Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận Tìm hiểu về các tôn giáo nội sinh trong đời sống tinh thần của đồng bào Nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.98 KB, 24 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nam bộ là vùng đất có nhiều dân tộc, tôn giáo khác nhau cùng sinh
sống, trong đó có tôn giáo du nhập từ nước ngoài và cả tôn giáo nội sinh.
Trong lịch sử Nam bộ, các tôn giáo nội sinh đã có những đóng góp tích cực
vào cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược, tập hợp quần chúng nhân dân
khai khẩn đất hoang, lập ấp, lập làng, phát triển đất nước.
Các tôn giáo nội sinh đã hòa nhập và gắn kết chặt chẽ với dân tộc,
góp phần cấu thành nên bản sắc văn hóa dân tộc và tinh thần yêu nước mang
tính đặc thù riêng của dân tộc Nam bộ. Tuy nhiên, vẫn có nhiều cá nhân lợi
dụng việc lập tôn giáo để thực hiện hoạt động chính trị, gây phương hại đến
nền độc lập, dân tộc của đất nước.
Ngày nay, các tôn giáo nội sinh vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong
đời sống tinh thần của đồng bào Nam bộ. Tôn giáo vẫn còn ảnh hưởng rất lớn
đối với người dân nơi đây. Chính vì vậy, các thế lực thù dịch luôn tìm mọi các
lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước ta. Trong đó, các tôn giáo nội sinh ở
Nam bộ là mục tiêu mà các thế lực muốn lợi dụng.
Do đó, việc vạch ra đường lối, chủ trương đúng đắn để các tôn giáo
phát triển đúng hướng, phù hợp với quy luật khách quan, tránh bị lôi kéo bởi
các thế lực thù địch luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước ta quan tâm.
Với mong muốn khái quát lại quá trình hình thành của các tôn giáo
được sinh ra ngay trên mãnh đất Nam bộ đầu thế kỷ 19 và những giá trị, vai
trò của các tôn giáo nội sinh này trong đời sống tinh thần của nhân dân, người
viết đã chọn đề tài “Tìm hiểu về các tôn giáo nội sinh trong đời sống tinh
thần của đồng bào Nam bộ”.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề tôn giáo là vấn đề nhạy cảm và phức tạp vì thế luôn được các
nhà khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu. Vấn đề tôn giáo nội sinh ở Nam
bộ cũng vậy, cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu, đề cập dưới nhiều góc


độ khác nhau, qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể khác nhau. Tiêu biểu là các
công trình nghiên cứu: “Các tôn giáo bản địa và ảnh hưởng của nó trong đời
sống văn hóa của người Việt Nam bộ” của GS.TS Ngô Văn Lệ - Trường Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, “Các tôn giáo
địa phương khai sinh tại An Giang, vai trò đối với việc phát triển du lịch tín
2
ngưỡng Việt Nam” của tác giả Phạm Hùng Thịnh. Nhìn chung, các công
trình nói trên đều đề cập đến việc hình thành các tôn giáo nội sinh và các tôn
giáo này có những ảnh hưởng nhất định đới với đồng bào Nam bộ. Tuy nhiên,
do mục đích nghiên cứu khác nhau, nên những công trình nghiên cứu nói trên
cũng nêu lên những khía cạnh ảnh hưởng khác nhau của các tôn giáo nội sinh
này. Đến với đề tài này, bên cạnh việc khái quát lại quá trình hình thành, phát
triển của các tôn giáo nội sinh ở Nam bộ, người viết còn tập trung trình bày
vai trò của các tôn giáo này trong đời sống tinh thần của đồng bào nơi đây.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung làm rõ vai trò của các tôn giáo nội sinh trong đời
sống tinh thần của đồng bào Nam Bộ.
Để đạt được mục đích trên, tiểu luận có các nhiệm vụ sau:
+ Trình bày sơ lược về các tôn giáo được hình thành ở Nam bộ
+ Trình bày những ảnh hưởng của các tôn giáo này đối với đồng bào
Nam bộ
+ Nêu lên những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước ta, các tôn giáo nội
sinh và nhân dân ta cần thực hiện để phát triển tôn giáo theo hướng “tốt đạo
đẹp đời”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được tiến hành trên cơ sở kết hợp của nhiều phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgíc và
lịch sử, phương pháp thống kê…
5. Ý nghĩa của đề tài
Ngoài phần giúp cho Đảng, Nhà nước và các nhà quản lý tôn giáo có

những cơ sở lý luận để từ đó hoạch định ra chính sách quản lý phù hợp; tiểu
luận còn góp phần cung cấp tư liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến vấn
đề tôn giáo nội sinh ở Nam bộ.
6. Bố cục
Tiểu luận được trình bày thành 03 chương:
Chương 1: Sự ra đời của các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ
Chương 2: Các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ
Chương 3: Vai trò của các tôn giáo nội sinh trong đời sống tinh thần
đồng bào Nam Bộ
Tiểu luận được thực hiện dưới sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng
dẫn cùng với sự nỗ lực của bản thân. Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định,
3
sự thiếu sót là điều không thể tránh khỏi. Rất mong nhận được sự đóng góp
nhiệt tình của quý thầy cô, các nhà nghiên cứu có quan tâm để tiểu luận được
hoàn thiện hơn.
4
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC TÔN GIÁO NỘI SINH Ở NAM BỘ
1.1 Sơ lược về Nam Bộ
1.1.1 Về mặt chính trị
Vùng đất Nam Bộ là vùng đất mới so với lịch sử lâu đời của đất nước
Việt Nam. Cách đây mấy thế kỷ, nơi đây là một vùng đất hoang vu, thiên
nhiên khắc nghiệt, môi sinh đa dạng. Về sau, do thiên nhiên ngày càng phong
phú, đa dạng và thuận lợi hơn nên đã thu hút được nhiều dân tộc đến đây khai
phá và định cư lâu dài.
Thời Nhà Nguyễn, vùng đất Nam Bộ được chia thành các trấn trực
thuộc phủ Gia Định, đến thời vua Minh Mệnh chia Nam Bộ thành 6 tỉnh trực
thuộc trung ương (lục tỉnh Nam Kỳ)
Để khuyến khích dân cư về đây khai hoang lập ấp, Nhà Nguyễn đã có
những chính sách khuyến khích phát triển kinh tế và xã hội. Bên cạnh đó Nhà
Nguyễn còn cũng cố chính trị, quốc phòng và đào các con kênh để phát triển

giao thông thuỷ bộ như đào kênh Thoại Hà (1817), kênh Vĩnh Tế (1820-
1824), kênh Vĩnh An (1843-1844), vừa tạo nên những hào luỹ nhân tạo kết
hợp với những hào luỹ tự nhiên để bảo vệ lãnh thổ Nam Bộ.
Năm 1858 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trước sức mạnh của thực
dân Pháp, nhà Nguyễn đã từng bước nhượng các tỉnh thuộc vùng đất Nam Bộ
cho Pháp. Năm 1862, Nhà Nguyễn đã ký hiệp ước nhường quyền cai quản 3
tỉnh miền Đông Nam Bộ cho Pháp. Đến 1867, Pháp lại đánh chiếm 3 tỉnh còn
lại của miền Tây Nam Bộ. Đến 1874, triều đình nhà Nguyễn ký tiếp Hiệp ước
nhượng toàn bộ Nam kỳ cho Pháp cai quản.
Khi Nhà Nguyễn ký Hiệp ước nhượng toàn bộ Nam Kỳ cho thực dân
Pháp thì nhân dân miền Nam đã không tiếc xương máu của mình đồng lòng
đứng lên đấu tranh chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp, bảo vệ vùng đất
Nam Bộ, bảo vệ đất nước. Tiêu biểu như phong trào Ty địa của đông đảo sĩ
phu yêu nước. Họ lánh khỏi các vùng bị Pháp chiếm đóng, đến lập nghiệp tại
các nơi khác ở Nam Kỳ và Nam Trung Kỳ chờ thời cơ xây dựng lực lượng
chống Pháp sau này. Nỗi bật là phong trào Cần Vương thu hút sự tham gia
của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Nguyễn Trung Trực với ý chí “bao giờ
nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây”, quyết không chịu
mất nước, không chịu làm nô lệ. Phong trào kháng chiến chống Pháp ngày
càng mạnh mẽ và quyết liệt, dưới nhiều hình thức phong phú.
5
Không chỉ đánh giặc bằng súng đạn, giáo mác, người dân Nam Bộ còn
huy động mọi thứ vũ khí để chiến đấu. Nhiều tôn giáo đã ra đời và kêu gọi
các tín đồ đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Tiêu biểu như đạo Bửu Sơn Kỳ Hương,
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Ngày 03/02/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, khí thế cách mạng ngày càng sục sôi trong cả nước. Tại Nam Kỳ,
ngày 23/11/1940, đông đảo các tầng lớp nhân dân đã đồng loạt nổi dậy khởi
nghĩa ở khắp các tỉnh Nam Kỳ. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã tạo ra một cơn
bão táp cách mạng làm rung chuyển không chỉ bộ máy cai trị của thực dân ở

Nam Kỳ mà còn ảnh hưởng trên phạm vi cả nước. Tuy diễn ra trong một thời
gian ngắn, nhưng đây là một cuộc khởi nghĩa rộng lớn và mạnh nhất kể từ khi
Pháp xâm lược nước ta. Trong cơn bão táp cách mạng, lần đầu tiên lá cờ đỏ
sao vàng- biểu tượng của tinh thần đoàn kết và lòng quyết tâm giải phóng dân
tộc của toàn dân Việt Nam, đã được giương cao ở nhiều vùng thuộc Mỹ Tho,
Vĩnh Long, Gia Định, Bạc Liêu
02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh độc bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập chưa được bao lâu, nhân dân ta
lại phải chống lại cuộc xâm lược lần thứ hai của Pháp, mở màn bằng việc
Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Để giữ gìn nền độc lập còn non trẻ, bảo vệ sự
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân cả nước ta, trong đó có nhân dân
Nam Bộ, lại một lần nữa đứng lên “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”.
Ngày 30/4/1975 Việt Nam hoàn toàn thống nhất đất nước, Miền đất
Nam Bộ một lần nữa được giải phóng.
Từ 1975 - 1978 chiến tranh biên giới Tây Nam, của bọn Pol Pot (khơ
me đỏ) đã gây đẩm máu vùng đất trời nam này. Tại những vùng chiếm đóng,
Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt Nam. Quân
đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu
hao sinh lực của quân Khmer. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại
và không thể phát triển được.
1.1.2 Về mặt văn hóa xã hội
Dân cư chủ yếu của Nam Bộ là dân nhập cư đến đây để lập nghiệp.
Hầu hết những người di cư đến “lập nghiệp” trên vùng đất Nam bộ chủ yếu là
từ các miền ngoài vào. Họ là những người nông dân bần cùng lưu tán có óc
mạo hiểm muốn thoát khỏi cảnh đói nghèo, sưu cao thuế nặng của địa chủ
phong kiến đặt ra, tránh khỏi chiến tranh liên miên Trịnh Nguyễn đã kéo nhau
6
vào đây mưu sống; hoặc một số người có tiền mộ dân nghèo đi khẩn đất, hoặc
là lớp người tội đồ đi tránh sự trừng phạt của vua quan đã trốn tránh lặn lội
vào đây ẩn nấu, hoặc là những người lính cứng đầu bị đẩy vào đây để trấn

miền biên ải hay khai phá lập đồn điền và khẩn hoang vùng biên giới hải
đảo… Đến đây họ đã vượt lên hoàn cảnh của chính mình mà đổi đời, trưởng
thành, xây dựng quê mới ngày càng giàu đẹp. Chính công cuộc khai phá vùng
đất mới, con người đã bền bỉ đấu tranh với thiên nhiên, kiên cường trong lao
động sản xuất để đáp ứng nhu cầu sinh tồn của mình, và đấu tranh chống lại
áp bức, bất công của triều đình phong kiến, chống thù trong giặc ngoài đã
sáng tạo ra cuộc sống của các cư dân Nam bộ và hình thành nên tính cách rất
riêng của con người Nam Bộ
Mặc khác, Dân cư Nam bộ gồm nhiều tộc người như: Việt, Khơme,
Hoa, Chăm,… trong đó có người theo đạo Phật, đạo Hoà hảo, đạo Thiên chúa,
đạo Cao đài, đạo Hồi,… và cả những người không tôn giáo. Do đó, văn hoá
Nam bộ là đa màu đa sắc và mang dấu ấn nhiều sắc thái dân tộc hết sức đa
dạng từ cội nguồn, nhưng lại kết cấu trên cơ sở tinh thần bao dung, hoà hợp,
đồng nguyên. Có thể nói, văn hoá Nam bộ là vùng văn hoá đạo Phật, văn hoá
Khơ me, văn hoá ấn độ, văn hoá Hoa kiều, nhưng văn hoá Việt vẫn là chủ
yếu.
1.2 Nguyên nhân ra đời của các tôn giáo ở Nam Bộ
Thứ nhất, thiên nhiên đa dạng, phong phú con người chưa hiểu hết
những hiện tượng thiên nhiên.
Nam bộ là nơi có nhiều nét riêng biệt về địa lý, là đồng bằng châu thổ
lớn nhất nước ta với hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc. Có môi trường
sinh thái đa dạng, phong phú về loại hình nhưng lại đồng nhất về phương diện
hình thái học. Khí hậu Nam bộ với tính chất cận xích đạo, có sự phân biệt khá
rõ ràng giữa mùa mưa và mùa khô. Đây chính là vùng đất có nhiều tài nguyên
thiên nhiên gìau có, phong phú dễ dàng khai thác, nhưng cũng đầy hiểm nguy.
Chính những đặc điểm địa lý- sinh thái nhiều thuận lợi nhưng không ít khó
khăn của vùng đất Nam bộ này ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hoá và tâm
linh của người dân Nam bộ. Người dân nơi đây quan niệm rằng những ngọn
núi trong Thất sơn cùng với sông Cửu Long hợp thành nơi chung tụ khí
thiêng của đất trời. Từ xa xưa cư dân Nam bộ gọi vùng đất này đã xuất hiện

những nhân vật hiển linh “cứu đời”. Do đó, mà nơi đây phù hợp cho sự hình
thành và phát triển của tôn giáo.
7
Thứ hai, những biến động về mặt xã hội khiến cho cư dân Nam bộ bị bế
tắt và tìm cách giải thoát.
Cư dân ở đất Nam bộ chủ yếu là người dân từ nươi khác nhập cư đến,
đứng trước cái thiên nhiên xa lạ ấy, con người không trách khỏi những e dè,
sợ hãi. Thêm vào đó, vùng đất này chịu sự xâm lược đô hộ của thực dân Pháp
sau đó tới Mỹ gần 1,5 thế kỷ. Chính sự áp bức, bốc lột của bọn thực dân và sự
nhu nhược yếu hèn của Triều đình phong kiến khiến cho người dân bị bế tắt,
họ không còn tin tưởng vào Triều đình, vào sự quản lý của nhà nước.
Mặc khác, phần lớn ruộng đất nằm trong tay các địa chủ, người nông
dân (tá điền) không có đất và phải làm thuê cho các địa chủ, chịu nhiều áp
bức, nạn xâm lược, thuế khóa, thiên tai…. Tất cả đã khiến người dân tìm đến
tôn giáo để xoa dịu, để an ủi và để tìm quên.
Thứ ba, các sĩ phu yêu nước lẫn tránh sự truy bắt của bọn thực dân
phong kiến.
Chứng kiến cảnh thực dân đô hộ, xâm lược bờ cõi, áp bức đồng bào,
nhân dân làm than cơ cực. Nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra sôi nỗi
nhưng đều thất bại. Trước tình cảnh đó, nhiều nhà yêu nước đã dựa vào tôn
giáo để lẫn tránh sự
8
CHƯƠNG 2: CÁC TÔN GIÁO NỘI SINH Ở NAM BỘ
2.1 Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
2.1.1 Người sáng lập
Đoàn Minh Huyên còn gọi là Đoàn Văn Huyên (sinh ngày 14 tháng 11
năm 1807, mất 10 tháng 9 năm 1856) đạo hiệu: Giác Linh quê ở Tòng Sơn,
Cái Tàu thượng, tổng An Thạnh thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng
Tháp).
Năm 1849, ở Nam Kỳ, xảy ra vụ mất mùa và đại dịch (kéo dài đến

1850), đã làm nhân dân lâm vào cảnh cùng cực, khổ đau và chết chóc. Trong
hoàn cảnh ấy, ông Đoàn Minh Huyên từ Tòng Sơn vào Tràm Dư, rồi đến
vùng Kiến Thạnh (nay là làng Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang) trổ
tài trị bệnh cho dân. Từ chỗ chữa trị bệnh có kết quả, ông dìu dắt được nhiều
bệnh nhân và người thân của họ nghe theo những điều dạy khuyên của ông.
Thấy người dân tin và theo ông Đoàn Minh Huyên nên chính quyền nghi ngờ
ông làm chính trị và bắt giam ông và không có bằng chứng nên ông được thả
ra. Cuối năm 1849, Đoàn Minh Huyên khai lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương với
tôn chỉ và phương pháp hành đạo rất đơn giản tại Cốc ông Đạo Kiến (nay là
Tây An cổ tự, xã Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang). Ngoài vai trò là
một tu sĩ, ông còn là một nhà yêu nước, nhà dinh điền đã có công khai hoang
nhiều vùng đất ở Nam Bộ như Đồng Tháp Mười (Đồng Tháp), Thới Sơn
(Tịnh Biên), Láng Linh và Cái Dầu (đều thuộc Châu Phú)
Ngày 10/ 9 /1856, Đoàn Minh Huyên mất tại Châu đốc- An Giang
2.1.2 Quá trình hoạt động và truyền bá
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lấy “học phật-tu nhân” làm sở sở, có nghĩa là
tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương phải noi theo gương đức Phật, học theo lời dạy của
phật và tu niệm, việc học phật là nền tảng mang tính định hướng cho tín đồ tu
dưỡng đạo đức, rèn luyện tâm tính và tiến tới tu nhân. Điều đó giúp cho con
người loại trừ những cái xấu xa và hướng thiện, tự rèn sửa tâm tính, làm lành
lánh dữ, tích đức để giúp con người ta luôn sống đúng với đạo làm người,
giúp ích gia đình, xã hội, có luân thường đạo lý, có đầy đủ Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín. Tức là rèn sửa bản thân mình theo hình thức tu tại gia, vừa tu vừa lao
động sản xuất, được tự do để tóc, râu, được dựng vợ gả chồng, đều có gia
đình riêng và tự làm ăn, sinh sống. Đặc biệt là khai khẩn đất hoang và phải
tham gia đánh giặc khi đất nước cần.
9
Về nghi lễ và cách thờ cúng: trong những chùa Bửu Sơn Kỳ Hương do
ông Đoàn Minh Huyên dựng lên trước đây, không bài trí hình ảnh hay cốt
tượng Phật giáo, mà chỉ cho thờ một tấm vải màu đỏ, gọi là Trần Điều được

treo trước tường chính điện. Trên bàn thờ bày hoa, nước lã, nhang, đèn, không
có chuông, mõ. Theo quan niệm của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương thì tấm Trần
Điều thể hiện tấm lòng từ bi, bác ái, đoàn kết, yêu mến đồng bào, nhân loại.
Ngoài ra, tín đồ còn lập bàn thờ tại gia đình bàn thờ gia tiên có thờ Trần Điều,
ngoài sân có bàn thờ Thông Thiên. Cúng lạy 2 lần trong ngày (sáng sớm và
chiều tối), cúng lạy gia tiên trước, cúng Tam bảo và sau cùng là cúng lạy tại
bàn thờ Thông Thiên.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương trong quá trình hình thành và phát triển, tín đồ
của đạo luôn có truyền thống yêu nước, gắn bó với dân tộc đóng góp nhiều
công lao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Hiện nay, theo thống
kê của Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ các tỉnh, thành phố đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
có khoảng 15.000 tín đồ sinh sống tập trung ở các tỉnh: An Giang, Đồng
Tháp, Bà Rịa- Vũng Tàu, Long An, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Tiền Giang và
Bến Tre.
2.1.3 Cơ sở hoạt động
Do đặc điểm không có chức sắc, không hình thành tổ chức Giáo hội
nên đạo Bửu Sơn Kỳ Hương phát triển theo phương pháp truyền thừa, truyền
giảng giáo lý của Thày tổ cho các đệ tử thân tín, hết lớp trước truyền lại cho
lớp sau, tùy thuộc vào khả năng truyền giảng và uy tín của các ông Đạo. Vì
vậy, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ có chức việc quản tự tại các chùa, không
phân chia đơn vị tín đồ làm cơ sở của đạo.
Chùa Bửu Sơn Kỳ Hương là tổ chức độc lập, là nơi thờ tự chung của
cộng đồng cư sĩ, tín đồ sinh hoạt lễ nghi tôn giáo ở mỗi địa phương do ông
Đoàn Minh Huyên hoặc đệ tử của ông dựng lên. Chùa còn là đầu mối điều
hành, tổ chức và quản lý mọi hoạt động nghi lễ tôn giáo.
2.1.4 Các ngày lễ trong năm
Cũng như các Phật giáo, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương lấy các ngày Rằm
tháng giêng; Lễ Phật đản; Lễ Vu Lan (Rằm tháng bảy); Rằm tháng mười, tết
Đoan Ngọ (5/5 âm lịch ) và lễ giỗ Phật Thầy Tây Ân (12/8 ÂL) là những ngày
lễ lớn trong năm. Vào những ngày này, người tín đồ ăn chay, không sát sanh,

trên bàn thờ cúng hoa, trái cây, chè, nước sạch.
10
2.2 Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
2.2.1 Người sáng lập
Ngô Lợi còn có tên gọi khác là Ngô Viện hay Ngô Hữu sinh 1831 tại
Mỏ Cày (Bến Tre) mất 1890. Ông tu tại chùa Tam Bửu ở miền núi Thất Sơn,
huyện Tri Tôn, tỉnh Châu Đốc, nay là huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Trong
đạo tôn ông là Đức Bổn Sư. Ngoài ra, ông còn có tên gọi khác là ông Năm
Thiếp (người ta cho rằng ông thường đi thiếp) hay Ngô Tư Lợi. Ông là giáo
chủ của Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và là thủ lĩnh của phong trào chống pháp tại
Miền Nam Việt Nam cuối thế kỹ thứ 19.
Ông thành lập tôn giáo để dể dàng trong việc tổ chức các phong trào
chống pháp, bảo vệ đất nước, khuyên người dân khai hoang lập ấp. Vì thế
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của người dân.
Ngô Lợi lấy đạo Phật làm gốc tín ngưỡng và đem đức Hiếu Nghĩa làm
phương châm ở đời mà truyền dạy tín đồ.
Phong trào chống Pháp do ông lãnh đạo nhanh chống lan nhanh, thu
hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia và tạo tiếng vang trong
vùng Long Châu Hà gọi tắt của Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên. Về sau liệu
tình thế không ổn định được, lại bị giặc Pháp theo dõi khủng bố, ông lẩn tránh
nơi núi sâu vùng Thất Sơn lập làng, khai khẩn đất hoang nhằm giúp đỡ chúng
sinh và dân nghèo
Năm Canh Dần 1890, ông mất tại núi Dài hay còn gọi là Ngoạ Long
Sơn, một ngọn trong miền núi Thất Sơn thuộc huyện Tri Tôn, hưởng thọ 60
tuổi.
2.2.2 Quá trình hoạt động và truyền bá
Khi mới ra đời, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa được ông Ngô Lợi gọi là đạo
Thờ cúng ông bà, sau này tín đồ gọi đạo của mình là đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.
Năm 1870 Ngô Lợi chính thức nhận danh hiệu Đức Bổn Sư và phát thẻ tín đồ
(lòng phái) cho những người theo đạo đồng thời hướng dẫn họ khai khẩn đất

hoang lập thôn, ấp, xây dựng chùa, miếu để truyền đạo. Năm 1876 lập thôn
An Định tại núi Tượng, 1882 lập thôn An Hòa giữa núi Dài và núi Tượng,
1883 lập thôn An Thành. Đây chính là cơ sở hậu phương vững mạnh để ông
chuẩn bị thời cơ nổi dậy đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lấy tôn chỉ học Phật tu nhân làm gốc. Học phật
là học những điều Phật dạy, thành tâm phụng thờ và trì niệm Phật để cầu
được giảm “tội, nghiệp”, được cứu độ và giải thoát. Tu nhân là tự rèn sửa
11
mình trở thành người có đạo đức, có hiếu nghĩa và đền đáp tứ ân (ân tổ tiên,
ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại).
Đạo có chức sắc gọi là giáo phẩm gồm ông Trò và ông Gánh (các đại
đệ tử của Ngô Lợi gọi là ông Trò, rồi đệ tử của các ông Trò gọi là ông Gánh).
Trong đạo chia làm 24 Gánh nội thôn và 15 Gánh ngoại thôn, chỉ có ông
Gánh mới có quyền thu nhận giáo dân (tín đồ).
Sau khi ông Ngô Lợi viên tịch tại núi Tượng (1890), đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa không có người kế vị, các mối đạo đều giao cho ông Trò, ông Gánh
phụ trách. Không lâu sau, một số ông Gánh rời vùng Thất Sơn đi các nơi khác
truyền đạo. Vì vậy, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa hình thành hai hệ thống: Một hệ
thống được duy trì ở các làng được coi là thánh địa của đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa như: An Định, An Hoà, An Thành, An Lập thuộc vùng Thất Sơn - An
Giang. Tín đồ ở các làng này được gọi là tín đồ nội thôn. Hệ thống thứ hai là
tín đồ ở những nơi mà các ông Gánh đi truyền đạo như Kiên Giang, Bến Tre,
Đồng Tháp, Tiền Giang, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu hệ thống này được
gọi là ngoại thôn.
2.2.3 Cơ sở hoạt động
Cơ sở hoạt động của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là hệ thống các chùa, đình,
miếu, Tam Bửu gia và bàn thờ tại gia đình. Chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa khác với
chùa Phật giáo, vì đây không phải là nơi tu hành của những người cắt ái ly gia
mà là nơi thờ cúng các đối tượng tôn giáo và thực hiện các lễ nghi của đạo Tứ
Ân Hiếu Nghĩa. Chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn là nơi để chữa bệnh cho tín đồ

và để tín đồ thể hiện mối quan hệ với thân bằng của mình. Hiện nay, chùa Tứ
Ân Hiếu Nghĩa tập trung nhiều nhất ở vùng Thất Sơn, tại các làng: An Định,
An Hoà, An Lập và An Thành.
Bên cạnh hệ thống chùa, tại các làng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có các
đình, miếu là nơi diễn ra các sinh hoạt tôn giáo của tín đồ và là một bộ phận
trong hoạt động tôn giáo do các Trưởng Gánh trực tiếp phụ trách.
Chùa Tam Bửu tại thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang
được xem là Tổ Đinh của đạo Hiếu Nghĩa. Hàng năm và các ngày lễ lớn của
đạo các tính đồ hành hương về đây để tưởng niệm. Vào ngày 10 tháng 7 năm
1980, chùa Tam Bửu công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
2.2.4 Các ngày lễ lớn
Hàng năm chùa Tứ Ân Hiếu Nghĩa có rất nhiều lễ lớn, thu hút hàng
ngàn người tham dự:
12
Tháng giêng có sáu lễ: Chánh Đán (ngày 2-3), Ra mắt (ngày 7), Ngọc
Hoàng (ngày 9), Thập nhị công nghệ (ngày 12-13), Thượng nguyên (ngày 14,
15 và 16), Khai kinh đầu năm (ngày 24).
Tháng 3 có hai lễ: Vía Phật Trùm (ngày 12-13), Thái Dương (ngày 19).
Tháng 4 có hai lễ: Vía Phật Thích Ca Đản sanh (ngày 8), Phật Vương
(ngày 23-24).
Tháng 5 có hai lễ lớn trùng ngày là lễ sinh nhật Đức Bổn Sư và Đoan
ngọ (ngày 5).
Tháng 6 có lễ Vía Tam giáo hỏa lầu (hai ngày 11 và 12).
Tháng 7: lễ Trung nguyên (ngày 14-15).
Tháng 8 có ba lễ: Phật Táo (ngày 3), Vía Phật Thầy Tây An (ngày 12-
13), Vía Thái Âm (rằm tháng 8, Tết Trung thu).
Tháng 9 có một lễ lớn: Trùng Cửu (ngày 9).
Tháng 10 có ba lễ lớn liên tiếp nhau: Vía Niết Bàn (ngày 8), Vía Tổ
(ngày 12-13), Hạ nguyên (ngày 14-15 và 16).
Tháng Chạp có ba lễ: Chư Thiên (ngày 23), Hoàn Kinh (ngày 24),

Rước Chư Thiên (ngày Tất niên).
Ở đình, mỗi năm có hai lễ vào dịp tết Nguyên đán là lễ Dựng nêu rước Chư
thiên và Hạ nêu, nghi thức cúng lễ như ở chùa, và hai lễ lớn đó là lễ Kỳ Yên
và Lạp miếu (hay Chạp đình). Lịch lễ Kỳ Yên ấn định tuần tự trong tháng
Giêng, liền nhau tại bốn làng: An Định ngày 19-20, An Hòa ngày 21-22, An
Thành ngày 23-24, An Lập ngày 25-26. Lễ Lạp miếu diễn ra trong tháng 11
Âm lịch cũng theo tuần tự như trên mỗi làng (mỗi làng 2 ngày từ mồng 9 đến
16). Nghi thức Kỳ yên, Lạp miếu cơ bản giống nhau với các bước cúng lễ:
Thỉnh Sắc, Cúng Tiên, Khai Kinh, Lục Cúng, Ngọ Khuya. Trong khi cúng
người ta cũng đọc sớ điệp và kinh Tứ Ân Hiếu Nghĩa như ở chùa.
2.3 Đạo Hòa Hảo
2.3.1 Người sáng lập
Người sáng lập đạo Phật Giáo Hòa Hảo (gọi tắc là Hòa Hảo) là ông
Huỳnh Phú Sổ. Ông sinh ngày 15 tháng 0 1 năm 1920 nhằm ngày 25 tháng 11
năm Kỷ Mùi tại làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, (nay thuộc
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Cha là Huỳnh Công Bộ.
Thuở nhỏ Huỳnh Phú Sổ rất thông minh, học hết bằng sơ học yếu lược Pháp -
Việt nhưng hay bị đau ốm nên đành bỏ dở việc học.
13
Huỳnh Phú Sổ tự nhận mình là bậc "sinh như tri", biết được quá khứ
nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca
Mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu
Sơn Kỳ Hương để "Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê,
biển khổ và đưa tới chốn Tây phương cực lạc". Ông chữa bệnh cho người dân
bằng các bài thuốc đã học trong lúc đi chữa bệnh, đồng thời qua đó ông
truyền dạy giáo lý bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông
soạn thảo. Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo
ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng.
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 4 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú sổ
bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là

gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên
cho tôn giáo mới của mình: đạo Hòa Hảo hay Phật giáo Hòa Hảo. Sau đó, ông
được các tín đồ suy tôn làm giáo chủ mối đạo, và gọi ông bằng cái tên tôn
kính là Đức Huỳnh Giáo Chủ.
Ngày 18 tháng 8 năm 1940 họ đưa ông đi quản thúc tại Sa Đéc.
Ngày 23 tháng 5 năm 1940, chuyển ông sang quản thúc ở làng Nhơn
Nghĩa, tỉnh Cần Thơ nhưng cả hai nơi này đều được đông đảo quần chúng
đến xin nghe thuyết pháp và quy y Phật giáo Hòa Hảo.
Vì vậy ngày 28 tháng 7 năm 1940, nhà cầm quyền Pháp đưa Huỳnh
Phú Sổ vào bệnh viện Cần Thơ và sau đó chuyển lên nhà thương điên Chợ
Quán tại Sài Gòn.
Tháng 6 năm 1941 Huỳnh Phú Sổ bị đưa đi quản thúc ở Bạc Liêu. Tại
đây ông không được phép trị bệnh và thuyết pháp.
Tháng 10 năm 1942 trước tin tức người Pháp sẽ đưa Huỳnh Phú Sổ đi
đày ở Ai Lao (Lào), các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và hiến binh Nhật đã giải
cứu ông đem về Sài Gòn.
Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1945 Huỳnh Phú Sổ đi thuyết pháp và
khuyến nông tại 107 địa điểm ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ
Ông nỗi tiếng là làm thơ, sau được tập hợp lại thành quyển Sấm giảng
thi văn giáo lý, có phần gần gũi với tư tưởng thần bí và tín ngưỡng dân gian ở
Nam Bộ lúc bấy giờ.
Ông cũng tham gia hoạt động chính trị có khi mâu thuẫn gây gắt với Cách
Mạng Việt Nam. Năm 1947, tại buổi hòa giải giữa Việt Minh và Hòa Hảo
Huỳnh Phú Sổ vắng mặt và mất tích cho đến ngày nay. Sau đó nội bộ Hòa
14
Hảo tách ra làm mấy nhóm; có nhóm ngả theo Cách mạng, nhóm thì chống
lại, gây ra những vụ thanh toán và tranh giành ảnh hưởng có khi đẫm máu.
Mỗi nhóm cát cứ ở những vùng như Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ.
2.3.2 Quá trình hoạt động và truyền bá
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (4 tháng 7 năm 1939) ông đứng ra cử

hành lễ "đền linh Khứu Sơn trung thọ mạng" khai đạo, lấy tên là Hòa Hảo, đó
vừa là tên quê hương ông vừa có ý nghĩa là "hiếu hòa" và "giao hảo". Từ đó
Huỳnh Phú Sổ đi chữa bệnh, tiên tri, thuyết pháp và sáng tác thơ văn, kệ
giảng. Văn chương của ông bình dân nên dễ đi vào lòng người. Chỉ trong một
thời gian ngắn số tín đồ và ảnh hưởng của Huỳnh Phú Sổ càng ngày càng gia
tăng và trở thành một phong trào tín ngưỡng mạnh mẽ khiến Thực dân Pháp
lo ngại.
Đạo Phật giáo Hoà Hảo được khai sáng trên nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương của ông Đoàn Minh Huyên và lấy pháp tu Tịnh độ tông làm căn bản tu
hành. Đạo Phật giáo Hoà Hảo với giáo pháp là học Phật, tu Nhân, tại gia cư
sĩ, thực hiện Tứ ân: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo, Ân đồng
bào nhân loại.
Là một tôn giáo cách tân, có xu hướng nhập thế, đạo rất coi trọng hoạt
động từ thiện xã hội. Vì vậy, trong Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Hoà
Hảo đã xác định đường hướng hành đạo là "vì Đạo pháp, vì Dân tộc". Tôn chỉ
hành đạo là học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ, giáo huấn tín đồ về Tứ ân; thực
hiện 8 điều răn cấm, cứu giúp người nguy khó, tương trợ trong quan, hôn,
tang, tế và hoạt động từ thiện hữu ích cho xã hội.
Theo thống kê của Vụ Các tôn giáo khác - Ban Tôn giáo Chính phủ,
hiện nay Phật giáo Hoà Hảo có gần 1,3 triệu tín đồ. Về tổ chức, Giáo hội Phật
giáo Hoà Hảo có tổ chức 2 cấp: cấp toàn đạo có tên gọi là Ban Trị sự Trung
ương Phật giáo Hoà Hảo; cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là Ban Trị sự Phật
giáo Hoà Hảo cơ sở.
Năm 1999, Nhà nước Việt Nam chính thức công nhận tôn giáo Hòa
Hảo. Từ đó đến nay đã trải qua ba kỳ đại hội (nhiệm kỳ là 5 năm): Đại hội lần
I: năm 1999, Đại hội lần II: năm 2004, Đại hội lần III: năm 2009 và xây dựng
được Hiến chương của Giáo hội.
Ngoài ra, để phổ truyền giáo lý của đạo, Ban Trị sự Trung ương Phật giáo
Hoà Hảo đã mở nhiều lớp đào tạo giáo lý viên cho những người làm nhiệm vụ
15

truyền giảng đạo cho tín đồ. Mở được hàng chục lớp cho tín đồ học tập về
giáo lý của đạo, tìm hiểu về chủ trương, chính sách pháp luật về tôn giáo.
Một hoạt động nổi trội của đạo Phật giáo Hoà Hảo thời gian qua là
tham gia vào công tác từ thiện xã hội. Hoạt động từ thiện là nét đẹp truyền
thống của đạo Phật giáo Hoà Hảo. Ngay khi mới ra đời, người truyền giảng
đạo đồng thời là người thầy thuốc trị bệnh cứu người. Duy trì truyền thống
đó, ngày nay đạo tổ chức khám chữa bệnh Nam Đông y, cấp thuốc, châm cứu,
hỗ trợ bệnh nhân nghèo như hỗ trợ kinh phí cho hàng trăm bệnh nhân đi mổ
mắt, hỗ trợ hàng trăm triệu đồng cho gia đình nghèo có người qua đời với
tổng giá trị hàng chục tỷ đồng mỗi năm.
Đạo Phật giáo Hoà Hảo tích cực tham gia cùng các tổ chức đoàn thể
khác hoạt động cứu trợ thiên tai làm cầu đường, làm nhà tình nghĩa, nhà tình
thương với kinh phí đóng góp ủng hộ của tín đồ hàng tỷ đồng, hàng vạn
ngày công.
2.3.3 Cơ sở hoạt động
Cơ sở hoạt động của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo là các Ban Trị sự. Ban
Trị sự Trung ương và cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là Ban Trị sự Phật giáo
Hoà Hảo cơ sở. Trụ sở Giáo hội tại An Hoà tự, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang. Giáo hội có Văn phòng và các Ban chuyên môn giúp cho
hoạt động của đạo.
2.3.4 Các ngày lễ lớn trong năm
Trong các hoạt động khác như tổ chức ngày lễ trọng hàng năm như Lễ
Khai đạo 18/5 âm lịch, Lễ Đản sinh Giáo chủ Phật giáo Hoà Hảo 25/11 âm
lịch, hỗ trợ nhau trong quan, hôn, tang, tế v.v đạo Phật giáo Hoà Hảo thực
hiện đảm bảo theo quy định của pháp luật. Thực hiện chủ trương tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, được
sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cộng đồng tín đồ Phật giáo Hoà Hảo
luôn đoàn kết cùng xây dựng cuộc sống mới vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2.4 Đạo Cao Đài

2.4.1 Quá trình hình thành và phát triển đạo
Phong trào Thông linh học của phương Tây phát triển nhanh tại Nam
bộ, tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút gọi tắt là “cơ bút”. Trong các đàn cơ
này, có hai nhóm chính hình thành đạo Cao đài. Nhóm thứ nhất do ông Ngô
Minh Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa thuộc các nhóm Ngũ chi Minh đạo.
16
Nhóm thứ hai gồm ba ông: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc
tổ chức xây bàn cầu cơ nhằm mục đích giải trí.
Đến ngày 12/2/1926, trong một bài cơ Đức Thượng đế đã phán dạy hai
nhóm cơ bút thống nhất hình thành đạo Cao đài. Ông Ngô Minh Chiêu được
Thiên phong phẩm vị Giáo tông đầu tiên của đạo Cao đài.
Ngày 7/10/1926, 28 người đại diện cho 247 tín đồ đã thống nhất ký tên
vào Tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp. Giữa tháng 11/1926, những chức sắc
Thiên phong đầu tiên của đạo Cao đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò Kén,
Tây Ninh, chính thức cho ra mắt Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, gọi tắt là đạo Cao
đài.
Tôn chỉ của đạo Cao đài là "Tam giáo quy nguyên, Ng̣ũ chi hiệp nhất",
lấy sự thương yêu làm nền tảng, lấy nhân nghĩa làm phương châm hành đạo,
lấy việc phụng sự chúng sinh làm hành động, lấy sự cứu rỗi các chơn linh làm
cứu cánh, phấn đấu xây dựng một xã hội đạo đức, an lạc bằng tinh thần
thương yêu đồng đạo. Giáo lý của đạo Cao đài đề cao tính thiêng liêng, sự
huyền diệu của cơ bút. Luật lệ của đạo Cao đài thực hiện theo Tân luật, Pháp
Chánh truyền. Lễ nghi của đạo Cao đài khá cầu kì thể hiện tinh thần Tam giáo
đồng nguyên. Đạo Cao đài thờ Thiên nhãn, có nghĩa là “mắt trời”, biểu tượng
Đức Chí Tôn của đạo Cao đài.
Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo giáo hội Cao đài tiến hành
xây dựng Toà thánh, phát triển các thánh thất, điện thờ, xây dựng giáo lý, giáo
luật, lễ nghi và tổ chức Giáo hội. Trong 2 năm 1926 - 1927, thông qua cơ bút
đạo Cao đài đã tập trung xây dựng xong hai văn bản quan trọng qui định luật
lệ, lễ nghi và tổ chức Giáo hội là Pháp Chánh truyền và Tân luật. Vì vậy, đến

năm 1930 hoạt động tại Toà thánh dần dần được củng cố và đi vào nề nếp,
những chức sắc thường trực đã thực hiện theo đúng chức năng nhiệm vụ, các
cơ sở đạo phát triển, tổ chức Giáo hội hình thành từ Trung ương đến cơ sở
theo 5 cấp hành chính đạo.
Từ 1931 đến 1934, mâu thuẫn giữa một số chức sắc Hiệp Thiên đài và
Cửu Trùng đài ngày càng nặng nề, tình hình nội bộ Giáo hội mất đoàn kết
ngày càng tăng, một số chức sắc cao cấp bất đồng với Toà thánh đã tự hoạt
động theo ý riêng, tiến hành lập nhiều đàn cơ để lôi kéo tín đồ. Vì vậy, nội bộ
chức sắc xuất hiện tư tưởng ly khai khỏi Toà thánh như các ông Nguyễn Văn
Ca, Nguyễn Hữu Chính, Trần Đạo Quang, Nguyễn Ngọc Tương, Lê Bá
Trang, các vị chức sắc rời Toà thánh Tây Ninh về các địa phương lập ra các
17
chi phái Cao đài mới như: Cao đài Ban Chỉnh đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao
đài Chơn lý, Cao đài Minh Chơn đạo, Cao đài Bạch y
Giai đoạn từ 1935 đến 1975, đạo Cao đài phát triển mạnh mẽ nhất
nhưng cũng xảy ra tình trạng phân chia thành nhiều chi phái, đã có lúc lên đến
hơn 30 phái Cao đài khác nhau. Số lượng tín đồ đạo Cao đài cũng phát triển
nhanh chóng đến hơn 2 triệu người, tập trung chủ yếu ở Nam bộ và một vài
tỉnh ở miền Trung, miền Bắc.
Giai đoạn từ năm 1975 đến nay: sau năm 1975, các phái Cao đài không
hoạt động theo mô hình tổ chức cũ. Các Hội thánh Cao đài xây dựng tổ chức
hành chính đạo theo hai cấp: cấp Trung ương là Hội thánh, cấp cơ sở là Họ
đạo. Từ năm 1995 đến năm 2000, lần lượt 09 Hội thánh Cao đài có đông chức
sắc, tín đồ tổ chức Đại hội thông qua Hiến chương, chương trình hành đạo,
xây dựng tổ chức giáo hội 2 cấp, hoạt động theo 3 Hội: Thượng hội, Hội
thánh, Hội Nhơn sanh và xác định đường hướng hành đạo “Nước vinh, Đạo
sáng”.
2.4.2 Cơ cở hoạt động
Cơ sở thờ tự có Toà thánh ở Trung ương giáo hội và thánh thất (thánh
tịnh, điện thờ Phật Mẫu) ở Họ đạo cơ sở.

Hiện nay, đạo Cao đài có 09 Hội thánh có tổ chức giáo hội gồm: Cao
đài Tây Ninh, Cao đài Ban Chỉnh đạo, Cao đài Tiên Thiên, Cao đài Minh
Chơn đạo, Truyền giáo Cao đài, Cao đài Cầu Kho Tam Quan, Cao đài Chơn
lý, Cao đài Chiếu Minh Long Châu, Cao đài Bạch y.
Ngoài ra, đạo Cao đài còn có tổ chức Pháp môn Cao đài Chiếu Minh
Tam Thanh Vô Vi là pháp môn tu hành của đạo Cao đài theo “Nội giáo tâm
truyền” không có chức sắc, không lập giáo hội, chỉ chuyên tu tâm, luyện tánh
theo truyền dạy của ông Ngô Minh Chiêu (được công nhận năm 2010). Giáo
hội Cao đài Việt Nam (Bình Đức) cũng là một phái Cao đài có tổ chức giáo
hội 02 cấp nhưng mới được cấp đăng ký hoạt động tôn giáo năm 2009.
Đến nay đạo Cao đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc,
khoảng 2,4 triệu tín đồ, với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở được công nhận ở 35/38
tỉnh, thành phố có đạo Cao đài, thành lập 65 Ban Đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự.
2.4.3 Các ngày lễ lớn trong năm
Người tín đồ đạo Cao Đài bên cạnh việc đến phải đến thánh thất nơi cư
trú 2 lần một tháng. Hàng năm, người tín đồ còn chuẩn bị chu đáo trong 03
ngày lễ lớn đó là ngày vía Đức Chí Tôn vào mùng tám tháng giêng âm lịch và
18
lễ hội Diêu Trì Thánh Mẫu vào đêm rằm tháng tám âm lịch và lễ Khai đạo
rằm tháng mười.
2.5 Đạo Dừa (Đạo Vừa)
2.5.1 Quá trình hình thành và phát triển đạo
Người sáng lập Đạo Dừa là ông Nguyễn Thành Nam, sinh năm 1909 tại
xã Phước Thịnh, tổng An Hòa, huyện Trúc Giang, tỉnh Kiến Hòa (nay là
huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre), mất năm 1990.
Cha tên Nguyễn Thành Trúc, làm chánh tổng từ năm 1940 đến năm
1944 và mẹ là bà Lê Thi Sen.
Năm 1928, ông sang Pháp du học tại Rouen.
Năm 1935, ông tốt nghiệp kỹ sư hóa học và về nước và cưới bà Lộ Thị
Nga sinh ra một người con gái tên là Nguyễn Thị Khiêm.

Năm 1945, ông đến chùa An Sơn ở Bảy Núi, Châu Đốc, quy y cầu đạo
với hòa thượng Thích Hồng Tôi. Tu theo luật đầu đà, ông ngồi tại bệ đá trước
cột phướn chùa suốt 3 năm, đêm ngày tịnh khẩu, chịu đựng gió sương, thân
hình chỉ còn da bọc xương.
Năm 1948, ông trở về Định Tường (nay là Tiền Giang) ngồi tựa mé
sông trên cầu Bắc, hành đạo mặc kẻ qua người lại.
Năm 1950, ông trở lại xã Phước Thạnh dựng đài bát quái cao 14 thước,
đêm đêm lên ngồi hành đạo trên đài, choàng một manh áo, chịu đựng mưa
nắng. Cuộc sống tu hành đơn sơ, đạm bạc, thức ăn chỉ là trái cây, chủ yếu là
dừa (nên mới có biệt danh là Ông Đạo Dừa). Mỗi năm ông chỉ tắm một lần
vào ngày Phật Đản.
Năm 1958, ông gửi thư phản đối Tổng thống Ngô Đình Diệm về một
chính sách nào đó, nên bị bắt giam, sau được thả ra
Năm 1963, ông Nguyễn Thành Nam đến Cồn Phụng thuộc xã Tân
Thạch, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xây dựng chùa Nam Quốc Phật, tại
đây ông lập ra đạo Dừa. Ông đặt mua một xà lan lớn có sức chứa hàng trăm
tấn, thiết kế làm ba tầng đưa về neo đậu bên một khu đất, trên đó xây dựng
một số tháp, đài, nhà khách, vườn hoa
Ông tự xưng là Thiên nhơn giáo chủ Thích Hòa Bình, tuyên bố theo cả
ba tôn giáo là Nho, Phật, Lão. Đạo của ông không cần tụng kinh, gõ mõ mà
chỉ cần ngồi tham thiền và ăn chay, tưởng niệm và khuyến khích người đời
sống tôn trọng lễ nghĩa và yêu thương nhau, cư xử hòa mục với nhau. Về thực
phẩm, Đạo Dừa khuyên nên ăn dừa và uống nước dừa.
19
Năm 1967, ông có nhờ báo chí tuyên truyền đạo của mình và vận động
ra tranh cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
Sau 1975, Đạo Dừa bị cấm, tài sản bị nhà nước trưng dụng, ông tìm
cách vượt biên nhưng không thoát và bị bắt đưa đi học tập cải tạo. Về sau,
ông được người thân trong gia đình lãnh về sống tại Phú An Hòa. Năm 1990,
ông qua đời ở tuổi 81.

Là một trong nhiều đạo tồn tại ở Miền Nam trước 1975. Đạo Dừa chủ
trương hòa đồng tôn giáo, tổng hợp tinh hoa của nhiều tôn giáo, đặc biệt là
Phật giáo, Kitô giáo. Dựng đàn Bát quái, lập thuyền Bát nhã với đài lộ thiên
để cầu Phật, tiên, thánh sao cho mưa thuận gió hòa, dân sống yên vui, đất
nước thái bình, vv Tín đồ lên đến hàng vạn.
2.5.2 Cơ sở hoạt động
Hiện nay tại Cồn Phụng còn nhiều di tích Đạo Dừa trên diện tích chừng
1.500m², hiện được bảo tồn nguyên trạng các hạng mục kiến trúc được xây
dựng từ thời trước: sân 9 con rồng; tháp Hoà bình (cửu trùng đài) Một khu
được sửa thành nơi điều dưỡng và du lịch. Còn chiếc xà lan lớn làm nơi hành
đạo cũ được đưa về làm khách sạn nổi trên sông Bến Tre ở thị xã.
20
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA CÁC TÔN GIÁO NỘI SINH TRONG
ĐỜI SỐNG TIN THẦN ĐỒNG BÀO NAM BỘ
3.1 Tập hợp quần chúng theo đạo để giúp đời.
Đầu thế kỷ XIX, chính quyền thực dân Pháp và triều đình phong kiến
nhà Nguyễn tăng cường áp bức bóc lột, vơ vét tài nguyên, đàn áp nhân dân
để phục vụ lợi ích của chúng. Cuộc sống của nhân dân lao động, đặc biệt là
người nông dân Nam bộ bị bần cùng hoá, phải đi làm thuê, làm mướn. Các
cuộc đấu tranh của nhân dân đều thất bại. Bất lực trong cuộc sống, khủng
hoảng về tư tưởng, đây là tiền đề và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của các
tôn giáo. Hầu hết các giáo chủ đều là những người có tài, có chí muốn lợi
dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng quần chúng nhân dân theo mình.
Có tôn giáo tập hợp lực lượng này để khai khẩn đất hoang, thành lập
thôn, ấp nhằm tạo hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Pháp
của dân tộc. Cũng có tôn giáo lợi dgiao1danh nghĩa tôn giáo để hoạt động
chính trị. Vì vậy, các Tôn giáo nội sinh đã tập hợp được một số lượng đông
đảo nông dân miền Nam đứng dưới ngọn cờ tôn giáo.
Sự ra đời và phát triển của các tôn giáo ở Nam Bộ thế kỷ XIX đã có vai trò
tích cực trong giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc. Giúp cho tín đồ được an

ủi và vơi đi những nỗi đau thực tại, khỏa lấp những bất hạnh của cá nhân, tạo
niềm tin, hy vọng cho những người ngèo khổ, bế tắc hướng tới một xã hội tốt
đẹp.
3.2 Góp phần phát triển đạo đức tốt đẹp của dân tộc
Hầu hết các tôn giáo nội sinh đều khuyên dạy tín đồ làm lành, lánh dữ,
tự sửa mình. Trong đó, nội bật nhất là quan điểm về đền đáp Tứ ân của các
tôn giáo như: Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Đạo Hòa
Hảo. Giữ gìn tứ ân chính là đền trả 4 ân lớn: ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam
bảo, và ân đồng bào nhân loại. Cụ thể như sau:
Đối với ân cha me, người tín đồ phải biết hiếu thảo, tôn kính và yêu
thương. Sở dĩ phải biết yêu thương cha mẹ vì cha mẹ là người đã sinh ra ta,
cho ta sự sống. Cha mẹ nuôi dưỡng và giáo dục ta thành người. Quan điểm
này hoàn toàn phù hợp với đạo đức. Nhất là truyền thống đạo đức của người
Việt Nam.
“ Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
21
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Theo đó, việc đền ơn cha mẹ không phải khi cha mẹ còn sống mà cả
khi cha mẹ mất rồi cũng vậy. Nếu cha mẹ còn sống thì vâng lời, quan tâm,
hiếu kính, chăm sóc, không ngỗ nghịch làm buốn lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ đã
mất thì phải tưởng nhớ, thấp hương, cầu cho cha mẹ được sớm siêu thoát “ an
vui miền cực lạc”. Nếu làm được như vậy, thì người tín đồ mới xem như đã
đền ân cha mẹ.
Một trong những ân quan trọng nhất chính là Ân đất nước. Người tín
đồ phải đền Ân đất nước thông qua các trường họp cụ thể: Khi đất nước hòa
bình thì phải rèn sửa tâm tính, làm lành lánh dữ để tích đức, làm tốt mọi việc,
có ích cho đất nước, xã hội, hăng hái lao động, đặc biệt là biết giữ gìn kỹ
cương, phép nước. Khi đất nước có ngoại xâm, phải biết đứng lên chống giặc,

bảo vệ tổ quốc, bảo vệ quê hương đất nước. Quan điểm này được nhiều tôn
giáo sử dụng để giáo dục tín đồ yêu đất nước. Tiêu biểu nhất là Đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa ra đời trong hoàn cảnh chế độ phong kiến suy tàn, nhân dân lầm
than khổ cực, thực dân Pháp xâm lược. Tứ Ân được nhấn mạnh nhằm khơi
gợi lòng yêu nước tự hào về nòi giống, kêu gọi mọi người đứng lên chống
giặc ngoại xâm để đền ơn đất nước, bảo vệ thành quả của cha ông. Với những
uan điểm phù hợp với đạo lý đó Tứ Ân đã đáp ứng được nhu cầu thực tiễn
dân tộc. Vì thế tính chất này có ý nghĩa đặc biệt trong việc giáo dục tình yêu
nước cho nhân dân.
“ Bờ cõi vĩnh hằng thân ta mới yên
Quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm”
Trọng Ân thứ 3 của Tứ Ân tam bảo. Người tín đồ ngoài việc tôn kính
cha mẹ, trung thành với đất nước còn phải biết tôn kính tôn giáo mình. Tam
bảo có nghĩa là “ Phật, Pháp, Tăng”. Đền ân tam bảo tức là học những điều
phật dạy và làm những điều phật khuyên nhằm nhận thức được con đường đạt
tới chân thiện mỹ; biết kính trời đất, trọng thần thánh, giáo lý của đạo mình
cũng như những người có công trong đạo (tăng ni). Tuy nhiên bên cạnh đó,
đền ân tao bảo cũng đồng nghĩa với việc khuyên dạy tín đồ nên xây dựng
quan hệ trong sáng, tốt đẹp giữa người với người, giữa thế hệ này với thế hệ
kia. Biết học phật để được về cõi Tây phương cực lạc khi chất. Điều này có
nghĩa Quyết định trong việc giáo dục lòng trung thành của tín đồ đối với tổ
chức tôn giáo.
22
Đối với ân đồng bào nhân loại. Con người từ khi sinh ra đến lúc chết có
rất nhiều quan hệ với người xung quanh. Chúng ta phải biết yêu thương, giúp
đỡ lẫn nhau như “con một cha”. Quan điểm này phù hợp với truyền thống yêu
thương con người của dân tộc Việt Nam từ xa xưa “ bầu ơi thương lấy bí
cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàng”, “nhiễu điều phủ lấy giá
gương, người chung một nước phải thương nhau cùng” hay “ lá lành đùm lá
rách”

Chính vì phù hợp với truyền thống, với đạo lý quan điểm này được
nhiều người ủng hộ và đi theo. Tình yêu với đồng bào, nhân loại được thể
hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng mục đích chính của quan điểm này
chính là giải phóng con người khỏi đao khổ, đưa mọi người đến với hạnh
phúc. Hạnh phúc ở đây còn được hiểu là đến với đạo, với tồn giáo, vì chỉ có
tôn giáo mới có sự giải thoát
“ Biết làm sao gieo khắp đạo đồng
Đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc”
Như vây, quan niệm Tứ Ân trong các tôn giáo nội sinh ở Việt Nam là
quan điểm phù hợp với truyền thống đạo đức của nhân dân ta, đáp ứng được
nhu cầu về đời sống tinh thần của nhân dân cũng như những đòi hỏi trong thời
kỳ đất nước bị xâm lược.
23
PHẦN KẾT LUẬN
Sự hình thành các tôn giáo nội sinh ở Nam Bộ vào đầu thế kỹ thứ 19 là
một xu thế khách quan. Trong quá trình hình thành và phát triển các tôn giáo
hoạt động nhằm phát huy những giá trị đạo đức của con người Việt Nam.
Cũng có những tôn giáo lợi dụng ngọn cờ tôn giáo để thực hiện mục đích
chính trị. Tuy nhiên tất cả đều có mục đích chung là tìm hướng giải thoát cho
con người Nam Bộ đang chịu cảnh áp bức bốc lột của thực dân Pháp và triều
đình phong kiến Nhà Nguyễn.
Ngày nay, tinh thần “cứu dân độ thế” vẫn còn được tôn giáo giữ gìn và
phát huy. Biểu hiện là việc các tôn giáo tham gia ngày càng nhiều vào các
hoạt động từ thiện, thực hiện phương châm “ tốt đạo đẹp đời”. Tất cả những
điều đó có ý nghĩa nhất định trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, khi
mà chúng ta cần phải huy động mọi nguồn lực tham gia vào sự nghiệp xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh hiện nay, khi mà ngày càng nhiều các thế lực lợi dụng
tôn giáo để thực hiện những mưu đồ chính trị, thì vai trò của các tôn giáo nội
sinh là vấn đề hết sức quan trọng cần phải được giữ gìn và phát huy. Để làm

được điều đó cần phải có sự tham gia của nhiều người, nhiều tổ chức, tôn
giáo. Cụ thể như:
Về phía Đảng và Nhà nước cần có những nhận định mang tính khách
quan, khoa học về tôn giáo; hoạch định chính sách tôn giáo, những mặt tích
cực phù hợp với lợi ích của toàn dân, với công cuộc xây dựng xã hội mới;
phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo; bảo vệ và tu
tạo các di sản văn hóa tôn giáo. Trong đó có vấn đề quan trọng là cũng cố
khối đại đoàn kết toàn dân, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa đạo đức
trong tôn giáo vào việc xây dựng nền đạo đức mới, nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Về phía tôn giáo, các tôn giáo cần phải nhận thức được những giá trị
quý báo của đạo đức, của văn hóa. Giáo dục các tính đồ về trung thành với tổ
quốc, về tình yêu với nhân loại, hiếu thảo với cha mẹ đúng theo tôn chỉ của
tôn giáo mình. Động viên các tín đồ về lối sống lành mạnh, không mê tính dị
đoan “tốt đạo đẹp đời”, học phật tu nhân, hòa nhập vào cuộc sống, rèn tâm
sửa tính vì thực tiễn cuộc sống. Đề cao cảnh giác với các thế lực đen tối đang
lợi dụng tôn giáo để thực hiện những mưu đồ chính trị, ảnh hưởng đến uy tính
của tôn giáo mình.
24
Đối với tín đồ, nghiêm chỉnh chấp hành những quy định trong tôn giáo,
những quy định về tứ ân. Bởi vì suy cho cùng thì tu cũng là để đền đáp ân
nghĩa, là rèn đạo làm người.
Đối với nhân dân, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người có đạo,
có thể học tập một số lời khuyên dạy của tôn giáo phù hợp với giá trị đạo đức.
Tất nhiên không phải để thành phật nhưng nếu mọi người đều biết hiếu thảo
với mẹ cha, biết giữ gìn trật tự kỹ cương, biết yêu thương đoàn kết với đồng
bào, tôn sư trọng đạo thì sẽ trở thành những người có ích cho xã hội.

×