Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội,chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.61 KB, 39 trang )

MỤC LỤC
PHẦÂN MỞ BÀI
Đối với mọi quốc gia, khu vực kinh tế tư nhân có vai trò hết sức quan
trọng trong phát triển kinh tế của đất nước. Đối với nước ta, mặc dù trong quá
trình phát triển trải qua nhiều thăng trầm song bước vào thời kỳ đổi mới kinh
tế tư nhân đã khẳng định là một bộ phận cấu thành, có vị trí quá trình lâu dài
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Nền kinh tế của nước ta đang trong quá trìh đổi mới mạnh mẽ để vươn
tới nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong sự đổi mới đó,
kinh tế Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo, nhưng đóng góp cho qú trình phát
triển đó có sự tham gia tích cực của kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân với các
loại hình đa dạng, hoạt động linh hoạt góp phần giải quyết nhiều vấn đề bức
xúc của nền kinh tế mà kinh tế Nhà nước chỉ giải quyết được hạn hẹp. Kinh tế
tư nhân làm đa dạng hoá nền kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn rất lớn cả về
phía người tiêu dùng lẫn chủ sở hữu, tính đa dạng đó là ưu thế rất lớn để đưa
nền kinh tế từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất hàng hoá lớn như nước ta. Kinh tế
tư nhân với phạm vi hoạt động rộng lớn trong các lĩnh vực nông nghiệp, công
nghiệp, giao thông vận tải . cần có sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Nhà nước.
Nhận định vai trò của kinh tế tư nhân Nhà nước đã đổi mới có chế chính để
phát triển thành phần kinh tế này. Trong những năm gần đây, nhờ quan điểm
đổi mới tích cực với cơ chế tác động rõ ràng, dứt khoát đã thúc đẩy kinh tế tư
nhân ngày càng phát triển.
Với những hiểu biết còn nhiều hạn chế, trong phạm vi đề tài cho phép
em rất mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ dẫn của thầy cô giáo về những sai sót
trong quá trình làm bài.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
I. Lý luận về Kinh tế tư nhân.
Trước hết chúng ta phải tìm hiểu khái niệm Kinh tế tư nhân, Kinh tế tư
nhân là một loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất với
lao động của bản thân người chủ sản xuất và lao động làm thuê hoặc hoàn


toàn thuê lao động, có các quy mô khác nhau về vốn, lao đông, công nghệ .
kinh tế tư nhân hoạt động dưới các hình được phát triển mạnh mẽ quy mô,
mức độ khác nhau
.Theo Văn kiện hội nghị lần thứ V ban chấp hành trung ương khóa IX,
“Kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt
động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư
nhân”
Với khái niệm này khu vực Kinh tế tư nhân bao gồm những nội dung
sau:
_ Về lĩnh vực sản xuất kinh doanh: kinh tế tư nhân bao gồm những hộ
gia đình hoặc doanh nghiệp tư nhân tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh phi nông nghiệp như công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, chế
biến nông lâm sản, du lịch, dịch vụ…
_ Về mô hình tổ chức: Kinh tế tư nhân gồm các hộ kinh doanh cá thể và
các doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp tư nhân bao gồm: doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh).
Ngoài ra còn bao gồm cả phần đầu tư của tư nhân vào khu vực kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”.
Qua khái niệm trên chúng ta có thể thấy được quy mô cũng như tầm
quan trọng của kinh tể tư nhân, nó len lỏi trong mọi ngành nghề của xã hội,
mọi gia đình có xu hướng kinh doanh nên những đóng góp của kinh tế tư
nhân vào GDP của đất nước là không nhỏ, nó góp phần giải quyết công ăn
việc làm, ổn định kinh tế, xã hội.
Khi cách mạng tháng 10 kết thúc Lênin đã mời những nhà tư bản làm
kinh tế giỏi ra giúp đất nước Xô Viết non trẻ xây dựng những chính sách về
2
kinh tế tư nhân để áp dụng vào thực tiễn. Theo ông trong thời kì quá độ lên
CNXH sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan
bởi trong nền kinh tế còn tồn tại nhiều quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất. Đã có nhiều ý kiến không tán thành việc làm trên của Lênin nhưng

những gì mà nước Nga đạt được trong công cuộc xây dựng đất nước đã là một
minh chứng hùng hồn cho sự tồn tại cần thiết của kinh tế tư nhân.
Ở nước ta trước đây trong thời kì kinh tế bao cấp, kinh tế tư nhân không
được chú
trọng phát triển do những ác cảm in sâu trong nếp nghĩ, cái gì liên quan
đến tư bản đều không tốt đẹp. Từ khi đất nước mở của kinh tế tư nhân đã có
cơ hội để phát triển, từ chỗ chỉ được coi là kẻ lót đường, là một giải pháp tạm
thời để giải quyết những mục tiêu cấp bách trước mắt thì ngày nay kinh tế tư
nhân càng ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong việc xây
dựng kinh tế đất nước, một nhân tố quan trọng không thể thiếu khi xây dựng
nền kinh tế nhiều thành phần đinh hướng XHCN ở nước ta. Nghị quyết Đại
hội Đảng IX đã khẳng định: “Khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân
rộng rãi trong các ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm.
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp luật để kinh tế tư
bản tư nhân phát triển len và những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả
đầu tư ra nước ngoài, khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán
cổ phiếu cho người lao động, liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể
và kinh tế Nhà nước, xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người
lao động”. Đảng và Nhà nước đã tạo nhiều điều kiện để kinh tế tư nhân có thể
phát triển hơn nữa, phát triển đúng tầm, để nó trở thành một bộ phận kinh tế
quan trọng nhằm giải quyết công ăn việc làm, ổn định kinh tế chính trị, xây
dựng một nền kinh tế phát triển tạo cơ sở vật chất nhất định để tiến vào CNXH.
Kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế mà sản xuât kinh doanh dựa
trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột
sức lao động làm thuê nhưng nó là một thành phần kinh tế năng động, có
3
nhiều đóng góp cho nền kinh tế và giải quyết tốt các vấn đề xã hội nên sẽ là
một sai lầm nếu chúng ta bỏ qua thành phần kinh tế này.
Kinh tế tư nhân cũng tạo điều kiện tốt để thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài, là một cơ sở quan trọng để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, còn nhiều

điều kiện để phát triển hơn nữa. Trong nền kinh tế hiện nay, kinh tế tư nhân
cũng góp phần làm cho TLSX, sức lao động được sử dụng tốt hơn, đời sống
vật chất và tinh thần được cải thiện… Sự tồn tại của kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế quá độ là cần Thứ nhất, kinh tế thị trường
II. Vai trò của kinh tế tư nhân trong kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta
1. Nền kinh tế thị trường
- Thế nào là nền kinh tế thị trường.
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường . Vì vậy ta có thể thấy khái niệm kinh tế thị trường đã trở
nên rất phổ biến . Để hiểu được thế nào là kinh tế thị trường ta cần tìm hiểu về
kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản
phẩm sản xuất ra để trao đổi , để bán trên thị trường . Mục đích của sản xuất
trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người
sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán , tức là để thoả mãn nhu cầu của người
mua đáp ứng nhu cầu của xã hội .
Khi đã có được khái niệm về kinh tế hàng hoá ta có thể đưa ra định
nghĩa về kinh tế thị trường một cách dễ hiểu hơn :
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá , trong
đó toàn bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường
. Hay nói một cách đơn giản kinh tế thị trường và kinh tế hàng hoá về cơ bản
có cùng nguồn gốc và bản chất nhưng khác nhau về trình độ phát triển .Kinh
tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định
của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế vừa là vấn đề của lực
4
lượng sản xuất,vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến một trình độ
nhất định nào đó nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung tự
cấp,mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Người sản xuất hàng hóa phải mang
sản phẩm ra thị trường người mua và người bán trao đổi sản phẩm với nhau

trên thị trường. Vì thế kinh tế thị trường không chỉ là "công nghệ", là "phương
tiện" để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn là những quan hệ kinh tế - xã hội,
nó không chỉ bao gồm các yếu tố của lực lượng sản xuất, mà còn cả một hệ
thống quan hệ sản xuất. Như vậy, chứng tỏ không có và không thể có một nền
kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách rời khỏi hình thái
kinh tế - xã hội, tách rời khỏi chế độ chính trị - xã hội của một nước. Do đó,
để phân biệt các nền kinh tế thị trường khác nhau, trước hết phải nói đến mục
đích chính trị, mục tiêu kinh tế - xã hội mà nhà nước và nhân dân lựa chọn
làm định hướng, chi phối sự vận động phát triển của nền kinh tế đó.
- Tính chất chung của nền kinh tế thị trường.
Khi nghiên cứu kinh tế thị trường ta có thể thấy những tính chất
chung mà
bất cứ nền kinh tế nào xây dựng theo nền kinh tế thị trường đều chứa
đựng.
Trước hết kinh tế thị trường thừa nhận tính độc lập của chủ thể thị
trường là:
Cá nhân và xí nghiệp . Điều này có nghĩa là họ tự có quyền tự chủ trong
việc ra các quyết định tiến hành kinh doanh hoặc đầu tư của mình không chịu
sự chi phối của bất kì mệnh lệnh của bất kì một cơ quan tổ chức nào . Họ
được hưởng lợi từ các hoạt động kinh doanh hợp pháp và có hiệu quả của
mình . Tuy nhiên điều đó cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ tự gánh chịu rủi ro
từ các hoạt động đó mang lại .
Thứ hai là phải xây dựng được hệ thống thị trường có tính cạnh tranh
cao.Nền kinh tế thị trượng đòi hỏi phải có sự tồn tại của chủ thể hành vi kinh
tế. Các chủ thể này sẽ vì lợi ích bản thân mà cạnh tranh với nhau góp phần
5
thúc đẩy kinh tế phát triển . Giá cả trên thị trường do chính thị trường quyết
định dựa trên quan hệ cung cầu . Đồng thời việc lưu chuyển hàng hoá được
tiến hành tự do và được tạo điều kiên thuận lợi .
Thứ ba là có sự quản lý vĩ mô của nhà nước . Đây là yêu cầu rất cần

thiết đối với nền kinh tế thị trường . Bởi sự quản ký vĩ mô có tác dụng hướng
dẫn giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế , hạn chế những khuyết tật của
thị trường ; xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo khuôn khổ cho hoạt động
kinh tế ; tôn trọng và thực hiện các thông lệ quốc tế , trong quan hệ kinh tế
quốc tế .
Thứ tư là hoạt động trong kinh tế thị trường đều do các quy luật thị
trường điều tiết . Đó là các quy luật như quy luật giá trị , quy luật cung cầu
Nó góp phần tạo sự ổn định cân bằng cho các hoạt động trên thị trường.
2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ
chức nền kinh tế – xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm
nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó
là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới
đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó,
nhóm thứ nhất đóng vai trò "động lực" thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển
nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò "hướng dẫn", "chế định" sự vận
động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt
tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ
nghĩa xã hội.
Có thể nói rằng: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
vừa mang những đặc trưng chung của kinh tế thị trường, vừa mang tính đặc thù,
đó là định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
6
kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật kinh tế thị trường, mà là cơ sở để
xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường ở nước ta với các nước khác.
Tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta thể
hiện trước hết ở việc xác định nội dung các mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế thị trường và đặc trưng xã hội của nền kinh tế thị trường.Như trên đã

phân tích, trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt nền
kinh tế thị trường này với nền kinh tế thị trường khác, phải nói đến mục đích
chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà nhà nước và nhân dân đã lựa chọn làm
định hướng chi phối sự vận động của nền kinh tế. Trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã xác định: "Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến
bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới"
(1)
.
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc
thời kỳ quá độ là "xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù
hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh"
(2)
.
Với những định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nêu trên, thì
mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là giải
phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi
7
nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật

của chủ nghĩa xã hội tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh
tế, trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực
hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ đó sẽ khắc
phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao
động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động.
Áp dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất
lao động xã hội, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
Thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa
phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới. Động viên mọi nguồn
lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài. Phát huy tinh thần năng
động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra sự phát
triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao và bền vững. Đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém
phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Vì vậy, có thể nói, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta
là "đòn xeo"để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, là phương tiện để thực
hiện xã hội hóa xã hội chủ nghĩa nền sản xuất, tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng
cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội
và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng
kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước phát triển. Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất
và đời sống nhân dân như nước với thuyền, "nước đẩy thuyền lên", tăng
trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, động viên, khuyến
khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói, giảm nghèo.
8
Ở nước ta, trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa, Nhà nước chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệ giữa tăng
trưởng với bảo đảm an sinh và công bằng xã hội. Bởi vấn đề bảo đảm xã hội,
công bằng, bình đẳng trong xã hội không chỉ là "phương tiện" để phát triển
mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bởi vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có
ba điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm
nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết
hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã
hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản
lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.Đánh giá sự cần thiết của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là một xu hướng tất yếu, một chủ trương đúng đắn và nhất quán của
Đảng ta. Điều này thể hiện ở chỗ, thứ nhất, với trình độ phát triển như hiện
nay của lực lượng sản xuất ở nước ta, sự tồn tại của kinh tế tư nhân vẫn là nhu
cầu khách quan, thứ hai, kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục chứng tỏ vai trò
động lực của nó đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thứ ba, sự
phát triển của kinh tế tư nhân trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã đóng góp
không nhỏ vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội của đất nước. Tất
nhiên, kinh tế tư nhân chỉ phát triển đúng hướng khi Đảng và Nhà nước có
chính sách và biện pháp quản lý phù hợp, không làm mất động lực phát triển
của nó, nhưng cũng không để nó vận động một cách tự phát.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ một nền sản xuất xã hội nào muốn đạt
hiệu quả tăng trưởng cao đều phải thực hiện nền kinh tế thị trường. Công cuộc
đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự phát triển của nền kinh
9
tế nước ta là đã khơi dậy được tiềm năng của các thành phần kinh tế thông

qua chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế tư nhân
có vai trò quan trọng và tiếp tục được khuyến khích phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Lý luận của ‘chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định sự tồn tại của kinh tế
tư nhân là một tất yếu khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và việc cải tạo thành phần kinh tế này là một trong những nhiệm vụ kinh tế cơ
bản, lâu dài của cả thời kỳ quá độ. Thực tiễn cho thấy, việc phát triển kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ
trương đúng đắn và nhất quán của Đảng ta dựa trên cơ sỏ khoa học, phù hợp
với quy luật kinh tế khách quan, là sự vận dụng một cách sáng tác chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ thể của đất
nước. Chủ trương đó của Đảng và Nhà nước ta được đại đa số nhân dân đồng
tiền ủng hộ. Tuy nhiên, hiện vẫn còn một số kiến chưa thống nhất với quan
điểm trên thậm chí còn nhận thức không đúng về vai trò của kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hoặc phủ nhận vai
trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Họ cho rằng, việc phân chia các
thành phần kinh tế (kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu
chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài) theo tiêu chí quan hệ sản xuất sẽ dẫn đến sự phân biệt đối xử theo
hướng cạnh tranh bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Bởi vậy, theo họ,
thay vì phân chia theo tiêu chí quan hệ sản xuất, cần phân chia theo các tiêu
chí nhỏ, vừa và lớn thì mới tạo ra sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân.
Cho đến nay, đã có nhiều cách xác định về cơ cấu và các giai đoạn phát
triển của kinh tế tư nhân. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga thành công
(1917), V.I.Lênin đã chỉ ra kết cấu kinh tế tư nhân của nước Nga lúc bấy giờ
bao gồm kinh tế nông dân kiểu gia trưởng, kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ,
kinh tế tư bản tư nhân. Ở nước ta, kể từ khi đổi mới đến nay, trong các văn
10
kiện Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định đường lối phát triển

nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế tư nhân. Về nhận thức,
chúng ta thừa nhận kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, với lao động của các chủ thể kinh tế và lao
động làm thuê, bao gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Tại
Đại hội lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng định thành phần kinh tế tư nhân bao
gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Có thể nói, với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà nhân loại
đạt được như hiện nay, việc theo đuổi lợi ích thiết thân của bản thân con
người vẫn chưa thể mất đi, do đó, nó đòi hỏi phải hình thành một cơ chế vừa
có thể kích thích con người, vừa có thể thực hiện mục tiêu xã hội. Đó chính là
cơ chế thị trường cùng với sự tồn tại khách quan của các hình thức sở hữu đa
dạng, trong đó, sở hữu tư nhân và tương ứng với nó là thành phần kinh tế tư
nhân được coi là động lực quan trọng của sự phát triển.
Nếu so sánh, đối chiếu với các hình thức sở hữu khác, thì phải thừa nhận
rằng, trong nền kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là hình
thức sở hữu phù hợp hơn cả. Trong hình thức sở hữu đó, mục đích của sản
xuất hàng hoá không phải là sản xuất ra giá trị sử dụng, mà thông qua sản
xuất giá trị sử dụng để thực hiện giá trị của hàng hoá và từ đó, đạt được lợi
nhuận. Để làm được điều này, trước hết phải xác định rõ quan hệ hàng hoá,
sau đó mới xác định quan hệ lợi ích được thực hiện trong hàng hoá. Do hàng
hoá được sản xuất ra từ các tư liệu sản xuất, nên muốn xác định quan hệ hàng
hoá thì phải xác định được các quan hệ sản xuất để sản xuất ra hàng hoá đó.
Quan hệ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu
này, bởi một đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thị trường là thừa nhận lợi ích
cá nhân và dựa trên cơ cấu quyền tài sản phân tán. Thực tế cho thấy, nếu
không có sự giao dịch, chuyển nhượng tài sản giữa các doanh nghiệp, giữa
các cá nhân sản xuất hàng hoá, thì cũng không có cạnh tranh về giá cả và thị
11
trường theo đúng nghĩa của nó, do vậy, cũng không có nền kinh tế thị trường
thực sự.

Bên cạnh sự phù hợp với quan hệ sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường cũng
có vai trò hết sức cần thiết và có khả năng thực hiện được trong chủ nghĩa xã
hội, mặc dù ở đó, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò chủ đạo.
Trình độ lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng quy định trình độ
phát triển của con người. Khi thừa nhận kinh tế thị trường là cần thiết đối với
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì cũng có nghĩa là phải thừa nhận sự
tồn tại tất yếu của kinh tế tư nhân trong chủ nghĩa xã hội. Đó còn là sự thừa
nhận một động lực quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Đường lối đổi mới của Đảng ta bắt đầu từ Đại hội VI và được hoàn thiện
đần qua các kỳ Đại hội tiếp theo. Về kinh tế, tại Đại hội IX, Đảng Cộng sản
Việt Nam khẳng định “chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó
chính là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa”
(1)
.
Trong quá
trình đổi mới đó, nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò của các thành phần kinh
tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Thực
tế cho thấy, kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ vai trò của nó, trở thành một
đối chứng hiện thực năng động để các khu vực kinh tế khác phấn đấu vươn
lên, tự đổi mới, tự hoàn thiện và nâng cao hiệu quả trong nền kinh tế thị
trường. Kinh tế tư nhân được coi là một trong những bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế quốc dân, được đối xử và hoạt động bình đẳng như các
khu vực kinh tế khác. Theo số liệu thống kê, về giá trị công nghiệp, năm
2005, kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng hơn 37% GDP. Tại Đại hội X, Đảng ta
khẳng định rằng, “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những
động lực của nền kinh tế”
(2)

.
Việc đổi mới nhận thức về vị trí và vai trò của
12
kinh tế tư nhân như trên thể hiện sự đánh giá một cách khách quan và khoa
học hơn về khu vực kinh tế này.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là sản phẩm gắn liền với chủ trương đúng đắn của Đảng về
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Những thành tựu kinh tế quan trọng
đạt được qua 20 năm đổi mới đất nước là bằng chứng minh động, xác nhận
một cách thuyết phục sự khởi sắc của nền kinh tế nói chung và triển vọng
tiềm tàng của kinh tế tư nhân nói riêng. Bởi vậy, có thể nói, đối với nước ta,
phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài trong tiến
trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đây có thể coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc
đổi mới của đất nước trong những năm sắp tới.
Sự phát triển của kinh tế tư nhân đã đóng góp quan trọng vào sự phát
triển chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội, như huy động được nhiều nguồn
vốn đầu tư với số lượng lớn vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao sức
sản xuất của xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới vừa làm tăng của cải vật
chất cho xã hội, vừa làm giảm áp lực giải quyết việc làm cho người lao động,
thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường, làm tăng sức cạnh
tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, vừa góp phần
tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết nhiều vấn đề
xã hội… Sự biến đổi của quan hệ sở hữu khiến quan hệ quản lý và phân phối
cũng thay đổi, do vậy, quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt và phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất vốn còn thấp và phát triển không đều
giữa các vùng, ngành trong cả nước. Nhờ vậy, đã khơi dậy và phát huy được
tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp
nhân dân vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì

những lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng, sự phát triển của kinh tế tư
13
nhân đã đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc khu
vực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh
đã đẩy lùi dần tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị
trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng
đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm
thức xã hội. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân mà quyền làm chủ của
nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy. Trong Nghị
quyết Đại hội lần thứ IX, Đảng ta khẳng định: tiếp tục thực hiện nhất quán
chủ trương phát triển mạnh các thành phần kinh tế, xoá bỏ mọi sự phân biệt
đối xử theo hình thức sở hữu, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng,
minh bạch, thông thoáng và thuận lợi hơn, ổn định chính sách, bảo đảm quyền
của mọi người dân được tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp
luật không cấm.
Như chúng ta đã biết, lý luận của chủ nghĩa Mác chỉ nhấn mạnh việc xoá
bỏ chế độ tư hữu, chứ không phải xóa bỏ mọi hình thức sở hữu thực tế của
mỗi cá nhân trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp, ý thức về quyền sở hữu là
thuộc tính của mỗi con người, con người chỉ cảm thấy thực sự có động cơ khi
họ hoạt động “cho mình”, tức là vì lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của
chính bản thân, sau đó mới vì các mục đích khác. Do đó, quyền sở hữu được
coi là một trong những quyền tự nhiên của trong con người trong xã hội có
giai cấp.
Từ những lý giải trên đây, chúng ta có thể đi đến một số nhận định sau:
- Trong xã hội có giai cấp, sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân luôn mang
nó một động lực mạnh mẽ – động lực cá nhân, một thuộc tính tồn tại lâu
đài với đời sống con người và xã hội loài người.
- Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tư nhân là một tất yếu, khách

quan
14
trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Nó đang tiếp tục phát
huy tác đụng trong thời đại ngày nay và sẽ còn tồn tại lâu dài trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Trong xã hội có giai cấp và trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phát
triển của lực lượng sản xuất không thế tách rời sự phát triển hài hoà giữa
hai khu vực kinh tế cơ bản: kinh tế Nhà nước và kinh tế tư nhân. Kinh tế Nhà
nước và kinh tế tư nhân luôn gắn bó chặt chẽ, mật thiết với nhau, tạo điều
kiện để cùng tồn tại và phát triển. Ở nước ta hiện nay, trong mối quan hệ giữa
kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
quyết định bản chất và định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế,
còn kinh tế tư nhân là “chỗ dựa thiết yếu”, “có vai trò quan trọng, là một trong
những động lực của nền kinh tế”. Sở dĩ kinh tế tư nhân có vai trò như vậy là
vì những lý do sau đây.
4.Vai trò của nền kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
4.1. gGóp phần tăng trưởng kinh tế.
4.1.1 Trên giác độ tổng cung .
Kinh tế tư bản tư nhân cung cấp cho xã hội sản phẩm vật chất và dịch vụ
để thoả mãn nhu cầu về đời sống , nhu cầu cho quá trình tái sản xuất của xã
hội . Với ưu thế nổi trội của khu vực kinh tế tư bản tư nhân : suất đầu tư thấp ,
dễ chuyển đổi phương hướng sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường
, quy mô nhỏ phù hợp với năng lực quản lý của các hộ gia đình , nên đã thu
hút được đông đảo các tầng lớp dân cư . Tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh
tế tư bản tư nhân khá ổn định .
Khu vực kinh tế tư bản tư nhân có tốc độ phát triển và tốc độ tăng của
các năm từ 2005đến 2010 nền kinh tế nước nhà chịu khủng hoảng chung của
nền kinh tế thế giới.Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm thời kỳ 2005 –
2010 của cả nước 6,9% ; của khu vực kinh tế tư bản tư nhân là 7,2% . Năm

2010 , tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng nhanh hơn
15
nhịp độ tăng GDPcủa toàn bộ nền kinh tế tới 1,5%(nếu tính theo giá hiện
hành ) và năm 20010 tốc độ tăng trưởng GDP trong khu vực kinh tế ư nhân
tăng so với năm 2009 là 7,24%.
Tỷ trọng khu vực kinh tế tư bản tư nhân trong toàn nền kinh tế không
những không được cải thiện mà còn suy giảm nhẹ , chủ yếu do trong những
năm cuối thập kỷ 90 , nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đi vào hoạt động và làm thay đổi cơ cấu toàn bộ nền kinh tế .
Số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng
nhanh, và chiếm số lượng lớn trong tổng số doanh nghiệp của cả nước thể
hiên qua bảng sau:
16
Số doanh nghiệp có tại thời điểm 1/1/2009
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
- Tổng số doanh nghiệp
+ Doanh nghiệp nhà nước
+ Doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong đó:
- Hợp tác xã
- Doanh nghiệp tư nhân
+ Công ty tư nhân
+ Công ty cổ phần
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

49.762

5.531
42.702
3.187
28.226
10.489
800
1.529
59.057
5.067
53.993
3.614
30.557
16.189
1.636
1.997
69.892
5.033
64.555
4.112
33.514
23.587
3.038
2.304
Trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân , tốc độ tăng trưởng bình quân
hàng năm của các doanh nghiệp tư nhân khả dĩ hơn cả: chung khu vực kinh tế
tư bản tư nhân 7,2% (trong đó doanh nghiệp tư nhân 8,5% ; Cty TNHH ; Cty
cổ phần 6,1% ; hộ cá thể 7,2%).
4.1.2 Trên giác độ tổng cầu .
Theo tính toán của các nhà thống kê , để tăng trưởng 1% GDP của Việt
Nam cần tăng trưởng tiêu dùng 2,1 đến 2,2% (kể cả tiêu dùng cho sản xuất và

tiêu dùng cho đời sống ). Khu vực kinh tế tư bản tư nhân phát triển sẽ làm
tổng cầu tăng nhanh , thực hiện được chủ trương kích cầu của Nhà nước do
mở rộng sản xuất làm cho nhu cầu các yếu tố đầu vào gia tăng , đồng thời thu
nhập của người lao động tăng do sản xuất phát triển và số lao động được huy
động vào làm tăng thêm . Đây chủ yếu là tầng lớp có thu nhập thấp nên tỷ lệ
tiêu dùng cận biên (MPC) lớn , tỷ lệ tiêt kiêm cận biên (MPS)nhỏ hơn so với
tầng lớp có thu nhập cao .
Trong những năm gần đây khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng rất nhanh
về mặt số lượng , nhiều doanh nghiệp được hình thành vì thế việc sản xuất
17
hàng hoá với nhiều mặt hàng trở nên rất đa dạng và phong phú . Việc tiêu
dùng của người dân cũng như của các doanh nghiệp tăng nhanh rõ rệt , doanh
nghiệp thì cần sử dụng nhiều nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất , người
tiêu dùng do nhu cầu đời sống ngày càng cao , kèm theo mặt hàng trở nên
phong phú đa dạng cho nên mức tiêu dùng của toàn xã hội tăng rất nhanh vì
thế xét trên giác độ tổng cầu thì khu vực kinh té tư nhân đã đóng vai trò rất
quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
4.2 Tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo
4.2.1 Tạo việc làm.
Từ năm 1996 đến nay , số lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư
bản tư nhân chỉ giảm trong năm 1997 , còn lại đều tăng .
Thời điểm 31-12-2000 số lượng lao động trong khu vực kinh tế tư bản
tư nhân là 4.643.844 người , chiếm 12%tổng số lao động xã hội ,bằng 1,3 lần
tổng số việc làm trong khu vực kinh tế nhà nước .Lao động của hộ kinh doanh
cá thể là 3.802.057 người , của các doanh nghiệp tư nhân là 841.787 người .
Sự gia tăng của các doanh nghiệp tỷ lệ thuận với sự gia tăng về số lượng
lao động phù hợp với trình độ kỹ thuật của lao động , việc sử dụng lao động
tại chỗ của khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã giảm bớt khâu giải quyết nơi ăn
ở , các điều kiện cơ sở hạ tầng khác như phương tiện giao thông , trường học
trạm xá…. , tình trạng thất nghiệp dã giảm dần .

Trong 5 năm 2005-2010 lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân
tăng thêm 978.681 người (tăng 20,4%). Trong đó số lao động trong các doang
nghiệp tư nhân tăng thêm 587.459 người (tăng 237,57%); số lao động ở hộ
kinh doanh cá thể tăng thêm 392.222 người (tăng 8,29%). Số lao động qua
thực tế khảo sát ở hộ kinh doanh cá thể lớn hơn nhiều so với số đăng ký vì
nhiều hộ gia đình chủ yếu sử dụng số lao động trong dòng họ , lao động mang
tính thời vụ và lao động nông nhàn không thể hiện trong báo cáo thống kê.
Tình hình thu hút lao động trong những năm qua thể hiện rất rõ rệt qua bảng :
18
Tình hình thu hút lao động trongkhu vực kinh tế tư bản tư nhân trong
những năm qua.
(tính đến thời điểm 31-12 hàng năm)
1998 1999 2000 2001 2009
Lao động (người)
3.865.163 3.864.942 4.316.942 4.597.455 4.956.844
Tốc độ phát triển liên
hoàn(%)
100 94,87 104,09 107,35 113,33
Tốc độ tăng liên hoàn(%)
-5,13 4,09 7,35 13,33
% trong tổng lao động xã hội
12,2 10,3 13,3 15,9 20,0
Công nghệ kỹ thuật sản xuất ngày càng được cải thiên và nâng cao , dây
truyền sản xuât ngày càng hiện đại , đòi hỏi ở công nhân một trình độ tay
nghề phù hợp với điều kiện làm việc, chính vì thế quá trình đào tạo tay nghề
được đưa lên vị trí hàng đầu .Hiện nay ,trình độ tay nghề của công nhân được
nâng cao rõ rệt , bên cạnh đó việc xây dựng chiến lược và chương trình phát
triển đào tạo nghề được hình thành ,như việc xây dựng chiến lược và chương
trình phát triển đào tạo nghề đến năm 2005và 2010.Trong đó cần chú trọng
đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề và công nhân trình độ cao cho khu vực

KTTN. Mặt khác điều kiện để đào tạo tay nghề cho người lao động thuận lợi
hơn so với cáckhu vực kinh tế khác, hầu hết được đào tạo tại chỗ, thông qua
kèm cặp của người nhà đã có tay nghề. Chi phí cho đào tạo không đáng kể,
đồng thời qua truyền nghề như vậy sẽ duy trì được những làng nghề truyền
thống, góp phần cùng xã hội dạy nghề mà chi phí chung của xã hội (kể cả chi
phí của tư nhân và nhà nước ) không đáng kể .
Việc tạo ra hiều chỗ làm việcmới đã góp phần thu hút nhiều lao động
trong xã hội, nhất là số người trẻ tuổi hàng năm đến tuổi lao động chưa có
việc làm, giải quyết số dôi dư từ cơ quan, doanh nghiệp nhà nước do tinh
giảm biên chế và giải thể.
4.2.2 Xoá đói giảm nghèo.
Khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc xoá đói
giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân ở khu vực thành thị và nông thôn .
19
Theo thực tế khảo sát, thu nhập của người lao động trong khu vực kinh tế tư
bản tư nhân thường có mức tương hoặc cao hơn thu nhập của lao động trồng
lúa ở nông thôn cùng địa bàn.
Phát triển khu vực kinh tế tư bản tư nhân góp phần rất quan trọng để
tạo ra việc làm tại chỗ cho gia đình và địa phương , đem lại thu nhập cho
người lao động .Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2000 của Tổng cục
Thống Kê , mức thu nhập trung bình 1tháng/ 1 lao động (1000 đ)của các
doanh nghiệp nói chung là: 1041,1; DNNN là 1048,2; DNtư nhân là 651,1;
Cty cổ phần là 993,0; Tập thể là 529,3; CtyTNHHlà 801,8; DN có vốn dầu tư
nước ngoài là 1754,5.Mức thu nhập của khu vực kinh tế tư bản tư nhân tuy
thấp hơn các DNNN nhưng cao hơn khu vực kinh tế tập thể . Thu nhập trung
bình của 1 lao động trong khu vực kinh tế tư bản tư nhân cao gấp 2đến 3 lần
so với mức lương cơ bản của Nhà nước quy định .
4.3 . Đóng góp và huy động các nguồn vốn trong xã hội ngân sách
nhà nước
4.3.1 Huy động các nguồn vốn trong xã hội sử dụng vào sản xuất kinh doanh

Trong 10 năm gần đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng nhanh,
chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Năm 1999 tổng vốn đầu tư
khu vực kinh tế tư bản tư nhân đạt 31.542 tỷ đồng chiếm 24,05%; năm 2000
đạt 35.894 tỷ đồng, tăng 13,8% so với năm 1999, chiếm 24,31% tổng vốn đầu
tư toàn xã hội.
Năm 2000 vốn đầu tư của hộ kinh doanh cá thể đạt 29.267 tỷ đồng,
chiếm 19,82% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp tư nhân đạt 6.627 tỷ đồng, chiếm 4,49% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Tổng vốn sử dụng thực tế của khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng
nhanh. Đối với các doanh nghiệp tư nhân năm 1999 là 79.493 tỷ đồng, năm
2000là 110.071 tỷ đồng, tăng 38,5%. Các địa phương tăng mạnh vốn sử dụng
thực tế của doanh nghiệp là Hà Nội từ 10.164 tỷ đồng (năm1999) tăng lên
20
16.573 tỷ đồng (năm2000), tăng 63,05%; tương ứng ở thành phố Hồ Chí
Minh từ 36.954 tỷ đồng tăng lên 52.353 tỷ đồng, tăng 41,67%…
Trong hai năm 2001-2002, sau khi có luật doanh nghiệp ra đời, số
doanh nghiệp tư nhân ra đời 35.440,với số vốn đăng ký đạt 40.455 tỷ đồng,
nhiều hơn số doanh nghiệp tư nhân được thành lập trong 5 năm trước cộng lại
.
Năm 2003 , khu vực kinh tế tư bản tư nhân có bước phát triển mạnh
mẽ. Khu vực kinh tế tư bản tư nhân chiếm 26,7% tổng vốn đầu tư phát triển,
hầu hết giá trị nông nghiệp, chiếm 25,5% giá trị công nghiệp, phần lớn giá trị
dịch vụ, 48% kim ngạch xuất khẩu.
4.3.2 Đóng góp phần lớn vào ngân sách nhà nước.
Với sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã
đóng góp rất lớn vào sự phát triển của đát nước, với số vốn huy động lớn
trong toàn xã hội, khu vực kinh tế tư bản tư nhân đã đóng góp ngày càng tăng
vào ngân sách nhà nước
Năm 2000 nộp được 5.900 tỷ đồng, ước tính chiếm 7,3%tổng thu ngân
sách tăng 12,5% so vơ2í năm 1999. Đến năm 2001, khu vực doanh nghiệp tư

nhân
Nộp ngân sách nhà nước đạt trên 11.075 tỷ đồng, chiếm 14,8%tổng thu
ngân sách.
Qua số liệu cho chúng ta thấy khu vực kinh tế tư bản tư nhân có vai trò
rất lớn trong nguồn thu ngân sách của nhà nước .Trong năm 2001 chiếm 14,8%
trong tổng ngân sách nhà nước với tốc độ phát triển nhanh chong thì chỉ trong
một vài năm gần đây khu vực kinh tế này sẽ thể hiện một vị thế quan trọng
trong cơ cấu nền kinh tế và là chỗ dựa vững chắc trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá hiện đại hoá.
4.4 Thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế xã hội,chuyển dịch
cơ cấu kinh tế
4.4.1 Quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế.
21
Sự phát triển của kinh tế tư bản tư nhân đã đặt ra những yêu cầu mới
thúc đẩy hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đã xuất hiện nhiều doanh nhân kinh doanh thành đạt, đưa doanh nghiệp của
mình phát triển, cải thiện được đời sống người lao động, đóng góp ngày càng
nhiều cho xã hội, được xã hội tôn vinh.
Trình độ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư bản tư nhân ngày
càng tiến bộ hơn, số lượng hàng hoá tham gia xuất khẩu ngày càng tăng.
Nhiều sản phẩm của khu vực kinh tế tư bản tư nhân được xuất khẩu uỷ thác
qua doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Khu
vực kinh tế tư bản tư nhân còn tham gia nhiều công đoạn trong quá trình sản
xuất hàng xuất khẩu. Xuất khẩu trực tiếp của khu vực kinh tế tư bản tư nhân
đến nay đã tăng khá, 9 tháng đầu năm 2001 đạt 2.189.330.000 USD, trong đó
các công ty cổ phần đạt 1.606.489.900 USD, công ty trách nhiệm hữu hạn đạt
211.900.000 USD (số liệu của Tổng cục hải quan).
Các doanh nghiệp tư nhân đã tham gia tích cực vào xuất nhập khẩu
trực tiếp, đến năm 2010 số doanh nghiệp tư nhân tham gia xuất khẩu trực tiếp
tăng lên 26.000 doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã xuất khẩu được

những sản phẩm từ hàng thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến (như cá khô
đi Nhật Bản, cá kho tộ đi Mỹ…), đến cả rơm sạch là những mặt hàng mà các
doanh nghiệp nhà nước chưa quan tâm đến. Vì thế khu vực ngoài quốc doanh
trong nước từ chỗ chỉ chiếm 11% giá trị xuất khẩu vào năm 1997 nhưng đến
quýI-2010 đã tăng lên khoảng 45% (không tính giá trị xuất khẩu dầu thô). Gía
trị xuất khẩu từ mức khoảng 5% đã tăng lên 34% trong các thời điểm tương
ứng (thời báo Kinh tế Việt Nam ngày 31-3-2010).
Các doanh nghiệp , công ty đăng ký sản xuất kinh doanh theo pháp luật
và được tự do sản xuất kinh doanh tự do chọn mặt hàng sản xuất hay kinh
doanh. Thị trường Việt Nam với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế tư bản
tư nhân đã tạo ra môi trường hợp tác trên cơ sở 2 bên cùng có lợi và cạnh
22
tranh dưới sự quản lý của nhà nước tạo điều kiện phat triển nhanh chóng kinh
tế Việt Nam , hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN.
4.4.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Sự phát triển của khu vực kinh tế tư bản tư nhân góp phần thu
hút được nhiều lao động ở nông thôn vào các ngành phi nông nghiệp, nhất là
công nghiệp đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế từng địa phương, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đât nước.
Khu vực kinh tế tư bản tư nhân tăng về số lượng và khẳng định vị trí
của mình trong nền kinh tế . Nếu như trước đây , kinh tế tư bản tư nhân
không được thừa nhận, bị coi là đối tượng của cách mạng XHCN, phải đựơc
cải tạo xoá bỏ, với tư tưởng như thế trong giai đoạn đó kinh tế tư bản tư nhân
vẫn chua được phát triển mà hầu như còn bị vùi dập , kinh tế đất nước với sự
hiện diện toàn bộ bởi kinh tế tập thể với cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan
liêu bao cấp. Từ đường lối đổi mới (Đại hội 6 của Đảng tháng 12.1986) khẳng
định xây dựng phát triển nền kinh tế nước ta với cơ cấu nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế tồn tại lâu dài thì kinh tế tư bản tư nhân đựơc
phát triển rất mạnh mẽ, tạo cho cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch cân
bằng giữa kinh tế tư bản tư nhân với kinh tế tập thể .

Cơ cấu kinh tế có xu hướng chuyển dịch cân bằng không chỉ thể hiện về
số lượng giữa kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tập thể , mà còn thể hiện rất rõ
trong sự phát triển của các vùng lãnh thổ, và giữa các ngành. Các doanh
nghiệp đăng ký hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh thương mại
chiếm 60% tổng số doanh nghiệp, công nghiệp và xây dựng 19%, dịch vụ
khác 28%, nông nghiệp chỉ chiếm 3%.
Trình độ sản xuất của khu vực kinh tê tư nhân ngày càng tiến bộ , với
máy móc trang thiết bị ngày càng hiện đại vì thế sản phẩm sản xuất ra ngày
càng nhiều, mẫu mã phong phú và chất lượng dần được cải thiện.Tham gia
tích cực vào xuất khẩu trực tiếp.
23
24

×