Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đổi mới công tác quản lý cán bộ thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội thành phố Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.29 KB, 25 trang )

Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ta là xã hội vì con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của
phát triển kinh tế, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống con người
làm mục tiêu phục vụ.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhấn mạnh phát
triển kinh tế phải đi đôi với việc giải quyết tốt những vấn đề xã hội, bởi lẽ phát
triển kinh tế phải là sự phát triển bền vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh
tế, văn hóa, vừa giữ vững được ổn định kinh tế - xã hội, không có những xáo
trộn, xung đột làm ảnh hưởng đến việc huy động các nguồn lực cho sự phát
triển. Trong phát triển bền vững, yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội quyện vào nhau,
hòa nhập vào nhau. Mục tiêu phát triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu giải
quyết những vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đền ơn
đáp nghĩa, Bảo hiểm xã hội (BHXH) nhằm thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu
cầu cơ bản của người dân, thực hiện công bằng xã hội. Ngược lại, mục tiêu phát
triển xã hội cũng nhằm tăng động lực phát triển kinh tế. Đó cũng là sự khác biệt
cơ bản về mục tiêu phát triển giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Với
nhận thức đó, Đại hội VIII của Đảng đã đề ra những quan điểm chỉ đạo việc
hoạch định hệ thống chính sách xã hội, trong đó có chính sách BHXH.
Hoạt động của BHXH có vai trò to lớn trong việc ổn định đời sống, giảm
bớt những khó khăn trong cuộc sống của người lao động và các thành viên trong
gia đình họ, đảm bảo thúc đẩy sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động. Có
thể nói hoạt động của BHXH mang tính nhân văn rất cao. Dó đó, xã hội ngày
càng phát triển thì nhu cầu xã hội cần có sự an toàn trong cuộc sống càng cao, từ
đó các dịch vụ bảo hiểm cũng ngày càng phát triển. Để ngành BHXH đáp ứng
được nhu cầu đa dạng của người dân, đặc biệt là người tham gia BHXH thuộc
các tầng lớp, các thành phần kinh tế khác nhau thì đội ngũ cán bộ, công chức
ngành BHXH phải đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng chuyên môn cũng
như phẩm chất chính trị. Đây là đòi hỏi khách quan và cũng là vinh dự của đội
ngũ nhân lực của ngành. Bởi cán bộ là nhân tố quyết định sự phát triển, hoàn
thiện của sự nghiệp ngành BHXH nói riêng và cũng là nhân tố quyết định sự


thành bại của sự nghiệp cách mạng, vận mệnh của đất nước.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
1
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
Để làm sáng tỏ vấn đề này, tôi xin chọn đề tài: “ Đổi mới công tác quản lý cán
bộ thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội thành phố Hà nội”
Khóa luận được hoàn thành dựa trên cơ sở khai thác, thu thập, tổng hợp số
liệu của cơ quan BHXH thành phố Hà nội trong giai đoạn 2004 – 2008, đồng
thời tham khảo thêm tài liệu có liên quan. Quá trình nghiên cứu có sử dụng
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp nhằm đánh giá công tác
quản lý cán bộ tại cơ quan. Ngoài ra, đề tài còn đề xuất một số giải pháp cụ thể,
có tính khả thi nhằm đổi mới công tác này.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, đề tài này có ba phần chính:
Chương 1: Tổng quan về BHXH và khái quát một số vấn đề về công
tác quản lý cán bộ thuộc hệ thống BHXH Việt Nam
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý cán bộ của BHXH TP Hà nội
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm đổi mới công tác quản lý cán bộ
thuộc hệ thống BHXH TP Hà nội.
Mặc dù đã cố gắng, song do hiểu biết và trình độ còn hạn chế nên bài viết
này của tôi khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Tôi rất mong
nhận được sự quan tâm chỉ bảo của giảng viên: Th.sỹ Nguyễn Thu Thủy , các
thầy cô trong khoa Quản trị kinh doanh, các cô chú, anh chị cán bộ, nhân viên
trong cơ quan BHXH TP Hà nội cũng như sự đóng góp ý kiến của các bạn sinh
viên để đề tài được hoàn chỉnh hơn về mặt lý luận và tăng tính khả thi trong việc
áp dụng vào thực tiễn công tác quản lý cán bộ của cơ quan.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 16/11/2008
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD

2
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
VÀ KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC
QUẢN LÝ CÁN BỘ THUỘC HỆ THỐNG BHXH VIỆT NAM
1.1.TỔNG QUAN VỀ BHXH
1.1.1.Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm xã hội.
BHXH là sự bảo vệ xã hội cho mọi thành viên của xã hội. Trong cuộc
sống mỗi người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại
Để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu đó người ta phải lao động làm ra những
sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm làm ra ngày càng nhiều thì đời sống con người
ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc
thỏa mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào
chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không chỉ lúc nào con
người cũng gặp thuận lợi, có đủ thu nhập và mọi điều kiện sống bình thường.
Trái lại, có rất nhiều trường hợp gặp khó khăn bất lợi ít nhiều phát sinh làm cho
người ta bị giảm, mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn,
bất ngờ bị ốm đau hoặc tai nạn lao động, mất việc làm hoặc khi tuổi già khả
năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm Khi rơi vào những trường
hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại
có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần
được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải
có người chăm sóc nuôi dưỡng. Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con
người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết
khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng, đi vay đi xin
hay dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước Rõ ràng, những cách đó hoàn toàn thụ
động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động nhưng về sau đã phải
cam kết cả việc đảm bảo cho người làm thuê một số thu nhập nhất định để họ
trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản

Trong thực tế, nhiều trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải trả
một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc
nhiều khoản tiền lớn mà họ ko mong muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát
sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh
ngày càng rộng lớn và có tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội. Do
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
3
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều chỉnh mâu thuẫn. Sự can thiệp
này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và
thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ
dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với người lao động làm thuê. Số tiền
đóng góp của cả chủ và thợ trở thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi
quốc gia. Quỹ này được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm
bảo cuộc sống cho người lao động khi gặp phải những rủi ro, biến cố bất lợi.
Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao
động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng đảm
bảo được ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản suất kinh
doanh bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn
quỹ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết
các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Tất cả những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
được thế giới quan niệm là Bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy,
BHXH ra đời và phát triển là một tất yếu khách quan và ngày càng phát triển
cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia. Mọi thành viên trong xã hội đều nhận
thấy cần thiết tham gia BHXH. Nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của người lao
động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan.
1.1.2.Quá trình phát triển của Bảo hiểm xã hội trên thế giới.
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ XIX, khi nền công nghiệp và
kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Trong giai

đoạn này, trước cục diện mới, giai cấp công nhân ngày càng đông, nhiều sức ép
về chính trị, xã hội lần lượt tác động, ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội của các
quốc gia. Chính phủ các nước, nhất là các nước công nghiệp không thể không
quan tâm đến tình cảnh của người lao động. Họ buộc phải từng bước cải thiện
điều kiện lao động, rút ngắn thời gian làm việc, có chế độ thích hợp hơn để tỏ ra
có chăm sóc đến đời sống của người lao động. Điển hình là năm 1850, dười thời
thủ tướng Bis – Mac, nhiều bang của nước Đức đã giúp các địa phương lập quỹ
Bảo hiểm ốm đau, do các công nhân phải đóng tiền để được bảo hiểm. Nguyên
tắc bảo hiểm bắt buộc chính là bắt nguồn từ đây và người được bảo hiểm phải
đóng bảo hiểm.
Chế độ ốm đau được phổ cập trong toàn nước Đức vào năm 1883, do các
hội tương tế lúc bấy giờ của công nhân quản lý. Năm 1884, xuất hiện các chế độ
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
4
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
bảo hiểm về rủi ro nghề nghiệp do các Hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm
1889, lại xuất hiện các chế độ bảo hiểm tuổi già và bảo hiểm tàn tật do chính
quyền các tỉnh quản lý.
Trong khoảng từ năm 1883 đến năm 1889, một hệ thống BHXH lớn đầu
tiên đã ra đời với sự tham gia bắt buộc của những người làm công ăn lương, theo
nguyên tắc người được hưởng bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm và ba thành
viên của xã hội là: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều có vị
trí quan trọng trong việc quản lý hệ thống BHXH. Từ đó nhiều nước đã sử dụng
cơ chế này trong hệ thống các chế độ BHXH của mình.
Sáng kiến về BHXH của chính quyền Bis – Mac được nhiều nước Châu
Âu tiếp nhận. Từ thập kỷ 30 của thế kỷ XX liên tiếp các nước Mỹ la tinh, Hoa
Kỳ, Canada đều áp dụng; từ sau đại chiến thế giới thứ II và sau khi giành được
độc lập, nhiều nước Châu Âu, Châu Á và vùng Caribe cũng lần lượt áp dụng cơ
chế BHXH tương tự. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng các nước áp dụng cơ chế
BHXH chủ yếu là áp dụng các đặc trưng có sự đóng phí BHXH của những

người được bảo hiểm. Còn về chế độ phụ cấp cụ thể thì tùy mỗi nước, tùy theo
điều kiện kinh tế xã hội cụ thể và truyền thống riêng của nước mình để thêm bớt,
không máy móc, sao chép những chế độ đã có ở nước này, nước khác.
Đến nay, luật BHXH được thực hiện ở rất nhiều nước và trở thành một bộ
phận quan trọng trong hoạt động của Liên hợp quốc. Trong tuyên ngôn của Liên
hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948 có ghi: “ Tất cả mọi người với tư cách là
thành viên của xã hội, có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt trên cơ sở sự thỏa
mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát
triển con người.”
1.1.3.Những nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội.
1.1.3.1.Khái niệm và bản chất của Bảo hiểm xã hội.
BHXH là một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Chính sách BHXH được thể chế hóa và thực hiện theo luật. BHXH là sự chia sẻ
rủi ro và nguồn quỹ nhằm bảo vệ người lao động khi họ bị mất hoặc suy giảm
khả năng lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một
quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ
góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
5
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động
bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.
Tuy vậy, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà đối
tượng này là tất cả hoặc một bộ phận người lao động nào đó. Hầu hết các nước
khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà
nước, những người làm công hưởng lương. Việt nam cũng không vượt ra khỏi

thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những
người lao động.
Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội
dung chủ yếu sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của BHXH, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan
hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng
của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động
hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận
nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và
bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều
kiện cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con
người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc cũng có thể là
những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản
đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một quỹ tiền tệ tập trung
được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu,
ngoài ra còn có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
6
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của
người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục
tiêu này được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hóa như sau:

+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống và đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu
cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con
người và được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi Tuyên ngôn Nhân
quyền ngày 10/12/1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên cũ của
xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thỏa mãn các
quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát
triển con người”.
1.1.3.2. Chức năng của Bảo hiểm xã hội.
BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất
việc làm. Sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho
cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả người lao động khi hết tuổi lao
động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng
lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được
hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời
điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất
của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của
BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người
sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ
này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít,
BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân

phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
7
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
khỏe mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc Thực hiện
chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe mạnh tham
gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc
tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc khi về già đã có BHXH
trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ
luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm,
gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động
sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu
hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao
động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người
lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người
sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương,
tiền công, thời gian lao động Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được
điều hòa và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà
mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích
được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải
chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống
cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế,
chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
1.1.3.3. Tính chất của Bảo hiểm xã hội.
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính
chất cơ bản sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội.

Trong quá trình lao động sản xuất, người lao động có thể gặp nhiều biến
cố, rủi ro. Khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn
không kém như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng lao động
và hợp đồng lao động luôn phải đặt ra để thay thế. Sản xuất càng phát triển,
những rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng
lao động càng nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ ngày
càng căng thẳng. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
8
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
thông qua BHXH. Và như vậy, BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan
trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và
không gian. Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH.
Từ thời điểm hình thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia
để hình thành quỹ BHXH. Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian
và không gian đến mức trợ cấp BHXH theo từng chế độ cho người lao động.
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính
dịch vụ.
+ Tính kinh tế:
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, Quỹ BHXH muốn được hình thành,
bảo toàn và tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được
quản lý chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được
tính toán rất cụ thể dựa trên xác suất phát sinh thiệt hại của tập hợp người lao
động tham gia BHXH. Quỹ BHXH chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động
là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với
người sử dụng lao động, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH là để bảo hiểm
cho người lao động mà mình sử dụng. Xét tren góc độ kinh tế, họ cũng có lợi vì
không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang trải cho những người lao động bị
mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước, BHXH góp phần làm giảm

gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho
nền kinh tế quốc dân.
+ Tính xã hội:
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống Bảo hiểm xã hội, vì vậy tính xã
hội của nó thể hiện rất rõ. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều
có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm
cho người lao động và gia đình họ, kể cả khi họ còn đang ở trong độ tuổi lao
động.
+ Tính dịch vụ:
Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền
kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính chất xã hội hóa của
BHXH cũng ngày càng cao.
Hiện nay, BHXH mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của lực
lượng lao động. Đa số đông người lao động là người lao động nông nghiệp, tự
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
9
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
tạo việc làm. Những người này cũng cần sự bảo vệ của hệ thống BHXH. Vì vậy,
việc mở rộng phạm vi BHXH là hết sức cần thiết để BHXH thực sự đáp ứng
được nhu cầu của tất cả người lao động.
1.1.3.4. Các chế độ Bảo hiểm xã hội trên thế giới.
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Quỹ BHXH được
sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống
cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất
là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong Công ước 102 tháng 6
năm 1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già

5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Các chế độ trên trở thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tùy điều kiện
kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị
đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít
nhất phải có một trong năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chế độ trong hệ
thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội; tài chính; thu
nhập; tiền lương. Đồng thời, tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các
yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân của quốc gia; nhu cầu dinh dưỡng; xác suất
tử vong.
1.1.3.5. Những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH, các nước đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và
mức độ thỏa mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải
và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nước mình. Đồng thời, phải nhận
thức thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây:
a. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng
nhất trong chính sách BHXH.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
10
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người
lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Ở nước ta, BHXH nằm trong
hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất đây là một
trong những loại chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những
quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an
toàn lao động, an toàn xã hội. Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh,

tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia.
Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã
hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát
huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
b. Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người
lao động.
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các
cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH
và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động
mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn
ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu tư để
có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và
đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc
bình thường thì phải trả lương thỏa đáng cho họ. Khi họ gặp phải rủi ro, bị ốm
đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trong đó có rất nhiều trường hợp gắn
với quá trình lao động với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì
phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên
tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần
nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
c. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH,
không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp
Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng
BHXH như Tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ
đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Người lao động khi gặp rủi ro không
mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì
trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn BHXH tức là muốn nhiều
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
11
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương

người khác hỗ trợ cho mình là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì
tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết. Điều đó có nghĩa là bản thân
người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã
hội và lịch sử của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khỉ sản xuất phát triển, kinh tế tăng
trưởng, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ
cấp BHXH ngày càng đông.
d. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố:
+ Tình trạng mất khả năng lao động
+ Tiền lương lúc đang đi làm
+ Tuổi thọ bình quân của người lao động
+ Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức lương
đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
e. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện
chính sách BHXH.
Bởi vì, BHXH là một bộ phận cấu thành các chính sách, nó vừa là nhân tố
ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên, vai trò của
Nhà nước là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của
Nhà nước, nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối
quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch
định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp Vì vậy, Nhà nước quản
lý toàn bộ quy trình này, hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trước hết, phải khẳng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là
khâu đầu tiên và quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể
hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban
hành thực hiện chính sách.

Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ
thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô hình về bảo
đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì vai trò quản lý
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
12
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
Nhà nước là trực tiếp và toàn diện, nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do người sử dụng
lao động, người lao động và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước tham gia quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp
và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ
mô BHXH được Nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc Bộ Xã hội trực tiếp điều
hành.
1.1.4. Bảo hiểm xã hội Việt nam
1.1.4.1. Quá trình phát triển của BHXH ở Việt nam
Ở Việt nam, trong gần một thế kỷ bị cai trị bởi thực dân Pháp, hầu như
không đề ra được những gì để bảo vệ những quyền cơ bản của con người, không
thực hiện được chế độ chính sách BHXH đối với người lao động Việt nam.
Ngay sau Cách mạng tháng 8 thành công, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 của
nước Việt nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh
quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức
Nhà nước (có sắc lệnh 29/SL ngày 13/3/1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950
và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950). Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể
hiện trong hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận
công nhân viên chức có quyền được trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hóa
trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước, ban
hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và Điều lệ đãi ngộ quân nhân
ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ. Suốt
trong những năm kháng chiến chống xâm lược, chính sách BHXH nước ta đã
góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức,
quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức người sức

của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước.
Từ năm 1986, Việt nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh
tế tư cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Sự đổi mới về cơ chế
kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và
chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thực
hiện chế độ BHXH đối với công chức Nhà nước và người làm công ăn lương,
khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với người lao động”.
Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi
mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và đơn vị các đơn vị
kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
13
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
VIII cũng đã nêu lên: “Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các
thành phần kinh tế”. Như vậy, các văn bản trên của Đảng và Nhà nước là những
cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ
chế thị trường. Ngay sau khi Bộ luật Lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về điều lệ BHXH đối
với người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung cơ bản của Điều lệ
này góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, góp phần thực
hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hóa thị trường lao
động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động
trong các thành phần kinh tế của đất nước. Có thể nói, Điều lệ BHXH mới được
ban hành căn cứ vào Bộ luật lao động đã mở ra một trang mới đối với BHXH ở
nước ta trong điều kiện và bối cảnh mới: nền kinh tế nhiều thành phần, vận động
theo nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Cơ quan BHXH Hà nội là một đơn vị trực thuộc BHXH Việt nam, được
thành lập theo quyết định số 15/QĐ - TCCB ngày 15/6/1995 của Tổng Giám đốc

Bảo hiểm xã hội Việt nam dựa trên cơ sở sáp nhập Bảo hiểm xã hội của Sở Lao
động thương binh xã hội và Ban bảo hiểm xã hội thuộc Liên đoàn lao động
thành phố Hà nội. Với nhiệm vụ cơ bản là thực hiện quản lý thu, chi, giải quyết
chế độ chính sách cho người lao động tham gia BHXH và những người đã được
hưởng chế độ BHXH trước năm 1995. Từ tháng 1/2003, tiếp nhận tổ chức bộ
máy cán bộ, chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm y tế Hà nội và Bảo hiểm y tế
các ngành Giao thông vận tải, Dầu khí, ngành than chuyển sang, từ đây Bảo
hiểm xã hội thành phố thực hiện toàn diện chính sách Bảo hiểm xã hội và Bảo
hiểm y tế bắt buộc, tự nguyện đối với nhân dân và lao động Thủ đô.
1.1.4.2. Các chế độ BHXH ở Việt nam
Theo Điều 4 của Luật BHXH Việt nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt nam thông qua ngày 29/6/2006 thì BHXH nước ta hiện nay
bao gồm:
- Bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm các chế độ sau đây:
+ Ốm đau;
+ Thai sản;
+ Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
14
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
+ Hưu trí;
+ Tử tuất.
- Bảo hiểm xã hội tự nguyện bao gồm các chế độ sau đây:
+ Hưu trí;
+ Tử tuất.
- Bảo hiểm thất nghiệp bao gồm các chế độ sau đây:
+ Trợ cấp thất nghiệp;
+ Trợ cấp học nghề;
+ Hỗ trợ tìm việc làm.
Nội dung của các chế độ nêu trên được quy định thống nhất trong các

chương III; IV; V của Luật BHXH. Mỗi chế độ BHXH khi xây dựng đều căn cứ
vào một loạt những cơ sở như sinh học, kinh tế - xã hội; điều kiện và môi trường
lao động
a. Chế độ trợ cấp ốm đau
Chế độ này đã giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế
thu nhập bị mất do không làm việc khi ốm đau. Việc thiết kế chế độ này như
hiện hành đã tránh được những hiện tượng như lạm dụng và bình quân hóa khi
xét trợ cấp. Đảm bảo công bằng giữa đóng và hưởng BHXH, đồng thời có tính
đến yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện, vẫn còn một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu
xem xét như: danh mục các bệnh dài hạn quy định đã lâu, cần phải bổ sung một
số bệnh mới
b. Chế độ trợ cấp thai sản
Thiết kế chế độ này như hiện nay đã giúp lao động nữ có được khoản trợ
cấp thay thế cho phần thu nhập bi mất do không làm việc vì sinh con. Hơn nữa,
việc quy định thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiện và môi trường lao động
nhằm đảm bảo sức khỏe cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau. Qua
thực tiễn, chế độ này còn một số điểm cần phải khắc phục như: còn đan xen giữa
chính sách BHXH với chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình
c. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Thực tiễn triển khai chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã
góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động
không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Đồng thời chế độ này
còn quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
15
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Mức trợ cấp của chế độ này dựa
trên cơ sở tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là hợp lý. Tuy vậy, cần phải xác
định rõ hơn tai nạn lao động xảy ra trên đường đi từ nhà đến nơi làm việc và

ngược lại, danh mục bệnh nghề nghiệp cần phải được bổ sung vì có một số loại
bệnh mới phát sinh nhưng chưa được xếp vào bệnh nghề nghiệp.
d. Chế độ hưu trí
Đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay thế cho phần thu
nhập không được nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hưu. Nội dung chế độ này đã
khắc phục những hạn chế trước đây như: việc quy đổi thời gian công tác; bóc
tách được phần lớn các chế độ ưu đãi xã hội ra khỏi chế độ hưu trí Vì thế đã
đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng giữa người đóng và hưởng BHXH; giữa
các nhóm lao động khác nhau. Tuy vậy, chế độ này vẫn còn nhiều điểm nổi cộm
cần khắc phục như: tuổi đời về hưu giữa các ngành, các nhóm lao động; những
người hưởng trợ cấp một lần đưa vào chế độ là chưa hợp lý, vì những người này
vừa chưa đủ tuổi, vì không đủ tích lũy cần thiết để hưởng trợ cấp. Đây chỉ là sự
trả lại một phần số tiền cho người lao động khi họ không còn quan hệ lao động
nữa, do quỹ BHXH đảm nhận.
e. Chế độ tử tuất
Một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất đó là chế độ tử
tuất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có khoản trợ cấp bù đắp một
phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết; khi xây dựng
chế độ này, đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và yếu tố
xã hội giữa người sống và người chết. Đặc biệt là tính đến yếu tố kế thừa đối với
thân nhân của người chết. Song việc quy định đối tượng được hưởng bao gồm cả
bố mẹ bên vợ, bên chồng là chưa hợp lý. Vì bố mẹ bên vợ, bên chồng còn có
thân nhân của cá 2 bên chịu trách nhiệm, điều này cần phải căn cứ vào hoàn
cảnh cụ thể để thống nhất quy định.
1.1.4.3. Quỹ Bảo hiểm xã hội
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung và nằm ngoài ngân
sách Nhà nước. Nó ra đời tồn tại và phát triển gắn với mục đích bảo đảm ổn
định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp phải rủi ro làm giảm
hoặc mất thu nhập từ lao động, mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời.
Quỹ này hình thành từ những nguồn chủ yếu sau:

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
16
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
- Người sử dụng lao động góp: Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ
BHXH để Bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Sự đóng góp này
thể hiện trách nhiệm của họ đối với người lao động. Đồng thời còn thể hiện
chính lợi ích của người sử dụng lao động. Ở đây người sử dụng lao động san sẻ
rủi ro cho nhau để khi xảy ra rủi ro đối với người lao động thì họ không phải bỏ
ra một khoản tiền lớn để bồi thường, vì quá trình sản xuất kinh doanh của họ
không bị ảnh hưởng khi người lao động có nhu cầu BHXH.
- Người lao động góp: Người tham gia BHXH phải đóng góp cho quỹ
BHXH mới được trợ cấp BHXH. Người lao động tham gia đóng góp là để bảo
hiểm cho mình, vừa thực hiện nghĩa vụ cao đẹp với cộng đồng. Thực chất ở đây
người lao động đã dàn trải rủi ro theo thời gian.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm: Sự tham gia của Nhà nước thể hiện trách
nhiệm của Nhà nước đối với các thành viên trong xã hội. Trong hệ thống
BHXH, Nhà nước có thể tham gia trực tiếp hay gián tiếp. Sự tham gia của Nhà
nước ở đây chủ yếu dưới hình thức đảm bảo giá trị đồng vốn cho quỹ trong một
số trường hợp như bù lỗ những khoản thiếu hụt.
- Các nguồn khác: Bao gồm các nguồn thu chủ yếu sau:
+ Tiền lãi, tiền lời từ các hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và phát triển
quỹ BHXH. Nhưng phải chú ý là phần vốn nhàn rỗi mới được mang đi đầu tư.
Bởi vì khi thực hiện các hoạt động này nếu bị rủi ro thì không bị ảnh hưởng đến
phần quỹ BHXH chi trả cho các đối tượng được hưởng.
+ Các nguồn tài trợ và viện trợ khác ở trong nước, ngoài nước và cộng
đồng quốc tế, kể cả tổ chức phi Chính phủ và các cá nhân hảo tâm Tuy nhiên
nguồn này không ổn định và không nhiều.
+ Giá trị các tài sản cố định của BHXH được đánh giá lại theo các quy
định của Nhà nước.
+ Các nguồn thu khác: Tiền phạt do nộp chậm BHXH so với thời gian

quy định, tiền truy thu khi các đơn vị sử dụng lao động và người lao động đóng
thiếu tiền BHXH hoặc nhận thừa so với chế độ được hưởng thụ.
Thông thường sự đóng góp của ba bên là người sử dụng lao động, người
lao động và Nhà nước tạo ra nguồn quỹ cơ bản và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Theo
Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 đã quy định: Quỹ BHXH Việt nam là quỹ tài
chính độc lập, tập trung ngoài ngân sách Nhà nước được hình thành từ ba nguồn:
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
17
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
+ Nguồn sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của
người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% dùng để chi cho các chế độ
hưu trí, tử tuất và 5% để chi cho các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp.
+ Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi cho các chế độ
hưu trí và tử tuất.
+ Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện chế độ BHXH đối
với người lao động.
+ Các nguồn khác
Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo
quy định. Tiền lương tháng căn cứ đóng BHXH gồm lương theo ngạch bậc,
chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lưu (nếu có). Bộ tài chính trích từ ngân
sách Nhà nước số tiền chuyển vào quỹ BHXH đủ chi các chế độ hưu trí, trợ cấp
mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất và hỗ trợ chi lương
hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà nước về hưu trước ngày thi hành
Luật BHXH. Việc tổ chức thu BHXH do tổ chức BHXH Việt nam thực hiện.
Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch
toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mục đích:
- Chi trả và trợ cấp cho 5 chế độ mà Luật BHXH đã quy định.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, các ngành như: tiền

lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH; khấu hao tài sản cố
định, văn phòng phẩm và một số khoản khác
Phần quỹ nhàn rỗi được phép đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo
quy định của Chính phủ. Quá trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc
an toàn, có lợi nhuận, có khả năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội.
Hiện nay, do việc chuyển giao Bảo hiểm y tế về BHXH Việt nam nên
người sử dụng lao động đóng bằng 17% so với tổng quỹ lương của người tham
gia BHXH trong đơn vị, người lao động đóng bằng 6% tiền lương hàng tháng,
trong đó bao gồm cả Bảo hiểm y tế.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
18
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ CÁN BỘ THUỘC HỆ
THỐNG BHXH VIỆT NAM
1.2.1.Khái niệm, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ
1.2.1.1.Khái niệm, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ nói chung
Con người là nhân tố chủ yếu, nhân tố hàng đầu và là nhân tố “động nhất”
của tổ chức. Con người lập ra tổ chức và điều hành tổ chức. Song đến lượt mình,
con người lại chịu sự chi phối, ràng buộc của tổ chức. Tổ chức buộc con người
phải hành động theo nguyên tắc, khuôn khổ nhất định. Tổ chức đúng, phù hợp sẽ
nhân sức mạnh khi gắn liền với tổ chức và nhân danh tổ chức. Tách khỏi tổ chức
thì con người mất hết sức mạnh, quyền lực, hiệu lực do tập thể tạo nên. Mối
quan hệ giữa con người và tổ chức là mối quan hệ nhân quả.
Muốn có con người (cán bộ) tốt, phải thường xuyên chăm lo đến công tác
xây dựng con người, nhân tố con người trong tổ chức và thông qua đó mới có tổ
chức mạnh. Cán bộ là những người tiêu biểu trong tổ chức, giữ vai trò thực hiện
chỉ huy, dẫn đầu trong mọi hoạt động của tổ chức. Việc nghiên cứu cán bộ có ý
nghĩa thực tiễn to lớn trong công tác quản lý, điều hành của bộ máy hành chính
Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời câu hỏi “ Cán bộ là gì ?” : “ Cán bộ
là các dây chuyền của bộ máy, nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động

cơ dù có tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người đem chính sách
của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính
sách hay cũng không được thực hiện”. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán
bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân
chúng hiểu và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, đề đạt chính sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”. Người cho rằng: “Công việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay xấu ”.
Thực tiễn trong lịch sử đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc
ở Việt nam đã chứng minh: “chỉ có chủ động xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ
vững mạnh. Đảng mới có đủ khả năng lãnh đạo, tổ chức toàn dân thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Bởi vậy, Đảng ta đã rất coi
trọng đến công tác tổ chức và công tác cán bộ. Trong các Nghị quyết đại hội của
Đảng đều nêu tới công tác cán bộ và đánh giá rất cao vai trò của công tác cán bộ,
nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
19
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
Tại đại hội lần thứ VI, Đảng ta đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trước
hết đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, cùng với nó là đổi mới đội ngũ cán
bộ và công tác quản lý cán bộ. Nghị quyết đại hội VI của Đảng còn chỉ rõ nội
dung, phương pháp thực hiện đó là: “ Đổi mới đội ngũ cán bộ có nghĩa là đánh
giá, lựa chọn, bố trí lại đi đôi với đào tạo bồi dưỡng để có đội ngũ có đủ những
tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực lãnh đạo, quản lý ngang tầm nhiệm vụ.
Muốn đổi mới đội ngũ cán bộ, trước hết phải đổi mới công tác cán bộ và đội ngũ
những người làm công tác tổ chức và cán bộ”.
Đại hội lần thứ VII bổ sung, phát triển đổi mới đường lối của Đại hội lần
thứ VI, đề ra cương lĩnh xây dựng đất nước và chiến lược phát triển kinh tế xã
hội trong giai đoạn mới. Tại đại hội này, Đảng ta nhấn mạnh: “ Tiếp tục đổi

mới cán bộ và công tác cán bộ, xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ vững
vàng và đồng bộ, bao gồm cả cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý Nhà
nước, cán bộ kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới ”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “ Tình hình và nhiệm
vụ mới đặt ra nhiều yêu cầu cho công tác cán bộ. Toàn Đảng phải hết sức chăm
lo xây dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng,
có đủ bản lĩnh về mọi mặt, sớm xây dựng chiến lược cán bộ cho thời kỳ mới ”.
Theo tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng khóa VIII hội nghị lần thứ ba, ban chấp
hành Trung ưởng Đảng khóa VIII đã họp và vạch ra Nghị quyết về chiến lược
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là
lần đầu tiên trong thời kỳ đổi mới, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã bàn sâu
và toàn diện vấn đề cán bộ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ và
công tác cán bộ, phân tích nguyên nhân và rút ra được những bài học kinh
nghiệm. Nghị quyết đã khẳng định được một hệ thống các quan điểm cơ bản chỉ
đạo đội ngũ cán bộ, xác định chiến lược xây dựng cán bộ trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Như vậy, cán bộ luôn là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp
cách mạng, có cán bộ tốt thì giải quyết việc gì cũng xong. Tuân theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và kinh
nghiệm thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công
tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, điều
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
20
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
hành và quản lý Nhà nước, là vấn đề then chốt “của nhiệm vụ then chốt” trong
sự nghiệp đổi mới của Đảng ta hiện nay.
1.2.1.2.Khái niệm, vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH
Cán bộ công chức làm nghiệp vụ về BHXH là công chức được đào tạo từ
các cấp bậc khác nhau về một lĩnh vực chuyên môn sâu, chủ yếu là kinh tế tài

chính, lao động tiền lương, chính sách xã hội tham gia vào hoạt động chức
năng trong bộ máy của BHXH các cấp. Cán bộ nghiệp vụ cấp Quận (huyện) giữ
vị trí cuối cùng để thực hiện chức năng của BHXH, công chức nghiệp vụ trực
tiếp tiếp xúc với đối tượng tham gia và ảnh hưởng BHXH, trực tiếp thực hiện
nghiệp vụ và tổ chức việc chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng, thực hiện
mục tiêu cao cả của BHXH. Vì vậy, công chức làm nghiệp vụ đóng vai trò hết
sức quan trọng trong hệ thống BHXH Việt nam từ Trung ương xuống địa
phương.
Công chức nghiệp vụ BHXH được xếp ở ngạch hành chính ( chuyên viên,
cán sự, nhân viên) hoặc ngạch kế toán (kế toán viên, kế toán trung cấp, kế toán
sơ cấp) là những người tinh thông nghề nghiệp được giao đảm nhiệm một lĩnh
vực như: thu BHXH, chi BHXH, tiếp nhận hồ sơ hưởng BHXH và theo dõi tăng,
giảm đối tượng; thực hiện chế độ, chính sách; kiểm tra việc thực hiện, quản lý
đại diện chi trả ở xã, phường Tùy theo khối lượng công việc và địa bàn dân cư
có thể một công chức đảm trách một lĩnh vực hoặc nhiều lĩnh vực. Ví dụ ở
những quận, huyện quy mô nhỏ, ít đối tượng tham gia BHXH, một công chức
vừa có thể phụ trách công tác chi trả BHXH và theo dõi tăng, giảm đối tượng
tham gia BHXH. Ngược lại, có thể nhiều công chức đảm trách một lĩnh vực. Ví
dụ như ở những quận, huyện có đối tượng tham gia BHXH lớn, công tác thu có
thể do hai hoặc ba bên đảm trách và công tác chi trả cũng có thể do ba hoặc bốn
người đảm trách.
Hoạt động cơ bản của công chức nghiệp vụ là tác nghiệp cụ thể về chuyên
môn dưới sự chỉ huy của Trưởng phòng nghiệp vụ chức năng (ở BHXH Thành
phố) hoặc của Giám đốc BHXH quận, huyện (ở BHXH quận, huyện). Đó là
công việc khai thác, theo dõi, đôn đốc các đơn vị sử dụng lao động và đối tượng
tham gia BHXH, trực tiếp thu BHXH, trực tiếp chi trả về các chế độ BHXH,
quản lý kinh phí tiền mặt Do tính chất hoạt động vừa như là đơn vị hành chính
sự nghiệp, vừa như là đơn vị dịch vụ công (mang tính đặc thù), thực hiện chế độ,
chính sách BHXH, thu - chi tài chính BHXH nên hoạt động của cán bộ - công
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD

21
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
chức nghiệp vụ yêu cầu phải đảm bảo chính xác, đầy đủ, trách nhiệm, công tâm,
trung thực.
Cán bộ, công chức nghiệp vụ về BHXH là người trực tiếp tiếp xúc với
đơn vị sử dụng lao động và người lao động tham gia và hưởng BHXH. Vì vậy,
yêu cầu ngoài phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phải sâu, còn
phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, tác phong gần gũi, cởi mở và phương
pháp giap tiếp nhẹ nhàng, mềm mỏng
1.2.2.Mô hình tổ chức của BHXH Việt nam
BHXH Việt nam được tổ chức và quản lý thống nhất theo hệ thống từ
Trung ương đến địa phương.
- Cấp Trung ương: Bảo hiểm xã hội Việt Nam
- Cấp Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: BHXH Tỉnh và BHXH
thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là BHXH tỉnh).
- Cấp quận, huyện, thị xã , thành phố trực thuộc tỉnh: BHXH quận, BHXH
huyện, BHXH thị xã và BHXH thành phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là BHXH
huyện).
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
22
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức của BHXH Việt nam
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
23
Thủ tướng Chính phủ
Hội đồng quản lý BHXH Việt nam
BHXH Việt nam
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc
Các ban chức năng

BHXH tỉnh
Giám đốc
Phó giám đốc Phó giám đốc
Các Phòng chức năng
BHXH huyện
Giám đốc
Phó giám đốc
Các bộ phận chức năng
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
a. Tổ chức bộ máy cấp Trung ương.
Cấp Trung ương có cơ quan BHXH Việt nam. Cơ quan quản lý cao nhất
là Hội đồng quản lý BHXH Việt nam gồm: Chủ tịch hội đồng quản lý, Phó chủ
tịch hội đồng quản lý và các thành viên (gồm đại diện các Bộ, Ngành liên quan
như Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ tài chính, Tổng liên đoàn lao động
Việt nam và Tổng giám đốc BHXH Việt nam). Cơ cấu của Hội đồng quản lý do
Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Trưởng ban Tổ
chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ nội vụ).
Tổng giám đốc BHXH Việt nam chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính
phủ về việc điều hành và quản lý toàn bộ hoạt động của hệ thống. Giúp việc
Tổng giám đốc có các Phó tổng giám đốc. Bộ máy BHXH cấp Trung ương được
chia làm 18 Ban:
- Ban thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội
- Ban thực hiện chính sách Bảo hiểm y tế
- Ban thu BHXH
- Ban chi BHXH
- Ban cấp sổ, thẻ
- Ban tuyên truyền
- Ban hợp tác quốc tế
- Ban thi đua khen thưởng
- Ban kế hoạch tài chính

- Ban tổ chức cán bộ
- Ban kiểm tra
- Văn phòng
- Trung tâm nghiên cứu khoa học BHXH
- Trung tâm công nghệ thông tin
- Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ BHXH
- Trung tâm lưu trữ
- Trung tâm báo BHXH
- Tạp chí BHXH
b. Tổ chức bộ máy cấp Thành phố
Đứng đầu BHXH thành phố là Giám đốc BHXH thành phố. Giúp việc
Giám đốc còn có các Phó giám đốc, có nhiệm vụ giúp Giám đốc giải quyết các
công việc theo sự phân công.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
24
Khóa luận tốt nghiệp Vũ Minh Phương
BHXH Thành phố được chia thành 11 phòng chức năng
- Phòng chế độ - chính sách
- Phòng thu
- Phòng bảo hiểm y tế tự nguyện
- Phòng kế hoạch - tài chính
- Phòng tổ chức cán bộ
- Phòng hành chính tổng hợp
- Phòng kiểm tra
- Phòng công nghệ thông tin
- Phòng quản lý - lưu trữ hồ sơ
- Phòng giám định chi
- Phòng cấp sổ thẻ
Căn cứ vào quy mô của thành phố, khối lượng công việc, dân số, đối
tượng tham gia BHXH, bộ máy tổ chức BHXH của tỉnh có thể được tổ chức

theo 2 mô hình
+ Tỉnh có mức thu chi lớn: 11 phòng chức năng. Mô hình này được áp
dụng đối với Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố lớn nhất của
đất nước, có dân số đông đúc và số đối tượng tham gia BHXH lớn.
+ Tỉnh có mức thu chi trung bình: 08 phòng chức năng gồm: Phòng chế
độ - chính sách; Phòng thu; Phòng kế hoạch - tài chính; Phòng tổ chức - hành
chính; Phòng bảo hiểm y tế tự nguyện; Phòng kiểm tra; Phòng công nghệ thông
tin; Phòng giám định chi.
1.2.2.3.Tổ chức bộ máy cấp quận, huyện
Đứng đầu BHXH quận, huyện là Giám đốc BHXH quận, huyện. Tuy
nhiên, BHXH quận, huyện có thể có Phó giám đốc hoặc là không. Ngoài ra, nó
còn có các bộ phận chức năng và không có tổ chức phòng, ban.
Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân - K37 QTKD - Học viện đào tạo CBXD
25

×