt than chuyên
nghiệp trong rừng. Than gỗ nghiến được chủ lò ưa chuộng nhất vì nó có nhiệt
độ cao, đỡ bị hao trong quá trình đốt. Ngoài ra còn dùng than hoa (than của
loại củi gỗ khác), than hoa cho nhiệt độ thấp hơn.
Ngày nay, dân làng Lý Nhân thổi bể bằng than đá (Quảng Ninh), than
này có nhiệt độ cao hơn, rèn khối lượng lớn hơn. Có những gia đình chuyên đi
mua than từ Quảng Ninh về bán cho các lò rèn trong làng. Những lò chuyên
rèn hàng to, nặng thì nguồn than thường dùng là than đá đã qua sử dụng ở các
nhà máy gọi là than xỉ. Đây là loại than sử dụng có hiệu quả nhất bởi than đã
cháy hết lớp dầu lúc đầu nên nhiệt lượng lớn. Than này khi cháy với ngọn lửa
xanh và ngắn hơn than bóng, chỉ cao 10cm nhiệt độ cao. Khi đốt có khả năng
nâng nhiệt độ lò lên đến 1800 độ.
Việc sử dụng than trong quá trình rèn cũng bộc lộ một số hạn chế nhất
định. Đó là than đang cháy khó điều chỉnh nhiệt độ trong lò theo ý muốn. Mỗi
lần đánh xỉ, thêm than, nhiệt độ lò đã bị giảm xuống. Vì vậy cần có dụng cụ để
đo và điều chỉnh nhiệt độ trong lò.
Than mua nên bảo quản ở nơi khô ráo để đảm bảo cho nhiệt lượng than
cháy đều hơn khi đưa vào lò. Mặt khác, khi đổ thêm than, người làm không
được đổ vào giữa ngọn lửa mà phải đổ ở xung quanh rồi vun vào, như vậy
than sẽ được sấy nóng trước khi đốt. Khi đốt than phải bật quạt gió nên lượng
bụi than và sắt bay ra bên ngoài là rất lớn. Khi không sử dụng lò nữa thì phải

tắt quạt gió để hạn chế ô nhiễm môi trường.
Líp: K57B - Khoa Lịch sử Trường ĐHSP
Hà Nội

×