Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Giải pháp hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP công thương Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.33 KB, 101 trang )

Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế hiện nay, ngân hàng thương mại (NHTM) là định chế tài chính
trung gian thực hiện nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ tài chính tiện
ích cho sự phát triển kinh tế xã hội và đời sống con người. Trong đó, tín dụng (TD) là
nghiệp vụ cơ bản và quan trọng nhất vì nó là nghiệp vụ tạo ra thu nhập cơ bản cho
Ngân hàng (NH). Song đây cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều áp lực và rủi ro, có thể
gây tổn thất lớn cho NH. Các con số thống kê và nhiều nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín
dụng (RRTD) chiếm tới 70% trong tổng rủi ro hoạt động NH. Thực tế hoạt động tín
dụng của Ngân hàng thương mại Việt Nam (NHTM VN) trong thời gian qua là một
minh chứng cho nhận định này: Hiệu quả hoạt động tín dụng chưa cao, chất lượng tín
dụng chưa tốt, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn còn cao so với khu vực và chưa có khuynh
hướng giảm vững chắc. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các
NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc trên cả phương diện lý thuyết và thực tiễn.
Đó thực sự là một yêu cầu khách quan, là điều kiện sống còn để NHTM có thể tồn tại
và phát triển. Với thực tế là doanh số cho vay, thu nợ và dư nợ đối với Doanh nghiệp
(DN) luôn chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động TD của các NHTM, cho nên hạn chế
RRTD đối với DN vay vốn (DNVV) mà vẫn mở rộng TD đối với chủ thể này là vấn
đề luôn nhận được sự quan tâm của các NH.
Thực tiễn đã cho thấy thất bại của NHTM trong hoạt động tín dụng gắn chặt
với thiếu hiểu biết về khách hàng. Một trong những kỹ thuật quản trị RRTD của
NHTM là sử dụng phân tích chấm điểm để xếp hạng uy tín về mặt tín dụng của mỗi
khách hàng một cách thường xuyên. Do vậy vấn đề xây dựng và hoàn thiện hệ thống
XHTD nội bộ đang được các NHTM quan tâm nhằm ngăn ngừa và hạn chế RRTD,
giảm bớt tỷ lệ nợ xấu phải trích lập dự phòng rủi ro, đáp ứng các yêu cầu của Basel
về quản trị rủi ro -trong đó chú trọng và đề cao vai trò XHTD nội bộ đối với NHTM
được quy định trong hiệp ước Basel I (năm 1988), bổ sung trong hiệp ước Basel II
(năm 2004) và ngân hàng nhà nước (NHNN). Đây rõ ràng là công việc mà các
NHTM cần tiến hành một cách định kỳ nhằm đáp ứng với những thay đổi về môi
trường kinh doanh và tăng cường hơn nữa khả năng dự báo trong quản trị RRTD.


Xếp hạng tín dụng đã được các NHTM trên thế giới thực hiện từ lâu, mang lại
hiệu quả rất thiết thực. Tại Việt Nam, sau một thời gian chuyển đổi sang cơ chế thị
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
1
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
trường, vào khoảng năm 1994, một số NH đã thực hiện XHTD DN dựa vào phân tích
các chỉ tiêu tài chính theo hướng dẫn của NHNN. Tuy nhiên, việc làm trên không
được tiến hành thường xuyên, mang tính chất hình thức, hiệu quả kinh tế không cao.
Từ năm 2000 trở lại đây, trong xu thế hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và
kinh tế toàn cầu, các NHTM đứng trước thách thức về sự cạnh tranh gay gắt không
chỉ đối với các NHTM trong nước mà còn với chi nhánh các NH nước ngoài, NH liên
doanh. Trong bối cảnh đó, XHTD lại trở thành vấn đề được nhiều NHTM quan tâm
nghiên cứu.
Chi nhánh Ngân hàng TMCP Công thương Đống Đa là chi nhánh thuộc Ngân
hàng TMCP Công thương Việt Nam. Hệ thống chấm điểm tín dụng được áp dụng
vào hệ thống NHCT từ năm 2004. Sau hơn 5 năm triển khai, hệ thống đã đáp ứng
những yêu cầu nhất định trong công tác quản trị RRTD. Song bên cạnh đó, trong quá
trình áp dụng, hệ thống vẫn bộc lộ một số bất cập cần được hoàn thiện để hệ thống
phù hợp và bám sát với tình hình thực tế hơn. Đó là lý do em thực hiện khóa luận với
đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn tại
Chi nhánh Ngân hàng TMCP công thương Đống Đa”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận tổng quan về hoạt động tín dụng tại NHTM và sự cần thiết
của XHTD DNVV đối với hoạt động của NHTM.
- Nghiên cứu lý luận cũng như làm rõ khái niệm, nội dung và các nhân tố ảnh
hưởng của hoạt động XHTD các DNVV tại NHTM.
- Phân tích quá trình phát triển, hoạt động TD và TD cho khách hàng là DN của
NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa trong những năm gần đây. Đồng thời đi
sâu nghiên cứu thực trạng hoạt động XHTD DNVV để có sự so sánh và đưa ra đánh giá
những kết quả đạt được cũng như các tồn tại và nguyên nhân.

- Đề xuất giải pháp và đưa ra các kiến nghị đối với các chủ thể liên quan nhằm
hoàn thiện hơn nữa công tác này tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những vấn đề về lý thuyết và thực tiễn
XHTD DNVV tại NHTM ở trên Thế giới và tại Việt Nam, cũng như tình hình hoạt động
và thực trạng công tác đó tại NH TMCP công thương Đống Đa. Đồng thời, khoá luận
nghiên cứu một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác XHTD DN tại NH TMCP
công thương Đống Đa.
Do XHTD là một lĩnh vực rộng liên quan đến nhiều chủ thể phạm vi đối tượng
khác nhau. Nên trong khóa luận tốt nghiệp, đề tài này giới hạn ở mức:
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
2
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
- Nghiên cứu hoạt động XHTD đối với các doanh nghiệp vay vốn trong nước
thuộc tất cả các ngành nghề kinh tế, không áp dụng với các TCTD khác vay vốn hay với
các chủ thể kinh tế cá nhân.
- Số liệu trong khoá luận được tập hợp chủ yếu trong khoảng thời gian từ năm
2004 - 2009.
4. Phương pháp nghiên cứu và tiếp cận vấn đề
Khóa luận sử dụng phương pháp phân tích số liệu định tính và định lượng để làm
rõ hiện trạng hệ thống XHTD. Và bằng cách sử dụng phương pháp so sánh với các tiêu
chuẩn đánh giá phổ biến trên thị trường xếp hạng tín nhiệm quốc tế và trong nước. Qua
đó, nghiên cứu để đưa ra nhận định, đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống XHTD khách
hàng doanh nghiệp của NH TMCP công thương Đống Đa.
Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử trong nghiên cứu khoa học xã hội, phương pháp phân tích, dự báo, kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, diễn dịch và qui nạp... để xử lý các dữ liệu. Sử dụng các
bảng biểu, biểu đồ, sơ đồ để tăng thêm tính thuyết phục.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Khóa luận trình bày sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống XHTD khách hàng
doanh nghiệp tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa. Đề tài nghiên cứu tập
trung vào phương pháp tính điểm và xếp hạng, đưa ra các các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản trị RRTD tại NH TMCP công thương chi nhánh Đống Đa.
Xây dựng thành công hệ thống đánh giá, XHTD đối với khách hàng không chỉ
giúp NHTM phân loại nợ trung thực hơn, mà còn là công cụ tư vấn, giúp các nhà quản
trị NHTM có định hướng chiến lược kinh doanh rõ ràng, áp dụng phù hợp cho nhóm đối
tượng khách hàng DNVV.
6. Bố cục khóa luận
Chương 1: Tín dụng ngân hàng và hoạt động xếp hạng tín dụng tại các
NHTM
Chương 2: Thực trạng hoạt động xếp hạng tín dụng tại NH TMCP công
thương chi nhánh Đống Đa
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động XHTD tại NH TMCP công
thương chi nhánh Đống Đa
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
3
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Chương 1
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG XẾP HẠNG
TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM
1.1. TÍN DỤNG VÀ AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NHTM
1.1.1. Hoạt động tín dụng tại các NHTM
1.1.1.1. Khái niệm tín dụng
Khó có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về tín dụng. Vì vậy tùy theo góc độ
nghiên cứu mà chúng ta có thể xác định nội dung của thuật ngữ này.
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau;
ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng
có một nội dung riêng. Nhưng chung quy lại, có thể hiểu:

Tín dụng nói chung được định nghĩa là quan hệ kinh tế trong đó có sự chuyển
nhượng tạm thời một lượng giá trị (dưới hình thức giá trị hoặc hiện vật) từ người sở
hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị
lớn hơn giá trị ban đầu.
Nếu xem xét ở một góc độ hẹp hơn, “Tín dụng Ngân hàng là một giao dịch
về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa NH và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các
chủ thể khác), trong đó, NH chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một
thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện
vốn gốc và lãi cho NH khi đến hạn thanh toán”.
Ngày nay, TD không chỉ đơn thuần là việc chuyển giao quyền sử dụng vốn
bằng hình thái tiền tệ, hình thái tài sản tài chính (leasing) mà còn sử dụng cả uy tín
của NH (hình thức bảo lãnh - tín dụng chữ ký) để cung cấp cho khách những dịch vụ
tốt nhất như chiết khấu, bao thanh toán, thấu chi, cho vay theo hạn mức, vay trung dài
hạn, đầu tư dự án.
1.1.1.2. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng
- TDNH thúc đẩy sự ra đời, tồn tại và phát triển của các hoạt động sản xuất
kinh doanh
TDNH là công cụ tài trợ nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn kịp thời về sản xuất
tiêu dùng cho các chủ thể trong xã hội đặc biệt là các DN. Vốn là yếu tố tiên quyết
giúp các ý tưởng kinh doanh đi vào thực tiễn cũng như mở rộng quy mô hiệu quả
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
4
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
hoạt động của các DN. Trong bối cảnh đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt như hiện
nay cùng làn sóng hội nhập khiến các DN gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt trong giai
đoạn kinh tế phục hồi hiện nay, họ cần vốn để mở rộng quy mô cả về chiều sâu và
chiều rộng, đổi mới hiện đại hóa trang thiết bị, đào tạo nguồn nhân lực…để nâng cao
năng lực cạnh tranh và khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Tuy thị trường tài
chính, chứng khoán những năm trở lại đã có những bước tiến đáng kể song vẫn chỉ là
bắt đầu mới phát triển như Việt Nam, chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình là

nơi giúp các DN tăng vốn, cùng với các điều khoản chặt chẽ để có thể phát hành
chứng khoán khiến cho việc huy động vốn trực tiếp thông qua phát hành trái phiếu,
cổ phiếu chưa phổ biến thì TDNH vẫn luôn là nguồn vốn đặc biệt quan trọng đối với
DN. Nhất là đối với các DN vừa và nhỏ - loại hình quy mô DN phổ biến tại Việt Nam
hiện nay.
- TDNH là một trong các đòn bẩy kích thích DN và NH hoạt động kinh doanh
có hiệu quả hơn.
NH vừa là người “đi vay”, vừa là người “cho vay” nên bản thân NH trong quá
trình kinh doanh phải tính toán đến hiệu quả kinh doanh sao cho bản thân NH có lời,
đồng thời hoàn trả được gốc và lãi cho người gửi tiền. Mặt khác, khi cho các chủ thể
vay vốn, NH cũng phải tính toán đến hiệu quả kinh tế sao cho bản thân họ có lời và
hoàn trả vốn gốc và lãi vay cho NH. Như vậy TDNH có tác dụng tăng cường chế độ
hạch toán kinh tế không chỉ đối với các NHTM, mà cả với các DN đi vay.
- TDNH là kênh truyền tải tác động nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách
tiền tệ vĩ mô trong từng thời kỳ
Thông qua việc cấp tín dụng cho các chủ thể trong xã hội, TDNH đã góp phần
điều hòa sự lưu thông của tiền tệ. Nhờ việc điều chỉnh các điều kiện TD như về lãi
suất, hạn mức, thời hạn, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh…mà TDNH đã có tác động giúp
thực hiện các mục tiêu vĩ mô của quốc gia trong từng thời kỳ theo sự điều tiết của
Nhà nước. Cụ thể, khi các NHTM mở rộng TD cấp vốn ra thị trường, sẽ tạo điều kiện
tốt cho các DN tiếp cận nguồn vốn rẻ để tăng cường sản xuất kinh doanh. Từ đó đóng
góp chung vào sức tăng trưởng GDP của cả nước, ổn định giá cả, tạo thêm công ăn
việc làm và ổn định xã hội. Hoạt động TD cũng có vai trò trong việc tác động đến
hoạt động huy động các nguồn lực, hình thành và biến nguồn vốn thành đầu tư, tăng
trưởng kinh tế và tạo các bước nhảy vọt về công nghệ.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
5
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
NHTM cấp TD cho các DN trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy
động, có nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi dưới các hình thức cho vay ứng trước,

chiết khấu, bảo lãnh...và nó mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho NH. Nhưng rủi ro
TD thường xảy ra, luôn đe doạ sự tồn tại của NH.
1.1.2. An toàn trong hoạt động tín dụng tại các NHTM
1.1.2.1. Rủi ro tín dụng, nguyên nhân và những hậu quả
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các ngân hàng luôn phải đối
đầu với rất nhiều rủi ro, đó là: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi
ro lãi suất. Rủi ro và lợi nhuận là hai mặt đối lập nhau trong một thể thống nhất của
quá trình kinh doanh, chúng luôn tồn tại và mâu thuẫn. Rủi ro luôn tiềm ẩn trong mọi
hoạt động của ngân hàng.
Ở Việt Nam, loại rủi ro phổ biến nhất và gây ra thiệt hại lớn nhất cho các ngân
hàng, chính là rủi ro tín dụng. Đó là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián
tiếp) xuất phát từ việc người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo
cam kết hoặc mất khả năng thanh toán, từ đó làm giảm vốn tự có của ngân hàng và
làm giảm sức mạnh tài chính các ngân hàng.
RRTD là hiện tượng NH không thu hồi được đầy đủ, đúng hạn hoặc mất khả
năng thu hồi các khoản vay đã ghi trong hợp đồng TD, dẫn đến toàn bộ hoặc một
phần gốc và lãi vay bị tổn thất. Căn cứ vào khoản 1, điều 2 Quy định về phân loại nợ,
trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động NH của TCTD ban
hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
NHNN: ”RRTD trong hoạt động NH của các TCTD là khả năng xảy ra rủi ro trong
hoạt động của NH của TCTD do KH không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
6
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Sơ đồ 1.1: Biểu hiện và hậu quả của rủi ro tín dụng


RRTD là hệ quả của rất nhiều yếu tố, được quy về hai nguyên nhân chính, đó
là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.

Nhóm nguyên nhân khách quan là tác nhân gây ra rủi RRTD bất khả kháng,
xảy ra ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người trong một thời điểm nào đó,
như:
- Tình hình chính trị và hệ thống pháp luật không ổn định: Việc chính trị bất
ổn, hay hệ thống pháp luật chồng chéo, chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở
sẽ dẫn tới việc các chủ thể kinh tế không an tâm trong kinh doanh, không
thích nghi được với sự thay đổi, từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh, đến khả năng trả nợ ngân hàng.
- Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế thay đổi: Đó là sự thay đổi của chu kì
kinh tế, lạm phát, hội nhập kinh tế quốc tế…RRTD thường xảy ra khi nền
kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, khi đó lạm phát tăng cao kéo theo sự
thất nghiệp và sự thắt chặt trong chính sách tiền tệ của ngân hàng trung
ương sẽ ngày càng làm cho chủ thể kinh tế hoạt động kém hiệu quả, lợi
nhuận suy giảm nên việc thanh toán nợ gặp khó khăn.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
7
RỦI RO TÍN DỤNG
Không thu
được vốn
đúng hạn
Không thu
được lãi
đúng hạn
Không thu
đủ vốn cho
vay
Phát sinh nợ
quá hạn
Không thu
đủ lãi

Khả năng thanh toán suy giảm
Hiệu quả kinh doanh giảm
Thất thoát vốn, phá sản
Phát sinh nợ
khó đòi
Phát sinh lãi
treo
Phát sinh lãi
treo đóng
băng
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
- Các yếu tố xã hội gắn với mỗi vùng: dân số, tâm lý, thói quen tiêu dùng,
tập quán, trình độ văn hóa ... nếu không được NH quan tâm đúng mức, sẽ
gây ra việc không phù hợp giữa sản phẩm tín dụng với thói quen của khách
hàng, từ đó là nguyên nhân của rủi ro đạo đức, rủi ro tín dụng.
- Sự lạc hậu về công nghệ thông tin: Việc NH không theo kịp đà phát triển
của công nghệ, như việc ứng dụng các phần mềm chuyên ngành, dịch vụ
thẻ… cũng sẽ gây ra RRTD cho NH.
Nhóm nguyên nhân chủ quan, bao gồm nguyên nhân từ phía người vay và
bản thân ngân hàng.
• Thứ nhất, nguyên nhân từ phía ngân hàng
Trước hết, phải nói đến việc NH còn thiếu một chính sách TD nhất quán,
chính sách TD ở đây phải bao gồm định hướng chung cho việc cho vay, chế độ TD
ngắn hạn, trung và dài hạn, các quy định về đảm bảo tiền vay, danh mục lựa chọn KH
trong từng giai đoạn… Nguyên nhân gây ra RRTD từ phía NH có thể khái quát như
sau:
- NH không có đủ thông tin về các số liệu thống kê để phân tích và đánh giá
KH… dẫn đến đánh giá sai hiệu quả của phương án xin vay, hoặc xác định thời hạn
cho vay và trả nợ không phù hợp với phương án kinh doanh của NH.
- Sự lơi lỏng trong quá trình giám sát trong và sau khi cho vay nên không

phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay sai mục đích.
- Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm… coi đó là vật bảo
đảm chắc chắn cho sự thu hồi cả gốc và lãi tiền vay.
- Chạy theo số lượng hoặc theo kế hoạch mà sao nhãng việc coi trọng chất
lượng khoản vay, quá lạc quan và tin tưởng vào sự thành công của phương án kinh
doanh của KH.
- NH không giải quyết hợp lý quan hệ giữa nguồn vốn huy động và nguồn
vốn sử dụng, cụ thể là: dự trữ vốn quá ít so với nhu cầu bảo đảm thanh toán, từ đó
dẫn đến mất khả năng thanh toán nếu KH có nhu cầu rút vốn quá nhiều; hoặc dữ trữ
vốn quá nhiều gây ứ đọng, lãng phí trong sử dụng vốn; hoặc lấy vốn ngắn hạn cho
vay trung dài hạn quá mức quy định.
- Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số CBTD NH chưa đủ tầm và vấn
đề quản lý sử dụng và đãi ngộ cán bộ NH chưa thỏa đáng.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
8
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
- Cạnh tranh giữa các TCTD chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy
mô, bỏ qua các điều kiện, tiêu chuẩn trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng
các khoản vay.
• Thứ hai, nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ vay
Đa số các DN khi vay vốn NH đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả
thi. Số lượng DN cố tình sử dụng vốn sai mục đích, lừa đảo NH không nhiều. Tuy
nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín cán bộ, ảnh
hưởng xấu đến các DN khác.
- Năng lực kinh doanh kém, đầu tư nhiều lĩnh vực quá khả năng quản lý.
Khi các DN vay tiền NH để mở rộng quy mô kinh doanh, đa số là tập trung
vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít DN nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý,
đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy
mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá

sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà đáng lẽ ra nó phải thành công trên
thực tế.
- KH vay vốn tại nhiều TCTD dưới một danh nghĩa hay nhiều danh
nghĩa khác nhau nên thiếu sự phân tích một cách tổng thể, khó theo dõi dòng tiền dẫn
đến việc sử dụng vốn vay chồng chéo và mất khả năng thanh toán dây chuyền.
- Tình hình tài chính của DN yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô tài sản,
nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu cao là đặc điểm chung của phần lớn
các DN Việt Nam. Ngoài ra, việc ghi chép một cách đầy đủ, rõ ràng, chính xác các sổ
sách kế toán vẫn chưa được các DN tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Vì vậy khi
cán bộ NH lập các bản phân tích tài chính của DN dựa trên các số liệu ngày thường
thiếu thực tế và xác thực.
Hậu quả của RRTD:
o Đối với nền kinh tế:
Hệ thống NH được coi là huyết mạch của nền kinh tế. Mỗi NH là một mắt
xích quan trọng trong hệ thống đồng bộ này. Trong lĩnh vực tiền tệ vô cùng nhạy cảm
thì rủi ro của NH này sẽ lan truyền sang các NH khác gây ra rủi ro hệ thống. Khi một
ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn của ngân hàng, gây
hoang mang cho các khách hàng gửi tiền, từ đó có thể xảy ra hiện tượng rút tiền ồ ạt.
Sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Nó sẽ gây
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
9
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
ra tình trạng suy thoái, giá cả tăng, sức mua của đồng tiền giảm xuống, gia tăng thất
nghiệp, xã hội mất ổn định… Từ các vấn đề trong kinh tế sẽ nảy sinh những tệ nạn xã
hội làm giảm sự ổn định và cản trở sự phát triển bền vững.
o Đối với ngân hàng:
Khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được khoản tín dụng đã cấp và
lãi vay, nhưng vẫn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động đến hạn. Điều này sẽ
làm NH mất cân đối trong việc thu chi, vòng quay vốn TD giảm làm cho hiệu quả
kinh doanh của NH giảm, chi phí tăng lên so với dự kiến. Đến một mức nào đó, NH

không đủ vốn để trả cho người gửi tiền, thì sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh
toán. Và kết quả là làm thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính giảm sút, uy
tín, sức cạnh tranh giảm, kết quả kinh doanh ngày càng xấu, điều này có thể dẫn NH
đến thua lỗ hoặc đưa đến bờ vực phá sản. RRTD ở một NH xảy ra ở mức độ khác
nhau: nhẹ nhất là NH bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng
nhất là khi NH không thu hồi được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến NH bị
thua lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài và không khắc phục được, NH sẽ bị
phá sản và gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống NH nói
riêng.
Các khoản cho vay không thanh toán đúng hạn là hình thức biểu hiện của
RRTD. Chúng được hình thành do hàng loạt các nguyên nhân khác nhau. Hậu quả
của RRTD là rất lớn; vì vậy, để hạn chế tối đa các tổn thất, NHTM phải có một
chương trình quản trị đồng bộ, từ chính sách quản trị rủi ro các khoản cho vay riêng
lẻ và danh mục cho vay đến việc giám sát và xử lý các khoản cho vay đó.
Có thể nói, RRTD là không thể tránh khỏi, nó theo sát quá trình kinh doanh
của NH; có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Thông qua tìm ra những
nguyên nhân căn bản của RRTD thì việc đưa ra các giải pháp giải quyết đảm bảo an
toàn trong hoạt động TD ngày càng trở nên cấp bách.
1.1.2.2. Giải pháp đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng tại hệ thống các NHTM
Các biện pháp thường được sử dụng để nâng cao công tác quản trị RRTD là:
- Đảm bảo thực hiện duy trì những tỷ lệ an toàn mà NHNN đã quy định, như:
o Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu : > 8% Vốn tự có
o Giới hạn cho vay, bảo lãnh: <15% vốn tự có
o Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn: 30%
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
10
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
- Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau. Với
các khách hàng khác nhau, đối tượng cho vay khác nhau thì rủi ro và mức độ rủi ro sẽ
khác nhau. Nên cần phải phân chia thành các nhóm khách hàng cụ thể như khách

hàng cá nhân, doanh nghiệp, NHTM khác, tổ chức trung gian tài chính, tài chính phi
ngân hàng, ngân hàng nhà nước với những thời hạn cho vay cụ thể.
- Xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý. Đây là một điều kiện quan trọng
hàng đầu để giảm thiểu RRTD trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một chính
sách tín dụng phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng mức lãi suất và thời hạn,
giới hạn tín dụng, cùng với quá trình giám sát sau khi cho vay. Hơn nữa, cần thiết lập
cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý tín dụng hợp lý, phân rõ trách nhiệm của từng cá
nhân, bộ phận trong quá trình phân tích và cấp tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro trong
từng khâu. Đặc biệt, nhằm giảm thiểu RRTD, quy trình tín dụng cần được xây dựng
một cách chi tiết từ khâu tìm hiểu khách hàng, đánh giá, đưa ra hạn mức tín dụng,
thời hạn, lãi suất đến khâu giải ngân, kiểm tra giám sát, thu nợ và quán triệt xuống
từng chi nhánh, từng cán bộ. Nhất là, quá trình phân tích tín dụng và giám sát tín
dụng cần phải được thực hiện chính xác, đầy đủ và chặt chẽ. Và một trong những
phương pháp phân tích nhằm ra quyết định cấp tín dụng đang được rất nhiều các
NHTM sử dụng, đó là chấm điểm các doanh nghiệp vay vốn (xếp hạng tín dụng)
nhằm đánh giá khả năng trả nợ và lãi vay của khách hàng. Phương pháp này sẽ được
đề cập trong toàn bộ phần còn lại của khóa luận.
1.2. XẾP HẠNG TÍN DỤNG TẠI HỆ THỐNG CÁC NHTM
1.2.1. Khái niệm xếp hạng tín dụng
Hai khái niệm xếp hạng tín dụng và xếp hạng tín nhiệm đều được dịch ra từ
tiếng Anh “credit rating” nhưng chúng không đồng nhất. Để làm rõ khái niệm xếp
hạng tín dụng, trước hết ta cần tìm hiểu khái niệm xếp hạng tín nhiệm.
• Khái niệm xếp hạng tín nhiệm
Xếp hạng tín nhiệm hay định mức tín nhiệm (credit rating) là thuật ngữ do John
Moody đưa ra đầu tiên và công bố vào năm 1909 trong cuốn “Cẩm nang chứng khoán
đường sắt”. Có rất nhiều cách định nghĩa không giống nhau về thuật ngữ này:
Theo Bohn John A. viết trong cuốn “Phân tích rủi ro trên các thị trường đang
chuyển đổi” thì xếp hạng tín nhiệm là sự đánh giá về khả năng một nhà phát hành có
thể thanh toán đúng hạn cả gốc và lãi đối với một loại chứng khoán nợ trong suốt thời
gian tồn tại của nó.

Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
11
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Theo công ty chứng khoán Merrill Lynch, xếp hạng tín nhiệm là đánh giá hiện
thời về chất lượng tín dụng được xem xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản
ánh sự sẵn sàng và khả năng nhà phát hành có thể thanh toán gốc và lãi đúng hạn.
Trong kết quả xếp hạng tín nhiệm chứa đựng cả ý kiến chủ quan của chuyên gia xếp
hạng tín nhiệm.
Còn theo Moody’s, xếp hạng tín nhiệm là ý kiến về khả năng và sự sẵn sàng
của một nhà phát hành trong việc thanh toán đúng hạn cho một khoản nợ nhất định
trong suốt thời gian tồn tại của khoản nợ đó. Nói một cách rộng hơn, xếp hạng một
đầu tư bởi một công ty xếp hạng tín nhiệm (CRA) là việc thể hiện ý kiến chuyên gia
của bên thứ ba về mức độ rủi ro vỡ nợ gắn liền với thể loại đầu tư đó. Xếp hạng càng
cao thì mức độ vỡ nợ càng thấp. Xếp hạng có thể là làm lên hạng hoặc xuống hạng
của một nhà phát hành, một công cụ tài chính theo khả năng của nó có đáp ứng được
các nghĩa vụ đối với một nhà đầu tư hay không. Về mặt nào đó, xếp hạng tín nhiệm
có thể được xem như là một hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán, nhưng đó chỉ là ý
kiến dựa trên các nhân tố rủi ro và không hoàn toàn là một lời khuyên nên mua hay
bán bất kỳ một loại chứng khoán nào. Một sự xếp hạng cao không đồng nghĩa là một
khoản đầu tư tối ưu.
Qua những cách định nghĩa trên, ta có thể hình dung: xếp hạng tín nhiệm là
việc đánh giá khả năng chi trả đúng hạn của khách hàng đối với một nghĩa vụ nợ
trong hiện tại và tương lai.
• XHTD và sự phân biệt XHTD với xếp hạng tín nhiệm
o Xếp hạng tín dụng là đánh giá hiện thời về chất lượng tín dụng được xem
xét trong hoàn cảnh hướng về tương lai, phản ánh sự sẵn sàng và khả năng
có thể thanh toán gốc và lãi khoản vay đúng hạn - (trích tài liệu citibank) -
Xếp hạng tín dụng được thực hiện bởi ngân hàng (hoặc các trung tâm thông
tin tín dụng…) để đánh giá khả năng trả nợ các khoản vay ngân hàng của
doanh nghiệp, trong khi xếp hạng tín nhiệm được thực hiện bởi các công ty

xếp hạng tín nhiệm (CRA) riêng biệt.
o Hai khái niệm xếp hạng tín dụng và xếp hạng tín nhiệm, tuy cùng được
dịch từ tiếng Anh “credit rating”, nhưng chúng không đồng nhất. Xếp hạng
tín nhiệm là một phạm trù lớn hơn xếp hạng tín dụng, mặc dù ý nghĩa đều
có thể tương tự là cách đánh giá khả năng trả nợ trong tương lai, nhưng
chúng có đối tượng, chức năng, mục đích riêng. Do XHTD được thực hiện
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
12
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
bởi ngân hàng (hoặc các trung tâm thông tin tín dụng…) để đánh giá khách
hàng của mình, do vậy kết quả xếp hạng sẽ khó có thể ngang tầm với kết
quả được thực hiện bởi CRA riêng biệt. Đồng thời, thông tin XHTD không
được công bố rộng rãi mà chỉ những đối tượng theo quy định và có đăng kí
mua mới được biết kết quả xếp hạng đó. Trong xếp hạng tín nhiệm, người
trả phí dịch vụ không phải là tổ chức được xếp hạng, mà là những người
hỏi tin. Do đó, một DN có thể dùng kết quả xếp hạng tín nhiệm để làm cơ
sở cho việc vay ngân hàng, nhưng tất nhiên không thể sử dụng kết quả xếp
hạng tín dụng để làm cơ sở cho việc phát hành chứng khoán.
Tuy vậy bản chất xếp hạng tín nhiệm hay xếp hạng tín dụng thì đều gồm 2 công
đoạn chính: phân tích, đánh giá chấm điểm và xếp hạng khách hàng tín dụng. Trong
phạm vi bài khóa luận với đề tài xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp vay vốn, khóa luận
thống nhất thuật ngữ xếp hạng tín dụng để gọi thay cho quá trình đánh giá phân tích và
định dạng rủi ro của KH trong quan hệ TD với NHTM. XHTD với khách hàng là doanh
nghiệp sẽ gọi là XHTD DNVV hay đơn giản là XHTD DN.
Việc XHTD DNVV là một quá trình, nó bắt đầu từ khi xác định mục đích
nghiên cứu đến việc thu thập, xử lý thông tin trong quá trình quản lý và đánh giá chất
lượng thông tin thông qua quá trình sử dụng. Từ những thông tin thu thập kết hợp
phương pháp phân tích và các chỉ tiêu phân tích phù hợp với mục đích đánh giá của
NH làm rõ thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh cả về nguồn lực, tiềm năng, lợi
thế kinh doanh cũng như rủi ro tiềm ẩn về khả năng trả nợ của DN để các NHTM kịp

thời đưa ra quyết sách phù hợp nhằm ngăn ngừa, kiểm soát rủi ro phát sinh trong hoạt
động kinh doanh.
1.2.2. Mục đích, ý nghĩa của xếp hạng tín dụng
Cần phải khẳng định lại rằng rủi ro là yếu tố không thể tách rời trong hoạt động
của các NHTM trên thị trường. Hơn nữa, rủi ro trong cho vay lại tăng lên gấp bội bởi
NH phải đối mặt với rủi ro từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan gây nên. Vì lẽ đó
mà XHTD có ý nghĩa ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Mục đích, ý nghĩa của XHTD DNVV là đánh giá khả năng tin cậy của DN khi
đứng trên giác độ NH trong các khoản TD. Thông qua sự đánh giá quá khứ và hiện
tại của DN để có thể thấy rõ được những mặt yếu, mặt mạnh của DN qua đó đưa ra
những quyết sách đúng đắn kể cả đối với NHNN và các TCTD. Hay nói cách khác,
mục đích của việc XHTD DNVV là lường trước được các rủi ro có thể xảy ra trong
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
13
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
hoạt động TD, cung cấp những thông tin mang tính hệ thống về quá khứ và hiện tại
của DN để từ đó hỗ trợ trong việc đưa ra quyết định cấp TD: Xác định đúng hạn
mức, thời hạn, lãi suất, biện pháp bảo đảm tiền vay, cơ sở để xây dựng chính sách tín
dụng và chính sách khách hàng. Ngoài ra còn giảm chi phí, tiết kiệm thời gian quyết
định cho một khoản vay. Từ đó tinh giản hóa quy trình và nâng cao hiệu quả trong
hoạt động TD. Nó cũng là cơ sở để các NH trích lập dự phòng rủi ro hay nâng cao
cảnh giác, đảm bảo tốt công tác quản trị rủi ro TD. Tùy vào mức độ xếp hạng mà NH
thực hiện trích lập dự phòng làm tấm nệm cho mình. Một mục đích quan trọng nữa
của XHTD DNVV là phục vụ công tác điều hành quản lý của NHNN, giúp NHNN có
thêm thông tin hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách tiền tệ hợp lý và phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.3. Chủ thể, đối tượng và nguồn thông tin sử dụng trong xếp hạng tín dụng
1.2.3.1. Đối tượng XHTD
Đối tượng của XHTD DNVV là những thông số, dữ liệu. XHTD thực hiện
phân tích dữ kiện từ các hồ sơ lưu trữ, các BCTC và báo cáo khác về DN, dưới sự tác

động của các nhân tố môi trường để nhận xét đánh giá tình hình hiện tại và tương lai
của DN nhằm xác định khả năng thu hồi vốn và lãi vay. Hay nói một cách rộng hơn,
đối tượng XHTD đề cập trong khóa luận chính là DNVV.
1.2.3.2. Chủ thể của XHTD
Hiện nay trên thế giới và các nước trong khu vực thường có 3 loại chủ thể
thực hiện đánh giá xếp hạng DN. Đó là: công ty xếp hạng tín nhiệm (CRA); các
NHTM và các Trung tâm thông tin tín dụng của tư nhân và trung tâm thông tin tín
dụng của NHNN (ví dụ như CIC của Việt Nam)
Hiệp ước Basel II thay thế hiệp ước Basel I cho phép các ngân hàng lựa chọn
giữa “phương pháp dựa trên đánh giá tiêu chuẩn” và “phương pháp dựa trên đánh giá
nội bộ”. Tức là, các NH có thể sử dụng luôn kết quả XHTN của các CRA hoặc tự
mình tiến hành công tác thu thập thông tin, chấm điểm và XHTD. Cho đến nay, tại
Việt Nam, do yêu cầu của việc quản lý khách hàng, phục vụ cho công tác quản trị các
NHTM Việt Nam phải tự tổ chức XHTD đối với các khách hàng của mình. Bởi vì,
các CRA lại chưa hình thành trong khi hoạt động của CIC còn nhiều bất cập.
Tùy theo mỗi chủ thể khác nhau thì chi tiết việc xếp hạng có sự khác nhau chi
tiết để phù hợp với mục đích khác nhau. Ở đây, do mục đích của đề tài nên khóa luận
sẽ chỉ chú trọng đến chủ thể xếp hạng là NHTM.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
14
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
1.2.3.3. Nguồn thông tin sử dụng trong XHTD
Việc thu thập thông tin có ý nghĩa rất quan trọng. Ngân hàng càng thu thập
được nhiều thông tin sát thực về khách hàng thì kết quả XHTD càng chính xác.
Thông tin trong XHTD được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm:
Thứ nhất, thông tin từ hồ sơ DN
 Hồ sơ pháp lý: cung cấp các thông tin mang tính pháp lý như: trụ sở, địa chỉ,
số đăng ký kinh doanh, quyết định thành lập DN - ngày cấp - nơi cấp, loại hình DN,
ngành nghề kinh doanh… Những thông tin này chứng thực về sự tồn tại của khách hàng
và là bằng chứng cần thiết để bảo vệ lợi ích của NH khi có tranh chấp xảy ra.

 Hồ sơ tài chính: BCĐKT, BCKQKD, BCLCTT…Thông tin từ những tài
liệu này là cơ sở giúp NH đánh giá được khả năng tài chính của DN.
 Hồ sơ về phương án, dự án, chiến lược kinh doanh của DN. Dựa trên
những thông tin này, NH có thể đánh giá được tính khả thi, tính toán hiệu quả của dự
án. Thông tin này rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ cũng như
giúp NH trong quá trình giải ngân.
 Hồ sơ về TSĐB: giấy CN quyền sở hữu… cung cấp cho NH những thông tin
về tính pháp lý và tính khả mại của tài sản… là cơ sở để NH xác định giá trị của TSBĐ.
Thứ hai, thông tin lưu trữ tại NH
Đây là thông tin mà NH theo dõi, tích lũy và lưu trữ về khách hàng trong quá trình
cấp tín dụng qua các thời kỳ. Đặc điểm của nguồn thông tin này là đáng tin cậy. Tuy
nhiên, chất lượng của thông tin lại dựa vào khả năng thu thập, lưu trữ của từng NH.
Thứ ba, thông tin từ điều tra phỏng vấn trực tiếp
Đây là những thông tin rất cần thiết cho NH trong việc xác định tính trung
thực của những thông tin khách hàng cung cấp cũng như đoán biết về tính cách, độ
tin cậy của người chủ DN.
Thứ tư, thông tin từ phương tiện thông tin đại chúng
Các phương tiện thông tin đại chúng thì rất đa dạng vì vậy chất lượng thông
tin của từng phương tiện cung cấp cũng có tính chất khác nhau . Nếu là thông tin từ
báo đài thì rất phong phú nhưng NH cần phải kiểm chứng. Những thông tin do các cơ
quan NH cung cấp như trung tâm đăng ký TSĐB, tổng cục thống kê, Bộ Tài Chính…
có độ tin cậy cao. Ngoài ra, NH cũng nên thu thập các thông tin từ các chuyên gia,
các thông tin này rất quý báu vì nó chứa đựng trong đó sự đánh giá rồi.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
15
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
1.2.4. Nguyên tắc xếp hạng tín dụng
Hệ thống XHTD là công cụ quan trọng để tăng cường tính khách quan, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng. Mô hình tính điểm tín dụng sử dụng
phương pháp lượng hóa mức độ rủi ro thông qua đánh giá thang điểm, các chỉ tiêu

đánh giá trong những mô hình chấm điểm được áp dụng cho từng loại khách hàng.
Khái niệm hiện đại về XHTD được tập trung vào các nguyên tắc chủ yếu bao
gồm phân tích tín nhiệm trên cơ sở ý thức và thiện chí trả nợ của người đi vay và
từng khoản vay; đánh giá rủi ro dài hạn dựa trên ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh và
xu hướng khả năng trả nợ trong tương lai; đánh giá rủi ro toàn diện và thống nhất dựa
vào hệ thống ký hiệu xếp hạng.
Trong phân tích XHTD cần thiết sử dụng phân tích định tính để bổ sung cho
những phân tích định lượng. Các dữ liệu định lượng là những quan sát được đo lường
bằng số, các quan sát không thể đo lường bằng số được xếp vào dữ liệu định tính.
Các chỉ tiêu phân tích có thể thay đổi phù hợp với sự thay đổi của trình độ công nghệ
và yêu cầu quản trị rủi ro.
Theo các nhà nghiên cứu thì các ngành kinh doanh có tính cạnh tranh cao,
thâm dụng vốn và có tính chu kỳ sẽ rủi ro hơn các ngành kinh doanh ít bị cạnh tranh,
có nhiều rào cản gia nhập thị trường và có nhu cầu sản phẩm ổn định , dễ ước tính.
Mức độ rủi ro của ngành cũng có mối tương qua với sự phát triển của các điều kiện
kinh tế, tài chính trong tương lai bởi vì những yếu tố này sẽ có ảnh hưởng đáng kể
đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cả
ngắn hạn lẫn dài hạn.
Việc thu thập số liệu để đưa vào mô hình XHTD cần được thực hiện một cách
khách quan, linh động. Sử dụng cùng lúc nhiều nguồn thông tin để có được cái nhìn
toàn thể về tình hình tài chính của khách hàng vay.
1.2.5. Mô hình xếp hạng tín dụng
Mô hình đơn giản nhất được sử dụng trong XHTD là mô hình một biến số.
Chỉ tiêu đánh giá phải được thống nhất trong mô hình. Tỷ suất tài chính được sử
dụng trong mô hình một biến số bao gồm các chỉ tiêu thanh khoản, các chỉ tiêu hoạt
động, chỉ tiêu cân nợ, chỉ tiêu lợi tức, chỉ tiêu vay nợ và chi phí trả lãi. Các chỉ tiêu
phi tài chính thường được sử dụng bao gồm thời gian hoạt động của DN, số năm kinh
nghiệm và trình độ của nhà quản trị cấp cao, triển vọng ngành. Nhược điểm của mô
hình một biến số là kết quả dự báo khó chính xác nếu thực hiện phân tích và cho
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4

16
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
điểm các chỉ tiêu đánh giá một cách riêng biệt, hơn nữa, mỗi người có thể hiểu các
chỉ tiêu đánh giá một cách khác nhau. Để khắc phục nhược điểm này, các nhà nghiên
cứu đã phát triển những mô hình kết hợp nhiều biến số thành một giá trị để dự báo sự
thất bại của doanh nghiệp như mô hình phân tích hồi quy, phân tích logic, phân tích
xác suất có điều kiện, phân tích phân biệt nhiều biến số.
NHTM áp dụng các mô hình khác nhau tùy theo đối tượng xếp hạng là cá
nhân, doanh nghiêp hay tổ chức tín dụng. Trong khóa luận này chỉ đề cập đến nhóm
khách hàng doanh nghiệp. Các mô hình này được sử dụng ổn định và có thể điều
chỉnh sau vài năm sử dụng khi thấy có nhiều sai sót lớn giữa xếp hạng và thực tế.
1.2.6. Các phương pháp thường sử dụng của hoạt động XHTD tại các NHTM
Phương pháp định lượng: chủ yếu dựa vào các số liệu thống kê và thông qua
các công thức toán học được thiết lập để tổng hợp, đánh giá các chỉ tiêu. Có rất nhiều
phương pháp được sử dụng như mô hình kinh tế lượng, phương pháp bình quân giản
đơn, phương pháp bình quân gia quyền...
Phương pháp định tính: Thực tế không phải chỉ tiêu nào cũng có thể lượng
hóa một cách chính xác, cho nên cần phải áp dụng thêm phương pháp định tính. Các
mô hình định tính thường rất khó xác định, nguồn gốc của nó khó thấy và phần lớn
mang tính chủ quan. Thường phương pháp này dựa vào việc lấy ý kiến chuyên gia,
có chuyên môn sâu trong lĩnh vực XH, đồng thời có kiến thức liên ngành rất tổng
hợp. Nội dung chủ yếu như sau:
- Phương pháp lấy ý kiến: Việc thực hiện trải qua các bước như sau:
+ Thu thập ý kiến của ban quản lý điều hành, lấy ý kiến các đối tác đang có
mối quan hệ kinh doanh với tổ chức được xếp hạng, và các nguồn khác.
+ Lấy ý kiến của các chuyên gia về xu hướng tác động của các nhân tố.
+ Tổng hợp đưa ra kết quả.
- Phương pháp Delphi (Phương pháp chuyên gia): là phương pháp bao gồm
một quá trình thực hiện nhằm đảm bảo tính nhất trí trong xếp hạng. Có 3 nhóm
chuyên gia trong quá trình xếp hạng là chuyên gia phân tích, chuyên gia trong từng

lĩnh vực, chuyên gia kết luận. Với các bước thực hiện:
+ Xây dựng các câu hỏi điều tra lần đầu tiên cho các chuyên gia
+ Phân tích các câu trả lời, tổng hợp thành bảng trả lời
+ Soạn thảo các câu hỏi lần thứ hai cho các chuyên gia.
+ Thu thập, phân tích lần hai...
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
17
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Các bước trên dừng lại khi kết quả dự báo thoả mãn những yêu cầu đặt ra.
Phương pháp này đòi hỏi trình độ tổng hợp rất cao của các nhà phân tích, vừa tổng
hợp vừa phát triển các ý kiến đa dạng của các chuyên gia.
Phương pháp kết hợp: Là phương pháp kết hợp giữa hai phương pháp trên
thông qua một trọng số. Dùng trọng số giản đơn để kết hợp những đánh giá định tính
của các chuyên gia với định lượng hoá một số chỉ tiêu:
+ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Cho trọng số từng nhân tố tuỳ theo mức độ quan trọng của nó, hoặc có thể
không có trọng số nếu như số điểm quy định đã bao hàm cả trọng số rồi.
+ Cho điểm từng nhân tố theo tính chất tác động của nó đến quá trình hoạt
động của DN, có so sánh với chỉ tiêu của các nhóm DN so sánh.
+ Tính tổng điểm cho từng chỉ tiêu sau khi nhân số điểm với trọng số theo
năm Tài chính và trọng số nhân tố.
+ Xếp hạng dựa vào công thức tính điểm cho từng chỉ tiêu.
1.2.7. Các chỉ tiêu sử dụng để XHTD tại NHTM
1.2.7.1. Chỉ tiêu tài chính
Trên thế giới hiện nay, phương pháp được sử dụng rộng rãi nhất trong công
tác chấm điểm các chỉ tiêu tài chính là sử dụng nhóm 7 chỉ tiêu: Tỷ lệ trang trải lợi
nhuận trước thuế; Đòn cân nợ; Luồng tiền mặt; Tài sản ròng; Tài sản vô hình; Độ
tuổi và tình trạng của máy móc thiết bị; Vốn lưu động. Tuy nhiên, các NHTM Việt
Nam thường áp dụng nhóm 4 chỉ tiêu tài chính: Chỉ tiêu thanh khoản; Chỉ tiêu hoạt
động; Chỉ tiêu cân nợ; Chỉ tiêu thu nhập.

Một là, nhóm chỉ tiêu thanh khoản là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá
khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của DN. Nhóm này gồm 3 chỉ tiêu:
o Khả năng thanh toán hiện hành
Khả năng thanh toán
hiện hành
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang
trải bằng các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một giai đoạn tương đương
với thời hạn của các khoản nợ đó. Khi giá trị của hệ số này giảm, chứng tỏ khả năng
trả nợ của DN giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn tài chính tiềm
tàng và ngược lại. Tuy nhiên, nếu hệ số này tăng quá cao có nghĩa là DN đã đầu tư
quá nhiều vào tài sản ngắn hạn, cho thấy DN sử dụng không hiệu quả tài sản ngắn
hạn do quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi hay có quá nhiều nợ phải đòi… Mặt khác, trong
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
18
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
nhiều trường hợp, hệ số này phản ánh không chính xác khả năng thanh toán bởi nếu
hàng tồn kho nhiều, khó bán thì DN rất khó biến chúng thành tiền để trả nợ, vì vậy
cần xét tới hệ số thanh toán nhanh.
o Khả năng thanh toán nhanh
Khả năng thanh toán
nhanh
=
Tài sản có ngắn hạn – Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho biết khả năng chuyển đổi các tài sản Có của DN thành tiền để
đáp ứng yêu cầu thanh toán cấp thiết các khoản nợ. Giá trị này càng cao thì mức độ
rủi ro về thanh toán của DN càng thấp. Tuy nhiên, nếu duy trì ở mức cao thì hiệu quả

quản lý tài sản lưu động của DN chưa tốt vì những tài sản này có tỷ lệ sinh lời thấp
đối với DN.
o Khả năng thanh toán tức thời
Khả năng thanh toán tức
thời
=
Tiền mặt + ĐTTC ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này phản ánh khả năng thanh toán tức thời của DN bằng nguồn vốn
bằng tiền mà không bị chi phối bởi thời gian chuyển đổi của hàng tồn kho và các
khoản phải thu.
 Hai là, nhóm chỉ tiêu hoạt động là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc:
Sử dụng tài nguyên, nguồn lực của DN, được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử
dụng tài sản của DN.
o Vòng quay hàng tồn kho:
Là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Hệ
số này đo lường doanh số bán hàng liên quan đến mức độ tồn kho của hàng hóa thành
phẩm, nguyên vật liệu. Giá trị tồn kho bao gồm: nguyên vật liệu, vật liệu phụ, sản
phẩm dở dang, thành phẩm…
Vòng quay hàng
tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
o Vòng quay khoản phải thu:
Đánh giá tốc độ thu hồi các khoản nợ của DN. Hệ số này càng cao thể hiện
DN thu hồi vốn nhanh.
Vòng quay khoản
phải thu
=

Doanh thu thuần
Khoản phải thu bình quân
o Kỳ thu tiền bình quân:
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
19
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các
khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày.
Kỳ thu tiền bình quân
=
Các khoản phải thu
Doanh thu thuần/360
Tuy nhiên, các khoản phải thu lớn hay nhỏ còn phụ thuộc vào chính sách TD
thương mại của DN và các khoản trả trước. Trong trường hợp DN muốn chiếm lĩnh
thị trường thông qua bán hàng trả chậm hay tài trợ cho các chi nhánh đại lý nên làm
cho kỳ thu tiền bình quân cao.
o Hệ số sử dụng tài sản:
Cho biết hiệu quả sử dụng một đồng vốn đầu tư vào DN tạo ra được bao nhiêu
đồng doanh thu trong kỳ.
Hệ số sử dụng
tài sản
=
Doanh thu thuần
Tổng giá trị tài sản
Hệ số này càng cao thể hiện hiệu quả hoạt động nhằm tăng thị phần và sức
cạnh tranh DN.
Ba là, nhóm chỉ tiêu về cân nợ phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính
cũng như khả năng sử dụng nợ vay của DN, đo lường phần vốn góp của các chủ sở
hữu DN so với phần tài trợ của các chủ nợ của DN. Đòn cân nợ làm gia tăng khả
năng tạo ra lợi nhuận đồng thời cũng làm gia tăng rủi ro cho công ty và các chủ nợ.

Trong giai đoạn kinh tế thịnh vượng, những DN sử dụng nhiều nợ vay sẽ có cơ hội
phát triển nhanh hơn, ngược lại, trong thời kỳ kinh tế suy thoái, DN nào sử dụng
nhiều nợ vay sẽ có nguy cơ vỡ nợ cao hơn. Do vây, hệ số đòn cân nợ có ý nghĩa rất
quan trọng khi thực hiện phân tích, XHTD DN. Nhóm này gồm các chỉ tiêu:
o Hệ số nợ:
Được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ DN đối với các chủ nợ trong việc
góp vốn, nó cho biết một đồng tài sản DN thì có bao nhiêu đồng hình thành do đi
vay. Chỉ tiêu này càng cao thì khả năng gặp rủi ro lớn, DN dễ rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán.
Hệ số nợ =
Tổng số nợ
Tổng tài sản
o Hệ số tự trả nợ:
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng độc lập về tài chính của DN. Nó được đo bằng
tỷ số giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ này càng nhỏ thì giá trị vốn chủ sở
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
20
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
hữu càng lớn có nghĩa là khả năng tài chính của DN càng tốt. Ngược lại nếu tỷ lệ này
càng cao thì có thể DN đang không thể trả được các khoản nợ theo những điều kiện
tài chính thắt chặt hoặc có sự kém cỏi trong quản lý hoặc có thể kém đi do gánh nặng
từ việc thanh toán lãi vay.
Hệ số tự trả nợ =
Tổng số nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
o Tỷ lệ nợ quá hạn/Tổng dư nợ NH:
Hệ số này cho biết việc hoàn trả vốn vay NH của DN, thể hiện sự lành mạnh
về tài chính của NH cũng như thái độ hợp tác của DN.
Tỷ lệ nợ quá hạn
trên tổng dư nợ

=
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ ngân hàng
* 100%
o Hệ số khả năng thanh toán lãi vay
Hệ số khả năng
thanh toán lãi vay
=
Thu nhập trước thuế và lãi
Chi phí trả lãi
* 100%
Hệ số này phản ánh khả năng trang trải các khoản nợ từ kết quả hoạt động
kinh doanh. Nếu hệ số này quá nhỏ hoặc có giá trị âm thì DN khó có khả năng trả
được lãi.
Thứ tư, nhóm chỉ tiêu thu nhập phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng
hợp nhất của một DN. Nhóm này gồm 3 chỉ tiêu:
o Chỉ số lợi nhuận ròng trên doanh thu (ROS):
Phản ánh khả năng sinh lời của DN. Chỉ số này càng cao và doanh thu của DN
càng lớn thì tiềm năng sinh lời càng lớn. Sự biến động của chỉ số này phản ánh sự
biến động về hiệu quả hay ảnh hưởng của các chiến lược tiêu thụ, nâng cao chất
lượng sản phẩm.
ROS =
Lợi nhuận ròng
Doanh thu thuần
* 100%
o Chỉ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (ROE):
Phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc
biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào DN. Tăng mức doanh lợi vốn chủ
sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhất trong hoạt động quản lý tài chính DN.
ROE =

Lợi nhuận ròng
Vốn chủ sở hữu
* 100%
o Chỉ số lợi nhuận ròng trên tổng tài sản (ROA):
Là chỉ tiêu tổng hợp nhất để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn
đầu tư.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
21
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
ROA =
Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
*
100%
Ngoài ra, một số NHTM còn xem xét đến các yếu tố tài chính khác như:
- Tốc độ tăng trưởng: xét trên cả 3 chỉ tiêu là tốc độ tăng trưởng lợi nhuận,
tốc độ tăng trưởng nguồn vốn chủ sở hữu, tốc độ tăng trưởng doanh thu.
- Lưu chuyển tiền tệ: nó được xem xét dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Gồm các chỉ tiêu:
 Hệ số khả năng trả lãi: được xác định từ lợi nhuận thuần từ hoạt động sản
xuất kinh doanh trên lãi vay đã trả.
 Hệ số khả năng trả nợ gốc = (lợi nhuận thuần + khấu hao)/(nợ ngắn hạn +
nợ dài hạn đến hạn)
 Xu hướng lưu chuyển tiền tệ thuần trong quá khứ
 Trạng thái lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động: So sánh giữa dòng tiền từ
hoạt động sản xuất kinh doanh với lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Trạng
thái tốt nhất là dòng tiền lớn hơn lợi nhuận thuần.
 Tiền và các khoản tương đương tiền/Vốn chủ sở hữu
1.2.7.2. Chỉ tiêu phi tài chính
Những chỉ tiêu phi tài chính về DNVV chủ yếu là những chỉ tiêu định tính mà

việc tiêu chuẩn hóa hay lượng hóa một cách chính xác là rất khó, nếu không muốn
nói là không thể. Vì vậy phương pháp được áp dụng phổ biến trong phần này là
phương pháp chuyên gia và phương pháp tổng hợp nhằm so sánh, phân tích trên cơ
sở kinh nghiệm của cán bộ thẩm định và bộ giá trị chuẩn để tìm ra lời giải phù hợp
nhất cho từng tiêu chí đối với DNVV. Tùy từng NH mà việc lựa chọn các chỉ tiêu phi
tài chính là nhiều hay ít nhưng tựu trung lại, các NH ở Việt Nam đang phân chia các
chỉ tiêu phi tài chính ra làm 5 nhóm chính:
o Khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ
Nhóm chỉ tiêu này nhằm đánh giá khả năng trả nợ NH của DNVV căn cứ vào
xu hướng dòng tiền hiện tại và dự kiến cuả DN đó cũng như những đánh giá của
CBTD về nguồn trả nợ của KH.
o Trình độ quản lý và môi trường nội bộ
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
22
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Nhóm chỉ tiêu này đề cập đến năng lực, trình độ, lý lịch tư pháp cũng như độ
nhạy bén của ban lãnh đạo cũng như người đứng đầu DN. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu
còn đánh giá tính hiệu quả, chuyên nghiệp của bộ máy tổ chức và hệ thống kiểm soát
nội bộ của DN.
o Quan hệ với ngân hàng
Nhóm chỉ tiêu này xem xét đặc điểm quan hệ TD của KH với NH trong quá
khứ và hiện tại. Đánh giá mức độ thường xuyên của hai nguồn thu nợ được cho là
đáng tin cậy và thuộc khả năng kiểm soát của NH là số dư tiền gửi và doanh số tiền
chuyển qua NH của DNVV. Từ đó so sánh với định hướng quan hệ tín dụng với KH
của CBTD.
o Các nhân tố bên ngoài
Nhóm chỉ tiêu này đánh giá khả năng cạnh tranh cũng như những cơ hội và
thách thức đối với quá trình sản xuất kinh doanh của DN thông qua những yếu tố bên
ngoài DN như nguồn nguyên liệu đầu vào, khả năng thay thế, tính chất cạnh tranh,
các chính sách của Nhà nước, nguồn tiêu thụ sản phẩm…và triển vọng phát triển của

ngành.
o Các đặc điểm hoạt động khác
Nhóm chỉ tiêu này đề cập đến những yếu tố phi tài chính còn lại được cho là
tác động khá mạnh đến triển vọng phát triển của DNVV, từ đó quyết định tính sẵn
sàng và khả năng trả nợ.
1.2.8. Quy trình XHTD các doanh nghiệp vay vốn tại NHTM
Quy trình XHTD là quá trình thu thập và xử lý thông tin một cách khoa học có
phương pháp, khách quan có hệ thống nhằm đưa ra kết quả chính xác tình hình hoạt
động kinh doanh của DN và khả năng trả nợ của DN trong tương lai. Quy trình và
các nội dung của quy trình XHTD ở các NHTM khác nhau thì thường không giống
nhau, nhưng chúng đều có những điểm chung nhất, có tính phổ cập và có thể xem
như thông lệ quốc tế (theo cách nhìn nhận của NH thế giới). Có 5 bước tiến hành
XHTD DNVV như sau:
Sơ đồ 1.2: Các bước tiến hành XHTD DNVV
 Bước 1: Thu thập thông tin.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
23
Bổ sung thông tin
tubBổ sung thông
Phân loại DN
theo ngành và
quy mô
Phê chuẩn và sử
dụng kết quả quả
xếp hạng
Phân tích các
chỉ tiêu và cho
điểm
Đưa ra kết quả
XHTD DNVV

Thu thập
thông tin
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Đây là bước quan trọng nhất trong quá trình XHTD DN. Chất lượng và kết
quả XH phụ thuộc nhiều vào nguồn thông tin đầu vào. Thông tin được khai thác từ
nhiều nguồn khác nhau như từ các cơ quan thông tin tín dụng, các cơ quan ban ngành
có chức năng, tổng cục thống kê, bộ tài chính, cục thuế hay từ báo chí truyền thông…
Nhưng chủ yếu là từ chính các DN.
- Thông tin thu thập phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau:
 Về số lượng: phải đủ thông tin cần thiết, phù hợp để có đủ cơ sở đánh
giá toàn diện và chuẩn xác.
 Về chất lương: Thông tin phải đảm bảo độ chính xác, trung thực và
đáng tin cậy.
 Tính liên tục: Thông tin khai thác phải theo một chuỗi thời gian liên tục
(thường ít nhất trong 2 năm liên tục) nhằm có cái nhìn khái quát sâu sắc và toàn diện.
- Thông tin thu thập cho hoạt động XHTD bao gồm:
 Thông tin tài chính: Các BCTC, sổ tay, tình hình quan hệ TD của KH
 Thông tin phi tài chính: là tập hợp rất nhiều các dữ liệu thông tin về ban
lãnh đạo, về công nghệ, sản phẩm, cơ cấu tổ chức, các thông tin về môi trường kinh
tế vi mô và vĩ mô.
 Bước 2: Xác định ngành kinh tế và quy mô của DN
Một là, xác định ngành kinh tế của DN
Đặc trưng của mỗi ngành nghề khác nhau về chu kỳ kinh doanh, về triển vọng
tăng trưởng, về mức vốn đầu tư, cơ cấu chi phí, khả năng cạnh tranh, sản phẩm thay
thế... Do đó, việc xây dựng một hệ thống phân loại ngành kinh tế có ý nghĩa rất quan
trọng. Hệ thống phân loại ngành kinh tế đó phải phù hợp với trình độ phát triển nền
kinh tế và môi trường pháp lý của từng quốc gia, tuy nhiên cũng phải gần sát với
thông lệ chuẩn quốc tế. Các NHTM có thể căn cứ theo cách phân loại của Chính phủ
hoặc tự đưa ra một cách phân loại riêng cho phù hợp với hoàn cảnh và đặc điểm, điều
kiện của mình.

Hai là, xác định quy mô của doanh nghiệp
Quy mô của DN cũng là một yếu tố cần được xét, bởi DN sẽ khó có thể tiến
hành đa dạng hoá hoạt động để giảm rủi ro kinh doanh và nâng cao ưu thế cạnh tranh
khi quy mô của nó quá nhỏ, bởi chúng không có những ưu thế về quy mô sản xuất,
tiềm năng nhân sự và tiềm lực về mặt tài chính. Những DN có quy mô nhỏ thường
chỉ thiên về kinh doanh một loại sản phẩm nên vị thế sẽ có thể bị đánh giá thấp hơn.
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
24
Học viện Ngân hàng Chuyên đề thực tập
Việc xác định quy mô thông thường căn cứ vào các chỉ tiêu như quy mô vốn kinh
doanh, doanh thu, tổng số lao động, nộp thuế...
 Bước 3: Phân tích đánh giá các chỉ tiêu và chấm điểm
Để thực hiện được bước này cần thiết phải thực hiện các công việc sau:
(1) Phân tích các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính.
(2) Xây dựng Bảng tính điểm theo nguyên tắc:
- Xây dựng điểm cho từng chỉ tiêu.
- Chỉ tiêu quan trọng sẽ có số điểm cao hơn, việc phân bổ điểm cho các chỉ
tiêu phải hợp lý, khoa học và công phu, phù hợp với từng ngành kinh tế và qui mô
hoạt động của doanh nghiệp.
Xây dựng bảng tính điểm là khâu then chốt quyết định đến chất lượng XHTD,
nó thể hiện năng lực trình độ, kinh nghiệm của NH trong hoạt động TD.
(3) Đối chiếu với bảng tính điểm để tính điểm cho các chỉ tiêu
Khi đã có bảng tính điểm chuẩn cho từng ngành kinh tế, theo từng quy mô thì
NHTM tiến hành đối chiếu các chỉ tiêu đã phân tích với bảng tính điểm chuẩn đã xác
định của DN đó để xác định điểm (điểm ban đầu) cho từng chỉ tiêu.
Thêm vào đó, nếu chỉ tiêu có trọng số thì phải nhân điểm ban đầu của chỉ tiêu
với trọng số để được điểm cuối cùng của chỉ tiêu. Tổng cộng điểm của tất cả các chỉ
tiêu đã phân tích sẽ là điểm cuối cùng để so sánh với bảng xếp hạng DN.
 Bước 4: Đưa ra kết quả phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp
Trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu phi tài chính, chỉ tiêu tài chính và mức độ

ảnh hưởng tới DN, người thực hiện có thể đưa ra kết quả phân tích từng chỉ tiêu, tính
tổng hợp số điểm của các chỉ tiêu. Đối chiếu kết quả với bảng xếp hạng gồm các kí
hiệu, người thực hiện đưa ra kết quả XH DNVV đó cùng với nhận xét và khuyến
nghị. Đây là kết quả của cả quá trình XHTD DNVV vì vậy đòi hỏi người thực hiện
phải rất thận trọng, phải dùng thêm phương pháp chuyên gia để xem xét kết quả đã
thực hiện, nếu thấy kết quả chưa thoả đáng thì phải kiểm tra lại việc phân tích các chỉ
tiêu ở các công đoạn trước.
 Bước 5: Phê chuẩn và sử dụng kết quả XHTD
Khác với các CRA được công bố kết quả xếp hạng DN một cách rộng rãi ra
công chúng thì kết quả XHTD được các NHTM lưu trữ, sử dụng để đưa ra các quyết
định hợp lý về lãi suất, hạn mức tín dụng, các quyết định cho vay, không cho vay,
hay thu hồi nợ... Việc sử dụng kết quả XH có ảnh hưởng đến lợi ích của DNVV nên
Nguyễn Thị Mai Lớp VB II – 4A4
25

×