Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG LÃNH đạo đổi mới PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ từ năm 1991 đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.15 KB, 83 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban Chấp hành Trung ương

BCHTW

chủ nghĩa xã hội

CNXH

Nhà xuất bản

Nxb

xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA


HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỪ NĂM 1991 ĐẾN

NĂM 2001
1.1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng về đổi
mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị từ
năm 1991 đến năm 2001
1.2. Sự chỉ đạo của Đảng về đổi mới phương thức hoạt động
Chương 2

của hệ thống chính trị từ năm 1991 đến năm 2001
KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM ĐẢNG LÃNH
ĐẠO ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TỪ NĂM 1991

ĐẾN NĂM 2001
2.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
2.2. Kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo đổi
mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị từ
năm 1991 đến năm 2001
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống chính trị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) hình thành từ sau thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám là hệ thống chính trị của chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân,
rồi chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH. Sau Đại thắng mùa Xuân năm

1975, đất nước được độc lập, thống nhất hoàn toàn, cả nước bước vào thời kỳ
quá độ lên CNXH, hệ thống chính trị nước ta đã được tiếp tục từng bước xây
dựng, củng cố. Hoạt động của hệ thống chính trị đã hướng vào việc thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, trước những biến động lớn lao của tình
hình trong nước và trên thế giới, trước những yêu cầu mới của thời kỳ quá độ,
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta cũng bộc lộ những mặt
hạn chế, bất cập.
Nhận thức được vấn đề đó, ngay từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới, Đảng
đã xác định mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đổi mới
toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi và cách làm phù hợp. Trong
thời gian đầu, tập trung sức vào khâu then chốt là đổi mới kinh tế; đồng thời
cũng phải kết hợp ngay từ đầu việc đổi mới hệ thống chính trị, mà trước hết là
đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Quá trình Đảng lãnh đạo đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị trong công cuộc đổi mới, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1991 đến năm
2001 - đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị theo tinh thần
Cương lĩnh của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6.1991), và Nghị
quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6.1996) của Đảng không
chỉ có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới đất nước mà còn để
lại nhiều kinh nghiệm quí báu cho hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đánh giá về


4
quá trình đổi mới hệ thống chính trị trong thời gian này, Hội nghị lần thứ bảy
BCHTW Đảng, khoá VIII (8.1999) đã khẳng định:
Từ sau Đại hội VI của Đảng, qua hai lần sắp xếp, hệ thống chính trị ở
nước ta bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đã
từng bước được cụ thể hoá về chức năng, nhiệm vụ, củng cố về tổ chức,
bộ máy tinh giản biên chế, đổi mới phương thức, lề lối làm việc…Những

tiến bộ đó đã phát huy sức mạnh tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị
và đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta [16, tr.33].
Nghiên cứu, tổng kết quá trình Đảng lãnh đạo đổi mới phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị từ năm 1991 đến năm 2001; đánh giá đúng những kết
quả đạt được, tìm ra những khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân; từ đó rút ra
những kinh nghiệm để vận dụng tiếp tục đổi mới là vấn đề có ý nghĩa thiết thực
đối với nhiệm vụ nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như đối với
yêu cầu thực tiễn đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị hiện nay.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị từ năm 1991 đến
năm 2001 làm luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thuật ngữ hệ thống chính trị được Đảng ta chính thức sử dụng trong
Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng, khoá VI (3.1989) và đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng đã nêu lên một hệ thống quan điểm cơ bản
về hệ thống chính trị. Từ đó, những vấn đề lý luận và thực tiễn về hệ thống
chính trị và đổi mới hệ thống chính trị đã được đề cập nghiên cứu với mức độ
khác nhau trong các công trình khoa học được công bố. Có thể nêu lên một số
công trình chủ yếu như sau:


5
* Các công trình nghiên cứu chung về hệ thống chính trị, trong đó
có đề cập đến phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
Các đề tài khoa học:
Ngay từ đầu thập niên 90, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(nay là Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) đã thực hiện
chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước (KX.05) Hệ thống chính trị
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, do GS. Nguyễn Đức

Bình làm chủ biên. Đề tài KX.05 có các nhánh đề tài như: Chính trị và hệ thống
chính trị trong Học thuyết Mác - Lênin và những bài học về sự vận dụng nó ở các
nước xã hội chủ nghĩa trước đây, mã số KX.05.01; Chính trị và hệ thống chính trị
của các nước tư bản phát triển, mã số KX.05.02; Đặc trưng cơ bản của hệ thống
chính trị nước ta trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mã số KX.05.04;
Cơ chế thực hiện dân chủ trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, mã số
KX.05.05; Đặc điểm, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng trong hệ
thống chính trị, mã số KX.05.06; Vị trí và tính chất hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị, mã số KX.05.10...
Đây là một công trình khoa học quan trọng, nghiên cứu một cách cơ
bản, toàn diện về hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên
CNXH; hệ thống hoá các đặc trưng, quan điểm, nguyên tắc xây dựng và hoạt
động của hệ thống chính trị ở nước ta theo tinh thần đổi mới của Đảng; đề
xuất mô hình tổng thể của hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ quá độ lên
CNXH. Đặc biệt, công trình này đã luận giải, làm rõ khái niệm hệ thống chính
trị, phân biệt hệ thống chính trị XHCN với hệ thống chính trị của thời kỳ quá
độ lên CNXH. Công trình này cũng đã đi sâu nghiên cứu về vấn đề phương
thức lãnh đạo của Đảng, về vị trí, vai trò, tính chất hoạt động của các thành tố
cấu thành hệ thống chính trị.


6
Đề tài khoa học cấp Bộ: Cải cách bộ máy hành chính nhà nước Việt
Nam, của GS.TS. Nguyễn Duy Gia làm chủ biên. Đề tài đã luận giải cơ sở
khoa học về vấn đề cải cách bộ máy hành chính nhà nước, nêu lên những
quan điểm, nguyên tắc, yêu cầu và phương hướng tổ chức bộ máy hành chính
nhà nước ở Việt Nam; đi sâu phân tích vấn đề cải cách tổ chức bộ máy, làm rõ
và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan trong bộ máy
hành chính, khắc phục sự trùng lắp chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với xã hội.

Một số cuốn sách viết về hệ thống chính trị:
Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống
chính trị đổi mới do PGS.PTS. Trần Xuân Sầm chủ biên; Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1998; Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong
giai đoạn mới do GS. Nguyễn Đức Bình, GS.PTS. Trần Ngọc Hiên, GS. Đoàn
Trọng Truyến, PGS.PTS. Nguyễn Văn Thảo và PGS.PTS. Trần Xuân Sầm
đồng chủ biên; Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Xây dựng hệ thống
chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Học viện Chính trị quân sự, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000; Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính
trị ở Tây nguyên do Phạm Hảo, Trương Minh Dục (Đồng chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
Các cuốn sách trên đã đề cập đến nhiều vấn đề cơ bản như bản chất, đặc
trưng của hệ thống chính trị nước ta, vai trò của Đảng, Nhà nước và các tổ
chức trong hệ thống chính trị, phân tích vai trò của các nhân tố ảnh hưởng đến
quá trình xây dựng, đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta.
* Các công trình nghiên cứu từng mặt, từng thành tố của hệ thống
chính trị nước ta đã được công bố như: Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng của GS.TS. Trần Đình Nghiêm, GS.TS. Phạm Ngọc Quang, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ


7
đổi mới đất nước, vấn đề và kinh nghiệm do TS. Nguyễn Văn Sáu, PGS.PTS.
Trần Xuân Sầm, PGS.TS. Lê Doãn Tá (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2002; Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay do TS. Thang Văn Phúc, TS.
Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2007; Mối quan hệ Đảng - Nhà nước - Dân trong cuộc sống, Nguyễn Khánh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007; Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nguyễn Hữu Đổng (Chủ biên),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; Nhà nước của dân, do dân, vì dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời
kỳ mới do Học viện Chính trị biên soạn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2010.
Một số luận án:
Bệnh quan liêu của bộ máy nhà nước và phương hướng khắc phục
trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Trần Thành,
Luận án Phó tiến sĩ Triết học, mã số 5.01.02, Hà Nội, 1994; Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa từ năm 1996 đến năm 2006, Hồ Xuân Quang, Luận án Tiến sĩ Lịch sử,
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo xây dựng nền hành chính nhà nước trong công cuộc đổi mới đất nước từ
năm 1991 đến năm 2005, Trần Đình Thắng, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam mã số 62 22 56 01, Hà Nội, 2009.
Những công trình khoa học nói trên đã đề cập đến một số vấn đề lý luận
cơ bản về hệ thống chính trị và xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta; phân
tích vai trò của từng tổ chức thành viên của hệ thống chính trị; nêu lên những
kinh nghiệm và giải pháp xây dựng, đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo
của các thành tố trong hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ


8
quốc); phân tích mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị…Tuy
chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị với tính chất hệ thống, song những công trình này đã cung cấp cho
luận văn nhiều tư liệu trong quá trình nghiên cứu.
* Các công trình trực tiếp bàn về đổi mới phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị như: Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị ở cấp
huyện một số tỉnh miền núi phía Bắc trong điều kiện hiện nay Đề tài khoa học cấp

Bộ của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phân viện Hà Nội, PTS. Lê
Văn Phụng (chủ nhiệm đề tài), 1999; Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống
chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay do PGS.TS. Tô Huy Rứa, PGS.TS.
Nguyễn Cúc, PGS.TS. Trần Khắc Việt (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003.
Mặc dù các công trình nêu trên đều tiếp cận nghiên cứu hệ thống chính
trị ở phạm vi từng khu vực cụ thể; song đã góp phần hệ thống hoá các quan
điểm của Đảng về hệ thống chính trị, luận giải một số vấn đề như khái niệm
hệ thống chính trị và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, đề xuất
những giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở…
* Các công trình giới thiệu về hệ thống chính trị và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị của một số nước trên thế giới như:
Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc, xây dựng Đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh
nghiệm của Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Tập hợp các
tham luận của các nhà khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn, những người
làm công tác lý luận, tư tưởng của Việt Nam và Trung Quốc về kinh nghiệm
xây dựng Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền thành tố quan trọng nhất của hệ thống chính trị XHCN.
Hệ thống chính trị của Anh, Pháp, Mỹ (Sách tham khảo), Nguyễn Văn
Huyên (Chủ biên), Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2007. Cuốn sách đã giới


9
thiệu về mô hình hệ thống chính trị ở một số nước tư bản chủ nghĩa, vai trò
của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị và mối quan hệ giữa
chúng; đồng thời có sự so sánh, liên hệ với mô hình tổ chức hệ thống chính trị
ở nước ta.
Như vậy, cho đến nay, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về hệ
thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị ở nhiều mức độ khác nhau; tuy
nhiên vấn đề Đảng lãnh đạo đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính

trị trong công cuộc đổi mới đất nước vẫn còn là một nội dung khá mới mẻ, cả về
lý luận và thực tiễn chưa được tập trung nghiên cứu một cách hệ thống và toàn
diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích
Luận văn làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng về đổi mới phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị từ năm 1991 đến năm 2001; qua đó, khẳng định những
kết quả, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm, góp phần cung cấp luận cứ để tiếp
tục đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở để Đảng xác định chủ trương đổi mới phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
- Phân tích quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về đổi mới phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta từ năm 1991 đến năm 2001.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, rút ra một số kinh
nghiệm của quá trình Đảng lãnh đạo đổi mới phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị từ năm 1991 đến năm 2001.
* Đối tượng
Nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về đổi mới
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị từ năm 1991 đến năm 2001.


10
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về đổi mới phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị từ năm 1991 đến năm 2001. Để có thể so
sánh, luận văn đề cập đến một số vấn đề liên quan trước năm 1991 và sau
năm 2001.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về hệ thống chính trị XHCN và đổi mới hệ thống chính trị ở
nước ta hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học Lịch sử,
chủ yếu là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgíc. Ngoài ra, luận văn còn sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đồng đại, lịch đại.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả của luận văn góp phần nghiên cứu đầy đủ hơn quá trình lãnh đạo
đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nói riêng, đổi mới hệ
thống chính trị nói chung của Đảng từ năm 1991 đến năm 2001; khẳng định tính
đúng đắn, sáng tạo trong đường lối của Đảng; đồng thời đánh giá kết quả và rút
ra một số kinh nghiệm có thể vận dụng trong thực tiễn hiện nay.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng
dạy và học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các học viện, nhà
trường trong và ngoài quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.


11
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI
PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001
1.1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng về đổi mới phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị từ năm 1991 đến năm 2001
1.1.1. Hệ thống chính trị và yêu cầu khách quan đổi mới phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị

1.1.1.1. Hệ thống chính trị và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị
* Khái niệm hệ thống chính trị
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ thống chính trị của
CNXH chính là hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội mà nhờ đó, nhân dân
lao động thực thi quyền lực của mình trong xã hội.
Dưới CNXH, do có sự thống nhất về lợi ích giữa giai cấp công nhân giai cấp cầm quyền và nhân dân lao động, nên hệ thống chính trị không chỉ là
hệ thống quyền lực của giai cấp công nhân, mà còn là cơ chế xã hội để qua
đó, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình dưới sự lãnh đạo của
Đảng của giai cấp công nhân.
Ở nước ta, hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức bao gồm: Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cùng các quan hệ giữa các
tổ chức đó với nhau, hợp thành cơ chế dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.


12
Hệ thống chính trị nước ta là hệ thống chính trị XHCN hoạt động theo
cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền
phong của nhân dân lao động, đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và
của toàn dân tộc, có sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ xã hội thông qua nhà nước và
các đoàn thể nhân dân; Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
chức năng quản lý mọi mặt đời sống xã hội, là công cụ, phương tiện để qua
đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân có chức năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong
xã hội tham gia việc quản lí nhà nước, quản lý xã hội.

* Phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
Phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là hệ thống các cách
thức, phương pháp, hình thức mà hệ thống chính trị sử dụng để tác động vào
đối tượng lãnh đạo, quản lý, vận động của mình (các tổ chức, các lực lượng
quần chúng) để tập hợp các tổ chức đó và đông đảo quần chúng nhằm thực
hiện mục tiêu, nhiệm vụ do hệ thống chính trị đặt ra.
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm nhiều thành tố; mỗi thành tố có vị
trí, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động riêng nhưng gắn bó chặt
chẽ với nhau theo một cơ chế hoạt động thống nhất để tác động vào các quá
trình kinh tế - xã hội. Do đó, có thể xem xét phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị trên hai phương diện, đó là:
Thứ nhất, phương thức hoạt động chung của toàn bộ hệ thống chính
trị, tức là những cách thức, phương pháp giải quyết mối quan hệ qua lại và tác
động lẫn nhau giữa các thành tố của hệ thống chính trị; điều hành, phối hợp
hoạt động của các thành tố đó theo mục tiêu chung của cả hệ thống.


13
Ở phương diện này, có thể coi phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị là sự cụ thể hoá cơ chế vận hành: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ.
Thứ hai, phương thức hoạt động của từng thành tố, tức là toàn bộ cách
thức, phương pháp hoạt động của mỗi thành tố nhằm thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình. Cụ thể là:
Phương thức hoạt động của Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân
lãnh đạo hệ thống chính trị, giữ vai trò lãnh đạo chính trị đối với toàn xã hội. Sự
lãnh đạo của Đảng bao gồm nội dung lãnh đạo và công tác tổ chức thực hiện nội
dung đó, trong đó có phương thức lãnh đạo. Phương thức lãnh đạo của Đảng là
hệ thống các cách thức, phương pháp mà Đảng vận dụng để tác động vào các tổ
chức, các lực lượng nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chính trị của Đảng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội xác định:
Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng
về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ
năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo
chính quyền và các đoàn thể [23, tr.405].
Đảng thực hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo của mình bằng việc đề ra
đường lối và các chính sách của Đảng, lãnh đạo biến các chủ trương chính
sách đó thành pháp luật của Nhà nước cho mọi người dân thực hiện. Đảng
lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy và giới thiệu cán bộ vào những vị trí quan
trọng của cơ quan Nhà nước, giáo dục cán bộ, đảng viên của Đảng giữ gìn
phẩm chất đạo đức cách mạng, hết lòng phục vụ nhân dân, chấp hành nghiêm
chỉnh luật pháp của Nhà nước. Đồng thời, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của


14
mình thông qua việc xây dựng các tổ chức quần chúng, động viên, giáo dục
quần chúng vừa thực hiện pháp luật và các chính sách của Nhà nước vừa giữ
vai trò phản biện xã hội; đóng góp ý kiến xây dựng, kiểm tra đôn đốc với các
cơ quan của Nhà nước. Mặt khác, Đảng còn lãnh đạo phối hợp thống nhất
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị và tiến hành công tác kiểm
tra đối với các tổ chức đó thông qua tổ chức đảng và cá nhân đảng viên hoạt
động trong hệ thống chính trị.
Phương thức hoạt động của Nhà nước: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là một trụ cột của hệ thống chính trị và là công cụ chủ yếu để
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước có chức năng trực tiếp
quản lý, điều hành mọi hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước; thể chế hoá và tổ

chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng. Phương thức hoạt động của Nhà
nước là hệ thống các cách thức, phương pháp, biện pháp mà Nhà nước sử dụng
để quản lý, điều hành xã hội nhằm thực hiện đường lối chính trị của Đảng.
Nhà nước quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Các
quan hệ cơ bản trong xã hội được xác định và điều chỉnh chủ yếu bằng pháp luật.
Pháp luật của Nhà nước thể hiện quyền lực của nhân dân, về thực chất, là sự thể
chế hoá đường lối, chủ trương, các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng.
Phương thức hoạt động của Nhà nước thể hiện trong việc Nhà nước thực hiện
quyền lực của mình trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân có chức năng vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân, xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên động lực chủ yếu trong sự phát triển
của đất nước.


15
Phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân là hệ thống các cách thức, phương pháp mà Mặt trận và các đoàn
thể nhân dân sử dụng để vận động, tập hợp các tầng lớp quần chúng nhân dân
thực hiện các chương trình hành động chung và các chương trình hành động của
mỗi tổ chức theo chức năng cụ thể của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đề ra chương trình hành động chung, tiến hành hiệp thương
dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên; các thành viên
đảm nhận từng phần việc phù hợp với chức năng và khả năng của mình. Sự phối
hợp, thống nhất hành động trong nội bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và giữa Mặt
trận với các tổ chức thành viên là vấn đề cơ bản nhất trong phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.
* Vai trò của phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
Phương thức hoạt động của hệ thống chính trị có vai trò rất quan trọng,

tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị. Nói cách
khác, các tổ chức trong hệ thống chính trị chỉ có thể phát huy vai trò, chức năng
của mình trên cơ sở xác định được phương thức hoạt động phù hợp.
Phương thức hoạt động của hệ thống chính trị gắn chặt và phụ thuộc
vào vai trò, chức năng, tính chất hoạt động của hệ thống chính trị và vận
động, phát triển cùng với sự phát triển của các thành tố trong hệ thống chính
trị. Các thành tố trong hệ thống chính trị với tư cách chủ thể, đương nhiên cần
được tổ chức xây dựng một cách hợp lý và không ngừng cải cách, đổi mới về
tổ chức, bộ máy theo sự phát triển của xã hội qua mỗi thời kỳ. Tuy nhiên, như
thế vẫn chưa đủ, vấn đề là cùng với xây dựng tổ chức bộ máy, phải xác định
được phương thức hoạt động phù hợp với vai trò, chức năng, tính chất của tổ
chức, bộ máy đó và phù hợp với điều kiện xã hội. Phương thức hoạt động là
hệ thống các phương pháp, hình thức, biện pháp được các tổ chức trong hệ
thống chính trị sử dụng tác động đến đối tượng của mình. Do đó, phương thức


16
hoạt động chính là con đường để hiện thực hoá mục tiêu của các tổ chức trong
hệ thống chính trị và của cả hệ thống chính trị.
Nội dung hoạt động của hệ thống chính trị và phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; trong đó nội
dung hoạt động là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất, phương thức hoạt động là
yếu tố rất quan trọng. Nội dung hoạt động tốt, phương thức hoạt động phù
hợp thì hiệu quả hoạt động sẽ cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Nếu có nội dung hoạt động tốt mà phương thức hoạt động kém hoặc không
phù hợp thì hiệu quả thực hiện nội dung đó sẽ không cao. Lẽ dĩ nhiên, không
thể có một phương thức hoạt động tốt nếu nội dung hoạt động không được
xác định đúng đắn hoặc chất lượng thấp. “Kinh nghiệm cho thấy, mức độ
thành công của công cuộc đổi mới phụ thuộc vào tính đúng đắn của đường
lối, đồng thời còn trực tiếp phụ thuộc vào khả năng tìm kiếm, lựa chọn các

phương thức tổ chức và hoạt động thích hợp” [11, tr.15].
Như vậy, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị tuy phụ thuộc vào
chức năng, nhiệm vụ, tính chất tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và nội
dung hoạt động của hệ thống chính trị, nhưng có vai trò hết sức quan trọng trong
việc thực hiện nội dung hoạt động của hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị
XHCN chỉ có thể đủ mạnh và đáp ứng được yêu cầu giữ vững sự lãnh đạo của
Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước và phát huy đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân khi đồng thời đáp ứng những vấn đề cơ bản đó là: có tổ chức
hợp lý, có nội dung hoạt động đúng và có phương thức hoạt động phù hợp.
1.1.1.2. Yêu cầu khách quan đổi mới phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị
Ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới
chính trị. Quan điểm của Đảng là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ
và triệt để với những bước đi và cách làm phù hợp. Trong thời gian đầu, tập


17
trung sức đổi mới kinh tế, song tiến hành đồng thời việc đổi mới hệ thống
chính trị, mà trước hết là đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động
của các tổ chức Đảng, các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Trong đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta, cùng với đổi mới về tổ
chức, đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là một yêu cầu
hết sức quan trọng và là một đòi hỏi khách quan. Tính tất yếu khách quan đó
thể hiện trên những vấn đề sau đây:
* Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là yêu cầu
khách quan đáp ứng sự vận động phát triển của hệ thống chính trị.
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng minh
rằng mọi yếu tố, mọi trạng thái, mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều ở
trong khuynh hướng vận động, phát triển không ngừng. Sự vận động, phát

triển của các sự vật, hiện tượng sẽ dẫn đến việc thay thế cái cũ không còn phù
hợp bằng cái mới tốt hơn, tiến bộ và phù hợp hơn. Theo nghĩa chung nhất đó
chính là sự đổi mới.
Mặt khác, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin khi
chứng minh tính thống nhất của thế giới cũng đồng thời chỉ ra rằng mọi yếu
tố, mọi trạng thái tồn tại của thế giới đều có mối liên hệ tác động và ảnh
hưởng lẫn nhau trong một quá trình đa dạng, phong phú.
Trong mối quan hệ biện chứng và khuynh hướng vận động phát triển
đó, khi một yếu tố, một trạng thái bất kỳ của thế giới biến đổi, chuyển hoá đều
có thể tác động, gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến toàn bộ hệ thống.
Hệ thống chính trị là một bộ phận của hệ thống xã hội, do đó cũng luôn
vận động, phát triển và không ngừng đổi mới. Trong hệ thống xã hội, với vị
trí, chức năng của mình, hệ thống chính trị là nhân tố cơ bản quyết định sự
phát triển của xã hội; nhưng mặt khác, sự tồn tại và phát triển của hệ thống
chính trị lại được quy định bởi cơ sở kinh tế - xã hội và cơ sở chính trị xã hội


18
của nó. Do đó, khi cơ sở kinh tế - xã hội và cơ sở chính trị - xã hội biến đổi,
tất yếu hệ thống chính trị sẽ biến đổi. Đổi mới hệ thống chính trị trước hết là
yêu cầu tự thân của chính hệ thống chính trị trong quá trình phát triển, hoàn
thiện; đổi mới chính là để tiếp tục phát triển.
Sự vận động phát triển, đổi mới của hệ thống chính trị với tư cách là một
chỉnh thể thống nhất, đòi hỏi sự vận động, phát triển của các yếu tố cấu thành
trong hệ thống và theo đó, là sự vận động phát triển, đổi mới của phương thức
hoạt động của cả hệ thống cũng như của mỗi thành tố trong hệ thống chính trị.
Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là một yêu cầu
khách quan, sự đổi mới đó nhằm đạt tới một phương thức hoạt động phù hợp
với chủ thể của hoạt động là các thành tố của hệ thống chính trị đã và đang
đổi mới; đảm bảo cho hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả cao nhất.

* Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị xuất phát từ
sự đổi mới nội dung hoạt động của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng sự thay
đổi, phát triển của nhiệm vụ cách mạng trong mỗi thời kỳ cách mạng.
Phương thức hoạt động của hệ thống chính trị luôn gắn liền với mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị được xác định bởi đường lối chính trị của thành tố giữ vai trò
lãnh đạo hệ thống chính trị. Trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam - thành tố giữ vai trò lãnh đạo, đề ra đường lối định hướng
hoạt động của hệ thống chính trị nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước
trong mỗi thời kỳ. Đường lối chính trị của Đảng sẽ quyết định phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu của cách mạng và hiện thực xã
hội đặt ra.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước độc
lập thống nhất, quá độ lên CNXH; cách mạng Việt Nam chuyển sang giai
đoạn mới, giai đoạn tiến hành các mạng XHCN trong cả nước. Quy mô rộng
lớn và tính chất phức tạp của những nhiệm vụ kinh tế - xã hội trong thời kỳ


19
quá độ, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa hai con đường XHCN và tư bản chủ
nghĩa; cuộc đấu tranh của nhân dân ta với chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị.
Nhiệm vụ cách mạng thay đổi, do đó hệ thống chính trị của nước ta
cũng chuyển sang giai đoạn mới: từ hệ thống chuyên chính dân chủ nhân dân
làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản trong phạm vi miền Bắc trở
thành hệ thống chuyên chính vô sản hoạt động trong phạm vi cả nước. Hệ
thống chuyên chính vô sản nước ta từ sau năm 1975 là hệ thống chuyên chính
vô sản mang đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Quan niệm của Đảng ta về xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản
trong thời kỳ này là xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN; tức là xây dựng
một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội, thể hiện ngày càng đầy đủ sự

làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng tiếp tục khẳng định hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Về nhiệm vụ xây dựng CNXH, Đảng xác
định: Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục
xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN
trong chặng đường tiếp theo. Đồng thời, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ
xây dựng CNXH, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đề cao cảnh giác, tăng
cường khả năng quốc phòng và an ninh của đất nước, quyết đánh thắng kiểu
chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, bảo đảm chủ động trong mọi tình
huống để bảo vệ Tổ quốc.


20
Nội dung hoạt động của hệ thống chính trị thay đổi nhằm đáp ứng những
yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, do đó, đòi hỏi Đảng ta phải lãnh đạo đổi
mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.
* Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị xuất phát từ
yêu cầu khắc phục những hạn chế trong phương thức hoạt động của hệ thống
chuyên chính vô sản thời kỳ trước đổi mới.
Hệ thống chuyên chính vô sản của nước ta từ khi được xây dựng sau
Cách mạng tháng Tám luôn được chăm lo xây dựng, củng cố và đã phát huy
tốt vai trò thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Việt Nam, đặc biệt là trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
Trong những năm cả nước thống nhất đi lên xây dựng CNXH, hệ thống
chuyên chính vô sản giữ vai trò quan trọng trong tổ chức và phát huy sức
mạnh của cả dân tộc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN,

đạt được những thành tựu to lớn.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản thời
kỳ này cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về tổ chức và phương thức hoạt
động mà biểu hiện cụ thể là:
Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng đơn vị chưa được
xác định thật rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản
chưa làm tốt chức năng của mình. Hoạt động còn nhiều biểu hiện chồng chéo,
lấn sân về chức năng, nhiệm vụ; đồng thời có mặt lại bị buông lỏng. Chế độ
trách nhiệm không nghiêm, pháp chế XHCN còn nhiều thiếu sót.
Về xây dựng Đảng, Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng, khoá VI
(3.1989) nhận định:
Bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả
nước, Đảng coi nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng kinh tế là chủ yếu,
nhưng tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng cũng
như của cả hệ thống chính trị về cơ bản vẫn theo mô hình và


21
phương thức cũ. Khuyết điểm lớn nhất là chức năng, nhiệm vụ chưa
phân định rõ, bộ máy rất nặng nề, cồng kềnh, nhiều cấp trung gian;
các tổ chức trong hệ thống hoạt động chồng chéo, trùng lắp, kém
hiệu quả [21, tr.915].
Sự lãnh đạo của Đảng chưa ngang tầm những nhiệm vụ của giai đoạn
mới, chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết nhiều vần đề kinh tế - xã hội cơ
bản và cấp bách mà thực tiễn đặt ra. “Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc
mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi với việc làm, không tuân
thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành thường không
tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán” [23 tr.25].
Về hoạt động của Nhà nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đánh giá: “Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và chức năng, tiêu chuẩn

cán bộ chưa được xác định rõ ràng… Phong cách làm việc nặng về hình thức,
giấy tờ… việc tổ chức thực hiện lại yếu” [23, tr.115]. Các cơ quan nhà nước
không chú trọng làm công tác vận động quần chúng, mà nhấn mạnh các biện
pháp mệnh lệnh hành chính.
Về tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Đảng
chưa phát huy tốt vai trò và chức năng của các đoàn thể trong việc giáo dục,
động viên quần chúng tham gia quản lý kinh tế - xã hội. Các đoàn thể chưa
tích cực đổi mới phương thức hoạt động đúng với tính chất của tổ chức quần
chúng; còn tình trạng quan liêu trong các cơ quan quản lý và các tổ chức
chuyên trách về công tác quần chúng.
Những hạn chế trên đây cùng với những yêu cầu của công cuộc đổi
mới, đặt ra yêu cầu phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị.
Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là một yêu
cầu tất yếu khách quan xuất phát từ sự phát triển theo quy luật tự thân của


22
hệ thống chính trị với tư cách là một bộ phận của đời sống xã hội. Mặt
khác, đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị còn nhằm khắc
phục những hạn chế, khuyết điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trong
những thời kỳ trước đây; nhằm đạt tới một phương thức hoạt động phù hợp
hơn, đáp ứng sự phát triển nội dung hoạt động của hệ thống chính trị trước
những yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới phương thức hoạt
động của hệ thống chính trị là một yêu cầu có ý nghĩa hết sức quan trọng
nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi quá trình đổi mới hệ thống chính trị nói
riêng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới nói chung.
1.1.2. Chủ trương của Đảng về đổi mới phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị
1.1.2.1. Quan điểm của Đảng về đổi mới phương thức hoạt động của

hệ thống chính trị
Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là một yêu cầu
khách quan và là một nội dung trọng yếu của cả quá trình đổi mới hệ thống
chính trị nói chung. Do đó, đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị phải quán triệt những quan điểm, nguyên tắc cơ bản về hệ thống
chính trị và đổi mới hệ thống chính trị. Từ Cương lĩnh Chính trị và các Nghị
quyết của Đảng trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2001 có thể xác định hệ
thống những quan điểm cơ bản đó là:
Thứ nhất, đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải
đảm bảo giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính
trị cũng như đối với từng thành tố của hệ thống chính trị.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã
khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Đảng cũng là
người kịp thời nắm bắt tình hình thời cuộc và nguyện vọng của quần chúng


23
nhân dân, khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đạt được những thành
tựu quan trọng. “Những thành tựu đã đạt được trên các lĩnh vực chứng tỏ
đường lối và bước đi của Đảng ta là đúng đắn, năng lực cụ thể hoá nghị quyết
và tổ chức chỉ đạo thực hiện của các cấp, các ngành có tiến bộ” [23, tr.314].
Đánh giá kết quả mười năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1996),
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã khẳng định: “Toàn
bộ thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới gắn liền với trách nhiệm
lãnh đạo và hoạt động của Đảng ta. Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một
nhân tố quyết định tạo ra những thành tựu đổi mới” [23, tr.640].
Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội là nhân
tố quyết định thắng lợi công cuộc đổi mới toàn diện đất nước; do đó, giữ vững
và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là quan điểm có tính nguyên tắc chi

phối toàn bộ quá trình đổi mới hệ thống chính trị nói chung cũng như đổi mới
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nói riêng.
Thứ hai, đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải
nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo quyền
lực thuộc về nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH khẳng
định: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai
đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân” [23, tr.421 - 422].
Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta mới giành được độc lập dân tộc, giành
được quyền làm chủ đất nước, làm chủ đời sống xã hội, kết quả đó là ý
nghĩa đích thực của cách mạng XHCN. Quyền làm chủ đó thể hiện ở
quyền lực của nhân dân thông qua các tổ chức, các thiết chế xã hội mà tập
trung nhất là thông qua hệ thống chính trị. Do đó, đổi mới phương thức


24
hoạt động của hệ thống chính trị phải đảm bảo cho hệ thống chính trị hoàn
thành chức năng thực thi quyền làm chủ của nhân dân trong thực tế. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng chỉ rõ:
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nội dung cơ bản của đổi
mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để
thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối
với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, thực hiện tốt
cơ chế làm chủ của nhân dân, làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực
tiếp cùng các hình thức tự quản tại cơ sở [23, tr.638].
Như vậy, quá trình đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị phải gắn liền với quá trình bảo đảm quyền lực chính trị thực
sự thuộc về nhân dân, từng bước hoàn thiện và nâng cao trình độ nền

dân chủ XHCN. Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về dân chủ của nhân
dân, căn cứ vào trình độ giác ngộ và năng lực thực hành dân chủ của
nhân dân. Đồng thời, phải căn cứ vào trình độ nền dân chủ, vào sự tiến
bộ trong việc nhân dân nắm và sử dụng quyền làm chủ của mình đối với
xã hội, đối với cộng đồng mà đánh giá kết quả đổi mới phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức hoạt động của
hệ thống chính trị chỉ được xem là thành công khi nào nhân dân, với tư
cách chủ thể của quyền lực chính trị trực tiếp tham gia xây dựng, thực
hiện và kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của các tổ chức trong
hệ thống chính trị.
Thứ ba, đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải
đảm bảo tính hiệu quả, bảo đảm giữ vững sự ổn định chính trị và định
hướng XHCN.


25
Đổi mới luôn bao hàm một sự thay đổi, tổ chức lại, cải tạo và xây dựng,
kiến tạo cái mới; song đổi mới lại bắt đầu từ một tiền đề, một điều kiện tiên
quyết đó là phải dựa trên sự ổn định, đặc biệt là ổn định chính trị. Không có
ổn định chính trị thì không có bất cứ công việc nào, nhiệm vụ nào của đổi mới
thực hiện được. Tính hiệu quả của đổi mới phương thức hoạt động của hệ
thống chính trị phụ thuộc căn bản vào sự ổn định chính trị.
Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị hoàn toàn không
có nghĩa làm thay đổi bản chất của hệ thống chính trị XHCN, mà ngược lại là
nhằm làm cho hệ thống chính trị trở nên hoàn thiện hơn, hoạt động tốt hơn;
đảm bảo giữ vững bản chất của hệ thống chính trị; và qua đó, làm cho chế độ
chính trị ngày càng trở nên ổn định và bền vững, phát huy tính ưu việt và vai
trò tích cực của chế độ chính trị XHCN đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới phương thức hoạt

động của hệ thống chính trị thì việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng là
một yêu cầu hệ trọng và quyết định nhất.
Mặt khác, đổi mới ở lĩnh vực chính trị là vấn đề nhạy cảm, liên
quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành. “Chính trị là lĩnh vực
cực kỳ phức tạp. Khi chưa được chuẩn bị các tiền đề cần thiết mà đã vội
vàng đẩy nhanh đổi mới chính trị và đổi mới không đúng sẽ dẫn đến tình
trạng mất ổn định về chính trị, mà chính trị đã không ổn định thì toàn bộ
công cuộc đổi mới sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở” [23, tr.380]. Do đó,
đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhất thiết phải trên
cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc; phải có hình thức, bước đi
và biện pháp thích hợp; không chủ quan, nóng vội dẫn đến sai lầm, chệch
hướng. Chỉ có như vậy, mới giữ vững được ổn định chính trị và định
hướng XHCN, tạo tiền đề thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội…Nói cách khác, giữ vững ổn định chính trị và định hướng XHCN là


×