Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHUYÊN NGÀNH hệ THỐNG CHÍNH TRỊ cơ sở HUYỆN yên BÌNH, TỈNH yên bái HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 114 trang )

2
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chính trị quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
Hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị cơ sở

CTQG
CNXH
HTCT
HTCTCS

Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

HĐND
UBND
XHCN

2


2
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN HỆ

3

THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ HUYỆN YÊN
BÌNH, TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY

10

1.1. Hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên
Bái hiện nay - một số vấn đề lý luận

10

1.2. Thực trạng hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình,
tỉnh Yên Bái hiện nay
Chương 2 YÊU CẦU, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG HỆ THỐNG

22

CHÍNH TRỊ CƠ SỞ HUYỆN YÊN BÌNH,
TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY
2.1. Yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị cơ sở

53

huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay
2.2. Giải pháp xây dựng hệ thống chính trị cơ sở huyện

53


Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

60
84
86
90

2


3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, các cơ sở xã, phường, thị trấn là
nơi có tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú và là nơi nhân dân trực tiếp thực hiện
quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Do đó, Đảng ta khẳng định: “Hệ
thống chính trị cơ sở có vai trò rất quan trọng trong tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng
phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư”[19, tr. 166].
Xây dựng HTCTCS vững mạnh thực hiện tốt nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên và
cấp bách hiện NAY. Bởi thế, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khoá IX, năm 2002 đã ra Nghị quyết chuyên đề về Đổi mới và nâng cao chất lượng
hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Cùng với tiến trình đổi mới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Yên Bái,
HTCTCS huyện Yên Bình trong thời gian qua đang được quan tâm xây dựng

và hoàn thiện nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây bên cạnh những ưu điểm, HTCTCS huyện
Yên Bình, tỉnh Yên Bái còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém như: hệ thống tổ
chức vẫn chưa ổn định; còn lúng túng trong hình thức tổ chức và phương thức
hoạt động; mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành HTCTCS còn nhiều bất
cập; đội ngũ cán bộ, công chức vừa thiếu lại vừa yếu... chưa ngang tầm với
yêu cầu thực tiễn hiện nay. Tổ chức và hoạt động của HTCTCS còn bộc lộ
nhiều yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và
vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ, mất
dân chủ còn diễn ra ở nhiều nơi, có nơi vi phạm ở mức độ nghiêm trọng; nhận
định này đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nhấn mạnh: “năng lực

3


4
xây dựng thể chế, quản lý điều hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ
chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức
tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng
chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới”[21, tr. 171- 172].
Từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từ thực trạng
yếu kém của HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, huyện Yên Bình và
yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trung tâm của huyện, nhất là giải quyết tốt vấn
đề dân tộc và tôn giáo trên địa bàn để đảm bảo sự ổn định, phát triển bền
vững của huyện Yên Bình đi lên CNXH hoà nhập chung với tiến trình phát
triển của tỉnh và đất nước thì việc xây dựng HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh
Yên Bái là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết.
Vì vậy, việc nghiên cứu “Hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh

Yên Bái hiện nay” dưới góc độ chính trị - xã hội là vấn đề quan trọng cấp bách,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, vừa mang tính chiến lược lâu dài, vừa
cấp bách hiện nay, bởi vậy tác giả chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Nghiên cứu HTCT các cấp nói chung và HTCTCS nói riêng đang là vấn đề
có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. HTCT các cấp vững mạnh có ý nghĩa
chiến lược trong việc xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân và sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, trong những năm qua
vấn đề này đã được Đảng ta và nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều nhà khoa học, nhà
quản lý quan tâm nghiên cứu trên các mặt, các góc độ khác nhau:
* Trong Cương lĩnh, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam: Thực tiễn
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã luôn luôn thấy rõ vai trò to lớn của
HTCT và HTCTCS. Trong công cuộc đổi mới, vấn đề HTCT và HTCTCS càng
được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm nghiên cứu qua các kỳ đại hội; đặc biệt,

4


5
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX, năm 2002 đã ra Nghị
quyết chuyên đề về Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn, gần nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã thể hiện rõ quá trình hình
thành, bổ sung, phát triển và hoàn thiện chủ trương về đổi mới và nâng cao chất
lượng HTCT và HTCTCS ở nước ta.
* Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu trực tiếp vấn đề HTCT và
HTCTCS: Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn
Thảo, Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm), (1999), Đổi mới và tăng cường hệ thống
chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới, Nxb. CTQG, Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm
(chủ biên), (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hoá đời sống xã hội

nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, Nxb.
CTQG, Hà Nội; Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu
hướng và giải pháp, Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Hà Nội; Chu Văn Thành (chủ
biên), (2004), Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải pháp đổi mới,
Nxb. CTQG, Hà Nội; Hoàng Chí Bảo (chủ biên), (2004), Hệ thống chính trị ở cơ
sở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb. CTQG, Hà Nội; Lê Minh Thông và Nguyễn
Tài Đức (đồng chủ biên), (2008), Một số vấn đề về cơ sở khoa học của công tác tổ
chức trong hệ thống chính trị, Nxb. CTQG, Hà Nội; Nguyễn Duy Quý (chủ biên),
(2008), Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới; Nxb. CTQG, Hà Nội; Lê
Minh Thông (chủ biên), (2008), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb.
CTQG, Hà Nội; Nguyễn Hữu Đổng (chủ biên), (2010), Đảng và các tổ chức chính
trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay (Xuất bản lần thứ hai), Nxb.
CTQG, Hà Nội; Trần Đình Hoan (chủ biên), (2010), “Quan điểm và nguyên tắc đổi
mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2020”, Nxb. CTQG, Hà Nội…

5


6
Các công trình khoa học trên đây tuy tiếp cận HTCT từ nhiều cách, nhiều góc
độ khác nhau, song tựu chung lại, đều nghiên cứu, khảo sát, phân tích, khái quát những
vấn đề căn cốt của HTCT với những mức độ khác nhau. Qua những công trình đó, có
thể tổng quan lại những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra
những định nghĩa theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp HTCT. Những dấu hiệu, nội hàm
cơ bản của khái niệm HTCT, HTCTCS được nhận thức ngày càng sâu sắc, toàn
diện hơn, góp phần nhận thức và chỉ đạo hiệu quả việc đổi mới, hoàn thiện HTCT
các cấp ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, các nhà khoa học đã tập trung phân tích cấu trúc, đặc điểm, các

nhân tố chế định và vị trí, vai trò của HTCT trên thế giới nói chung; những nét đặc
thù của HTCT và HTCTCS ở nước ta nói riêng. Trên cơ sở đó, giúp chúng ta tiếp
thu những giá trị hợp lý mô hình tổ chức và hoạt động của HTCT các nước trên thế
giới làm cho tổ chức và hoạt động của HTCT của chúng ta hiệu quả hơn.
Thứ ba, các nhà khoa học đã khảo sát, phân tích thực trạng HTCT Việt Nam
hiện nay, vạch ra những tích cực và hạn chế, bất cập, những bức xúc nổi cộm và
nguyên nhân của nó. Trên cơ sở khoa học và những luận cứ xác đáng đó, các công
trình khoa học đề xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu củng cố,
đổi mới và hoàn thiện HTCT Việt Nam hiện nay đáp ứng những yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
* Nhóm công trình khoa học trực tiếp nghiên cứu HTCTCS ở từng địa
bàn cụ thể của đất nước và tác động của nó đến các lĩnh vực của đời sống xã
hội, bao gồm: Trần Trọng Chính (1999), Đổi mới hệ thống chính trị cấp xã
nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động ở nông thôn Thái Bình
hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội; Cấn Thị Dung (2003), Hệ thống
chính trị ở cơ sở nông thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay luận văn thạc
sĩ chính trị học, Hà Nội; Đào Quang Ninh (2005), Phát huy vai trò hệ thống

6


7
chính trị cơ sở trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta
ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội; Trần Đức Luân
(2006), Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Hà Nam trong thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội; Đỗ Thị Thạch và
Phạm Thành Nam (chủ biên), (2006), Hệ thống chính trị cơ sở với việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân hiện nay, Nxb Lý luận Chính trị, Hà
Nội; Đinh Văn Thành (2009), Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Đồng Nai đấu
tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo gây mất ổn định

chính trị - xã hội hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội; Đặng Thanh
Nam (2010), Bộ đội địa phương tỉnh Cà Mau tham gia xây dựng hệ thống
chính trị cơ sở hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội…Ngoài ra, còn có
các bài báo khoa học có liên quan đến HTCT và HTCHCS như: Phạm Ngọc
Quang (1996), Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy hơn nữa
quyền làm chủ của nhân dân lao động, Tạp chí Triết học, số 3; Đặng Đình
Tân (2002), Chính quyền cấp xã - những vấn đề đặt ra hiện nay, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội, Đặc san số 3...
Trong những công trình khoa học nêu trên, các tác giả đi từ quan điểm,
phương pháp nghiên cứu tổ chức và hoạt động của HTCTCS để từ đó trình bày
khái niệm HTCTCS, những bộ phận hợp thành; khảo sát thực trạng HTCTCS ở
các địa bàn; xác định phương hướng và giải pháp đổi mới và nâng cao chất
lượng HTCTCS ở các địa bàn; phát huy vai trò của HTCTCS trong thực hiện
các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng và an ninh hiện nay.
Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào dành riêng nghiên
cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống về Hệ thống chính trị cơ sở
huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay. Vì vậy, đề tài luận văn mà tác giả
đã lựa chọn là đề tài độc lập, không trùng lặp với các luận văn, luận án,
công trình khoa học đã được công bố.

7


8
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về
HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay, tác giả đề xuất yêu cầu
và giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh
Yên Bái hiện nay vững mạnh toàn diện.

*Nhiệm vụ:
- Luận giải rõ những vấn đề cơ bản về lý luận HTCTCS huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của HTCTCS huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay.
- Xác định yêu cầu, đề xuất giải pháp chủ yếu tiếp xây dựng HTCTCS
huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay vững mạnh toàn diện.
* Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức và hoạt động của HTCTCS huyện
Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu khảo sát thực trạng tổ chức và hoạt
động của HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái từ năm 2002 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về HTCT, HTCTCS.
* Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn tổ chức và hoạt động của HTCTCS
huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái từ năm 2002 đến nay qua nghiên cứu,
điều tra, khảo sát của tác giả và qua k ế thừa các tư liệu, báo cáo tổng
kết, các nghị quyết của Tỉnh ủy Yên Bái v à Huy ện ủy Yên Bình có liên
quan đến tổ chức và ho ạt động HTCTCS và k ết quả khảo sát của các
công trình khoa học đã được công bố liên quan đến vấn đề này.

8


9
* Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử với nguyên tắc
khách quan, to àn di ện, lịch sử, cụ thể và phát tri ển; tác giả sử dụng
một số phương pháp cơ bản như: phương pháp phân tích, tổng hợp,
kết hợp lịch sử với lôgíc, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội

học và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần làm cơ sở để HTCT các cấp ở tỉnh Yên Bái
nghiên cứu, vận dụng trong xây dựng HTCTCS nói chung và HTCTCS
huyện Yên Bình nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề liên quan đến HTCT, HTCTCS ở các
nhà trường trong và ngoài Quân đội; làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ
cơ sở hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần mở đầu, 2 chương (4tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.

9


10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CƠ SỞ HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY
1.1. Hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - một số
vấn đề lý luận
1.1.1. Quan niệm hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
* Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện
nay
Đặc điểm về tự nhiên
Yên Bình là huyện miền núi nằm ở phía Đông Nam tỉnh Yên Bái. Trung
tâm huyện cách thành phố Yên Bái 8km về phía Đông Nam, cách thủ đô Hà Nội
170km về phía Tây Bắc, phía Đông Nam giáp huyện Đoan Hùng và huyện Hạ
Hòa của tỉnh Phú Thọ, phía Tây Nam giáp thành phố Yên Bái, phía Tây Bắc giáp

thành phố Yên Bái, huyện Trấn Yên và huyện Văn Yên, phía Đông Bắc giáp
huyện Hàm Yên của tỉnh Tuyên Quang, phía Bắc giáp huyện Lục Yên của tỉnh.
Trên địa bàn có tuyến quốc lộ 70 từ Hà Nội đi Yên Bái và Lào Cai chạy qua
trung tâm và một số xã của Huyện.
Diện tích tự nhiên của huyện Yên Bình hiện nay là 77.319,67 ha trong đó diện
tích đất nông nghiệp có 57.690,43 ha chiếm 74,61% tổng diện tích tự nhiên. Yên
Bình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ trung bình hàng năm là
22,90C; lượng mưa bình quân hàng năm là 2.121,2mm, số ngày mưa trung bình là
136 ngày, tập trung từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Độ ẩm trung bình là 37%. Do
đặc điểm là huyện có diện tích mặt nước nhiều (hồ Thác Bà trên 15.000 ha) nên khí
hậu vùng này mang tính chất vùng hồ: mùa đông ít lạnh, mùa hè mát mẻ, thuận lợi
cho việc phát triển nông, lâm nghiệp, ngư nghiệp, phát triển du lịch dịch vụ.
Về thổ nhưỡng, Yên Bình có nhiều loại đất, trong đó có nhóm đất đỏ
vàng (Feralit) chiếm 61% diện tích trong huyện có khả năng phát triển cây
công nghiệp, cây lương thực và phát triển đồng cỏ để chăn nuôi đại gia súc.

10


11
Nhóm đất dốc tự phân bổ rải rác ở các thung lũng sông, suối có khả năng cải
tạo thâm canh trồng cây lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày.
Nhóm đất phù sa phân bố dọc hai bên bờ sông Chảy có đặc tính độ phì nhiêu
đáp ứng được yêu cầu sản xuất các loại cây màu và cây lương thực.
Các tài nguyên thiên nhiên của huyện khá phong phú, có trữ lượng khá
lớn; ngoài tài nguyên nước và tài nguyên rừng còn kể đến một số khoáng sản:
đá vôi có độ trắng cao, đá vôi vật liệu xây dựng, chì, kẽm, pyrit, cao lanh;
ngoài ra có đá quý, bán đá quý và các loại cát, quặng vàng, than nâu...
Tóm lại, huyện Yên Bình thuộc tỉnh Yên Bái là địa phương có nhiều lợi thế
so sánh về vị trí địa lý so với các huyện khác trong tỉnh Yên Bái, là đầu mối giao

lưu kinh tế quan trọng của tỉnh Yên Bái giữa Lào Cai với Hà Nội, là cửa ngõ của
vùng Tây Bắc, rất thuận lợi để phát triển kinh tế dịch vụ.
Đặc điểm kinh tế - xã hội
Yên Bình có dân số 107.398 người, lực lượng lao động xã hội 45.037
người, trong đó lực lượng lao động nông thôn chiếm 76,5%. Trên địa bàn huyện
có 5 dân tộc cư trú, dân tộc Kinh chiếm 58%, dân tộc Tày chiếm 17%, dân tộc
Dao chiếm 14%, dân tộc Cao Lan (Sán Chay) chiếm 7%, dân tộc chiếm Nùng 3%
tổng dân số của huyện và các dân tộc khác như: dân tộc Thái, dân tộc Mường...
Trong đó, người Kinh di cư đến địa phương từ thế kỷ XII, mang theo những
đặc trưng văn hoá của miền châu thổ đồng bằng và trung du Bắc Bộ; người
Nùng di cư từ Vân Nam - Trung Quốc đến địa phương khoảng 200 - 300 năm
trước, còn lại là các dân tộc bản địa. Mật độ dân cư bình quân toàn huyện là 139
người/Km2, nhìn chung sự phân bố dân cư không đồng đều, tập trung chủ yếu ở
các xã hạ huyện và thị trấn huyện lỵ, riêng xã vùng cao Xuân Long chỉ có 49,1
người/km2. Đồng bào các dân tộc trong huyện đoàn kết, cần cù lao động, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

11


12
Về tôn giáo, tín ngưỡng, cư dân trên đất Yên Bình chịu ảnh hưởng của
các loại tôn giáo sớm muộn có khác nhau. Đạo Phật có ảnh hưởng mạnh tới
địa phương sớm nhất vào thời Trần. Đến thế kỷ XVII, khi Vũ Văn Mật mở
trường dạy học và lập văn chỉ ở Đại Đồng thì đạo Khổng mới bắt đầu du nhập
vào Yên Bình. Người Tày thờ Khổng Tử tại bàn thờ tổ tiên cùng phật bà
Quan âm trong nhà hoặc xây dựng các điện Phật trên đỉnh đèo có bóng cây
râm mát, tĩnh mịch. Người Dao rất tôn sùng đạo Lão. Công giáo du nhập vào
Yên Bình từ năm 1647 khi Linh mục Gabral lập nhà thờ ở Đại Đồng. Trải qua
một quá trình khá dài, giáo sứ Yên Bình đã lập nên xứ đạo Vật Lẩm có 22 họ

giáo và xứ đạo Đồng Lạng có 6 họ giáo. Hiện tại, Công giáo tập trung ở một
số xã hạ huyện và dọc quốc lộ 70 với những hoạt động tôn giáo phức tạp.
Huyện Yên Bình vốn giàu lòng yêu nước và truyền thống cách mạng vẻ
vang. Người dân Yên Bình vô cùng tự hào đã từng đứng trong đội quân của
Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật giữ trại Thu Vật trước cuộc xâm lăng của
giặc Nguyên - Mông; trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Yên Bình
là một trong những nơi cao trào của cuộc khởi nghĩa Yên Bái; nhất là khi có
Đảng, truyên thống đó được nâng lên tầm cao mới. Đó là những tiền đề vô cùng
quý báu cho việc xây dựng HTCTCS huyện Yên Bình vững mạnh.
Hiện nay, toàn huyện có 79 trường học với gần 900 lớp học từ ngành học
mầm non đến phổ thông trung học, tổng số học sinh hàng năm có khoảng 25.000
em, chiếm 24% tổng dân số. Năm 1995 toàn huyện đã cơ bản hoàn thành xoá mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Hiện có 25/26 xã được công nhận đạt chuẩn
quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 26/26 xã, thị trấn được công
nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập trung học cơ sở. Huyện có một bệnh viện
trung tâm, 3 phân viện - phòng khám khu vực (Thác Bà, Cẩm Nhân và Cẩm Ân)
và 26 trạm y tế cơ sở xã, thị trấn, bình quân 1 vạn dân có 3,2 bác sỹ.

12


13
Về cơ cấu kinh tế, đã chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông, lâm
nghiệp chiếm 13,5%; công nghiệp - xây dựng chiếm 74%; thương mại - dịch vụ
chiếm 12,5%; tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm bình quân đạt 14%; thu nhập
bình quân đầu người năm 2010 đạt 15,5 triệu đồng; tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chuẩn
mới “giảm từ 30,83% năm 2005 xuống còn 5,83% năm 2010”[26, tr. 6].
Về kết cấu hạ tầng nông thôn: toàn huyện có 422 công trình thuỷ lợi lớn nhỏ
đang sử dụng khai thác, trong đó có 107 công trình kiên cố, 35 công trình tạm, hàng
năm đáp ứng khoảng 75% nhu cầu tưới tiêu. Trên địa bàn có 56km quốc lộ, 93,5km

tỉnh lộ và gần 400km đường liên xã, liên thôn, 100% số xã đã có đường ô tô đến
trung tâm xã. Ngoài ra, trên địa bàn còn có các tuyến đường thuỷ quan trọng trên
lòng hồ Thác Bà, nối liền các xã, thị trấn ven hồ. Mạng lưới điện quốc gia đã được
phủ hết 26/26 xã, thị trấn. Về thông tin liên lạc, hiện tại trên địa bàn huyện đã có
26/26 xã, thị trấn có điện thoại, 26/26 xã, thị trán đã xây dựng được điểm bưu điện
văn hoá, bình quân 10 máy điện thoại cố định/100 người dân. Toàn huyện có trên
99% số dân được sử dụng điện; 96% diện tích được phủ sóng phát thanh, truyền
hình.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế - xã
hội, song huyện còn nhiều khó khăn: Kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, giao
thông đi lại khó khăn do bị chia cắt bởi hồ Thác Bà. Diện tích đất canh tác nông
nghiệp có ít, công nghiệp địa phương phát triển chưa mạnh. Trình độ dân trí
không đồng đều giữa các dân tộc, tập quán canh tác, tập quán sinh hoạt vẫn còn
lạc hậu, đời sống của một bộ phân nhân dân còn gặp nhiều khó khăn.
Những đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội trên đã tác động đến HTCT
mà đặc biệt là đến tổ chức và phương thức hoạt động của toàn bộ HTCTCS
huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, cũng như từng thành viên trong hệ thống đó.
* Hệ thống chính trị
Trước đây, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin không dùng
thuật ngữ HTCT mà chỉ dùng thuật ngữ “hệ thống chuyên chính vô sản”[28, tr.

13


14
250] và các ông nhấn mạnh: trong xã hội có giai cấp bất cứ giai cấp cầm quyền
nào cũng tổ chức ra bộ máy nhà nước để duy trì sự thống trị của mình đối với
xã hội. Theo đó, khi giai cấp công nhân tiến hành cách mạng vô sản giành
thắng lợi tất yếu sẽ tổ chức ra hệ thống quyền lực của mình đối với xã hội đó là
hệ thống chuyên chính vô sản.

Hệ thống chính trị XHCN ở Việt Nam được thiết lập sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Đó là chế độ dân chủ nhân dân, với sự ra đời
của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và các tổ chức chính trị- xã hội của
nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng tiến trình
phát triển của cách mạng, HTCT ở nước ta ngày càng được củng cố và kiện
toàn, mang bản chất giai cấp công nhân. Các nhà kinh điển chủ nghĩa MácLênin khẳng định: Chuyên chính vô sản là sự thống trị về chính trị của giai
cấp công nhân đối với toàn bộ xã hội, do cách mạng vô sản sinh ra và có sứ
mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đưa nhân
dân lao động lên địa vị làm chủ trên rất cả mọi mặt đời sống xã hội. Theo ý
nghĩa đó, Đảng ta sử dụng khái niệm HTCT XHCN thực chất xét về mục
đích, chức năng, nhiệm vụ là thống nhất với khái niệm chuyên chính vô sản
trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Ở nước ta,
khái niệm HTCT lần đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (năm 1990). Theo đó, HTCT là một
chỉnh thể bao gồm toàn bộ những tổ chức chính trị - xã hội (Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các đoàn thể nhân dân)
hoạt động hợp pháp cùng với cơ chế chính trị đảm bảo quyền lực thực tế của
nhân dân lao động. Nói cách khác, HTCT XHCN là toàn bộ những thiết chế, cơ
chế của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân
lao động, do đảng cộng sản lãnh đạo, nhà nước XHCN quản lý thực hiện chức

14


15
năng cơ bản là xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
Đến nay thuật ngữ HTCT đã được sử dụng phổ biến: “Hệ thống chính trị
là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết
chế có quan hệ với nhau mục đích, chức năng trong việc thực hiện, tham gia

thực hiện quyền lực chính trị hoặc đưa ra các quyết định chính trị”[12, 167].
“Hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội là một chỉnh thể bao gồm nhiều tổ
chức chính trị, trong đó có nhà nước XHCN (nhà nước chuyên chính vô sản),
đảng cộng sản, cùng các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp và mối quan hệ qua
lại giữa các yếu tố đó nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân”[25, 263].
* Hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
Những vấn đề trên, hạn định vào huyện Yên Bình, có thể quan niệm: Hệ
thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là một chỉnh thể thống nhất bao
gồm toàn bộ các thiết chế chính trị - xã hội hợp pháp cấp cơ sở - xã, phường và thị
trấn (gồm tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân) ở huyện Yên Bình, tỉnh
Yên Bái và thể chế quy định về tổ chức và hoạt động giữa các tổ chức đó nhằm thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
Xét về mặt cấu trúc HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái bao gồm hai
bộ phận cơ bản:
Thứ nhất, các thiết chế trong hệ thống chính trị cơ sở
Hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Yên Bình bao gồm các thiết chế (tổ chức)
hợp pháp, có quan hệ về mục đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện
quyền lực chính trị ở cơ sở. Mỗi thành tố hợp thành trong HTCT cơ sở có vị trí,
vai trò, chức năng khác nhau được tổ chức, hoạt động theo những nguyên tắc nhất
định và gắn bó hữu cơ với nhau. Các tổ chức đó bao gồm: tổ chức cơ sở đảng,
chính quyền cơ sở (HĐND, UBND), Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

15


16
Tổ chức cơ sở đảng (đảng bộ cơ sở) huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái: là hạt
nhân lãnh đạo toàn diện các mặt công tác ở cơ sở huyện Yên Bình, nắm vững
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng đảng là then chốt, chăm lo xây

dựng chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm sự phối hợp chặt
chẽ các tổ chức trong hệ thống chính trị hướng vào phục vụ nhân dân, đưa đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi người dân và tổ chức
thực hiện tốt ở cơ sở, phản ánh và giải đáp mọi tâm tư nguyện vọng của nhân dân,
khơi dậy trí tuệ và nguồn lực của dân, không ngừng nâng cao trình độ dân sinh,
dân trí, dân chủ ở cơ sở huyện Yên Bình.
Chính quyền cơ sở: Bao gồm HĐND và UBND xã, thị trấn ở huyện Yên
Bình. HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương huyện Yên Bình, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương huyện Yên Bình bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ
quan Nhà nước cấp trên. HĐND thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương.
Đồng thời, phát huy quyền chủ động sáng tạo của địa phương. HĐND có hai chức
năng cơ bản là quyết định và giám sát trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ
sở. UBND cấp xã là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính Nhà nước
ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của
cơ quan Nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp. UBND có chức năng
nhiệm vụ là thực hiện quản lý Nhà nước toàn diện trên địa bàn, tổ chức thực hiện
những nghị quyết và quyết định của HĐND cùng cấp ở cơ sở.
Các đoàn thể nhân dân hay các tổ chức chính trị - xã hội ở huyện Yên Bình:
Các đoàn thể nhân dân trong HTCT cơ sở bao gồm Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
huyện Yên Bình có chức năng chủ yếu là tập hợp, củng cố, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân, tạo sự nhất trí về chính trị, tinh thần của nhân dân; tuyên truyền vận

16


17
động nhân dân địa phương phát huy quyền làm chủ thực sự của mình trong thực

hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước trên địa bàn; bảo vệ, đại diện cho quyền lợi, ý chí của quần chúng, đại diện
cho họ trong việc tham gia xây dựng và giám sát đảng, chính quyền, tập hợp những
kiến nghị của nhân dân để phản ánh với đảng và cơ quan Nhà nước cấp trên; chăm
lo, bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ chính đáng của nhân dân. Đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay trước yêu cầu của công cuộc dân chủ hoá đời sống xã hội và yêu cầu của
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc còn có
một chức năng quan trọng đó là chức năng phản biện xã hội, thực hiện quyền
giám sát việc đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các mục
tiêu xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội và trong thực hiện dân chủ XHCN ở cơ sở
của tổ chức đảng, chính quyền địa phương... Từ đó, kiến nghị với tổ chức đảng,
chính quyền cơ sở điều chỉnh cho phù hợp.
Thứ hai, các thể chế của hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên
Bái
Mỗi bộ phận hợp thành HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái có vị trí,
vai trò, chức năng khác nhau, song đều vận hành theo cơ chế tổ chức cơ sở đảng
lãnh đạo, tổ chức chính quyền cơ sở quản lý, nhân dân ở cơ sở làm chủ. Theo đó,
tổ chức cơ sở đảng ở huyện Yên Bình lãnh đạo, đề ra chủ trương, đường lối, định
hướng cho sự phát triển; chính quyền dùng các công cụ quản lý nhà nước để khơi
dậy sức mạnh của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân phát huy tính tích cực,
tính năng động, sáng tạo của mình; nhân dân tích cực tham gia vào công tác xây
dựng đảng, công việc quản lý xã hội của chính quyền, đồng thời giám sát hoạt
động của các cơ quan Đảng, Nhà nước với tư cách chủ nhân của xã hội... Cơ chế
chính trị đó bảo đảm cho sự vận hành của HTCTCS, phản ánh và giải quyết mối
quan hệ giữa HTCTCS với xã hội, với nhân dân, với HTCT cấp trên và giữa các
thành tố cấu thành HTCTCS với nhau.

17



18
Mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái: Xem xét mối quan hệ của HTCTCS huyện Yên Bình, thực
chất là xem xét mặt hoạt động của nó được thể hiện ở hệ thống các mối quan
hệ theo mục đích, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của
HTCTCS huyện Yên Bình cả chiều dọc và cả chiều ngang.
Mối quan hệ theo chiều dọc, là mối quan hệ giữa HTCTCS huyện Yên
Bình với HTCT huyện Yên Bình và tỉnh Yên Bái trong hệ thống hành chính
bốn cấp ở nước ta và mối quan hệ của từng tổ chức, thiết chế theo hệ thống
dọc (từ trên xuống và từ dưới lên). Đây là mối quan hệ giữa lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý và phục tùng; đồng thời, là mối quan hệ tác động và ảnh hưởng
qua lại giữa các thành tố - thiết chế cấu thành HTCTCS huyện Yên Bình với
nhân dân huyện.
Mối quan hệ theo chiều ngang, là mối quan hệ qua lại giữa các thành tố
- thiết chế cấu thành HTCTCS huyện Yên Bình theo chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của từng thiết chế trong hệ thống; bao gồm các quan hệ: giữa tổ
chức đảng và chính quyền cơ sở Huyện; giữa tổ chức Đảng với các đoàn thể
nhân dân ở cơ sở Huyện; giữa chính quyền và các đoàn thể nhân dân
Huyện…
Nh vËy, cơ chế là sự vận hành tổng hợp của các yếu tố trong một sự vật
theo một nguyên tắc nhất định, để sự vật đó tồn tại và phát triển đúng như bản
chất vốn có của nó. Sự vận hành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” là bảo đảm mở rộng và thực thi có hiệu quả nền dân chủ
XHCN, làm cho mọi quyền lực xã hội đều thuộc về nhân dân.
1.1.2. Đặc điểm hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
Theo Nghị định số 87/2008/NĐ-CP của Chính phủ về ban hành điều chỉnh
địa giới hành chính, huyện Yên Bình có 26 đơn vị hành chính cấp cơ sở gồm 24
xã và 2 thị trấn (1 thị trấn trung tâm huyện lỵ), trong đó có 1 xã vùng cao và 6 xã

18



19
đặc biệt khó khăn, với 252 thôn và 31 tổ dân phố. HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh
Yên Bái có “26 Đảng bộ cơ sở, với 4144 đảng viên chiếm 85,82% đảng viên
trong toàn huyện”[3, tr. 1]. Có 26 HĐND, tương ứng có 26 UBND cấp xã; mỗi
thôn và tổ dân phố đều có tổ đại biểu HĐND; mỗi xã, thị trấn trong huyện đều
được thành lập MTTQ và các tổ chức đoàn thể chính trị; ở mỗi thôn và tổ dân phố
đều có ban công tác Mặt trận, Chi đoàn Thanh niên, Chi hội phụ nữ, Hội nông
dân, Hội Cựu chiến binh. Đồng thời, hàng năm UBND xã tổ chức cho đại diện
nhân dân bầu trực tiếp trưởng thôn và tổ trưởng tổ dân phố, để quản lý, điều hành
cộng đồng dân cư.
Một là, cũng như HTCTCS ở Việt Nam nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng
HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là cấp thấp nhất trong bộ máy hành chính
nước ta; có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên chế được hưởng sinh hoạt phí
thấp nhất; là cấp trực tiếp nhất chịu sự giám sát, đánh giá của nhân dân.
HTCTCS huyện Yên Bình là cấp thấp nhất xét theo khía cạnh quan hệ thứ bậc
mang tính pháp lý của chỉnh thể HTCT duy nhất thống nhất ở nước ta hiện nay.
Song, nếu xét theo khía cạnh thực thi mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước thông qua cấp tỉnh đến cấp huyện và đến cấp cơ sở ở huyện Yên Bình thì
đây lại là cấp không kém phần quan trọng. Bởi vì, mọi đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước cuối cùng có thực hiện được hay không lại là ở cơ sở.
HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên
chế được hưởng sinh hoạt phí thấp nhất. Theo các quy định hiện hành thì
HTCTCS được biên chế và hưởng sinh hoạt phí không quá 25 người nên chi phí
thấp. Tuy bộ máy tổ chức đơn giản nhất nhưng vận hành bộ máy khá phức tạp.
Bởi nó bị ảnh hưởng không chỉ bởi các yếu tố hành chính mà còn các yếu tố dòng
họ, gia tộc, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, truyền thống… HTCTCS huyện Yên Bình
cấp trực tiếp nhất chịu sự chi phối, đánh giá của nhân dân trong Huyện. Bởi vì,
đây là cấp đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những


19


20
mâu thuẫn, thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống dân cư, mọi
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước quán triệt, triển khai đến dân đều qua
cấp cơ sở. Vì vậy, HTCTCS huyện Yên Bình là cấp gần dân nhất và thể hiện tính
nhân dân một cách rõ ràng, trực tiếp nhất.
Hai là, HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái được tổ chức, hoạt động trên
địa bàn chia cắt bởi đồi núi cao và sông hồ. Đây là một đặc điểm đặc thù của
HTCTCS huyện Yên Bình so với các huyện trong tỉnh Yên Bái và các tỉnh khác ở
Tây Bắc. Địa hình của huyện Yên Bình khá phức tạp, với đặc điểm địa hình chuyển
tiếp từ trung du lên miền núi, cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc; Yên Bỡnh cú nỳi
Cao Biền nằm phớa tả ngạn sụng Chảy (phớa Đông hồ Thác Bà) và núi Con Voi
nằm phía hữu ngạn sông Chảy (phía Tây hồ Thác Bà). Trên địa bàn huyện có sông
Chảy (sông Trôi, sông Đạo Ngạn) cùng với hệ thống suối, ngòi lớn nhỏ như ngòi
Hành, ngòi Tráng, ngòi Bích Đà, ngòi Lòi, ngòi Dầu, ngòi Cát, ngòi Úc, ngòi
Biệc... chảy tựu lại tạo thành hồ Thác Bà với với diện tích 23.400ha, trong đó mặt
nước chiếm tới 19.000ha, còn lại 1.331 hòn đảo lớn nhỏ, chiều dài của hồ là 80 km,
chiều rộng từ 5-15km, sâu từ 15-34m, chứa được 3-3,9 tỷ mét khối nước. Với địa
hình phức tạp như vậy đã đặt ra những khó khăn trong việc tổ chức và hoạt động
của HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái với tính cách là một chỉnh thể thống
nhất.
Ba là, HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái vừa phải lãnh đạo, tổ chức
quản lý phát triển kinh tế, vừa phải quan tâm giải quyết vấn đề tôn giáo khá phức
tạp trên địa bàn. Huyện là nơi duy nhất được tỉnh Yên Bái quy hoạch khu công
nghiệp lớn của tỉnh (khu công nghiệp phía Nam), cũng là nơi đầu tiên của miền
Bắc có công trình thủy điện đầu tiên - thủy điện Thác Bà. Do đó, huyện xác định
cơ cấu kinh tế của địa phương là nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và

du lịch; coi sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp là ngành kinh tế trọng yếu, sản xuất

20


21
công nghiệp và dịch vụ là thế mạnh và mũi nhọn trong phát triển nền kinh tế của
huyện Yên Bình và của cả tỉnh Yên Bái.
Ở cơ sở huyện Yên Bình có nhiều tôn giáo tồn tại, trong đó vấn đề hoạt
động của Công giáo khá phức tạp. Thời gian qua, lợi dụng chính sách tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, đạo Công giáo đã có nhiều âm mưu
và hành động chống phá chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết trên địa bàn
huyện. Điển hình, năm 2002, dưới sự chỉ đạo của Va-ti-căng, giáo sứ Làng Mới
thuộc xã Mông Sơn tung tin máu chảy trên tượng Đức mẹ Maria gây mất an
ninh trật tự trên địa bàn. Năm 2011, lợi dụng cuộc bầu cử Quốc hội khóa XIII và
HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011-2016, dưới sự chỉ đạo của giáo phận Yên Bái,
linh mục nhà thờ Mông Sơn, Vũ Linh đã vận động giáo dân không bỏ phiếu cho
các ứng cử viên là đảng viên và kích động giáo dân phá hoại cuộc bầu cử này
gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Huyện.
Như vậy, trước yêu cầu cao của nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và giải
quyết hiệu quả vấn đề tôn giáo trên địa bàn đã đặt ra những nhiệm vụ khó khăn,
thử thách lớn cho HTCTCS huyện Yên Bình. Đây chính là sự thể hiện rõ chức
năng xây dựng và bảo vệ của HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay.
Bốn là, HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái có đội ngũ cán bộ, công
chức có trình độ học vấn, chuyên môn và nghiệp vụ tuy đã được nâng lên,
nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ của HTCTCS chưa
được chuyên môn hoá, ít được đào tạo cơ bản và họ cũng còn nặng tâm lý ngại
học tập lý luận và chuyên môn nghiệp vụ theo xu hướng tâm lý “quan nhất
thời, dân vạn đại”. Phần lớn những người được đào tạo cơ bản cả về lý luận và
chuyên môn nghiệp vụ đều tìm cách thoát ly khỏi cấp cơ sở xã, thị trấn.

Nhìn chung chất lượng đội ngũ cán bộ công chức trong HTCTCS huyện Yên
Bình, tỉnh Yên Bái có trình độ học vấn và lý luận chính trị thấp, cán bộ chủ chốt là
dân tộc ít người chiếm tỷ lệ cao so với một số huyện lân cận. Chất lượng đội

21


22
ngũ cán bộ, công chức cấp xã của HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
không đồng đều, có nhiều cán bộ không chuyên nghiệp và ít được đào tạo,
trình độ văn hoá, lý luận, chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, cụ thể: “Tổng cán
bộ chủ chốt và công chức cấp xã là 493 người; trong đó, trình độ giáo dục phổ
thông: tiểu học 01, trung học cơ sở 130, trung học phổ thông 362; trình độ
chuyên môn nghiệp vụ: sơ cấp 13, trung cấp 208, cao đẳng - đại học 69; trình
độ lý luận chính trị: sơ cấp 74, trung cấp 293, cao cấp-cử nhân 02”[3, tr. 2]. Là
huyện miền núi, đồng bào dân tộc ít người chiếm 42% dân số toàn huyện; vì
vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt và công chức cấp xã là dân tộc thiểu số chiếm tỷ
lệ cao. Chỉ tính riêng ủy viên đảng ủy của 26 đảng bộ xã, thị trấn nhiệm kỳ
2010-2015 “đảng ủy viên là dân tộc ít người chiếm tỷ lệ 39,81% ; trong đó
Đảng bộ các xã: Xuân Long, Ngọc Chấn, Tích Cốc, Cảm Nhân, Phúc Ninh,
Mỹ Gia, Xuân Lai, Yên Thành tỷ lệ từ 77,78 - 92,31%”[4, tr. 2 - 27]. Thực tiễn
cho thấy, trình độ văn hoá và chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ dân
tộc thiểu số rất hạn chế lại chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi các phong tục tập quán,
luật tục lạc hậu của dân tộc mình đã tạo ra lối làm việc theo tư duy đơn giản,
máy móc hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần túy, thiếu năng động trong suy nghĩ
giải quyết công việc; tư tưởng tự ti, ảnh hưởng tâm lý tập quán cũ… cũng tác
động rất nhiều đến việc hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ chủ chốt, đến tổ
chức và phương thức hoạt động của HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
Đây là một thực tế đòi hỏi phải nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ
xã, thị trấn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Năm là, quan hệ dân tộc, quan hệ dòng họ, cục bộ địa phương tác động sâu sắc
đến tổ chức và hoạt động của HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Các thiết chế
truyền thống của các dân tộc thiểu số cũng tác động và ảnh hưởng không ít đến việc
hình thành, phát triển đội ngũ cán bộ và phương thức hoạt động của HTCTCS
huyện Yên Bình. Hiện nay, các thiết chế xã hội truyền thống của các dân tộc ít
người của huyện rất đa dạng như: “Thổ ty” của người Tày, “Phìa - Tạo” của người

22


23
Thái, và chế độ nhà Lang đối với người Mường... còn tác động tiêu cực đến tổ
chức, vận hành và điều hòa các quan hệ của HTCTCS đó là: Tổ chức xã hội truyền
thống mang tính khép kín, tự cung, tự cấp; phong tục tập quán lạc hậu, tâm lý dân
tộc tác động đến tư tưởng lối sống, lối làm việc.
Hệ thống chính trị cơ sở là cấp mà quan hệ dân tộc, dòng họ, cục bộ địa phương
tác động mạnh, có ảnh hưởng đáng kể đến tổ chức và hoạt động của HTCTCS ở huyện
miền núi Yên Bình. Trong quan hệ với dân, cán bộ cơ sở miền núi có thể bị chi phối, ràng
buộc rất lớn bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối
sống làng xã theo kiểu “một người làm quan cả họ được nhờ” hoặc “chi bộ họ ta”…
1.2. Thực trạng hệ thống chính trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
hiện nay
1.2.1. Những thành tựu về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị cơ sở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái hiện nay và nguyên nhân
* Những thành tựu
Về tổ chức và hoạt động của tổ chức cơ sở đảng
Một là, các tổ chức cơ sở đảng trong HTCTCS huyện Yên Bình, tỉnh Yên
Bái đã được kiện toàn đầy đủ. Từ chỗ còn chi bộ ghép, đến nay, 100% các thôn,
tổ dân phố đều có chi bộ. Các tổ chức cơ sở đảng bảo đảm đủ cơ cấu số lượng,
bước đầu hoạt động có hiệu quả, phát huy tốt vai trò là hạt nhân lãnh đạo mọi

lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở.
Hai là, công tác cán bộ của cấp uỷ đảng ở cơ sở bước đầu đã có
chuyển biến tích cực. Hiện nay đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn của
huyện là 188 đồng chí, bảo đảm có cơ cấu tương đối phù hợp. Trong đó, “cán
bộ là người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 42,02%; độ tuổi bình quân là 47,50
tuổi; cán bộ chủ chốt là người dân tộc thiểu số chiếm 8,51%”[3, tr. 1] trong
khi đó người dân tộc thiểu số chiếm 42,00% tổng dân số của toàn huyện.
Các cấp uỷ đảng đã tích cực triển khai và thực hiện có hiệu quả Đề án 64 của
Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch, đào tạo, sử

23


24
dụng cán bộ và gắn với luân chuyển cán bộ theo Nghị quyết số 11 của Bộ Chính trị
và kết luận TW6 về công tác tổ chức cán bộ. “Trên cơ sở quy hoạch cán bộ theo
phương án A1, A2, A3 của giai đoạn 2010-2015, đã làm tốt công tác nhân sự và kịp
thời kiện toàn các chức danh cán bộ chủ chốt sau đại hội cấp cơ sở. Từ đầu nhiệm
kỳ đến nay đã mở 01 lớp trung cấp lý luận chính trị; 15 lớp cấp sơ cấp lý luận chính
trị; 31 lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ cho 740 bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở và 01
lớp đại học nông nghiệp (hệ tại chức) cho cán bộ xã, thị trấn của huyện”[26, tr. 10].
Huyện Yên Bình hiện có 26 tổ chức cơ sở đảng ở xã, thị trấn. Trong
đó, có 24 xã và 02 thị trấn, với 26 đảng bộ cơ sở, 100% tổ dân phố và thôn có
chi bộ, đảng viên chiếm 85,82% đảng viên trong toàn huyện. Thực hiện Điều
lệ Đảng và các nghị quyết Trung ương khoá VII,VIII, nhất là Nghị quyết hội
nghị Trung ương 3 (khoá VII), Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khoá
VIII và Quy định số 94/QĐ-TW, số 95/QĐ-TW ngày 03 tháng 3 năm 2004 của
Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ xã, phường, thị trấn
đã cụ thể hoá thành các quy chế hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
lãnh đạo trong điều kiện mới.

Ba là, đại đa số cán bộ làm công tác đảng ở cơ sở có phẩm chất chính trị và
đạo đức, lối sống tốt, vững vàng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Đại
đa số cán bộ làm công tác đảng luôn trung thành với đường lối chính sách của
Đảng, có tinh thần trách nhiệm cao, làm việc có hiệu quả, nhất là trong công tác
thuyết phục, tập hợp và vận động đồng bào các dân tộc thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phát huy và giữ vững đoàn kết dân
tộc, đoàn kết lương giáo, đề cao tinh thần đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng. Đồng thời, họ tiếp
tục giữ gìn và phát huy được tư cách đảng viên, tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống
lành mạnh, luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ, thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình,
trung thực với Đảng. Các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên ở cơ sở đã tăng cường

24


25
mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Kết quả phân loại
đảng viên năm 2010 chứng minh điều đó: “Đảng viên có 11,77% đảng viên đủ tư
cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; 80,20% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt
nhiệm vụ; và 8,03% đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ”[2, tr. 1].
Bốn là, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ làm công tác đảng ở
cơ sở cơ bản đã qua đào tạo đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Chỉ tính riêng đội
ngũ cán bộ chủ chốt thì: Bí thư đảng ủy có 5/26 đồng chí có trình độ cao cấp,
2/26 đồng chí có trình độ trung cấp, 1/26 đồng chí có trình độ cao cấp, còn 18/26
có trình độ sơ cấp; phó bí thư đảng ủy có 4/50 đồng chí có trình độ sơ cấp, 45/50
đồng chí có trình độ trung cấp, 1/50 đồng chí có trình độ cao cấp, cử nhân. Trình
độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác đảng viên hiện nay ở
các tổ chức đảng ở cấp cơ sở đã có những thay đổi theo hướng dần được nâng
cao. Như vậy, về cơ bản, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ làm công
tác đảng ở cơ sở huyện Yên Bình đã đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác

trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của huyện.
Năm là, vai trò hạt nhân chính trị của các tổ chức cơ sở đảng ở cơ sở
đã được thể hiện rõ hơn. Các tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo đối với chính
quyền và đoàn thể ở địa phương thực hiện tương đối tốt chức năng, nhiệm
vụ, hiệu lực, hiệu quả. Qua khảo sát, điều tra xã hội học cho thấy đã “có gần
62,67% số người được hỏi đánh giá tổ chức cơ sở đảng có vai trò quan
trọng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ”[48, phụ lục 5]. Còn thực tế khảo
sát 16/26 xã, thị trấn của huyện thực hiện mô hình bí thư kiêm chủ tịch
HĐND cho thấy, mô hình này đã phát huy hiệu quả trong tập trung quyền
lực, tinh giảm số lượng cán bộ lãnh đạo.
Sáu là, mối quan hệ giữa Đảng với chính quyền, đoàn thể nhất là với nhân
dân ngày càng được củng cố. Với ý thức trọng dân, tin dân, các tổ chức cơ sở
đảng ở cơ sở đã tổng hợp được nhiều ý kiến đóng góp của nhân dân đối với mỗi

25


×