Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở thành phố Đồng Hới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 135 trang )

PHẦN THỨ NHẤT
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Trong quá trình phát triển nền kinh tế xã hội, công việc đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng là một trong những vấn đề then chốt nhất. Thực hiện đường lối đổi mới của
Đảng và Nhà nước về phát triển đất nước, đặc biệt được sự hỗ trợ của nguồn vốn
ngân sách Nhà nước (NSNN), các tổ chức quốc tế và nguồn huy động từ nội bộ nền
kinh tế của tỉnh Quảng Bình, công tác đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) ở thành phố
Đồng Hới thời gian qua đã có nhiều khởi sắc, góp phần làm cho diện mạo của đô thị
ngày một đổi mới. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị từng bước hiện đại hoá và hệ
thống "điện, đường, trường, trạm" ngày càng được đồng bộ hoá đã tạo tiền đề cho
KT-XH thành phố không ngừng tăng trưởng, hoà nhập chung vào sự phát triển của
tỉnh và cả nước. Bên cạnh những kết quả đạt được của việc sử dụng vốn NSNN cho
đầu tư xây dựng cơ bản, còn có những tồn đọng và hạn chế như: đầu tư manh mún,
dàn trải...dẫn đến kém hiệu quả và làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước. Đồng Hới
là một thành phố có nền kinh tế với xuất phát điểm thấp, việc huy động nguồn vốn
đầu tư từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh còn hạn chế, chủ yếu dựa vào nguồn hỗ trợ của
ngân sách Trung ương và khai thác quỹ đất, nên việc tiết kiệm và sử dụng hiệu quả
vốn đầu tư (VĐT) nói chung và đầu tư XDCB từ nguồn vốn ngân sách nói riêng càng
mang tính cấp thiết. Về yếu kém trong đầu tư và sử dụng vốn NSNN, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X nhận định: “Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải, hiệu quả chưa
cao, thất thoát nhiều. Lãng phí chi tiêu NSNN… còn nghiêm trọng”. Nghị quyết của
Đại hội nêu rõ: “Phải xoá bỏ cơ chế “xin cho”, nếu còn cơ chế này thì sẽ phát sinh
tiêu cực…Đồng thời phải cải cách thủ tục hành chính, phân cấp đầu tư hợp lý. Trong
lĩnh vực XDCB phải chấn chỉnh từ khâu dự toán, thiết kế đến thi công”.
Từ những cơ sở trên đặt ra yêu cầu, cần phải sử dụng hiệu quả vốn đầu tư
XDCB từ NSNN, đây là vấn đề hết sức phức tạp và khó khăn không thể giải quyết
triệt để cùng một lúc. Để góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và hoàn thiện việc sử
1
dụng có hiệu quả nguồn vốn NSNN cho đầu tư XDCB, tác giả đã chọn đề tài "Nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản ở


thành phố Đồng Hới" để làm luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thuộc
NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những lý luận về sử dụng vốn đầu tư XDCB thuộc NSNN.
- Xây dựng chỉ tiêu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn XDCB thuộc NSNN ở
thành phố Đồng Hới.
- Chống thất thoát vốn NSNN trong đầu tư XDCB.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn XDCB thuộc NSNN ở thành
phố Đồng Hới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vốn của NSNN cho đầu tư XDCB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung
Nghiên cứu và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB, bao gồm nhiều
nội dung và lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nên đề tài tập
trung nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN do thành phố Đồng Hới quản
lý đầu tư vào xây dựng cơ bản từ năm 2001 đến 2007.
- Về không gian
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành điều tra nghiên cứu
các công trình đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
- Về thời gian
+ Số liệu thứ cấp: đề tài nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong đầu tư
XDCB từ năm 2001 - 2006.
2
+ Số liệu sơ cấp: điều tra các công trình đang xây dựng từ năm 2001 đến 2007
có sử dụng vốn NSNN, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng, giải pháp nhằm nâng

cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN trên địa bàn thành phố Đồng Hới từ nay đến năm
2015.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê số liệu thứ cấp theo thời gian
- Phương pháp điều tra, thu thập sơ cấp từ các đơn vị cơ sở, sử dụng các phép
kiểm định thống kê và phân tích số liệu đa biến nhằm xác định những nhân tố ảnh
hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN về đầu tư XDCB.
- Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo.
3.4. Kết cấu luận văn
Tên luận văn " Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước cho
đầu tư xây dựng cơ bản ở thành phố Đồng Hới"
Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung luận văn bao gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn về đầu tư XDCB và vai trò vốn
đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn NSNN.
Chương 2: Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng sử dụng vốn NSNN cho đầu tư XDCB ở thành phố
Đồng Hới thời kỳ 2001 - 2007.
Chương 4: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho
đầu tư XDCB ở thành phố Đồng Hới.
3
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản
Theo cách hiểu chung nhất, đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế
xã hội (KT-XH) để mong thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong tương
lai. Đầu tư hay hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành

các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai. Nguồn lực
bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác
[27]. Biểu hiện của tất cả nguồn lực bỏ ra nói trên gọi chung là VĐT. Những kết quả
đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy,
đường giao thông…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ
thuật…) và nguồn nhân lực. Có nhiều cách phân loại đầu tư, nhưng xuất phát từ bản
chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, người ta phân chia ra thành [5].
- Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người ta bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính
phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành
(mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng
hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lại lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua
và khi bán.
- Đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực: là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm trực tiếp tạo ra tài sản mới cho
nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động xã hội khác.
4
- Đầu tư cơ bản: là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định (TSCĐ) đưa
vào hoạt động trong các lĩnh vực KT - XH khác nhau. Trong hoạt động đầu tư, các
nhà đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng
lao động. Khác với đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán
thành phẩm…) các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện
vận tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động, biến đổi nó thành mục đích của mình. Xét về mặt tổng thể thì không
một hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các TSCĐ, nó bao gồm toàn bộ cơ
sở kỹ thuật đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước và có thể được điều chỉnh cho
phù hợp với giá cả từng thời kỳ.
Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các TSCĐ
được gọi là đầu tư XDCB.

XDCB chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư XDCB. XDCB là các hoạt động
cụ thể để tạo ra TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt….). Kết quả của
hoạt động XDCB là các TSCĐ, có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định. Như
vậy, XDCB là một quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng có kế hoạch về các
TSCĐ của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất cũng như không
sản xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho một quốc gia [5].
Đầu tư XDCB là hoạt đồng đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục
đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các TSCĐ và tạo ra cơ sở vật
chất kỹ thuật cho xã hội. Đầu tư XDCB là một hoạt động kinh tế.
1.1.2. Vai trò, đặc điểm và nội dung của đầu tư XDCB
1.1.2.1. Vai trò của đầu tư XDCB
Trước hết cần phải xác định rõ rằng đầu tư nói chung đóng một vai trò quan
trọng trong nền kinh tế, là động lực để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng
trưởng. Nếu không có đầu tư thì không có phát triển.
Một là, đầu tư XDCB từ nguồn NSNN là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà nước
trực tiếp tác động đến quá trình phát triển KT - XH, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Bằng việc cung cấp các
5
dịch vụ công cộng như hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng…mà các thành phần
kinh tế khác không muốn, không thể hoặc không đầu tư; các dự án đầu tư từ NSNN
được triển khai ở các vị trí quan trọng, then chốt nhất đảm bảo cho nền KT - XH phát
triển ổn định theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến tổng
cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu.
Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng
cầu của các nước trên thế giới. Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng cường khả
năng khoa học và công nghệ của đất nước. Đầu tư còn có mối quan hệ chặt chẽ với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới cho thấy, nếu
muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao (9 - 10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm
tạo ra sự phát triển ở khu công nghiệp và dịch vụ. Ngoài ra đầu tư còn có tác động

giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, xoá đói giảm
nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị… của những
vùng có khả năng phát triển nhanh để làm đầu tàu cho vùng khác. Đầu tư tác động
đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế
cho thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư ít nhất phải
đạt từ 15 - 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước [5].
Hai là, đầu tư XDCB có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế bởi vì nó tạo
ra các TSCĐ. Đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư để sản xuất ra của cải vật chất, đặc
biệt là tạo cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ
tăng nhanh khi có đầu tư XDCB, đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng
suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Đầu tư XDCB nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng
sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư XDCB sẽ tạo điều kiện để phát triển
mới, đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp. Đầu tư XDCB sẽ góp
phần phát triển nguồn nhân lực, cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ, phát triển y tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. Đầu tư XDCB góp
6
phần thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng,
cải thiện điều kiện sống ở các địa phương nghèo, vùng sâu và vùng xa, phát triển
nguồn nhân lực, xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích
cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo khai thác các tiềm năng của vùng để
vươn lên phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng
miền, ngành nghề, khu vực và phân bổ hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh.
Ba là, đầu tư XDCB của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trò hết sức quan
trọng, bởi vì vốn dành cho đầu tư XDCB của Nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn trong
tổng vốn đầu tư XDCB của toàn xã hội. Đầu tư XDCB của Nhà nước góp phần khắc
phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ cấu đầu tư, giải quyết các
vấn đề xã hội. Mặt khác đầu tư XDCB của Nhà nước được tập trung vào những công

trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống
KT - XH. Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng đầu tư XDCB của Nhà nước nếu
không được quản lý một cách hợp lý sẽ gây ra thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả hơn
là đầu tư XDCB từ các nguồn vốn khác.
1.1.2.2. Đặc điểm của đầu tư XDCB
Bất kỳ nền kinh tế nào thì đầu tư XDCB cũng mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: đầu tư XDCB là khâu mở đầu của mọi quá trình sản xuất và tái sản
xuất nhằm tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế. Đầu tư XDCB chính là một phần
tiết kiệm những tiêu dùng của xã hội thay vì những tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
Để tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế, là những điều kiện kỹ thuật cần thiết
đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế: xây dựng hệ thống hạ tầng, các nhà
máy và mua sắm các thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại…đầu tư XDCB
cần một lượng vốn lớn.
Muốn đáp ứng được điều đó, các quốc gia phải phát huy mọi tiềm năng nguồn
lực trong nước như: tiết kiệm từ nội bộ nền kinh tế, huy động mọi nguồn lực trong
các tầng lớp dân cư, đồng thời phải tìm mọi giải pháp để thu hút các nguồn lực nước
ngoài như: vốn ODA, FDI, NGO…
7
Xuất phát từ đặc điểm này đòi hỏi chúng ta trong việc huy động và sử dụng vốn
đầu tư XDCB phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, nếu không
giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ xuất hiện mâu thuẫn gay gắt giữa đầu tư và tiêu
dùng.
Thứ hai: quá trình đầu tư XDCB phải trải qua một thời gian lao động rất dài
mới có thể đưa vào sử dụng được, thời gian hoàn vốn lâu vì sản phẩm XDCB mang
tính chất đặc biệt và tổng hợp. Sản xuất không theo dây chuyền hàng loạt mà mỗi
công trình dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc nhiều vào yếu tố tự
nhiên, địa điểm hoạt động lại thay đổi liên tục và phân tán. Thời gian khai thác và sử
dụng lâu dài, thường là 10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào tính chất
dự án.
Quá trình đầu tư XDCB gồm 3 giai đoạn: xây dựng dự án, thực hiện dự án và

khai thác dự án.
Xây dựng dự án và thực hiện dự án là hai giai đoạn có thời gian dài nhưng lại
không tạo ra sản phẩm, đây là nguyên nhân chính gây ra mâu thuẫn giữa đầu tư và
tiêu dùng. Các nhà kinh tế cho rằng đầu tư là quá trình làm bất động hoá một số vốn
nhằm thu lợi nhuận trong nhiều thời kỳ nối tiếp sau này. Muốn nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư XDCB cần chú ý tập trung các điều kiện đầu tư có trọng điểm, nhằm đưa
nhanh các dự án đầu tư vào khai thác sử dụng.
Khi xét hiệu quả vốn đầu tư XDCB cần quan tâm xem xét cả 3 giai đoạn của
quá trình đầu tư, tránh tình trạng thiên lệch, chỉ tập trung vào giai đoạn thực hiện dự
án, tức là việc đầu tư vào xây dựng các dự án mà không chú ý thời gian khai thác dự
án. Việc coi trọng hiệu quả kinh tế do đầu tư XDCB mang lại là hết sức cần thiết nên
phải có phương án lựa chọn tối ưu, đảm bảo trình tự XDCB. Chính vì chu kỳ sản
xuất kéo dài nên việc hoàn vốn được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm, phải lựa chọn
trình tự bỏ vốn cho thích hợp để giảm đến mức tối đa thiệt hại do ứ động vốn ở sản
phẩm dở dang.
Thứ ba: đầu tư là lĩnh vực có mức độ rủi ro lớn và mạo hiểm, đầu tư chính là
việc đánh đổi những tiêu dùng chắc chắn của hiện tại để mong nhận được những tiêu
8
dùng lớn hơn nhưng chưa thật chắc chắn trong tương lai, “Chưa thật chắc chắn”
chính là yếu tố rủi ro mạo hiểm. Vì vậy có nhà kinh tế đã nói rằng đấu tư là đánh bạc
với tương lai [29].
Rủi ro trong lĩnh vực đầu tư XDCB chủ yếu do thời gian của quá trình đầu tư
kéo dài. Trong thời gian này các yếu tố kinh tế, chính trị và cả tự nhiên ảnh hưởng sẽ
gây nên những tổn thất mà các nhà đầu tư không lường định hết khi lập dự án. Các
yếu tố bão lụt, động đất, chiến tranh có thể tàn phá các công trình được đầu tư. Sự
thay đổi chính sách như quốc hữu hoá các cơ sở sản xuất, thay đổi chính sách thuế,
mức lãi suất, sự thay đổi thị trường, thay đổi nhu cầu sản phẩm cũng có thể gây nên
thiệt hại cho nhà đầu tư.
Đặc điểm này chỉ ra rằng, muốn khuyến khích đầu tư cần phải quan tâm đến lợi
ích của các nhà đầu tư. Lợi ích mà các nhà đầu tư quan tâm nhất là hoàn đủ vốn đầu

tư cho họ và lợi nhuận tối đa thu được nhờ hạn chế và tránh được rủi ro. Vì vậy các
chính sách khuyến khích đầu tư cần quan tâm đến là ưu đãi, miễn giảm thuế, khấu
hao cao, lãi suất vốn vay thấp, cơ chế thanh toán vốn nhanh, kịp thời…
Thứ tư: sản phẩm của đầu tư XDCB là những công trình xây dựng như nhà máy,
công trình công cộng, nhà ở, cầu cống, sân bay, cảng biển… có tính cố định gắn liền với
đất đai. Vì thế nên trước khi đầu tư các công trình phải được quy hoạch cụ thể, khi thi
công xây lắp thường gặp phải khó khăn trong đền bù giải toả giải phóng mặt bằng, khi
đã hoàn thành công trình thì sản phẩm đầu tư khó di chuyển đi nơi khác [29].
Sản phẩm của đầu tư XDCB là những TSCĐ, có chức năng tạo ra sản phẩm và
dịch vụ khác cho xã hội, thường có vốn đầu tư lớn, do nhiều người, thậm chí do
nhiều cơ quan đơn vị khác cùng tạo ra.
Sản phẩm của đầu tư XDCB mang tính đặc biệt và tổng hợp, sản xuất không
theo một dây chuyền mà có tính cá biệt. Mỗi công trình đều có điểm riêng nhất định.
Ngay trong một công trình kết cấu các phần cũng không hoàn toàn giống nhau. Với
những công trình công nghệ cao, có vòng đời thay đổi công nghệ ngắn như: công
trình bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, điện tử… thì việc thay đổi công
nghệ, kiểu dáng luôn xảy ra.
9
Giá thành sản phẩm XDCB rất phức tạp và thường xuyên thay đổi theo từng
giai đoạn. Sản phẩm đầu tư XDCB không chỉ mang ý nghĩa kinh tế kỹ thuật mà còn
mang tính nghệ thuật. Sản phẩm đầu tư XDCB phản ánh trình độ kinh tế, trình độ
khoa học kỹ thuật và trình độ của từng giai đoạn lịch sử nhất định của một đất nước.
Quá trình XDCB bị tác động bởi nhiều yếu tố tự nhiên như tình hình địa chất
thuỷ văn, ảnh hưởng của khí hậu thời tiết, mưa bão, động đất. Trong đầu tư XDCB
chu kỳ sản xuất thường dài và chi phí sản xuất thường lớn. Vì vậy, chọn công trình
để bỏ vốn thích hợp nhằm giảm mức tối đa thiệt hại do công trình xây dựng dở dang
là một thách thức lớn đối với các nhà thầu.
Nơi làm việc và lực lượng lao động không ổn định là điều bất lợi cho quá trình
XDCB, dẫn đến thời gian ngừng làm việc nhiều, năng suất lao động thấp, dễ gây tâm lý
tạm bợ, tuỳ tiện trong làm việc và sinh hoạt của cán bộ công nhân công trường.

Để thực hiện một dự án đầu tư XDCB phải trải qua nhiều giai đoạn, có rất nhiều
đơn vị tham gia thực hiện. Trên một công trường có thể có hàng chục đơn vị làm các
công việc khác nhau, nhưng các đơn vị này cùng hoạt động trên một không gian và
thời gian, vì vậy trong tổ chức thi công cần phải phối hợp chặt chẽ với nhau bằng các
hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Tuy vậy hiện nay cách thức giao nhận thầu chưa
được cải tiến, giá bán được định trước khi chế tạo sản phẩm. Tức là trước khi nhà
thầu biết giá thành thực tế của mình, việc ước lượng đúng đắn giá cả và phương tiện
thi công rất khó khăn vì phải dựa trên những giả thiết mà rất có thể khi thi công thực
tế bị phủ định.
Điều phụ thuộc này buộc nhà thầu phải nắm chắc dự toán và kiểm tra thường
xuyên trong quá trình thi công.
Ngoài những đặc điểm của đầu tư XDCB nói chung thì đầu tư XDCB của
NSNN còn có đặc điểm riêng, đó là quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn đầu tư
XDCB bị tách rời nhau.
Vốn đầu tư XDCB của NSNN là thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước là
chủ thể có quyền chi phối và định đoạt nguồn vốn NSNN dành cho đầu tư XDCB và
là người đề ra chủ trương đầu tư, có thẩm quyền quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế
10
dự toán (tổng dự toán). Song quyền sử dụng vốn đầu tư XDCB Nhà nước lại giao cho
một tổ chức bằng việc thành lập các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án. Chủ đầu tư
và các Ban quản lý dự án là người được Nhà nước giao trách nhiệm trực tiếp quản lý
và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật [21].
Xuất phát từ đặc điểm này mà trong quản lý vốn đầu tư XDCB của NSNN dễ bị
thất thoát. Nếu các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án không ngừng nâng cao tinh
thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ không đáp ứng yêu cầu quản lý;
Nhà nước không tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bằng những cơ chế chính
sách ràng buộc trách nhiệm thì thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB thuộc vốn
NSNN là không thể tránh khỏi.
1.1.2.3. Các bước của quá trình đầu tư XDCB
* Trình tự đầu tư

Dự án đầu tư được hình thành và phát triển với nhiều giai đoạn riêng biệt,
nhưng gắn kết chặt chẽ với nhau, thậm chí đan xen nhau theo một tiến trình lôgic.
Mặc dù vậy, có thể nghiên cứu chúng một cách tương đối độc lập và trên các góc độ
khác nhau để hiểu chúng một cách hệ thống hơn, toàn diện hơn. Trên cơ sở quy
hoạch đã được phê duyệt, trình tự thực hiện dự án đầu tư bao gồm 8 bước công việc,
phân thành hai giai đoạn theo sơ đồ sau:
Qua sơ đồ ta thấy: bước trước là cơ sở để thực hiện bước sau, giai đoạn
trước là cơ sở thực hiện giai đoạn sau. Tuy nhiên, do tính chất và quy mô của dự
án mà một vài bước có thể gộp vào nhau như ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư, đối với
dự án vừa và nhỏ thì có thể không cần phải có bước nghiên cứu cơ hội đầu tư và
bước nghiên cứu dự án tiền khả thi mà xây dựng luôn dự án khả thi, thậm chí chỉ
cần lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đối với những dự án quá nhỏ và những dự án có
thiết kế mẫu.
11
Giai đoạn I
Chuẩn bị đầu tư
Nghiên cứu cơ
hội đầu tư
Nghiên cứu dự
án tiền khả thi
Nghiên cứu dự
án khả thi
Thẩm định và phê
duyệt dự án
Giai đoạn II
Thực hiện đầu tư
Thiết kế, lập
tổng dự toán,
dự toán
Ký kết HĐ: xây

dựng, thiết bị
Thi công xây
dựng, đào tạo,
CN,CBKT,QL
Chạy thử
nghiệm thu,
quyết toán
Đưa vào khai thác sử dụng
Sơ đồ 1.1. Trình tự trong hoạt động đầu tư [29].
Khi bước trước đã thực hiện xong, trước khi triển khai thực hiện bước tiếp
theo phải kiểm tra và đánh giá đủ các khía cạnh về kinh tế, tài chính, kỹ thuật của
bước đó, nếu đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn, quy phạm (nếu có) cho bước đó và được
cấp có thẩm quyền chấp nhận mới được thực hiện bước tiếp theo. Đáng lưu ý nhất là
thực hiện trình tự theo giai đoạn chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư dự án.
- Nội dung công việc thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư gồm:
+ Nghiên cứu sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
+ Tiến hành thăm dò, xem xét thị trường để xác định nhu cầu tiêu thụ; tìm
nguồn cung ứng thiết bị, vật tư cho sản xuất, xem xét khả năng về nguồn vốn đầu tư
và lựa chọn hình thức đầu tư.
+ Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng.
+ Lập dự án đầu tư.
+ Gửi hồ sơ dự án và văn bản của cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư,
tổ chức cho vay vốn đầu tư và cơ quan có chức năng thẩm quyền lập dự án đầu tư.
12
- Nội dung công việc ở giai đoạn thực hiện dự án bao gồm:
+ Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước, mặt biển và thềm
lục địa.
+ Chuẩn bị mặt bằng xây dựng.
+ Tuyển chọn tư vấn khảo sát, thiết kế giám định kỹ thuật và chất lượng công trình.
+ Phê duyệt, thẩm định thiết kế và tổng dự toán, dự toán hạng mục công trình.

+ Tổ chức đấu thầu thi công xây lắp, thiết bị.
+ Xin giấy phép xây dựng và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có).
+ Ký kết hợp đồng kinh tế với nhà thầu đã trúng thầu.
+ Thi công xây lắp công trình.
+ Kiểm tra giám sát thực hiện các hợp đồng.
* Phân loại dự án đầu tư
Trên thực tế, các dự án đầu tư rất đa dạng về cấp độ loại hình, quy mô và thời
hạn. Do vậy, tuỳ theo mục đích nghiên cứu và quản lý mà người ta có thể phân loại
dự án đầu tư theo các tiêu thức khác nhau.
* Theo tính chất của dự án: người ta có thể chia dự án đầu tư thành các loại dự
án: dự án đầu tư sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển KT - XH, dự án đầu tư
nhân đạo.
* Theo nguồn vốn đầu tư: có dự án đầu tư bằng vốn trong nước, vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài, vốn ODA, vốn đầu tư của Chính phủ, vốn đầu tư của khu vực
tư nhân, vốn liên doanh và vốn cổ phần…
* Theo ngành, lĩnh vực đầu tư: dự án thuộc ngành công nghiệp, nông nghiệp,
lâm nghiệp, kết cấu hạ tầng dịch vụ…
* Theo quy mô: dự án đầu tư quy mô lớn, dự án đầu tư quy mô vừa và nhỏ.
Phân loại dự án theo yêu cầu phân cấp quản lý của Nhà nước thì trong luật
Xây dựng và Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ về
quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình [7,20] đã phân dự án thành ba nhóm như
sau:
Dự án nhóm A
13
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: thuộc lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc
phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị xã hội quan trọng, dự án sản
xuất chất độc hại, hạ tầng khu công nghiệp (không kể mức vốn).
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất,
phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản, các dự án
giao thông (cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở

với tổng mức đầu tư trên 600 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Thuỷ lợi, giao thông (khác với các
điểm trên) cấp thoát nước và công trình kỹ thuật hạ tầng, kỹ thuật điện, sản xuất thiết
bị thông tin, điện tử tin học, hoá dược, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu bưu
chính viễn thông với tổng mức đầu tư trên 400 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh,
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản, chế biến nông - lâm sản với tổng mức đầu tư trên 300 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh
truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng dân dụng nhà ở), kho tàng, du
lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác với tổng mức đầu tư
trên 200 tỷ đồng.
Dự án nhóm B
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất,
phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản, các dự án
giao thông (cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở
với tổng mức đầu tư từ 30 tỷ đồng đến 600 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Thuỷ lợi, giao thông (khác với các
điểm trên) cấp thoát nước và công trình kỹ thuật hạ tầng, kỹ thuật điện, sản xuất thiết
bị thông tin, điện tử tin học, hoá dược, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu bưu
chính viễn thông với tổng mức đầu tư từ 20 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng.
14
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh,
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản, chế biến nông, lâm sản với tổng mức đầu tư từ 15 tỷ đồng đến 300 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh
truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng dân dụng nhà ở), kho tàng, du
lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác với tổng mức đầu tư từ
7 tỷ đến 200 tỷ đồng.
Dự án nhóm C

- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Công nghiệp điện, dầu khí, hoá chất,
phân bón, chế tạo máy, xi măng, luyện kim, khai thác, chế biến khoáng sản, các dự án
giao thông (cầu, cảng biển, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ), xây dựng khu nhà ở
với tổng mức đầu tư dưới 30 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Thuỷ lợi, giao thông (khác với các
điểm trên) cấp thoát nước và công trình kỹ thuật hạ tầng, kỹ thuật điện, sản xuất thiết
bị thông tin, điện tử tin học, hoá dược, công trình cơ khí khác, sản xuất vật liệu bưu
chính viễn thông với tổng mức đầu tư dưới 20 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh,
vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ
sản, chế biến nông, lâm sản với tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh
truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng dân dụng nhà ở), kho tàng, du
lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác với tổng mức đầu tư
dưới 7 tỷ đồng.
1.1.3. Chức năng của đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư với tư cách là làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ thực hiện
một loạt chức năng, trong đó có các chức năng quan trọng nhất thường được chú ý:
Một là chức năng năng lực
15
Chức năng năng lực là chức năng tạo ra năng lực mới của đầu tư XDCB. Các
năng lực mới cho đầu tư XDCB tạo ra có giá trị sử dụng cá thể và thông qua đó các
nhu cầu cá thể được thoả mãn. Vì vậy chức năng năng lực được tạo ra khả năng đảm
bảo duy trì hoặc phát triển sản xuất sản phẩm dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu cuối
cùng hoặc khả năng bảo vệ và cải tạo môi trường nhằm hạn chế khắc phục những ảnh
hưởng xấu đến sản xuất và tiêu dùng.
Chức năng năng lực được coi là chức năng đầu tiên của đầu tư XDCB. Các chức
năng khác được suy ra hoặc hỗ trợ chức năng này.
Hai là chức năng thay thế
Chức năng thay thế của đầu tư XDCB biểu hiện khả năng thay đổi từng tổ hợp

các nhân tố sản xuất và khả năng thay thế lẫn nhau của từng nhân tố này do kết quả
của quá trình đầu tư XDCB. Tuy nhiên, ý nghĩa của chức năng thay thế phải được
biểu hiện ở tiết kiệm chi phí, ở các khu vực sản xuất vật chất nhờ quá trình đầu tư
XDCB thay thế hợp lý các nhân tố sản xuất mà đảm bảo tiết kiệm các chi phí sản
xuất. Tương tự như vậy đầu tư XDCB vào khu vực dịch vụ, trước hết là dịch vụ tiêu
dùng cũng đảm bảo hợp lý các nhân tố tiêu dùng cuối cùng nhằm thoả mãn nhu cầu
này với chi phí xã hội ít hơn.
Vai trò, chức năng thay thế đầu tư XDCB ngày càng tăng lên cùng với sự phát
triển khoa học kỹ thuật (vì bản chất của nó chính là việc sử dụng vật liệu và công
nghệ mới, cao cấp hơn thay thế các vật liệu cũ và công nghệ hiện đang dùng) và với
việc hướng dần nền kinh tế vào loại hình phát triển chiều sâu mà đặc trưng là thay thế
có hiệu quả các yếu tố sản xuất.
Ba là chức năng thu nhập và sinh lời
Chức năng thu nhập và sinh lời của đầu tư XDCB được xác định bởi khả năng
tạo ra thu nhập và sinh lời do quá trình đầu tư XDCB mang lại. Chức năng thu nhập
và sinh lời ở đây chính là sự kết hợp của chức năng năng lực và chức năng thay thế
để tạo điều kiện tăng tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc gia. Đặc trưng
kết quả thu nhập là ở chỗ đánh giá công dụng của đầu tư XDCB về phương diện ảnh
hưởng của nó, tạo ra mối quan hệ giá trị và thu nhập trong nền kinh tế. Do đó chức
16
năng thu nhập và sinh lời của đầu tư XDCB chính là tác động của nó trong việc tạo ra
và phân phối thu nhập quốc dân. Nói một cách chính xác hơn là tạo ra và tăng thu
nhập của từng chủ thể trong hệ thống kinh tế, mà trước hết là ảnh hưởng đến tăng thu
nhập của các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đầu tư, làm ảnh hưởng đến
việc tăng lợi nhuận và tổng thu nhập của các tổ chức kinh doanh và các tầng lớp dân
cư trong nền kinh tế.
1.1.4. Hiệu quả sử dụng vốn NSNN vào đầu tư XDCB
1.1.4.1. Vốn NSNN
Vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các sản phẩm nhằm mục tiêu thu nhập
trong tương lai. Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được gọi là vốn

đầu tư, nếu quy đổi ra thành tiền thì vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư.
Bất kỳ một quá trình tăng trưởng hoặc phát triển kinh tế nào muốn tiến hành
được đều phải có VĐT, VĐT là nhân tố quyết định để kết hợp các yếu tố trong sản
xuất kinh doanh. Nó trở thành yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với tất cả các
dự án đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Nghị định số 385-HĐBT ngày 07/11/1990 của hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
Phủ) về việc sửa đổi, bổ sung thay thế điều lệ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đã ban
hành theo Nghị định số 232-CP ngày 06/06/1981 khái niệm “Vốn đầu tư XDCB là
toàn bộ chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết
kế xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác ghi trong tổng
dự toán” [23].
Theo nghĩa chung nhất thì VĐT XDCB bao gồm: chi phí cho việc khảo sát, quy
hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng, chi phí mua sắm và lắp
đặt thiết bị và các chi phí khác theo một dự án nhất định.
Các nguồn lực thuộc quyền sở hữu và chi phối toàn diện của Nhà nước được sử
dụng cho hoạt động đầu tư XDCB được gọi là VĐT XDCB từ NSNN.
NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước tham gia
huy động và phân phối VĐT thông qua hoạt động thu, chi ngân sách [21].
- Căn cứ vào phạm vi, tính chất và hình thức thu cụ thể, VĐT XDCB từ NSNN
được hình thành từ các nguồn sau:
17
+ Nguồn vốn thu trong nước (thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ bán, cho thuê tài
sản, tài nguyên của đất nước…và các khoản thu khác).
+ Nguồn vốn từ nước ngoài (vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, nguồn viện
trợ phi Chính phủ).
- Phân cấp quản lý ngân sách chia VĐT XDCB từ NSNN gồm:
+ VĐT XDCB của ngân sách trung ương được hình thành từ các khoản thu của
ngân sách trung ương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích quốc gia.
Nguồn vốn này được giao cho các bộ, ngành quản lý sử dụng.
+ VĐT XDCB của ngân sách địa phương được hình thành từ các khoản thu ngân

sách địa phương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích của từng địa phương
đó. Nguồn vốn này thường được giao cho các cấp chính quyền địa phương (tỉnh,
huyện, xã) quản lý thực hiện.
- Mức độ kế hoạch hoá, VĐT từ NSNN được phân thành:
+ VĐT xây dựng tập trung: nguồn vốn này được hình thành theo kế hoạch với
tổng mức vốn và cơ cấu vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định giao cho từng bộ,
ngành và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
+ VĐT XDCB từ nguồn thu được để lại theo Nghị quyết của Quốc hội: thu từ
thuế nông nghiệp, thu bán, cho thuê nhà của Nhà nước, thu cấp đất, chuyển quyền sử
dụng đất…
+ VĐT XDCB theo chương trình quốc gia.
+ VĐT XDCB thuộc NSNN nhưng được để lại tại đơn vị để đầu tư tăng cường
cơ sở vật chất như: truyền hình, thu học phí…[21].
Nguồn VĐT XDCB từ NSNN phần lớn được sử dụng để đầu tư cho các dự án
không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, có vốn đầu tư lớn, có tác dụng chung cho
nền KT - XH mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn
tham gia đầu tư. Nguồn vốn cấp phát không hoàn lại này từ NSNN có tính chất bao
cấp nên dễ bị thất thoát, lãng phí, đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, trong
nguồn vốn NSNN thì phải loại nguồn vốn không được đưa vào kế hoạch và cấp phát
theo kế hoạch của Nhà nước (vốn để lại tại đơn vị), khả năng quản lý, kiểm soát của
18
Nhà nước gặp khó khăn hơn. Vốn ngoài nước thường phụ thuộc vào điều kiện nhà tài
trợ đặt ra, cũng làm cho việc quản lý bị chi phối. Đối với viện trợ không hoàn lại
thường do phía nước ngoài điều hành nên giá thành cao.
- VĐT từ ngân sách Nhà nước được đầu tư cho các dự án sau:
+ Các dự án kết cấu hạ tầng KT - XH, quốc phòng - an ninh không có khả năng
thu hồi vốn và được quản lý sử dụng phân cấp chi NSNN cho đầu tư phát triển.
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham
gia của Nhà nước theo Quy định của pháp luật.
+ Chi cho công tác điều tra, khảo sát lập quy hoạch tổng thể phát triển KT - XH

vùng, lãnh thổ; quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi được Chính phủ cho
phép [25].
1.1.4.2. Khái niệm hiệu quả VĐT XDCB
Do nguồn lực khan hiếm có hạn nên nhu cầu đầu tư luôn luôn cao hơn khả năng đầu
tư của nền kinh tế. Điều này đòi hỏi VĐT phải được sử dụng có hiệu quả nhằm trong
một thời gian nhất định với một khối lượng VĐT có hạn nhưng lại có thể thoả mãn tốt
nhất nhu cầu đầu tư nhằm góp phần thoả mãn tối đa nhu cầu xã hội.
Như vậy hiệu quả VĐT là một phạm trù kinh tế khách quan. Nó tồn tại là do sự
có hạn của nguồn lực. Yêu cầu sử dụng hiệu quả nguồn lực nói chung, sử dụng hiệu
quả VĐT nói riêng càng trở nên bức thiết đối với nền kinh tế.
Hiệu quả VĐT XDCB hiểu một cách chung nhất biểu hiện mối quan hệ so sánh
giữa các lợi ích của VĐT XDCB và khối lượng VĐT XDCB bỏ ra nhằm đạt được
những lợi ích đó. Lợi ích của VĐT XDCB thể hiện ở mức độ thoả mãn nhu cầu xã
hội của sản phẩm do VĐT XDCB bỏ ra, bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội [11,
28].
Lợi ích kinh tế của VĐT XDCB thể hiện ở mức độ thực hiện các mục tiêu kinh tế
của quá trình đầu tư XDCB nhằm thoả mãn chủ yếu các nhu cầu vật chất của xã hội.
Do đó lợi ích kinh tế biểu hiện cụ thể về sự thay đổi cán cân thương mại, ở mức độ
lợi nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản xuất…
19
Lợi ích xã hội của VĐT XDCB, ngoài việc thực hiện các mục tiêu kinh tế nói
trên còn thực hiện các mục tiêu xã hội khác như mục tiêu chính trị, mục tiêu an ninh
quốc phòng, văn hoá xã hội…Theo đó lợi ích xã hội của VĐT XDCB còn bao gồm
những sự thay đổi về điều kiện sống và điều kiện lao động, về môi trường, về hưởng
thụ văn hoá, phúc lợi công cộng, chăm sóc y tế và quyền bình đẳng…Dựa vào quá
trình quản lý đầu tư XDCB ta thấy: từ khi có VĐT, tiến hành thực hiện đầu tư sẽ tạo
một khối lượng tài sản cố định. Khi các TSCĐ này được sử dụng (giai đoạn khai thác
dự án) sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ nhất định. Lợi ích của
VĐT chỉ xuất hiện khi mà sản phẩm hàng hoá dịch vụ được sử dụng thoả mãn nhu
cầu theo mục tiêu đã định.

1.1.4.3. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả VĐT xây dựng cơ bản
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về tiêu chuẩn hiệu quả VĐT, có thể phân
thành 3 nhóm quan niệm chính như sau:
Nhóm 1: coi tiêu chuẩn hiệu quả là một mức hiệu quả nào đó (ví dụ hiệu quả định
mức H
d
) và dựa vào đó để kết luận VĐT có hiệu quả hay không. Nếu H>H
d
có thể kết
luận VĐT có hiệu quả. Ngược lại H<H
d
có thể rút ra VĐT không hiệu quả.
Nhóm 2: cho tiêu chuẩn hiệu quả VĐT là một mức cao nhất có thể đạt được trong
điều kiện nhất định (H max). Theo quan niệm này, hiệu quả VĐT thực đạt được (H)
thường nhỏ hơn hoặc bằng (Hmax). Theo đó H càng tiến lại gần (Hmax) vốn đầu tư
càng có hiệu quả.
Nhóm 3: điển hình là T.charatyrob cho rằng “Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả VĐT
là do quy luật kinh tế cơ bản quyết định”. Quan niệm này đã gắn mục tiêu của nền
kinh tế với phương tiện để đạt được mục tiêu đó và trong thực tế quan niệm này được
sử dụng rất rộng rãi [6].
Các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả VĐT có thể phân thành hai loại:
a. Tiêu chuẩn lợi ích tối đa.
b. Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu.
Tiêu chuẩn lợi ích tối đa được xem xét trong điều kiện khi đánh giá hiệu quả dự
án có nhiều phương án thay thế lẫn nhau cùng có mức VĐT như nhau phương án
20
nào có lợi ích KT - XH tối đa thì được coi là tối ưu, hiệu quả nhất nên được lựa
chọn.
Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu cũng được xem xét trong điều kiện hiệu quả dự án đầu
tư có nhiều phương án thay thế lẫn nhau cùng có mức lợi ích KT - XH định trước,

phương án nào có chi phí VĐT ít nhất được coi là hiệu quả nhất nên được chọn để
thực hiện đầu tư.
Hai loại tiêu chuẩn hiệu quả trên nhìn chung kết quả tương tự nhau và đưa đến
những kết luận như nhau. Tiêu chuẩn lợi ích tối đa tạo điều kiện sử dụng đầy đủ các
nguồn lực hiện có làm cho hiệu quả từng bộ phận thống nhất với hiệu quả toàn bộ nền
kinh tế. Trong khi đó tiêu chuẩn chi phí tối thiểu chưa quan tâm đầy đủ đến việc tận
dụng các nguồn lực hiện có do đó hiệu quả cục bộ đã không dẫn đến hiệu quả toàn bộ.
Loại hình tiêu chuẩn lợi ích tối đa được coi là cơ bản nên được sử dụng phổ biến.
1.1.4.4. Các chỉ tiêu sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng VĐT XDCB
Nền kinh tế luôn luôn tồn tại mâu thuẫn, một bên là nhu cầu xã hội có tính vô hạn
và một bên là nguồn lực khan hiếm, có hạn để tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
nhằm thoả mãn nhu cầu xã hội.
Việc đo lường đánh giá hiệu quả VĐT trở nên rất cần thiết đặc biệt là đối với nền
kinh tế kém phát triển có mức thu nhập thấp như nước ta.
Lợi ích của VĐT mang lại bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Biểu hiện
của lợi ích kinh tế là tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống làm thay đổi cơ cấu
và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, từ đó làm tăng thu ngân sách Nhà nước, đẩy mạnh
xuất khẩu, giảm chi phí, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, bảo vệ môi trường…
Lợi ích xã hội biểu hiện lợi ích chính trị, quốc phòng, an ninh chính trị trật tự an
toàn xã hội, phát triển văn hoá, tăng cường sự bình đẳng và quyền lợi của các quốc
gia dân tộc.
Để đánh giá hiệu quả của hoạt đồng đầu tư, người ta thường sử dụng các nhóm
chỉ tiêu sau:
* Nhóm chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả đầu tư chung
21
- Chỉ tiêu ICOR: dùng để phản ánh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng qua
công thức:
ICOR=I/

GDP

Hay I=ICOR x

GDP
Trong đó:
ICOR: là hệ số tỷ lệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
I: là vốn đầu tư.

GDP: mức thay đổi trong tổng sản phẩm quốc nội.
Hệ số ICOR cho biết trong thời kỳ cụ thể muốn tăng thêm 1 đồng GDP thì cần
bao nhiêu đồng VĐT. Hệ số này càng thấp thì hiệu quả VĐT càng cao. Nếu hệ số
ICOR không đổi thì tỷ lệ giữa VĐT(I) so với GDP sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng
kinh tế, (tỷ lệ đầu tư càng cao thì tốc độ tăng trưởng càng cao và ngược lại).
Hệ số ICOR đóng vai trò rất quan trọng trọng việc xây dựng các kế hoạch kinh
tế. Đây là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất trong việc tính toán nhu cầu VĐT theo
các mô hình kinh tế.
Thông qua việc sử dụng hệ số ICOR chúng ta thấy rõ sự gia tăng VĐT đặt trong
mối quan hệ với sự gia tăng GDP. Chỉ tiêu ICOR ở mỗi nước phụ thuộc vào nhiều
nhân tố như: cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ,
cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường
ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp; ICOR trong giai đoạn chuyển
đổi cơ chế chủ yếu phụ thuộc vào việc tận dụng năng lực sản xuất. Do đó ở các nước
phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
- Hiệu suất VĐT: Hiệu suất VĐT biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa GDP và
VĐT trong kỳ được xác định theo công thức:
Hi = GDP/I
Trong đó:
Hi: Hiệu suất vốn đầu tư trong kỳ.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ.
I: Tổng mức VĐT trong kỳ
- Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động đầu tư

22
Các kết quả đạt được do thực hiện đầu tư
Hiệu quả hoạt động đầu tư =
Tổng VĐT thực hiện
Công thức này phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và nâng cao đời sống nhân dân của tổng VĐT đã bỏ ra trong một thời
kỳ so với thời kỳ khác (hoặc so với định mức chung). Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với kết
quả thu được, kết quả đầu ra nhiều thì hiệu quả đạt được cao. Nó có thể được định
lượng thông qua các chỉ tiêu như: Giá trị TSCĐ tăng thêm, số km đường, số nhà máy
nước, điện, số m
2
nhà tăng thêm…
Để tính hiệu quả VĐT TSCĐ tăng thêm có thể dùng công thức hệ số thực hiện
VĐT:
H = FA/I
Trong đó:
H: Hệ số thực hiện VĐT.
FA: Giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ.
I: Tổng số VĐT trong kỳ.
Hiệu suất TSCĐ: Hiệu suất TSCĐ ký hiệu (Hfa) biểu hiện sự so sánh giữa khối
lượng tổng sản phẩm quốc nội được tạo ra trong kỳ (GDP) với khối lượng giá trị
TSCĐ trong kỳ (FA) được tính theo công thức:
H (fa) = GDP/FA
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ nào đó, một đồng giá trị TSCĐ sử dụng sẽ tạo ra
bao nhiêu đồng sản phẩm quốc nội.
TSCĐ là kết quả do VĐT tạo ra, do đó hiệu suất TSCĐ phản ánh một cách khái
quát hiệu quả VĐT trong kỳ. Chỉ tiêu này được sử dụng rộng rãi trong phân tích kinh
tế vĩ mô.
- Hệ số thực hiện VĐT
Hệ số thực hiện VĐT là một chỉ tiêu quan trọng. Nó phản ánh mối quan hệ giữa

lượng VĐT bỏ ra với các TSCĐ (kết quả của VĐT) được đưa vào sử dụng. Hệ số
được tính theo công thức sau:
H
0
= FA/I
23
Trong đó:
H
0
: Hệ số thực hiện VĐT
FA: Giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ
I: Tổng số VĐT trong kỳ
Theo cách tính này hệ số VĐT càng lớn biểu hiện hiệu quả VĐT càng cao
* Nhóm chỉ tiêu kinh tế phản ánh hiệu quả đầu tư cho một dự án cá biệt
Đo lường và đánh giá hiệu quả VĐT ở tầm vi mô là hiệu quả của từng dự án
đầu tư, là trọng tâm của việc đo lường và đánh giá hiệu quả VĐT. Các nhà kinh tế
học hiện nay thường dùng một số chỉ tiêu sau:
- Thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian khai thác dự án (thường tính bằng năm)
mà toàn bộ các khoản thu nhập do dự án mang lại có thể bù đắp đủ toàn bộ VĐT của
dự án, số tiền thu hồi này không bao gồm lãi suất phát sinh trả cho việc sử dụng vốn
ứng trước. Thời gian hoàn vốn được tính bằng công thức:
T=


=
=
+
n
i

n
i
KiLi
Vi
1
1
i=
n,1
Trong đó:
Vi: Số VĐT ứng trước năm i
Li: Lợi nhuận ròng bình quân đến năm thứ i
Ki: Khấu hao TSCĐ bình quân đến năm thứ i
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (Net present Value – NPV)
Giá trị hiện tại thuần là tổng lãi ròng của cả đời dự án được chiết khấu về năm
hiện tại theo tỷ lệ chiết khấu nhất định.
NPV=

+

)1( r
CiBi
i
24
Hay NPV =

+

+
==


n
i
i
n
i
i
rr
CiBi
00
)1()1(
11
Trong đó:
Bi: Lợi ích của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án thu được (như
doanh thu bán hàng, lệ phí thu hồi, giá trị thanh lý thu hồi..)
Ci: Chi phí của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án bỏ ra (như chi
phí đầu tư, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, chi trả, thuế và trả lãi vay..)
R: tỷ suất chiết khấu
n: số năm hoạt động kinh tế của dự án (tuổi thọ kinh tế của dự án)
i: Thời gian của dự án (i=
n,0
).
Nếu dự án có NPV > o thì dự án khả thi về mặt tài chính.
Nếu cần phải xem xét nhiều dự án đầu tư XDCB đã khả thi về mặt tài chính
nhưng loại trừ lẫn nhau thì phương án có NPV lớn nhất là phương án đánh giá về mặt
tài chính.
Nếu các phương án của lợi ích dự án như nhau thì phương án có giá trị hiện tại
của chi phí nhỏ nhất, phương án đó đánh giá nhất về mặt tài chính.
Nhược điểm của chỉ tiêu này là phải đưa vào lãi suất chiết khấu được lựa chọn.
Lựa chọn lãi suất chiết khấu rất phức tạp vì có nhiều cách thức và mỗi cách thức kết
quả khác nhau. Thông thường lãi suất chiết khấu được xác định bằng lãi suất thu lợi

tối thiểu có thể chấp nhận được (vốn dài hạn, vốn ngắn hạn, vốn cổ phần..) và lãi suất
vay trên thị trường vốn.
- Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate ò Return – IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó giá trị hiện
tại thuần (NPV) bằng 0
Biểu hiện dưới dạng công thức là:
NPV=

+

)1( r
CiBi
i
= 0
25

×