Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tiểu luận Các học thuyết chính trị ở Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.7 KB, 21 trang )

I. DUY TÂN MẬU TUẤT VỚI VẤN ĐỀ CẢI CÁCH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO NHÂN TÀI
Trong chủ trương Duy tân của Khang Hữu Vi ta thấy ông đặc biệt chú ý
đến mặt cải cách giáo dục, đào tạo nhân tài, vấn đề nâng cao dân trí, bắt kịp với
thời đại. Khang Hữu Vi cùng với Lương Khải Siêu và những đại biểu Duy Tân
xem trọng vấn đề giáo dục, cải tạo tư duy; coi đó là cái nền cơ sở giúp cho sự tiến
bộ của Trung Quốc. Là đại biểu của kẻ sĩ, đại biểu của dân trí của kiến thức thời
đại, Khang Hữu Vi hiểu được vai trò tạo nên sự chuyển mình của một quốc gia.
Ông có câu nói nổi tiếng là “Thỏi tõy mạnh, cái gốc không phải là vũ khí kỹ thuật
mà là cách học của tri thức (kẻ sĩ) và tõn phỏp (tổ chức một xã hội mới). Ông
hướng tới Nhật với tâm gương tự cường có hiệu quả, đối với Trung Quốc dù là
đau lòng nhưng cũng sờ sờ ra đấy. Đó là cuộcchiến tranh Giáp Ngọ (1894-1895)
Nhật đánh bại Trung Quốc. Trung Quốc phải cắt đất Đài Loan. Bành Hồ và Liờu
Đụng cựng phải bồi thường đến 200.000.000 lạng bạc tương đương bằng hai năm
thu nhập quốc dân lúc bấy giờ. Người Nhật vì sao làm được điều đó? Khang Hữu
Vi cho rằng lý do chính là người Nhật biết học và biết thay đổi cách trị nước theo
Tõn phỏp. Họ đã mạnh lên.
Nhìn vào Trung Quốc, nhìn vào tầng lớp trí thức, tự chiêm nghiệm cách
học của chính bản thân với mục đích khoa cử, làm quan, ông buồn lo nghĩ tới cách
học giáo điều vô bổ của phong học Trung Quốc. Giưó lỳc Trung Quốc bị các
nước đế quốc xâu xé bắt nạt, Trung Quốc vẫn bảo thủ chủ quan, kiêu ngạo một
cách phi lý, các quốc gia phương Tây và ngay bên cạnh Trung Quốc, nước Nhật
Duy tân đã và đang phát triển càng mạnh mẽ, các sĩ phu Trung Quốc vẫn vùi đầu
trong những sách thánh kinh vô bổ. Ông đó cú kết luận thật sâu sắc, đầy tâm huyết
“Nghĩ đến thánh nhân mà buồn cười rơi lệ”, vì những lý thuyết đó quỏ lỗi thời.
Ông cho rằng cái lối học bảo thủ, giáo điều , vô bổ đã làm dân tộc Trung Quốc có
một quá khứ huy hoàng, không còn đủ sức mạnh chống lại các quốc gia dân tộc
phát triển Âu Mỹ. Dòng thác của thời đại đòi hỏi các dân tộc phải tuân theo quy
luật phát triển, phải đổi mới, phải học cái mới và muốn vậy phải đổi cả học phong.
Là người xuất thân trong gia đình quan lại, được đào luyện về Nho học một
cách nghiêm túc nhưng thời đại đã “biến”, định đề bất biến của tư tưởng phong


kiến đã không còn hiệu nghiệm nữa. Quan niệm “Thiên bất biến, đạo diệc bất
biến” (trời không đổi, đạo cũng không đổi) đã bị thực tế chứng minh là “Thiên dĩ
biến, đạo diệc tuỳ biến” (Thời đã đổi, đạo cũng phải thay). Súng đạn kỹ thuật, tàu
chiến của phương Tây đã chứng minh kết luận chủ quan, tự kiêu phi lý về phương
Tây “Tây di”. Những nhà tri thức có khả năng nhận thức chân lý sớm hơn. Ở các
dân tộc lạc hậu phương Đông, đội ngũ trí thức là những người đầu tiên nhận ra sự
yếu kém của dân tộc, đất nước. Khi nhìn vào lịch sử phương Đông ta thấy rõ một
sự thực là: Các phong trào duy tân đổi mới ở châu Á phát sinh, phát triển dù đạt
được thắng lợi hay bị thất bại trong tiến trình lịch sử đều do trí thức đề xướng và
lãnh đạo
1
.
Như vậy, phong trào Duy tân trước hết là con đẻ của nhận thức của tri thức
yêu nước muốn tìm lời giải đáp cho dân tộc trước thời đại. Ở phương Đông, dân
tộc Nhật Bản, một dân tộc với tinh thần võ sĩ đạo, đã chịu tạm gác kiếm và chịu đi
học, chịu lao đọng, để tỡm đỳng lối ra của dân tộc trước thời đại. Kết quả là kinh
tế phát triển, đất nước nước giàu mạnh đã giữ được nền độc lập của dân tộc và
giành được quyền bình đẳng.
Duy tân cải cách là một khuynh hướng yêu nước nhằm tổ chức phát triển xã
hội, tìm con đườn cứu nước theo cách phát triển kinh tế xã hội đặng đưa đất nước
giàu mạnh đủ sức giữ ginf độc lập. Bằng cách tiếp cận suy nghĩ có khác nhau, các
nhà Duy tân cải cách đều xuất phát từ tâm lòng yêu nước, đều trăn trở muốn rửa
nhục cho đất nước.
Khang Hữu Vi và phái Duy tân nhận thức rằng muốn cú cỏch nghĩ đúng,
làm đúng, đề ta chủ trương đúng, phải cú cỏch học đúng, mục đích học đúng,
1
Nguyễn Văn Hồng, Mấy vấn đề về lịch sử châu Á và lịch sử Việt nam một cách nhìn,
NXB Văn Hoá Dân tộc, H.2001
phương pháp học đúng, nội dung học đúng có ích lợi cho thực tế. Những nhà Duy
tân đặc biệt chú ý đến học phong. Coi học phong chính là gió định hướng hiệu

quả, để tạo nên lực đẩy phát triển dân giàu nước mạnh, “phú quốc cường binh”.
Khang Hữu Vi và đội ngũ các trí thức Duy tân Trung Quốc nhận thức rằng
muốn xây dựng và phát triển tư tưởng mới thì vấn đề đầu tiên là phải tấn công vào
lối sùng bái cách học cũ, sùng bái tư tưởng cũ chống lại khuôn giam cầm tư tưởng
của đội ngũ tri thức Trung Quốc. Cuộc tấn công đầu tiên là chống lại Hán học thời
Thanh chuyên đề cao Tống học.
Nguyên nhân đầu tiên để phái Duy tân chống lại Tống học là do: chính
Tống học đẻ ra từ mục đích chính trị bảo thủ của nhà Thanh. Nhà Mãn Thanh đặc
biệt là từ thời của Càn Long đề cao việc giải thích, khảo cứu, chú thích các tác
phẩm Hán cổ đại, nhằm chuyển sự chú ý bàn về vấn đề chính trị thời cuộc. Càn
Long công khai nói “Bản triều có ý nghiên cứu Tống học, đề xướng thuyết văn, do
đó thuận cổ, chống sự tìm nghĩa lý, Cao Tụng Thỳõn Hoàng đế ghét người nói đến
chính trị. Một thời học phong thuyết văn rất thịnh”
2
Ở thời Thanh chủ trương khuyến khích văn, gần như khuyến khích học
thuật vị nghệ thuật trong khuynh hướng bàn việc chính sự triều đình. Tri thức bị
tách khỏi cuộc sống hiện thực, biến học thành những con mọt sách. Mãn Thanh
cũng đã thông qua chính sách văn tự ngục, đả kích một cách mạnh mẽ một số học
giả dám bàn về chính sách triều đình.
Trong hoàn cảnh như vậy đội ngũ trí thức thời MónThanh, vỡ lợi ích dân
tộc và cũng là muốn tránh cho cá nhân bị rầy rà, thậm chí bị hãm hại đã đua nhau
đem chút thông minh có hạn của mình chuyển sang lĩnh vực khảo cứu hiệu đớnh,
khảo cứu, huấn cổ, đắm chìm trong những vấn đề vụn vặt và xa thực tế. Thời kỳ
Càn Long chính sách này đã thành công, trí thức không dám bàn việc chính sự,
không dám quan tâm tới xã hội hiện thực, không dám nói thực.
2
Nam Hải sư thừa ký I Khang Hữu Vi toàn tập II. Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã,
1990, tr.470. Dẫn theo: Nguyễn Văn Hồng, Mấy vấn đề về lịch sử châu Á và lịch sử
Việt nam một cách nhìn, NXB Văn Hoá Dân tộc, H.2001, tr.64.
Khang Hữu Vi nhận định nguyên nhân sâu xa dẫn đến mối nguy hôm nay

và mai sau cho dân tộc chính là học phong. Ông đã từng nói: Gần đõy các học giả
đều đắm chìm trong việc khảo cứu những vấn đề vụn vặt, cao giọng thuyết những
vấn đề văn chương suông, vô bổ, không có ích lợi gì cho quốc gia, càng không có
thể cứu dân. Họ “ngồi nhìn tai học, không mảy may động tõm, kờu cứ, thiếu ngay
cả lòng nhân từ đưa đến dũng khí. Họ lụng thụng trong bộ áo nho sĩ, cao giọng
kinh học để mua danh tiếng”
3
. Thực ra họ đang u mê đắm chìm trong trong sai
lầm chúi đầu khảo cứu rạch ròi từng chữ, họ đã phản lại con đường kinh thế chí
dụng, một truyền thống học để tề gia trị quốc bình thiên hạ, truyền thống tốt đẹp
của tri thức Trung Quốc. Khang Hữu Vi gọi các nhà Nho này là nhà Nho cận thị.
Ông cho rằng: “Đối với các học giả chìm đắm trong việc khảo cứu, tốt nhất là nên
choang một gậy vào đầu. Đú chính là sự thuyết phục lớn nhất”.
Ông khẳng định, Tân học không phải là Hán học, Tống học. Tân học chính
là cách học, cách giải thích mà Lưu Hõm giỳp cho Vương Mãng đạt mục đích
giành quyền binh, thay triều chính, quốc hiệu Tõn Móng có nghĩa là triều Vương
Mãng tân học. Sách Tân học gọi là Tân thư. Tân thư từ đó được xem như là một
tín hiệu đổi mới. Như vậy Tân học Tân thư chính là mục đích học cho cải cách.
Khang Hữu Vi phê phán việc học khảo cứu làm cho con người vùi đầu vào
mục đích vụn vặt. Và nó chỉ đạt đến mục đích làm nô lệ, phục vụ cho người sử
dụng mà thôi.
Ông chống lại sự tranh luận vô bổ cuẢ Hán học và Tống học, chống lại
Tâm học của Lục Cửu Uyên, Vương Thủ Nhân. Ông cho rằng họ đã đi xa với
truyền thống học “lập chí” kinh bang tế thế, đọc rộng những sách xưa nay và trong
ngoài nước để dùng. Học ghi chép những điều có ích trên thế giới.
Khang Hữu Vi đã dùng những quan điểm trên đõy để dạy cho học sinh của
mình. Dạy học sinh của mình phải giữ cỏi tõm sau đó giảng sử và cuối cùng là Tây
học. Bằng những phương pháp đó “khích lệ khí tiết, nêu cao tinh thần, cầu tri thức
3
Dẫn theo: Nguyễn Văn Hồng, Mấy vấn đề về lịch sử châu Á và lịch sử Việt nam một

cách nhìn, NXB Văn Hoá Dân tộc, H.2001, tr.267.
rộng lớn”. Như vậy rõ ràng ngay từ đầu Khang Hữu Vi đã tuân theo cách học của
nước ngoài trên cơ sở truyền thống yêu nước, đạo đức, nắm hiểu biết lịch sử nước
nhà, sau đó mới học tri thức mới, rộng lớn của phương Tây.
Bằng phương pháp đú, ông chống lại Hán học giáo điều, và ông chống lại
triết học của Trình Chi và đặc biệt chống lại quan điểm duy tâm “Lý có trước khí”.
Ở đõy nhận thức của Khang Hữu Vi đã đi đến nhận thức tồn tại có trước lý (tư
duy, tư tưởng). Đõy cũng là vấn đề tồn tại lâu dài trong lịch sử nhận thức triết học
Trung Hoa.
Khang Hữu Vi cũn cú tư tưởng chống lại tư tưởng Nho giáo truyền thống,
chống lại tư tưởng của Chu Hy “Tồn thiên lý, diệt nhân dục”, trói buộc con người
phải bằng lòng với khổ hạnh, sống với “lý tưởng” thanh cao. Ông cho rằng ham
muốn của cuộc sống của con người là chính đáng “nhân sinh chi hữu dục, thiên
chi tính tai” (người ta sinh ra có ham muốn, khát vọng. Đó là tính trời phú). Con
người ta có quyền truy cầu cuộc sống tốt đẹp. Hơn nữa chính là nhờ theo đuổi
cuộc sống tốt đẹp, xã hội mới có thể phát triển tiến bộ. Con người ta phấn đấu
không ngừng đi tỡm cái đẹp hoàn thiện. Khang Hữu Vi đi đến kết luận đú chính là
nhận thức tri thế khác với cổ xưa và điều đó làm cho Trung Quốc tiến bộ không
biến thành “DI”. Đến thánh nhân cũng nên thuận lẽ trời để sống “thuận thiên chi
lý, dĩ dưỡng sinh mệnh”.
Khang Hữu Vi chỉ rõ quan niệm bảo thủ, phản tiến bộ của học thuyết Trình
Chu đối với phụ nữ “Đói chết là việc nhỏ, thất tiết là việc lớn”. Ông cho rằng đó là
cách đầy đoạ tinh thần, thể xác, vi phạm chủ nghĩa nhân đạo. Quang Tự thứ 9, khu
vực Ngạc Lương lập “Hội bỏ tục bó chân”. Đõy là biểu hiện sự giải phóng đối với
phụ nữ Trung Quốc. Có ý nghĩa lớn đối với sự giải phóng xã hội. Hội có quy định
ai vào Hội là không được bó chõn và tuyên truyền chống hủ tục bó chõn. Thực ra
đõy là hành động cách mạng kế thừa từ phong trào nông dõn Thái Bình Thiên
Quốc.
Muốn giáo dục phát triển, nâng cao nhận thức của quần chúng, Khang Hữu
Vi đã có ý thức chống lại những tư tưởng bảo thủ phong kiến, lồng nhốt phản

động để cho tư tưởng mới có khả năng thâm nhập, chiếm lĩnh.
Để có thể mở rộng học tập nâng cao dân trí Khang Hữu Vi chủ trương mở
trường học ở khắp nơi, lập các học đường, chế độ học và nội dung học phải được
thay đổi bằng những nội dung thực tế, chống lại lối học cho khoa cử vô bổ. Khang
Hữu Vi phê phán quyết liệt chế độ khoa cử với quy định thi lối văn bát cổ. Ông
cho rằng lối văn gò bó, niêm luật, ngôn ngữ, buộc con người ta lao vào lối học
giáo điều vô bổ, tiêu phí nhiều sức lực tài năng của nhiều thế hệ tri thức Trung
Quốc. Ngày nay cách học phải để dùng. Muốn dân hiểu pháp luật phải đọc pháp
luật, muốn dõn giỳp phần nào chính trị phải thông hiểu chế độ, lệnh chỉ. Ông quan
niệm chính trị và giáo dục độc lập như hai bánh xe. Tuy cùng quay nhưng không
ngược chiều nhau mà tạo nên cộng lực. Khang Hữu Vi cho rằng ngày xưa học để
làm chính trị và chính trị lại là thầy dạy. Những quan lại không được trọng dụng
trong chính trường lại về đi dạy. Mục đích học, cách học “Học phi sở dụng, dụng
phi sở học” thành một vòng luẩn quẩn.
Nhận biết cái yếu kém trì trệ của Trung Quốc Khang Hữu Vi muốn đào tạo
một đội ngũ trí thức chính trị có thực tài, có biện pháp học được những điều sẽ
dùng trong trị thế, và dùng được những cái đã học.
Khang Hữu Vi không chỉ chủ trương học công nghệ phương Tây, học kỹ
thuật phương Tây mà học cả nghĩa lý con đường đi. Ông chủ trương xây dựng đào
tạo một đội ngũ thực học. Khác với những nhà Dương vụ hay trí thức tiến bộ trước
đó chỉ đơn thuần lấy kỹ thuật súng ống, tàu bè và máy móc. Ông thất rất rõ những
nhà trí thức cũ chỉ ngày ngày bàn chuyện kinh nghĩa mà coi chuyện nghề nghiệp là
chuyện dân thường. Họ không nói chuyện nụng, cụng, thương. Cuộc sống của họ
ngày càng đúi rách, nghèo khó suốt ngày chỉ tỏn suụng mà coi đó là thanh cao.
Ông là người chủ trương tạo nên các học hội, chia các bộ môn, ngành để
nghiên cứu
Theo ông, hiện tại Trung Quốc phải cho dịch sách thật nhiều, dịch đủ loại
sách làm cho đông đảo quần chúng không có ngoại ngữ có thể đọc sách khoa học
kỹ thuật và các ngành khoa học tiên tiến nhờ đó nắm được tri thức khoa học tiến
bộ. Bản thân ông là một tấm gương đọc nhiều sách phương Tây. Ở lớp học của

ụng, ụng cũng yêu cầu mọi người phải đọc sách phương Tây
Cỏi khác của Khang Hữu Vi là chủ trương học toàn diện, nhìn nhận được
những ưu thắng của phương Tây một cách tổng hoà đồng bộ.
Về bản chất, Khang Hữu Vi đại diện cho giai cấp tư sản dân tộc vừa ra đời
đã bắt đầu nhận thức ra con đường phát triển tất yếu của công thương nghiệp.
Cùng với sự phát triển của yếu tố tư bản chủ nghĩa đã nảy mầm và lớn lên qua thời
gian nửa thế kỷ, và trải qua những kinh nghiệm đấu tranh của dân tộc Mục đích
của Khang Hữu Vi và các lãnh tụ Duy tân là học tập phương Tây để thực hành chế
độ quân chủ lập hiến, xây dựng chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo nên guồng máy mới
có khả năng, nhưng thận trọng cải tạo từng bước.
Khang Hữu Vi đã dùng phương pháp thác cổ, tô vẽ Khổng Tử như một
thánh nhõn cải chế, thậm chí ông cho rằng quan niệm dõn quyền, nghị viện, tuyển
cử, dõn chủ, bình đẳng đều là do Khổng Tử sáng tạo ra. Thậm chí tư tưởng Khổng
Tử đã thất lạc ra ngoài, người Tõy nhặt được (!). Ngày nay học phương Tõy chỉ là
trở về với sáng tạo của Thánh hiền thôi chứ không phải là Dụng Di biến Hạ. Gớa
trị của tư tưởng trong tác phẩm “Khổng Tử cải chế khảo” là dùng sự sùng bái
thánh nhõn để chống lại chớnh sự sùng bái thánh nhõn một cách “nhất thành bất
biến”.
Năm 1895, các sĩ tử liên hợp với nhau ký tên vào Vạn ngôn thư, là hành
động tuyên chiến đòi tự do của trí thức đối với chế độ phong kiến bảo thủ. Những
trí thức đã thành lập Cường học hội, và từ đõy lan toả toàn quốc lập các Học hội
khác, mục đích tập hợp hội là tỡm một nội dung mới, cách học mới và bàn nhau
học trả lời cõu hỏi thời đại đặt ra cho Trung Quốc. Học để làm cho Trung Quốc
giàu mạnh vì chỉ có giàu mạnh Trung Quốc mới có thể khỏi bị xỉ nhục vì thua kém
bị bắt nạt.
Cường học hội và các tổ chức Học hội của tri thức thành lập chính là một
xu thế tạo nên một học phong mới. Ở Bắc Kinh là thủ đô, dinh luỹ bảo thủ của
phong kiến , sách báo phương tõy lại hkos mua nên Khang Hữu Vi quyết định mở,
phát triển Cường học hội ở Thượng Hải. Khang – Lương cũn coi Học hội như tổ
chức khuyến khích giúp đỡ nhau của tri thức để tạo nên một học phong mới để

chống lại học phong cũ chỉ mong “vinh thân phì gia” làm mục đích, do đó tri thức
không đoàn kết thương nhau. Hoạt động của Cường học hội khá rộng như: dịch, in
sách, lập thư viện, xõy dựng bảo tàng…Học hội phát triển về sau mở ra các học
hội địa phương như “Việt học hội” (Quảng Đông), Mân Học hội (Phúc Kiến),
Nam Học hội (Hồ Nam)…
Duy tõn mang mục đích chống lại học phong phong kiến “phi sở dụng” xa
rời thực tế, chống giáo điều “Kinh thánh” để mở ra con đường “học vị dụng”. Các
học hội phiên dịch giới thiệu sách khoa học kỹ thuật, sách triết học xã hội, chớnh
trị nhằm mở rộng tầm mắt của giới trí thức và quần chúng nhõn dõn. Nó tấn công
vào truyền thống khuôn sáo giáo điều, tụng niệm vô bổ, xa rời cuộc sống, xa rời
sản xuất. Trí thức được hình thành các đội ngũ phõn công nghiên cứu các ngành
khoa học khác nhau. Họ tin tri thức sẽ đem đến sự bình đẳng phát triển, tạo nên sự
giàu mạnh cho dõn tộc. Ý thức dõn tộc mới nảy sinh. Họ tỡm ra con đường đi,
tỡm học những sở trường của phương Tõy, kế thừa truyền thống dõn tộc Trung
Hoa.
Duy tõn như dòng nhận thức hội nhập đầu tiên. Những nhà tri thức Duy tõn
đã tỡm chỗ đứng lịch sử của mình nhận thức về mục đích học, con đường học, nội
dung học, trách nhiệm học. Đó là sự thay đổi về học phong từ một học phong bảo
thủ lạc hậu, vô bổ ngu muội sang học phong năng động, thiết thực để trả lời cõu
hỏi của lịch sử, cõu hỏi của thời đại. Với những ý tưởng, những việc làm nhằm tạo
nên một học phong cách tõn có ý nghĩa thời đại, Khang Hữu Vi – Lương Khải
Siêu và bạn bè đã từng đứng ở trên triều sóng thời đại với tầm suy nghĩ tiến bộ
mang ý nghĩa những bước đi ban đầu đáp ứng nhu cầu dõn tộc với ý thức mới vừa
hình thành trên mảnh đất Trung Hoa vĩ đại
4
.
II. TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA TễN TRUNG SƠN
Một nhà sử học Trung Quốc từng phát biểu “trong lịch sử trên dưới 5000
năm của Hoa Hạ chưa có một vĩ nhân nào lại coi trọng sự nghiệp giáo dục như
Tôn Trung Sơn”.

Qua các tác phẩm của Tôn Trung Sơn đã chứng tỏ rất rõ điều này. Ông
quan tâm đến giáo dục không chỉ sau khi đã trở thành nhà cách mạng nổi tiếng mà
ngay từ thời trai trẻ chưa xuất chúng. Tư tưởng giáo dục của ông là một điểm sáng
đứng bên cạnh chủ nghĩa Tam dân hỗ trợ đắc lực cho chủ nghĩa dân quyền. Vì
theo ụng, dõn có giác ngộ, có hiểu biết mới nhận thức được các quyền của mình,
như thế bọn quan lại bên trên mới không dễ bề làm bậy. Tư tưởng giáo dục của
Tôn Trung Sơn trước hết thể hiện ở sự trọng dụng nhân tài. Trong bức thư gửi Lý
Hồng Chương năm 1894, ụng đó bộc lộ 4 chương trình hành động trị quốc:
- Phát huy hết tài sức của con người
- Phát huy hết lợi ích của đất đai
- Phát huy hết cách sử dụng của cải
- Phát huy hết sự lưu thông hàng hoá.
Ông coi đây là con đường giàu mạnh cho đất nước, là cái gốc của trị quốc.
Ở đây ụng đó đưa “phát huy hết tài sức của con người” lên hàng đầu trong bốn
chương trình hành động trị quốc.
Khi Tôn Trung Sơn đã trở thành nhà cách mạng thực thụ, ông lại càng thấu
hiểu tầm quan trọng của nhân tài. Chính vì thế rất chú trọng tuyên truyền tư tưởng
4
Nguyễn Văn Hồng, Mấy vấn đề về lịch sử châu Á và lịch sử Việt nam một cách nhìn,
NXB Văn Hoá Dân tộc, H.2001.
cách mạng trong tầng lớp lưu học sinh, sinh viên. Khi khảo sát các thành viên
Trung Quốc Đồng Minh hội thì thấy lưu học sinh chiếm một tỉ lệ lớn.
Khi nước Trung Hoa Dân Quốc vừa mới được thành lập, Tôn Trung Sơn đã
đưa việc bồi dưỡng nhân tài thành nhiệm vụ cấp thiết trước mắt. Một mặt, ông tìm
kiếm nhân tài để tổ chức chính phủ: Mời Thỏi Nguyờn Bồi, Trương Thỏi Viêm -
những nhân sĩ chưa hẳn đó cựng quan điểm với mình vào chính phủ mới. Ông còn
nhiều lần mời Dung Hùng - vị lưu học sinh Trung Quốc đầu tiên ở Mỹ về nước
giúp sức, lời mời của ông với lời lẽ khẩn thiết cảm động khiến Dung Hùng không
thể từ chối.
Một mặt, ông đề nghị khuyến khích du học để bồi dưỡng nhân tài. Ông cho

rằng “Đất nước vừa mới xây dựng, khuyến khích du học, bồi dưỡng nhân tài là
nhiệm vụ cấp bách hiện tại”, và “Không có học vấn thì không thể xây dựng đất
nước”. Ông đã gửi gắm niềm hi vọng “phú quốc cường binh” vào giới tri thức.
Trong bức thư gửi học sinh trường đại học Bắc Kinh, ông viết “Để hoàn thành
nhiệm vụ canh tân đất nước, tránh khỏi sự nô dịch của bên ngoài, chỉ cũn cỏch
trông cậy vào các bạn”. Năm 1913, năm thứ hai của Trung Hoa Dân quốc, trong
buổi diễn thuyết tiễn học sinh Trung Quốc sang Tokyo, Tôn Trung Sơn nói:
“Tình hình chính trị rối loạn như tơ vò, nội chính cũng như ngoại giao không có
lĩnh vực nào tử tế. Nguyên nhân của tình trạng này là do thiếu nhân tài”. Do đó
ông yêu cầu lưu học sinh ở Nhật Bản phải hạ quyết tâm cố gắng học tập bồi bổ
học vấn để về xây dựng đất nước.
Từ những minh chứng trên đây, chúng ta thấy rằng Tôn Trung Sơn đã coi
giáo dục, tri thức học vấn như là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cách mạng và
xây dựng đất nước. “Tôn Trung Sơn yêu tài năng như yêu chính bản thân mình”.
Vì sao Tôn Trung Sơn lại coi trọng nhân tài đến như vậy? Bởi vì ông cho
rằng: Tri thức học vấn là động lực thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và văn minh nhân
loại. Trong một lần thuyết trình với giới tri thức ở Quế Lõm, Tụn Trung Sơn nói
“Văn minh thế giới tiến triển được là nhờ vào tri thức…”
Chính vì vậy ông thấy được tầm quan trọng của tri thức và học vấn, nờn đó
xem sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp hàng đầu của nhà nước Trung Hoa Dân
Quốc. Khi mới lên làm Tổng thống mặc dù bận trăm công ngàn việc ông vẫn chú
trọng tới vấn đề giáo dục. Ngày 3-1-1912 khi lập chính phủ mới, ông mời Thỏi
Nguyờn Bồi ra làm Bộ trưởng giáo dục, hi vọng với danh tiếng của Thỏi Nguyờn
Bồi có thể chấn hưng được nềng Trung Quốc. Ông đã ban bố “pháp lệnh về giáo
dục phổ thông” và “tiêu chuẩn bài học của giáo dục phổ thụng”. Nhằm chấn
chỉnh những mặt sai lệch của nền giáo dục phong kiến Mãn Thanh, để nền giáo
dục phù hợp với tôn chỉ Dân quốc, để cho địa phương có văn bản làm việc, để cho
các trường có tiêu chuẩn để làm theo. Từ đó đã phục hưng nhanh chóng nền giáo
dục của đất nước.
Về sau, do chiến tranh và nhiều nguyên nhân khác, nhiều trường bị trưng

dụng làm doanh trại, sách vở tài sản của nhà trường bị huỷ hoại hay bị lấy mất. Để
bảo về nhà trường, sách vở, tài sản cho giáo dục Tôn Trung Sơn đã nhiều lần ban
bố những mệnh lệnh về vấn đề này. Chẳng hạn như, ngày 10-2-1912, ra lệnh cho
Đô đốc tỉnh An Huy kiểm tra sự tổn thất của trường tiểu học đang bị binh lĩnh phá
phách. Trong lệnh viết: “Nếu không làm rõ được việc này thì làm sao duy trì được
trật tự và bảo vệ được giáo dục”. Ông còn lệnh cho đô đốc kiểm tra tường tận
chấn chỉnh kỷ luật quân đội. Chỉ trong vòng hai thỏng, Tụn Trung Sơn đã ban bố
tới mấy điều lệnh về giáo dục. Sau các điều lệnh của ông nhiều trường học đã tiếp
tục mở cửa trở lại.
Trong tư tưởng giáo dục của Tôn Trung Sơn ta dễ nhận thấy ông rất chú
trọng tới phổ cập giáo dục. Ông nói: phải thực hiện giáo dục phổ cập để cho những
người dân thường có thể hưởng được nền giáo dục. Trong cương lĩnh của đại hội
đại biểu lần thứ nhất của Đảng, Tôn Trung Sơn chỉ ra: “Cố gắng phổ cập giáo
dục, toàn lực phát triển giáo dục nhi đồng, chỉnh đốn lại chế độ giáo dục, tăng
kinh phí cho giáo dục”. “Nhi đồng 10 tuổi trở xuống phải được đi học”. Phổ cập
giáo dục có nghĩa là mọi người được hưởng nền giáo dục bình đẳng. Theo Tôn
Trung Sơn, nền giáo dục bình đẳng có nghĩa là không phân biệt giàu nghèo, sang
hèn đều được hưởng quyền lợi giáo dục như nhau, con em các giai cấp trong xã
hội đều được quyền vào học trường công.
Tôn Trung Sơn còn đặc biệt chú ý tới việc học hành của giới nữ. Chính phủ
Trung Hoa Dân quốc vừa mới thành lập, ụng đó lệnh cho Bộ giáo dục mở trường
nữ học chuyên ngành tơ tằm. Tôn Trung Sơn đặc biệt chú trọng tới các khu vực tự
trị, ụng núi:”Những thanh thiếu niên ở các khu vực tự trị phải được hưởng các
quyền lợi giáo dục như học phí, sách vở, quần áo, ăn uống do nhà nước cấp”.
Tất nhiên trong quá trình cách mạng do những điều kiện về chính trị, kinh
tế, xã hội không cho phép nên chính sách giáo dục nghĩa vụ của Tôn Trung Sơn
chưa được thực hiện tốt. Nhưng những pháp lệnh giáo dục của ông là những di sản
quý báu trong thời kỳ đầu của đất nước Trung Hoa dân quốc, cung cấp những kinh
nghiệm thực tiễn cho nền giáo dục của đất nước Trung Hoa sau này.
Trong tư tưởng giáo dục phổ cập của Tôn Trung Sơn, ông rất chú trọng đến

đội ngũ giáo viên. Ông chủ trương khôi phục các trường sư phạm. Ông nói:
“Muốn đào tạo giáo viên tiểu học không thể không mở các trường sư phạm”.
“Muốn cho 400 triệu người Trung Quốc được giáo dục phải chú trọng sư phạm và
cấp tốc mở trường sư phạm”. Ông lệnh cho Bộ giáo dục thông báo cho các tỉnh
biết: Cùng đồng thời mở các trường tiểu học, còn phải mở luụn cỏc trường sư
phạm.
Trong công cuộc xây dựng đất nước, ngoài việc thực hiện phổ cập giáo dục
để nâng cao dân trí còn cần phải có những nhân tài cao cấp và những người thành
thạo các lĩnh vực chuyên môn, nên ông chủ trương thành lập một số trường dạy
nghề, ví dụ như trường nữ học tơ tằm là một loại trường dạy nghề, và đồng thời
mở thêm trường đại học. Trong buổi nói chuyện với học sinh trường đại học Lĩnh
Nam ở Quảng Chõu, Tụn Trung Sơn nhấn mạnh: “Đất nước cần nhiều nhân tài,
các trường đào tạo nhân tài cũn quỏ ớt, không nên chỉ có một trường đại học Lĩnh
Nam mà tỉnh Quảng Đông cần có mấy chục trường Lĩnh Nam mới được, còn đất
nước Trung Quốc cần phải có mấy trăm trường đại học Lĩnh Nam như thế để đào
tạo hàng chục vạn, hàng trăm vạn sinh viên”.
Tư tưởng giáo dục của Tôn Trung Sơn vô cùng toàn diện, ông không chỉ
quan tâm đến giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục dạy nghề mà ụng cũn
chủ trương mở nhiều loại trường đại học khác để đào tạo cán bộ cách mạng như
trường quân sự Hoàng Phố, mở các lớp huấn luyện ngắn hạn như lớp huấn luyện
phong trào nông dân , lớp huấn luyện phong trào công dân, lớp huấn luyện phong
trào phụ nữ…Trong các lớp đú, Tụn Trung Sơn đảm nhiệm giảng bài, mà bài đầu
tiên là chủ nghĩa Tam dân. Những lớp học này đã bồi dưỡng rất nhiều nhân tài cho
phong trào Bắc Phạt, có tác dụng cho phong trào cách mạng phát triển. Trong số
những học viên nghe ông giảng bài, không chỉ có người Trung Quốc mà còn có
nhiều nhà hoạt động cách mạng ở các nước khác bởi vì Quảng Châu của những
năm đầu thế kỷ XX (1919-1925) được mệnh danh là Maxcova của Phương Đông.
Trong các trường do Tôn Trung Sơn mở ở Quảng Chõu cú trường quân sự Hoàng
Phố là trường có vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử hiện đại của Trung Quốc.
Nhiều chiến sĩ cách mạng yêu nước của Việt Nam như Lê Hồng Phong, Nguyễn

Sơn đã từng được đào tạo tại trường này.
Tư tưởng giáo dục của Tôn Trung Sơn không chỉ có một ảnh hưởng sâu sắc
tới chính sách giáo dục của nhà nước cách mạng Trung Quốc sau này mà nó cũn
có ảnh hưởng to lớn đối với các nhà cách mạng Việt Nam, đặc biệt là đối với Hồ
Chí Minh. Hồ Chí Minh mặc dù là nhà cách mạng vô sản khác hệ tư tưởng với
Tôn Trung Sơn nhưng trong các biện pháp cách mạng cụ thuể Người đã chịu ảnh
hưởng rất nhiều của Tôn Trung Sơn, đặc biệt là lĩnh vực giáo dục. Cũng như Tôn
Trung Sơn, Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng phát triển sự nghiệp giáo dục mà còn
coi trọng nội dung giáo dục, nhất là trong việc vận dụng Nho giáo một cách linh
hoạt để giáo dục đạo đức tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ, để cho các tầng lớp kế cận
không chỉ có tài năng mà còn phải có đạo đức phục vụ cách mạng.
KẾT LUẬN
Có thể nhận thấy rằng, Trung Quốc là một nước có nền văn minh lõu đời và
đạt được nhiều thành tự văn minh rực rỡ. Trong quá trình phát triển của nền văn
minh Trung Hoa đó, giáo dục luôn đóng góp một vai trò hết sức quan trọng và
quyết định đến sự duy trì cũng như sáng tạo các giá trị của nền văn minh vĩ đại ấy.
Tuỳ theo Mỗi thời đại lịch sử, mỗi hoàn cảnh lịch sử mà có sự khác nhau trong
phương thức giáo dục, đào tạo và sử dụng nhõn tài, nhưng dường như đã trở thành
quy luật, triều đại nào nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo nhõn
tài, đầu tư cho giáo dục, biết thay đổi hệ thống giáo dục phù hợp với tớnh chất và
sự phát triển của thời đại thì triều đại ấy được duy trì và thịnh trị lõu dài, và ngược
lại.
Lịch sử cổ đại Trung Quốc đã xuất hiện Khổng Tử, như là nhà giáo dục vĩ
đại nhất với những học thuyết mà trải qua hàng ngàn năm vẫn cũn nguyên những
giá trị thời đại, xứng đáng là “vạn thế sư biểu”, người thầy của muôn đời.
Lịch sử cận hiện đại của Trung Quốc cũng đã khẳng định tầm quan trọng
của giáo dục, đào tạo nhõn tài đối với sự phát triển của lịch sử đất nước này. Các
vĩ nhõn Trung Quốc từ Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu trong Duy tõn Mậu Tuất
1898, đến Tôn Trung Sơn trong Cách mạng Tõn Hợi 1911, và sau này là Đặng
Tiểu Bình trong công cuộc cải cách mở cửa cuối thế kỷ XX, tuy ở những thời đại

khác nhau, ở những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, và phải đảm đương những
nhiệm vụ lịch sử khác nhau, dù hệ tư tưởng không giống nhau, nhưng các vĩ nhõn
ấy đều có điểm tương đồng là đều coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhõn tài,
coi đó là quốc sách hàng đầu, là chỡa khoá để Trung Quốc hội nhập và phát triển
trong thế giới hiện đại.
Có thể nhận thấy rằng, tư tưởng giáo dục của các vĩ nhõn ấy là một sự phát
triển có tớnh kế thừa và sáng tạo những giá trị tư tưởng của những người đi trước.
Tư tưởng giáo dục của Khang Hữu Vi – Lương Khải Siêu là sự phát triển tư tưởng
giáo dục tốt đẹp truyền thống (của Khổng Tử, Nho học) kết hợp với những tri thức
mới của thời đại (Tõn thư, Tõn học); Tư tưởng giáo dục của Tôn Trung Sơn là sự
phát triển kế tiếp những tư tưởng giáo dục của Khang Hữu Vi – Lương Khải Siêu,
đưa nó từ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn đời sống dõn tộc, đưa nó lên một tầm
cao mới, trên cơ sở tiếp thu những giá trị tư tưởng mới của Phương Tõy và áp
dụng vào bối cảnh thực tiễn của Trung Quốc vào đầu thế kỷ XX – mà đỉnh cao trí
tuệ là chủ nghĩa Tam Dõn nổi tiếng; Đặng Tiểu Bình là một sự kế thừa và phát
huy đến cao độ những tư tưởng giáo dục, đào tạo nhõn tài của những vĩ nhõn đi
trước, trong những bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, điều kiện mới, phát triển giáo
dục để làm đũn bẩy cho công cuộc cải cách mở cửa, và là chỡa khoá cho công
cuộc xõy dựng CNXH mang màu sắc Trung Hoa – trong đó giáo dục – tri thức là
nhõn tố quyết định.
Một điều đáng lưu ý là: Tư tưởng giáo dục của các vĩ nhõn này đều xuất
phát trên cơ sở kế thừa truyền thống, tinh hoa văn hoá của dõn tộc, kế thừa một
cách chọn lọc, vừa khước từ những giá trị cũ, lạc hậu không cũn phù hợp với thời
đại, đồng thời phát huy những yếu tố tích cực, những yếu tố phù hợp với sự phát
triển của xã hội hiện đại. Truyền thống dõn tộc, tinh hoa dõn tộc chớnh là cái gốc
chung cho mọi tư tưởng cải cách của các vĩ nhõn Trung Quốc. Chẳng hạn như:
Lương Khải Siêu trong tư tưởng giáo dục của mình rất đề cao vai trò của Khổng
Tử…
Nhưng bên cạnh đó, các vĩ nhõn này cũng đều có một sự chọn lọc và tiếp
thu những tinh hoa của nhõn loại, tiếp thu những giá trị tư tưởng giáo dục tiến bộ

trên thế giới phù hợp với sự phát triển của thời đại, đồng thời phù hợp với bối cảnh
chung của lịch sử Trung Quốc. Với Khang Hữu Vi – Lương Khải Siêu đó là việc
tiếp thu tư tưởng Tõn Thư, Tõn Học tiến bộ từ Nhật bản; Khang Hữu Vi chủ
trương học công nghệ phương Tõy, kỹ thuật phương Tõy, học cả nghĩa lý con
đường đi để thực hành chế độ quõn chủ lập hiến, xõy dựng chủ nghĩa tư bản, đưa
Trung Quốc vào một guồng quay mới… Những tư tưởng tiến bộ của Khang Hữu
Vi và Lương Khải Siêu trong Duy Tõn Mậu Tuất do những hạn chế chủ quan và
khách quan đã chưa thể trở thành hiện thực. Tôn Trung Sơn là người đã kế thừa và
phát triển sự nghiệp của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, trong bối cảnh lịch sử
mới đã đưa những tư tưởng tiến bộ đó trở thành hiện thực trên mảnh đất Trung
Hoa rộng lớn, vĩ đại…
Một điều dễ nhận thấy là, trong tư tưởng giáo dục của các vĩ nhõn Trung
Quốc thời cận hiện đại, đều từ bỏ và đấu tranh chống lại tinh thần học tập theo lối
cổ xưa, học để thi phục vụ khoa cử, lối học “nghệ thuật vị nghệ thuật”, và tất cả
đều đề cao tinh thần thực học, học để phục vụ cuộc sống thực tại, học khoa học kỹ
thuật để áp dụng vào cuộc sống hiện tại…
Trong tư tưởng giáo dục của mình, các vĩ nhõn Trung Quốc từ Khang Hữu
Vi đến Tôn Trung Sơn đều có những tư tưởng tiến bộ đối với phụ nữ. Với Khang
Hữu Vi, ông đã chỉ rừ quan niệm bảo thủ của chế độ phong kiến đối với phụ nữ,
đã chủ trương thành lập hội bỏ tục bó chõn…Đến Tôn Trung Sơn, tư tưởng ấy
càng được mở rộng hơn, thông qua việc chú ý tới việc học của phụ nữ, thành lập
Trường nữ học chuyên ngành tơ tằm.
Sự kết hợp giữa các yếu tố giáo dục truyền thống với sự tiếp thu những giá
trị tinh hoa của nhõn loại phù hợp với đất nước Trung Quốc chớnh là một lý do
giải thích cho sự thành công của những tư tưởng giáo dục ở Trung Quốc thời cận
hiện đại, cũng như về những mốc lịch sử quan trọng của lịch sử cận hiện đại Trung
Quốc. Những tư tưởng tiến bộ của Khang Hữu Vi – Lương Khải Siêu và Tôn
Trung Sơn không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp tới lịch sử phát triển của cách mạng
Trung Quốc, mà nó cũn có tầm ảnh hưởng sõu rộng đến tư tưởng cách mạng và
giáo dục của nhiều tri thức và nhà cách mạng vĩ đại của Việt Nam như Phan Bội

Chõu, Hồ Chí Minh…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Văn Hồng, Mấy vấn đề về lịch sử châu Á và lịch sử Việt nam một
cách nhìn, NXB Văn Hoá Dân tộc, H.2001.
Nguyễn Văn Hồng: Nhận thức về ý nghĩa lịch sử tư tưởng cách mạng Tân
Hợi 1911, tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 5(39)-2001
Nguyễn Huy Quý: Tìm hiểu “Chủ nghĩa dân quyền” của Tôn Trung Sơn,
tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 5(39)-2001.
Vũ Dương Ninh: Cách mạng Tân Hợi 90 năm sau nhìn lại, tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc số 5(39)-2001.
Đặng Thanh Tịnh, Tôn Trung Sơn với sự nghiệp giáo dục, tạp chí Nghiên
cứu Trung Quốc số 6(40) – 2001.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ

SINH VIÊN: ĐỖ TRƯỜNG GIANG
GIÁO DỤC VÀ TẦM NHÌN CñATrung QUỐC
TỪ LƯƠNG KHẢI SIÊU ĐẾN TÔN TRUNG SƠN.
Chuyên đề:
Các học thuyết chính trị ở Trung Quốc
Giáo viên chuyên đề: PGS. NGUYỄN VĂN HỒNG
Hà Nội, tháng 12 năm 2005

×