Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Giải pháp hoàn thiện công quản lý sản xuất tại Tổng công ty Cơ khí Xây dựng (COMA)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.68 KB, 112 trang )

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện nền kinh tế mở có
sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu
đáng khích lệ. Cùng với sự phát triển của mọi thành phần kinh tế, các doanh
nghiệp quốc doanh không còn giữ được thế độc quyền như trước nữa, song song
với nó là sự cạnh tranh từ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Tuy nhiên, tất cả các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển vững mạnh trong
nền kinh tế quốc dân phải xác định được chỗ đứng của mình, nắm bắt được sự
tác động của môi trường kinh doanh và mọi thời cơ để tổ chức sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả.
Để thích nghi với cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải tìm ra giải pháp
để đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường. Đó là vấn đề sống còn đối
với các doanh nghiệp. Đó cũng chính là lí do tại sao mỗi doanh nghiệp phải lựa
chọn cho mình một phương án quản lý sản xuất, kinh doanh tối ưu. Có thể nói,
quản lý sản xuất là một công cụ quan trọng, hữu hiệu để doanh nghiệp xây dựng
chiến lược phát triển sản xuất của mình và trong đó việc lập kế hoạch sản xuất
của doanh nghiệp đóng góp một phần quan trọng vào thành công của doanh
nghiệp.
Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện đổi mới công tác quản lý sản xuất,
đặc biệt là lập kế hoạch sản xuất ở các doanh nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề cần
bàn bạc và tiếp tục hoàn thiện trên nhiều phương diện từ nhận thức của người
làm kế hoạch đến phương pháp, nội dung làm kế hoạch.
Tổng công ty Cơ khí xây dựng là doanh nghiệp trong lĩnh vực cơ khí chế
tạo và lắp đặt các thiết bị cơ khí phi tiêu chuẩn. Doanh nghiệp đã đạt được
những thành công nhất định trong sản xuất, kinh doanh. Đó là sự cố gắng của
toàn thể cán bộ công nhân viên của nhà máy mặt khác cũng là do lãnh đạo tổng
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
1
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội


công ty, đã hiểu được công tác quản lý sản xuất có vai trò quan trọng như thế
nào đối với các hoạt động của công ty. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động vẫn
tồn tại nhiều hạn chế cần hoàn thiện để hoạt động hoạt động của công ty được
hiệu quả hơn. Vì vậy tác giả đã nghiên cứu và lựa chọn đề tài:
“Giải pháp hoàn thiện công quản lý sản xuất tại Tổng công ty Cơ khí
Xây dựng (COMA)”.
2, Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
Mục đích nghiên : Trên cơ sở nghiên cứu tình hình phát triển của kinh tế trong
nước, tình hình của ngành cơ khí xây dựng nói chung và tình hình hoạt động sản xuất
kinh doanh của Tổng công ty Cơ khí Xây dựng giai đoạn 2005-2009 nói riêng, phân
tích thực trạng, xác định điểm mạnh, điểm yếu, tìm ra nguyên nhân để từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý sản xuất tại Tông công ty Cơ khí
Xây dựng
Đối tượng nghiên cứu: Tổng công ty Cơ khí Xây dựng.
Phạm vi nghiên cứu: Phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý sản
xuất, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý sản xuất tại
Tổng công ty Cơ khí Xây dựng.
3, Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về công tác quản lý sản xuất trong doanh
nghiệp. Áp dụng cơ sở lý luận vào phân tích và đánh giá thực trạng công tác
quản lý sản xuất của Tổng công ty Cơ khí Xây dựng để thấy được những hạn
chế, tìm ra nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản
lý sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và thúc đẩy sự phát
triển của doanh nghiệp.
4, Phương pháp nghiên cứu.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, tổng hợp cơ sở lý luận để
tìm hiểu nội dung nghiên cứu. Trên cơ sở đó, phân tích và khái quát các dữ liệu
thu thập được tại doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu của đề tài.
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
2

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
5, Nội dung của luận văn.
Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý sản xuất.
Chương II: Phân tích thực trạng của công tác quản lý sản xuất xuất tại Tổng
công ty Cơ khí Xây dựng.
Chương III: Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý sản xuất
tại Tổng công ty Cơ khí Xây dựng
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
3
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ SẢN XUẤT
1.1, Khái niệm về sản xuất và quản trị sản xuất.
1.1.1 Khái niệm về sản xuất
Sản xuất (tiếng Anh: production) hay sản xuất của cải vật chất là hoạt
động chủ yếu trong các hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình
làm ra sản phẩm để sử dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản
xuất dựa vào những vấn đề chính sau: sản xuất cái gì?, sản xuất như thế
nào?,sản xuất cho ai?, giá thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử
dụng và khai thác các nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm?
Theo kinh tế chính trị Mac-Lênin có ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
là sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Sức lao động: là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng
trong quá trình lao động. Sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động còn lao
động là sự tiêu dùng sức lao động trong thực hiện.
Đối tượng lao động: là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con
người tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao
động có hai loại. Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như các khoáng
sản, đất, đá, thủy sản Các đối tượng lao động loại này liên quan đến các

ngành công nghiệp khai thác. Loại thứ hai đã qua chế biến nghĩa là đã có sự tác
động của lao động trước đó, ví dụ như thép phôi, sợi dệt, bông Loại này là đối
tượng lao động của các ngành công nghiệp chế biến.
Tư liệu lao động: là một vật hay các vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác
động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao động
thành sản phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Tư liệu lao động lại gồm bộ
phận trực tiếp tác động vào đối tượng lao động theo mục đích của con người, tức
là công cụ lao động, như các máy móc để sản xuất), và bộ phận trực tiếp hay
gián tiếp cho quá trình sản xuất như nhà xưởng, kho, sân bay, đường xá, phương
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
4
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
tiện giao thông. Trong tư liệu lao động, công cụ lao động giữ vai trò quyết định
đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Khái niệm:
Quá trình sản xuất là hoạt động có ích của con người trên cơ sở sử dụng có
hiệu quả đất đai, vốn, thiết bị máy móc, các phương pháp quản lý và công cụ lao
động tác động lên các yếu tố như nguyên vật liệu, bán thành phẩm (đối tượng
lao động và biến các yếu tố đầu vào thành sản xuất hoặc dịch vụ phù hợp với
nhu cầu của xã hội).
Trong các yếu tố lao động, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thiết bị máy
móc, nhà xưởng, đất đai, vốn, quản lý, thì lao động và quản lý là các yếu tố quan
trọng nhất, chịu nhiều tác động nhất.
Quá trình sản xuất là tập hợp quá trình lao động và quá trình tự nhiên cần thiết.
* Quá trình lao động là quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào dưới tác động trực
tiếp của người lao động, của thiết bị máy móc dưới sự điều khiển của người lao
động.
* Quá trình tự nhiên là quá trình làm thay đổi các tính chất cơ, lý, hoá của đối
tượng lao động dưới tác động của các điều kiện tự nhiên như độ ẩm, nhiệt độ,
ánh sáng,…

1.1.2 Phân loại sản xuất :
Có rất nhiều tiêu thức phân loại sản xuất:
- Dựa vào tính liên tục của quá trình sản xuất: sản xuất dán đoạn, sản xuất
liên tục, sản xuất hỗn hợp ( vừa có giai đoạn gián đoạn, vừa có phân kỳ).
- Dựa vào kết cấu sản phẩm cuối cùng chia làm ba loại: sản xuất hội tụ, sản
xuất phân kỳ và dạng trung gian - hỗn hợp.
- Dựa vào tính tự chủ của quá trình:
a. Sản xuất tự chủ hoàn toàn: có đủ các giai đoạn thiết kế, sản xuất)
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
5
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
b.Sản xuất với mức tự chủ trung: không có thiết kế, chỉ sản xuất theo
các yêu cầu của các hợp đồng - sản xuất theo hình thức thầu, tuy nhiên tự chủ
trong khâu tổ chức thực hiện sản xuất
c. Sản xuất với mức tự chủ thấp: sản xuất theo hình thức gia công, hạn
chế tự chủ trong cả khâu sản xuất, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị nhiều khi
phải được bên doanh nghiệp thuê gia công giao cho.
- Dựa vào số lượng sản phẩm và tính chất lặp lại, có 3 dạng sản xuất sau :
sản xuất đơn chiếc, đại trà, theo lô. Đối với tổ chức sản xuất thì cách phân loại
này là một trong các cách phân loại quan trọng nhất.
a. Sản xuất đơn chiếc: sản xuất theo từng chiếc, đa dạng về chủng loại,
ít hoặc không có tính lặp lại.
b. Sẩn xuất đại trà: chủng loại sản phẩm ít, có số lượng sản xuất mỗi
loại lớn, quá trình sản xuất mang tính lặp lại cao.
c. Sản xuất theo lô: là dạng trung gian giữa sản xuất đơn chiếc và sản
xuất đại trà, chủng loại sản phẩm tương đối nhiều nhưng số lượng mỗi loại trung
bình, quá trình sản xuất lặp lại theo chu kỳ
1.1.3 :Khái niệm quản lý sản xuất:
Hình 1.1: lưu đồ quá trình sản xuất
( Nguồn: Kinh tế và quản lý doanh nghiệp .NXB Thống Kê 2003- PTS Ngô Trần

Ánh).
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
6
Các yếu tố đầu vào(inputs)
Đất đai
Nguyên vật liệu
Thiết bị nhà xưởng
Lao động
Vốn
Quản lý
Các yếu tố đầu ra
Hàng hoá
Dịch vụ
Ô nhiễm môi trưòng
Quá trình sản xuất
So sánh giữa kết
cấu quả thực tế
với mong muốn
Điều chỉnh Kiểm tra
Những biến cố
ngẫu nhiên
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
Quản lý sản xuất là quản lý quá trình biến các yếu tố đầu vào nhen nguyên
vật liệu, thiết bị máy móc, đất đai (vật lực), lao động(nhân lực), vốn(tài lực) và
quản lý thành hàng hoá và dịch vụ mong muốn.
Quản lý sản xuất một doanh nghiệp bắt đầu ngay khi doanh nghiệp đó xuất
hiện. Nói cách khác quản lý sản xuất có cùng tuổi đời với doanh nghiệp. Vì sao
con người ta nói đến quản lý sản xuất ngày càng nhiều ?
Câu trả lời là: Luôn có sự thay đổi về điều kiện và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp.

Nghiên cứu sự thay đổi của môi trường cạnh tranh vài chục năm trở lại đây,
người ta chia ba giai đoạn trong sự biến đổi của môi trường doanh nghiệp.
Giai đoạn 1: Là giai đoạn có sự tăng nhanh của sản xuất va thị trường, lợi nhuận
cao, cung thấp hơn cầu. Phương châm của doanh nghiệp trong giai đoạn này là
“sản xuất rồi bán”.
Các đặc điểm chủ yếu của sản xuất ở giai đoạn này là : Sản xuất với số
lượng tối ưu, dự trữ hợp lý bán thành phẩm giữa các nơi làm việc, sản xuất theo
loạt, chu kỳ lỳ sản xuất cố định, quản lý thủ công. Khi cung cầu cân bằng chúgn
chuyển sang giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn 2: là giai đoạn khách hàng có sự lựa chọn người cung cấp (người
bán). Ở giai đoạn này phương châm của các nhà sản xuất là “Sản xuất những gì
sẽ bán được”. Cần phải có các dự báo thương mại, tự chủ hoạt động sản xuất, tố
chức tốt dự trữ giá thành sản phẩm và vật tư, thanh toán nhanh các khoản tồn
đọng, tuân thủ kỳ hạn.
Giai đoạn 3: Từ giai đoạn 2 thị trường nhanh chóng chuyển sang giai đoạn
3, ở đó tồn tại một lượng cung dư (cung lớn hơn cầu): một sự cạnh tranh thực sự
giữa các doanh nghiệp trước sự chứng kiến của những khách hàng khó tính. Sự
cạnh tranh đòi hỏi phải tự “chế ngự” được chi phí sản xuất, đòi hòi chất lượng
sản phẩm tốt, thời gian cung cấp sản phẩm nhanh, độ tin cậy lớn. Sản xuất loạt
nhỏ là đặc điểm nổi bật của giai đoạn này. Chu kỳ sống của sản phẩm được rút
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
7
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
ngắn đòi hỏi phải luôn luôn đổi mới sản xuất. Doanh nghiệp phải có sự thích
ứng nhanh với mọi sự biến đổi về kết cấu sản phẩm và kỹ thuật sản xuất. Doanh
nghiệp có xu hướng “Sản xuất nhưng gì bán đựơc”- sản xuất theo đơn đặt hàng.
Trong giai đoạn này mối lo của các doanh nghiệp là chiến lược sản xuất phải
thích ứng với sự biến đổi của môi trường và kiểm tra chính xác quá trình quản
lý. Hơn nữa phát hiện sớm các mâu thuẫn giữa giá - chất lượng, giữa giá - loạt
nhỏ…và cần phải có sự thoả hiệp mâu thuẫn đó để nhận được sự phù hợp

chung
Quản lý sản xuất: (theo bài giảng- Tóm lược môn quản lý sản xuất- Đại
học Bách Khoa Hà Nội- TS.Trần Bích Ngọc)
a.Định nghĩa 1( xét trên quan điểm hệ thống): Quản lý sản xuất là quản lý
các đối tượng, các quá trình của hệ thống sản xuất nhằm đạt được các mục tiêu
để ra của hệ thống sản xuất.
b.Định nghĩa 2 ( xét trên quan điểm quá trình quản lý) : Quản lý sản xuất
là quá trình thiết kế, hoạch định, tổ chức điều hành, kiểm tra hệ thống sản xuất
nhằm thực hiện những mục tiêu sản xuất đã đề ra.
c.Định nghĩa 3 ( là môn khoa học quản lý): Quản lý sản xuất là môn khoa
học nghiên cứu về quản lý các quá trình sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ.
d.Định nghĩa 4 ( là quá trình ra các quyết định quản lý) : Quản lý sản xuất
là quá trình ra các quyết định quản lý trong lĩnh vực sản xuất và đảm bảo các
biện pháp thực hiện chúng
Quản lý sản xuất nhằm đạt các mục tiêu:
Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của doanh nghiệp: Thu lợi thong qua thỏa
mãn nhu cầu thị trường về hang hóa và dịch vụ của mình, từ đó có một số mục
tiêu cụ thể của quản lý sản xuất:
- Đảm bảo chất lượng sản phẩm và dịch vụ: Sản phẩm và dịch vụ sản
xuất ra phải phù hợp với những tiêu chuẩn được đặt ra khi thiết kế và
phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng,
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
8
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
chủng loại. Chất lượng có thể được đánh giá bằng các tiêu chuẩn đặt ra
từ bên ngoài doanh nghiệp và bằng chính nhưng tiêu chuẩn do doanh
nghiệp đặt ra. Mức chất lượng cũng có thể đánh giá so với sản
phẩm/dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh.
- Bảo đảm đúng thời gian và rút ngắn thời gian giao hang : Trong sự
cạnh tranh của thị trường ngày nay, ba nhân tố: thời gian giao hàng, chất

lượng và giá cả là nhân tố quyết định sự thành công của việc đáp ứng
nhu cầu đặt hàng. Nếu như doanh nghiệp có thể đưa ra sản phẩm mà
khách hàng cần, đáp ứng được nhu cầu về gía cả nhưng không đáp ứng
được yêu cầu về giá cả nhưng không đáp ứng được thời gian giao hàng
như mong muốn thì khách hàng cũng sẽ không dặt mua hàng cho doanh
nghiệp. Thêm vào đó, nếu như coi chất lượng là yếu tố quyết định trứơc
tiên thì trong rât nhiều trường hợp, điều kiện thời gian giao hàng là điều
kiện quyết định quan trọng so với điều kiện về giá cả.
Mấu chốt của việc rút ngắn thời gian giao hàng là rút ngắn chu kỳ sản
xuất. Chu kỳ sản xuất là thời gian từ khi đưa ra lệnh sản xuất cho đến
khi đến khi sản xuất ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn và giao hàng đi. Muốn
rút ngắn chu kỳ sản xuất bắt buộc hải rút ngắn các yếu tố các yếu tố tạo
nên nó- đó chính là thời gian thiết kế, ký hạn cung cấp nguyên liệu và
quá trình sản xuất. Xét về mặt đảm bảo thời gian giao hàng, điều quan
trọng là phải làm cho chu kỳ snr xuất không vượt quá thời gian giao
hàng theo yêu cầu bình quân của khách hàng.
- Giảm chi phí sản xuất: Các nhà quản lý sản xuất phải tìm các biện
pháp để giảm chi phí sản xuất nhằm giảm giá bán giành được thị trường
hoặc giảm chi phí để tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Giá thành sản xuất của sản phẩm có thể chia thành chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp, công nhân trực tiếp và chi phí chế tạo .v.v… theo chức
năng; chia thành chi phí biến đổi và chi phí cố định .v.v…dựa theo tính
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
9
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
chất của chi phí trong giá thành. Chi phí biến đổi là chi phí thay đổi theo
sản lượng, chủ yếu là về nguyên vật liệu và nhân công trực tiếp; chi phí
cố định là chi phí không thay đổi theo sản lượng, chủ yếu là chi phí máy
móc, nhà xưởng, trong đó đặc biệt là chi phí khấu hao, sửa chữa, lương
của nhân viên quản lý.v.v…

- Xây dựng hệ thống sản xuất có độ linh hoạt cao: Sự linh hoạt trong tổ
chức có nghĩa doanh nghiệp phải có khả năng phản ứng nhanh đối với
mọi biến đổi trong hoạt động trong hoạt động sản xuất và cạnh tranh
trên thị trường. Sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu nhiều tác
động của môi trường. Các luật lệ, quy định, chính sách của nhà nước,
nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi, khoa học công
nghệ,thời tiết, khí hậu, cạnh tranh
Sản xuất như là một hệ thống là hướng nghiên cứu chủ đạo trong quản
trị sản xuất ngày nay:
(nguồn : />Russel Ackoff nhà tiên phong trong lý thuyết hệ thống, mô tả hệ thống như
sau: Hệ thống là một tổng thể không thể chia nhỏ được mà không làm cho nó
mất đi những nét đặc trưng, và vì thế nó phải được nghiên cứu như là một tổng
thể.
Hệ thống sản xuất tiếp nhận đầu vào ở các hình thái như nguyên vật liệu,
nhân sự, tiền vốn, các thiết bị, các thông tin… Những yếu tố đầu vào này được
chuyển đổi hình thái trong hệ thống để tạo thành các sản phẩm hoặc dịch vụ theo
mong muốn, mà chúng ta gọi là kết quả sản xuất. Một phần của kết quả quản lý
bởi hệ thống quản lý để nhằm xác định xem nó có thể được chấp nhận hay
không về mặt số lượng, chi phí và chất lượng. Nếu kết quả là chấp nhận được,
thì không có sự thay đổi nào được yêu cầu trong hệ thống; nếu như kết quả
không chấp nhận được, các hoạt động điều chỉnh về mặt quản lý cần phải thực
hiện
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
10
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
a. Yếu tố đầu vào:
- Các nhân tố ngoại vi: nói chung là các thông tin đặc trưng và có xu hướng
cung cấp cho các nhà quản trị về các điều kiện bên ngoài hệ thống nhưng có ảnh
hưởng đến hệ thống.
- Điều kiện về kinh tế:

Nhân tố kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đối với sự thu hút tiềm năng của các
chiến lược khác nhau. Chẳng hạn nếu như lãi suất tăng lên thì số vốn cần cho
việc đa dạng hóa sẽ quá đắt hoặc không có sẵn. Hay là, khi lãi suất tăng lên thì
số thu nhập sử dụng được tùy thích sẽ giảm đi và nhu cầu sản phẩm để sử dụng
tùy thích cũng giảm. Khi giá cổ phiếu tăng lên, sự mong muốn có cổ phần như là
nguồn vốn để phát triển thị trường sẽ tăng lên. Như vậy, khi thị trường tăng
trưởng thì của cải của người tiêu thụ và doanh nghiệp tăng lên.
Các biến số kinh tế quan trọng cần theo dõi.
+ Những chính sách tiền tệ, khả năng cung cấp tín dụng, lãi suất.
+ Giá trị của đồng tiền trên thị trường, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái.
+ Thâm hụt ngân sách của chính phủ.
+ Thu nhập bình quân trên đầu người, xu hướng thất nghiệp.
+ Các chính sách thuế khóa, qui định về xuất nhập khẩu.
- Điều kiện về nhân khẩu, địa lý, văn hóa, xã hội.
Các yếu tố nhân khẩu, địa lý ,văn hóa, xã hội chủ yếu
+ Tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tỷ lệ di dân và nhập cư.
+ Mức học vấn trung bình, lối sống, các mối quan tâm đối với vấn đề đạo đức.
+ Vai trò của giới tính, thói quen mua hàng.
+ Thái độ đối với việc tiết kiệm, đầu tư và công việc.
+ Môi trường và kiểm soát ô nhiễm môi trường.
- Khía cạnh chính trị, luật pháp của quốc gia
Các yếu tố chính trị, chính phủ, luật pháp có thể cho thấy các vận hội và
mối đe dọa chủ yếu đối với các tổ chức nhỏ và lớn. Đối với các ngành và những
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
11
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
công ty phải phụ thuộc rất nhiều vào các hợp đồng hoặc trợ cấp của chính phủ,
những dự báo về chính trị có thể là phần quan trọng nhất của việc kiểm tra các
yếu tố bên ngoài. Sự thay đổi về bằng sáng chế, luật chống độc quyền, thuế suất
và các nhóm gây sức ép ngoài hành lang có thể ảnh hưởng rất nhiều đến các

công ty. Sự lệ thuộc lẫn nhau mỗi lúc một tăng lên trên phạm vi toàn quốc giữa
các nền kinh tế, thị trường, chính phủ và tổ chức đòi hỏi công ty phải xem xét
đến ảnh hưởng có thể có của các biến số chính trị đối với việc soạn thảo và thực
hiện các chiến lược cạnh tranh.
Các biến số chính trị, chính phủ và luật pháp quan trọng
+ Các thay đổi của Luật thuế.
+ Các qui định xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu đặc biệt.
+ Số lượng các bằng sáng chế, phát minh.
+ Luật bảo vệ môi trường; Luật chống độc quyền.
+ Mức trợ cấp của chính phủ; mức chi tiêu cho quốc phòng.
- Khía cạnh kỹ thuật
Những thay đổi và phát minh kỹ thuật mang lại những đổi thay to lớn như
kỹ thuật siêu dẫn, kỹ thuật điện toán, người máy, những nhà máy không người,
truyền thông không gian, những mạng lưới vệ tinh, sợi quang… Các ảnh hưởng
của công nghệ cho thấy những cơ hội và mối đe dọa mà chúng ta phải được xem
xét trong việc soạn thảo chiến lược. Sự tiến bộ kỹ thuật có thể tác động sâu sắc
lên những sản phẩm dịch vụ, thị trường, nhà cung cấp, nhà phân phối, người
cạnh tranh, khách hàng, quá trình sản xuất, thực tiễn tiếp thị và vị thế cạnh tranh
của tổ chức.
Tiến bộ kỹ thuật có thể tạo ra những thị trường mới, kết quả là sự sinh sôi
của những sản phẩm mới mẽ và được cải tiến thay đổi những vị trí giá cả cạnh
tranh có quan hệ trong một ngành, khiến cho những sản phẩm và dịch vụ hiện có
trở nên lỗi thời. Hiện nay, không có công ty hay ngành công nghiệp nào tự cách
ly với những phát triển công nghệ đang xuất hiện. Trong công nghệ kỹ thuật
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
12
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
cao, sự nhận dạng và đánh giá những cơ hội và mối đe dọa mang tính công nghệ
trọng yếu có thể là phần quan trọng nhất của việc kiểm soát các yếu tố bên ngoài
trong hoạt động quản lý chiến lược.

Các câu hỏi chủ yếu thường đặt ra khi đánh giá môi trường công nghệ
+ Các công nghệ bên trong công ty là gì ?
+ Các công nghệ nào được sử dụng trong việc kinh doanh của công ty?
Trong sản phẩm?
+ Mỗi công nghệ có tầm quan trọng thiết yếu như thế nào đối với mỗi sản
phẩm và hoạt động kinh doanh?
+ Những công nghệ nào được quan tâm bao gồm trong việc sản xuất các
sản phẩm và nguyên vật liệu mua để sử dụng?
+ Sự phát triển của công nghệ này theo thời gian là gì? Những thay đổi
công nghệ này khởi đầu từ công ty nào?
+ Đâu là sự phát triển có thể có của công nghệ này trong tương lai?
+ Xếp hạng chủ quan các công ty khác nhau theo mỗi công nghệ là gì?
- Các yếu tố về thị trường:
Là các thông tin có liên quan đến cạnh tranh, thiết kế sản phẩm, sở thích
của khách hàng và các khía cạnh khác của thị trường.
- Các nguồn lực ban đầu: là các yếu tố phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất
và phân phối sản phẩm hay dịch vụ. Đây là các nhân tố về nguyên vật liệu, nhân
sự, vốn bằng tiền, vốn bằng hàng hóa và các tiện ích khác.
b. Yếu tố đầu ra:
Là sản phẩm được sản xuất từ hệ thống, thường có hai hình thức: sản phẩm
trực tiếp và sản phẩm không trực tiếp. Một số lớn sản phẩm (trực tiếp) được sản
xuất hàng ngày và các sản phẩm (không trực tiếp) được phát sinh ra từ hệ thống.
Điều lưu ý là chúng ta thường bỏ qua các loại sản phẩm không trực tiếp của
hệ thống như: Thuế khóa, các loại chất thải và gây ô nhiễm môi trường, các hoạt
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
13
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
động cộng đồng. Mặc dù chúng không nhận được sự lưu tâm như là các kết quả
về sản phẩm hay dịch vụ tạo ra doanh thu giúp cho hệ thống sản xuất tồn tại.
Các quyết định trong quản trị sản xuất

Theo kinh nghiệm của các nhà quản trị thường phân các quyết định thành 3
loại chính: Các quyết định về chiến lược, quyết định về hoạt động và quyết định
về quản lý.
Các quyết định về chiến lược: quyết định về sản phẩm, qui trình sản xuất,
phương tiện sản xuất. Đây là quyết định có tầm quan trọng chiến lược có ý nghĩa
lâu dài cho tổ chức. Những quyết định này đòi hỏi tất cả nhân viên trong các
khâu từ sản xuất, nhân sự, kỹ thuật, Marketing và tài chính đều phải làm việc
cùng nhau để nghiên cứu các cơ hội kinh doanh một cách cẩn thận, nhằm đưa ra
một quyết định đặt các tổ chức vào vị trí tốt nhất để đạt được mục tiêu dài hạn:
+ Quyết định xem có nên thực hiện dự án phát triển sản phẩm mới hay
không?
+ Quyết định về việc thiết lập qui trình sản xuất cho sản phẩm mới.
+ Quyết định cách thức phân phối nguồn nguyên vật liệu khan hiếm, các tiện
ích, khả năng sản xuất và nhân sự giữa các cơ hội kinh doanh mới và hiện có.
+ Quyết định về việc xây dựng thêm nhà máy mới và nơi đặt chúng.
Các quyết định về hoạt động: như giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến
việc hoạch định sản xuất để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Trách nhiệm
chính của tác nghiệp và tìm kiếm đơn đặt hàng từ phía khách hàng, được thu hút
bởi chiến lược marketing của tổ chức và phân phối sản phẩm hay dịch vụ nhằm
thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Ví dụ như:
+ Quyết định xem cần có bao nhiêu dự trữ dùng cho sản xuất.
+ Quyết định số lượng và loại sản phẩm sẽ được sản xuất trong thời gian tới.
+ Quyết định là có nên gia tăng năng lực sản xuất vào thời gian tới hay
không? Bằng cách nào? cho công nhân làm ngoài giờ hoặc là cho các nhà cung
ứng thực hiện một phần khối lượng sản phẩm của công ty?
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
14
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
+ Quyết định chi tiết về việc mua nguyên vật liệu để đáp ứng nhu cầu cho
sản xuất trong thời gian tới.

Các quyết định về quản lý: Các nhà quản trị sản xuất trong doanh nghiệp có
thể khiến một doanh nghiệp thành công hay thất bại thông qua những quyết định
đúng sai của họ. Đây là các quyết định có liên quan đến hoạt động hàng ngày
của công nhân, không phải lúc nào công nhân cũng luôn hoàn thành công việc
của mình như mong muốn. Về chất lượng sản phẩm, dịch vụ có xu hướng biến
động, máy móc thiết bị có khả năng hỏng hóc xảy ra. Do đó các nhà quản lý cần
hoạch định, phân tích và quản lý các hoạt động để làm giảm đi sự cản trở đến hệ
thống sản xuất. Ví dụ như:
+ Quyết định về chi phí cho việc điều chỉnh lại bản thiết kế sản phẩm.
+ Quyết định tiêu chuẩn về quản lý chất lượng cho những sản phẩm có sự
thay đổi trong bảng thiết kế.
+ Quyết định số lần bảo trì ngăn chặn hỏng hóc của máy móc sản xuất.
Các quyết định hàng ngày về công nhân, chất lượng sản phẩm, máy móc
dùng cho sản xuất, khi được thực hiện cùng với nhau sẽ là một khía cạnh lớn
trong công việc của các nhà quản lý tác nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị sản xuất và dịch vụ hiện nay
Có 5 nhân tố chính ảnh hưởng quản trị sản xuất và dịch vụ hiện nay:
Chất lượng, dịch vụ khách hàng và các thách thức về chi phí.
Sự phát triển nhanh chóng của các kỹ thuật sản xuất tiên tiến.
Sự tăng trưởng liên tục của khu vực dịch vụ.
Sự hiếm hoi của các tài nguyên cho sản xuất.
1.2: Các chức năng quản lý sản xuất.
Hoạch định và kiểm soát công việc là hai chức năng cơ bản của bất ky một
nhà quản lý nào, phải quyết định mình muốn đạt được điều gì, và sau đó lập kế
hoạch để biến những mong muốn của mình thành hiện thực. Hiểu được các dai
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
15
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
đoạn trong quy trình kiểm soát công việc, mới có thể sử dụng nguồn lực với hiệu
suất cao hơn và tăng cường chất lượng của sản phẩm, dịch vụ mà mình cung cấp

1.2.1: Quản lý kế hoạch sản xuất
1.2.1.1. Dự báo ( nguồn TS. Đặng Minh Trang (2005), Quản trị sản xuất
và tác nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội)
Dự báo :là nghệ thuật khoa học tiên đoán các sự việc sảy ra trong tương lai,
nó có thể là cách lấy các dữ kiện đã qua để làm kế hoạch cho tương lai nhờ một
số mô hình toán hoc nào đó, nó có thể là cách dùng chủ quan hay trực giác để
tiên đoán tương lai, hoặc có thể là sự phối hợp giữa hai cái trên, có nghĩa là
dùng mô hình toán học rồi dùng phán xét theo kinh nghiệm của người quản lý
để điều chỉnh
Ý nghĩa của dự báo: dự báo đóng vai trò quan trọng trong lập kế hoạch vì nó
cho phép nhà quản trị nhìn thấy tương lai và lập kế hoạch tương ứng với tương
lai đó.Dự báo là nền tảng của lập kế hoạch trong doanh nghiệp
Vai trò của dự báo:
- Dự báo tạo ra lợi thế cạnh tranh( ở thế chủ động, không bị động)
- Công tác dự báo là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của các
doanh nghiệp, trong từng phòng ban.
Mô hình dự báo:
Theo “Journal of Business Forecasting Methods & Systems”, có ba mô
hình hệ thống dự báo kinh doanh. Trong hệ thống chuỗi thời gian, dữ liệu chỉ
đơn thuần được dự báo trên cơ sở phương pháp đã được thiết lập trước. Phương
pháp này căn cứ vào các chỉ số trung bình trượt, chỉ số trung bình, chỉ số biến
đổi, chỉ số phân tích của tình hình kinh doanh trước đó và mô hình ARIMA (của
Box-Jenkin, dùng thuật toán phân tích các dữ liệu của từng thời điểm trong quá
khứ làm căn cứ để tính toán và dự báo). Rõ ràng, mô hình dự báo theo chuỗi
thời gian là phương tiện hữu dụng nhất cho công tác dự báo khi các dữ liệu quá
khứ được đưa vào công thức một cách ổn định và không bị xáo trộn.
Mô hình dự báo thứ hai là dựa vào mối quan hệ nhân - quả. Ở mô hình này
cần đưa ra giả thiết về nguyên nhân, đó chính là động lực - yếu tố quyết định kết
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
16

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
quả kinh doanh. Ví dụ một doanh nghiệp có thể đưa ra giả thiết rằng, căn cứ trên
dữ liệu có được thì nguyên nhân là cần phải đầu tư vào công nghệ thông tin, và
kết quả là khả năng bán hàng. Tóm lại, dự báo dựa trên mối quan hệ nhân quả
được coi là ổn định một cách tương đối và dễ dàng cho việc xác định số lượng
sản phẩm cần sản xuất.
Mô hình dự báo thứ ba là căn cứ vào sự chẩn đoán. Trong mô hình này,
người ta cố gắng dự báo trong điều kiện không có những dữ liệu quá khứ có giá
trị. Doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp này khi họ tìm cách dự báo khả
năng bán sản phẩm mới hoặc khi thị trường có sự thay đổi về chất lượng. Theo
“Journal of Business Forecasting Methods & Systems”, mô hình dự báo này có
tác dụng đối với trường hợp bán sản phẩm với số lượng lớn cho một số ít khách
hàng có mối quan hệ. Để tiến hành dự báo trong điều kiện thiếu những dữ liệu
quá khứ, các dữ liệu thay thế sẽ được thu thập từ các nguồn như các chuyên gia
trên lĩnh vực đó, khách hàng tiềm năng, nhóm ngành hàng, đối tác và các nguồn
thông tin có liên quan khác.
1.2.1.2. Lập kế hoạch sản xuất
Trước khi tiến hành hoạt động con người thường có những ý kế hoạch
trong đầu hoặc cả một bản kế hoạch chính thức được trình bày một cách bài bản.
Để có kế hoạch, con người phải lập kế hoạch. Người ta có thể dùng thuật ngữ
lập (lên) kế hoạch, hoạch định hoặc kế hoạch hóa
Công tác kế hoạch hóa trong doanh nghiệp bao gồm hai mặt: lập ra kế
hoạch hoạt động và tổ chức thực hiện kế hoạch đó. Công tác kế hoạch hóa trong
doanh nghiệp chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh và
trong mọi hoạt động khác của con người. Bởi vì nếu không có kế hoạch trước thì
con người ta không thể thực hiện bất cứ việc gì có hiệu quả cao được. ( Nguồn
TS. Phan Thị Ngọc Thuận (2003), Chiến lược kinh doanh và kế hoạch hóa nội
bộ doanh nghiệp, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội)
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
17

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
Lập kế hoạch sản xuất là một phạm trù trong lập kế hoạch nói chung.
Cho đến nay, có nhiều khái niệm về lập kế hoạch. Mỗi khái niệm có cách
tiếp cận từ góc độ khác nhau.
a.Với cách tiếp cận từ góc độ chức năng: Lập kế hoạch sản xuất là vấn đề
cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn
chương trình hành động trong tương lai. Chẳng những lập kế hoạch là một chức
năng quản lý cơ bản của các nhà quản lý ở mỗi cấp trong một tổ chức, mà các chức
năng còn lại của nhà quản lý cũng phải dựa trên nó để tiến hành cho tốt. [2, 4]
Tùy theo thuyết quản lý sản xuất của các nhà nghiên cứu khác nhau mà
người ta chia ra chức năng quản lý theo các cách phân loại khác nhau:
* Hệ thống 4 chức năng: [5, 35]
- Lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
- Đảm bảo tổ chức bộ máy và tổ chức cán bộ cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Điều phối hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Kiểm tra chất lượng của sản phẩm, tiến độ thực hiện công việc, mọi khoản
chi, nguồn thu,
* Hệ thống 5 chức năng của Henry Fayol: [6, 66]
- Dự kiến: Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi
một chương trình hoạt động, một kế hoạch.
- Tổ chức: Tức là trang bị tất cả những gì cần cho hoạt động của doanh
nghiệp: vốn, máy móc, nhân viên, vật liệu
- Phối hợp: Là làm cho đồng điệu giữa tất cả những hoạt động của doanh
nghiệp nhằm tạo dề dàng và có hiệu quả.
- Chỉ huy: Công việc trong tổ chức phải có người thực hiện.
- Kiểm tra: Bao gồm việc xác định, thu thập thông tin về thành quả thực tế,
so sánh với thành quả kỳ vọng từ đó tiến hành các biện pháp sửa chữa nếu có sai
lệch nhằm bảo đảm hoàn thành mục tiêu.
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam

18
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
Qua đó ta thấy, dù theo hệ thống nào đi nữa thì lập kế hoạch hoạt động
cũng là chức năng đầu tiên của quản lý, là một chức năng quản lý quan trọng
hàng đầu. Nếu có sai sót từ khâu lập kế hoạch thì sẽ kéo theo một loạt các sai
lệch trong những khâu tiếp theo.
b.Với cách tiếp cận từ góc độ nội dung và vai trò:
Theo Ronner: Hoạt động của công tác lập kế hoạch là một trong những hoạt
động nhằm tìm ra con đường để huy động và sử dụng các nguồn lực của doanh
nghiệp một cách có hiệu quả nhất để phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh. [3, 54]
Theo Henrypayh: Lập kế hoạch là một trong những hoạt động cơ bản của
quá trình quản lý cấp công ty, xét về mặt bản chất thi hoạt động này nhằm mục
đích xem xét các mục tiêu, các phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách
tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. [3, 54]
Vậy, lập kế hoạch có nghĩa là cần phải xác định trước xem làm cái gì? Khi
nào làm? Làm ở đâu? Tại sao làm. Lập kế hoạch là một nhịp cầu từ trạng thái
hiện tại của chúng ta tới thời điểm ta mong muốn có trong tương lai. Nó không
chỉ bao gồm một cách rõ rệt các sự việc mới mà còn có những sáng kiến hợp lý
và khả năng phải làm gì, nó sẽ làm cho các công việc có thể xảy ra sẽ không xảy
ra khác đi. Mặc dù, ít khi có thể dự đoán chính xác về tương lai và các sự kiện
chưa biết trước có thể gây trở ngại cho kế hoạch đã định trước, nhưng nếu không
có kế hoạch thì hành động của con người sẽ đi đến chỗ vô mục đích, mất
phương hướng và đi đến chỗ phó thác cho may rủi.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: Việc lập kế hoạch sản xuất là phải xác định
trước một cách có hệ thống tất cả những công tác cần và phải cố gắng làm được,
nhằm đạt được những mục tiêu cuối cùng của công tác triển khai sản xuất. Điều
nay ảnh hưởng rất lớn đến các mục tiêu: Năng suất, chất lượng của sản phẩm;
thời gian giao hàng; lợi nhuận; uy tín của doanh nghiệp. Vì thế, có thể coi đây là
một khẩu hiệu và là một chương trình hành động trong mọi công ty.
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam

19
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
Có thể hiểu một cách rõ ràng hơn: Việc lập kế hoạch sản xuất là xây dựng
lên các công việc cụ thể và vạch ra tiến trình thực hiện chúng phù hợp với các
điều kiện đã có sẵn và các điều kiện có thể đạt được nhằm đạt được mục tiêu
ban đầu của nhà sản xuất. [2, 5]
c.Hệ thống các loại kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Để lập kế hoạch có hiệu quả, cần phân biệt rõ các loại kế hoạch. Tùy theo
tính chất cụ thể của các hoạt động cần có trong tương lai mà người ta phân chia
các loại kế hoạch. Xét về mặt thời gian, có thể chia ra kế hoạch hóa chiến lược
(dài hạn) và kế hoạch hàng năm (ngắn hạn).
• Kế hoạch hóa chiến lược. [7, 29]
Kế hoạch hóa chiến lược là lập kế hoạch cho thời gian dài, xa hơn một
năm. Tùy thuộc vào khả năng nhìn xa trông rộng (tức trình độ của nhà kế
hoạch) và tiềm năng của doanh nghiệp mà lập kế hoạch cho 2 năm, 3 năm, 5
hay 10 năm sau.
Hoạch định chiến lược vạch ra mục tiêu trong dài hạn, đề ra chiến lược tổng
quát về các chiến lược bộ phận, đề ra các giải pháp cho doanh nghiệp trong một
khoảng thời gian nhất định trong tương lai.
• Kế hoạch hàng năm. [7, 30]
Kế hoạch hàng năm (ngắn hạn) dựa vào chiến lược và giải pháp đã vạch ra
để lập ra các chỉ tiêu cụ thể (không còn là mục tiêu nữa) phải đạt được trong
năm kế hoạch. Nó cũng đưa ra kế hoạch hành động, tức các biện pháp phải tổ
chức thực hiện để đạt được những chỉ tiêu đó và cũng là để chiến lược kinh
doanh được thực hiện.
Kế hoạch hàng năm của doanh nghiệp còn có tên gọi là kế hoạch kinh tế-
kỹ thuật hay kế hoạch sản xuất- kinh doanh. Đây là chương trình cụ thể triển
khai toàn bộ các mặt hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp với các
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
20

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
biện pháp bảo đảm thực hiện, được lập ra cho thời gian một năm. Nó bao gồm 7
bộ phận:
- Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Kế hoạch khoa học- công nghệ.
- Kế hoạch xây dựng cơ bản và sửa chữa lớn.
- Kế hoạch lao động tiền lương.
- Kế hoạch cung ứng vật tư.
- Kế hoạch giá thành sản phẩm.
- Kế hoạch tài chính.
Các bộ phận này có mối quan hệ qua lại hữu cơ với nhau trong đó kế hoạch
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là bộ phận chủ đạo. Từ kế hoạch này người ta xác
định các chỉ tiêu của các bộ phận kế hoạch khác. Bên cạnh đó, nhờ áp dụng kế
hoạch khoa học- công nghệ mà thay đổi các định mức kinh tế- kỹ thuật, là căn
cứ xác định các chỉ tiêu kế hoạch, làm cho chất lượng các chỉ tiêu kế hoạch tốt
hơn kỳ trước. Thông qua kế hoạch khoa học- công nghệ mà những ý đồ chiến
lược có thể được thực hiện có hiệu quả.
d.Vai trò của kế hoạch hóa trong quản lý sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, việc lập kế hoạch giữ một vai trò hết sức qua
trọng, nó góp phần giúp doanh nghiệp:
- Ứng phó với tình huống bất định và sự thay đổi trong nội bộ doanh nghiệp
cũng như ngoài môi truờng.
Lập kế hoạch là sự lựa chọn phương án hành động trong tương lai và quá
trình thực hiện các kế hoạch này cũng xảy ra trong tương lai. Trên thực tế thì
kinh tế càng phát triển thì càng chứa nhiều yếu tố bất định và ngẫu nhiên.
Nếu không có các kế hoạch, các dự báo cho tương lai cũng như các biện
pháp giải quyết khi các yếu tố bất định xảy ra thì người quản lý khó có thể ứng
phó với các tình huống đó và kết quả là doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn.
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
21

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
Tuy nhiên, cần phải nói rằng để có thể đối phó với các tình huống bất định
và ngẫu nhiên nói trên, trong quá trình xác định các kế hoạch cho doanh nghiệp,
người quản lý cần phải phân tích và dự báo các tình huống có thể xảy ra. Thiết
lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện các kế hoạch và đưa ra các
biện pháp điều chỉnh kịp thời khi các mục đích của doanh nghiệp đã lệch khỏi
hành lang an toàn nào đó. Điều này thể hiện tính linh hoạt của việc lập kế hoạch
trong nền kinh tế thị trường.
- Việc lập kế hoạch sẽ đưa ra hệ thống mục tiêu cụ thể cho doanh nghiệp.
Giúp tập trung khả năng chú ý vào các mục tiêu đã định.
Vì toàn bộ công việc lập kế hoạch sẽ tập trung sự chú ý của của doanh
nghiệp vào các mục tiêu này. Việc lập kế hoạch được xem xét toàn diện sẽ
thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận trong doanh
nghiệp. Người quản lý phải thông qua việc lập kế hoạch để xem xét tương lai,
thậm chí phải định kỳ xem xét, mở rộng và điều chỉnh kế hoạch để đạt được
mục tiêu đề ra.
- Lập kế hoạch tạo điều kiện cho việc tổ chức tạo các hoạt động tác nghiệp
về kinh tế.
Việc lập kế hoạch sẽ thay các hoạt động đơn lẻ, không được phối hợp của
các cá nhân, của các bộ phận bằng các nỗ lực có định hướng chung, thay thế các
hoạt động thất thường bằng các hoạt động đều đặn và thay thế sự phán xét vội
vàng bằng các quyết định được cân nhắc kỹ lưỡng. Nó giúp giảm chi phí về sản
xuất, giảm thời gian, giảm công sức…
- Việc lập kế hoạch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm soát các hoạt
động, quá trình thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp.
Việc lập kế hoạch sẽ làm cho việc kiểm tra, kiểm soát trong công tác quản
lý được dễ dàng bởi vì người quản lý sẽ không thể kiểm soát được công
việc của các cấp dưới nếu như không có các mục tiêu đã định để đo lường.
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
22

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
e. Tầm quan trọng của kế hoạch hóa trong quản lý sản xuất.
Sản xuất là hoạt động tạo ra nguồn gốc giá trị, tạo ra của cải vật chất cho xã
hội, tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp và cho người lao động.
Với vai trò trực tiếp tạo ra giá trị sử dụng của sản phẩm và qua đó cho phép
thoả mãn các nhu cầu khác nhau do vậy sản xuất được coi là hoạt động quan
trọng trong doanh nghiệp cùng với hoạt động tài chính. Mối quan tâm hàng đầu
của các nhà quản lý là làm sao tạo ra lượng của cải vật chất nhiều nhất. Bởi vậy
việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho hoạt động sản xuất trở
thành một hoạt động chủ đạo của doanh nghiệp mà trong đó doanh nghiệp sử
dụng tối đa nguồn lực, thu hút đến 70 ÷ 80% lao động để sản xuất ra sản phẩm
vật chất và sản phẩm dịch vụ. Đây cũng là xu hướng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay.
Các nhà quản lý cần phải lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh bởi vì lập kế
hoạch cho biết phương hướng hoạt động trong tương lai, làm giảm sự tác động
của những thay đổi từ môi trường, tránh được sự lãng phí và dư thừa nguồn lực,
đồng thời thiết lập nên những tiêu chuẩn thuận tiện cho công tác kiểm tra.
Kế hoạch sản xuất, kinh doanh là những chỉ tiêu những con số dự kiến và
ước tính trong việc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể nào đó cho phù hợp với yêu
cầu của thị trường, với pháp luật và khả năng thực tế của từng cơ sở sản xuất
kinh doanh
Về mặt nội dụng kế hoạch sản xuất, kinh doanh được phản ánh thông qua
hệ thống các biểu mẫu bao gồm các chỉ tiêu và các chỉ tiêu đều được thực hiện
bằng các con số cụ thể trong cơ chế quản lý tập trung các chỉ tiêu kế hoạch
thường được cấp trên giao xuống theo nhiệm vụ chung của toàn ngành dẫn tới
các chỉ tiêu thường thiếu thực tế và công tác kế hoạch dần bị hạ thấp trong công
tác quản lý doanh nghiệp khi chuyển sang cơ chế mới – “cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước” mới tạo ra môi trường có kế hoạch hoạt động.
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
23

Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
Nhờ có kế hoạch sản xuất, kinh doanh mà doanh nghiệp mới tạo được thế
chủ động trên mọi lĩnh vực như: Chủ động trong việc khai thác triệt để mọi
nguồn khả năng tiềm tàng về vốn, vật tư, thiết bị, lao động hiện có. Chủ động
trong việc mua sắm trang thiết bị phục vụ chủ trương đổi mới kỹ thuật, công
nghệ. Chủ động trong việc tạo và tìm kiếm nguồn vốn, chủ động trong việc liên
doanh, liên kết và hợp tác với các đơn vị bạn. Chủ động trong việc mua nguyên
vật liệu và tiêu thụ sản phẩm
Thực tế quá trình hoạt động của các doanh nghiệp ở nước ta đã chứng minh
rằng trong cơ chế thị trường sản xuất, kinh doanh mà không có kế hoạch và
công tác kế hoạch hóa không được chú trọng thì sẽ không đạt hiệu quả cao và
liên tục.
f. Các nhân tố, yếu tố đầu vào cho quá trình lập kế hoạch sản xuất.
Trong quá trình lập kế hoạch sản xuất, ta cần hiểu và xác định được các nhân tố,
yếu tố đầu vào. Có thể thấy các nhân tố, yếu tố đầu vào như sau: (sơ đồ hình 1.2).
Dự báo nhu cầu
của khách hàng
Công suất thiết bị,
hàng tồn kho
Tài chính
KẾ HOẠCH
SẢN XUẤT
Công nghệ
Nguồn nhân lực
Cung ứng vật tư đầu
vào
Hình 1.2: Những nhân tố, yếu tố đầu vào cho quá trình
lập kế hoạch sản xuất.
( nguồn : Trần Thanh Hương (2007), Giáo trình: Lập kế hoạch sản xuất ngành
may, Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh)

Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
24
Khoa Kinh tế & Quản lý Đại học Bách Khoa Hà Nội
Tài chính.
Là một vấn đề hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến việc lập kế
hoạch sản xuất. Khả năng tài chính cho phép nhà sản xuất có cái nhìn toàn diện,
đầy đủ hơn cũng như có thể trở tay kịp khi các biến động khác xảy ra. Vì vậy,
khi khả năng tài chính suy yếu sẽ đồng thời kéo theo suy yếu nhiều yếu tố khác.
Dự báo nhu cầu của khách hàng.
Tùy theo thời điểm và công tác tiếp thị giữa các doanh nghiệp, tùy theo
mức độ cạnh tranh mà đôi khi nhu cầu của khách hàng có những sự biến động
rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm đối với doanh nghiệp. Do
đó, trong khi lập và thực hiện kế hoạch, bao giờ yếu tố tiếp thị, cạnh tranh dựa
trên sự tìm hiểu nhu cầu của khách hàng không được tách rời nhau.
Công suất thiết bị, hàng tồn kho.
Trong quá trình lập kế hoạch, thường người lập kế hoạch có xu hướng lập ra
những kế hoạch sao cho tận dụng hết công suất của thiết bị, dụng cụ, nhà xưởng,
nhân lực, hàng tồn kho mà quên tính đến những trục trặc, khó khăn sẽ xảy đến
trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch. Vì vậy, khi lập kế hoạch sản xuất, luôn
cần nhớ vận dụng tính sáng tạo, linh hoạt và nhịp nhàng để tận dụng tối đa công
suất theo thiết kế của nhà máy và lượng hàng hóa, vật tư tồn kho, dự trữ.
Công nghệ.
Công nghệ đóng vai trò trợ giúp đắc lực trong quá trình lập và thực hiện kế
hoạch. Công nghệ càng hoàn chỉnh, ổn định bao nhiêu thì càng dễ dàng đạt được
kế hoạch đề ra bấy nhiêu. Do đó, trong sản xuất công nghiệp, việc cải tiến công
nghệ, chuyên môn hóa sản xuất luôn gắn liền với việc nâng cao tính
đồng nhất về chất lượng của sản phẩm, đảm bảo tốt được kế hoạch đã đề ra.
Cung ứng vật tư đầu vào.
Sự biến động của các yếu tố đầu vào bao gồm: nguyên vật liệu, trang thiết bị,
máy móc, các chính sách áp dụng… mà ta không thể lường trước được, và như

thế chúng tác động tích cực hay tiêu cực đến quá trình lập kế hoạch sản xuất.
Luận văn Thạc sỹ khoa học Học viên: Phạm Hoài Nam
25

×