Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tiểu luận Thân phận và Tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.14 KB, 13 trang )

Chương I
Đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn quê làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa
Thiên. Ông sinh vào giờ Thìn, ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Mão tức ngày 28 tháng 2
năm 1939, tại Daklak. Ông mất vào 12:45 trưa ngày 1 tháng 4 năm 2001, tại Sài Gòn.
Ông an nghỉ tại nghĩa trang Gò Dưa chùa Quảng Bình, tỉnh Bình Dương bên cạnh mộ của
thân mẫu.
Năm 1943 từ Dak Lak ông theo gia đình chuyển về Huế. Ông học trường tiểu học
Nam Giao (nay là Trường An), vào trường Pellerin, theo học trường Thiên Hựu
(Providence). Ông tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Học trường
Sư Phạm Quy Nhơn khoá I (1962-1964). Sau khi tốt nghiệp ông lên dạy học và làm Hiệu
trưởng một trường Tiểu học ở Bảo Lộc (Lâm Đồng). Sau 1965, ông bỏ hẳn nghề dạy học,
về sống và sáng tác tại Saigon. Sau 1975 ông sống ở Huế một thời gian dài và sau đó vào
ở hẳn tại Sài Gòn (Tp Hồ Chí Minh).
Ngoài Âm nhạc, tác phẩm của ông còn gồm nhiều thể loại thuộc các lãnh vực như:
Thơ, Văn và Hội Họa.
Ông tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (Nhà Xuất
Bản An Phú in năm 1959). Cho đến nay nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm, có thể
được phân loại dưới 3 đề mục lớn: Tình Yêu- Quê Hương- Thân Phận.
Năm 1972, ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài "Ngủ Đi Con" (trong
Ca Khúc Da Vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly phát hành trên 2 triệu bản; Giải
thưởng cho Bài hát hay nhất trong phim “Tội Lỗi Cuối Cùng”; Giải Nhất của cuộc thi
"Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh" với bài "Em Ở Nông Trường, Em Ra
Biên Giới"; Giải Nhất cuộc thi "Hai mươi năm sau" với bài "Hai Mươi Mùa Nắng Lạ";
Năm 1997 ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc Sĩ cho một chuỗi bài hát: "Xin Trả Nợ
Người", "Sóng Về Đâu", "Em Đi Bỏ Lại Con Đường". Trịnh Công Sơn có tên trong tự
điển Bách Khoa Pháp "Encyclopédie de tous les pays du monde" (Coll. Les Millions)
Về quan niệm sáng tác, Trịnh Công Sơn bộc bạch: "Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua
miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo "
Trong quan niệm sống, ông cho rằng “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, dù
không để làm gì cả, dù chỉ để gió cuốn đi!”


Các tuyển tập ca khúc nổi tiếng của nhạc sĩ họ Trịnh có thể kể tên: Ca Khúc Trịnh
Công Sơn, Tình Khúc Trịnh Công Sơn, Tuổi Đá Buồn, Khói Trời Mênh Mông, Ca Khúc
Da Vàng, Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời, Phụ Khúc Da Vàng, Như Cánh Vạc
Bay, Tự Tình Khúc, Lời Đất Đá Cũ, Thần Thoại Quê Hương, Tình Yêu và Thân Phận,
Một Cõi Đi Về, Huyền Thoại Mẹ, Cỏ Xót Xa Đưa, Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên,
Những Bài Ca Không Năm Tháng.
Về con người của Trịnh Công Sơn có thể tóm lại trong lời phát biểu hàm súc của ca sĩ
Khánh Ly, người đã gắn bó với các ca khúc của Trịnh như là một cái nghiệp không thể
tách rời: "Ông Trịnh Công Sơn không của riêng ai. Ông là của tất cả mọi người. Ông yêu
dân tộc và quê hương. Việc ông ở lại và nằm xuống trên quê hương là điều đúng. Từ ông,
tôi đã thành danh, và quan trọng hơn là thành nhân. Sống cùng với tên tuổi của ông gần
40 năm với những lời ông dặn bảo phải sống giữa đời với một tấm lòng, và sống với
người bằng sự tử tế. Ông là một nửa đời sống của tôi."
Chương II. Thân phận con người trong ca từ Trịnh Công Sơn
Thân phận con người là một trong ba chủ để lớn (thân phận- tình yêu- quê hương) kết
cấu nên dòng nhạc Trịnh. Có thể nói Con Người là chủ thể của mọi mục đích sáng tạo.
Con người hiện sinh, con người tượng trưng, con người mặc định, con người ám chỉ… cứ
trở đi trở lại như một nỗi ám ảnh trong hầu hết các sáng tác của Trịnh Công Sơn. Thân
phận con người có khi đứng tách riêng ra thành một chủ đề độc lập, có khi ẩn hiện trong
các chủ đề khác tạo nên một sợi dây xuyên suốt, một chất keo kết dính tạo nên tính thống
nhất mà đa dạng trong âm nhạc Trịnh Công Sơn. Họ Trịnh khai thác con người ở hầu hết
các trạng thái khác nhau, khi thì “gần gụi”, có lúc thật xa xôi, nhưng tựu chung đều bắt
nguồn từ một thực thể: Cái Tôi. Cái Tôi xuyên suốt mọi chủ đề và hình ảnh. Tôi hiện lên
trọn vẹn nhất trong những bài hát nói về thân phận, về kiếp luân hồi và giải thoát bản
ngã. Cái tôi gặm nhấm nỗi cô đơn, nỗi buồn đến đôi khi là tuyệt vọng. Cái tôi đào sâu
vào bản ngã, lắng nghe những âm vọng nhân sinh để chiêm nghiệm hết sự tàn phai của
cõi đời, để rồi trăn trở với những suy tư, với những quan niệm về sự sống và cái chết.
1. Thân phận con người trong nỗi buồn và sự cô đơn
Như đã nói, thân phận con người trong âm nhạc Trịnh Công Sơn có biến hóa muôn hình
vạn trạng cũng vẫn ẩn mình trong thực thể “Tôi” thống nhất. Vậy “Tôi” là ai?

Đã hơn một lần nhân vật Tôi ấy lặng lẽ nhìn lại mình. Phải trả giá bằng những năm tháng
trẻ thơ đầy ảo tưởng, ngày nay không còn bé tôi mới chợt nhìn ra tôi, thấy tôi như chiếc
bóng phai mờ, như vết mực nhòe, như hòn đá nặng tình cờ rớt xuống mịt mùng, và tôi cứ
trôi trong cuộc đời… không chờ ai. “Trời cao đất rộng- Một mình tôi đi- Một mình tôi đi-
Đời như vô tận- Một mình tôi về- Một mình tôi về với tôi” (Lặng lẽ nơi này). Hết âm
thầm gõ buồn gót chân hành hương bóng đổ một mình, tôi lại khép cửa quỳ bên vết
thương, nhốt mình trong căn gác đìu hiu, soi bóng mình giữa tường trắng lặng câm, rồi
một hôm “chợt thấy hoang vu quanh mình” mà thốt lên: “Ô hay mình vẫn cô liêu!”. Hiu
quạnh, lạnh lùng, im vắng, tịch lặng, băng giá, xa lạ, xa vắng, lặng câm, hư vô, hun hút,
lẻ loi, âm u, lạnh lẽo, bơ vơ, lạc loài…
Bao nhiêu tính từ kiểu đó cứ chồng chéo, vây bủa lấy thân phận Tôi, đan kết thành
một tấm lưới vô hình khổng lồ có tên là Cô đơn.
Mỗi thanh âm của thế giới khi lọt vào thính trường của con người ấy, của cái Tôi
ấy đều trở thành một vọng âm nói về sự cô đơn, gợi đến sự cô đơn hoặc bắt anh ta phải
nhận ra sự cô đơn. Đó là tiếng hát: Chiều chủ nhật buồn/Nằm trong căn gác đìu hiu/Ôi
tiếng hát xanh xao của một buổi chiều/Trời mưa trời mưa không dứt/Ô hay mình vẫn cô
liêu (Lời buồn thánh). Đó là tiếng gà trưa: Về trên phố cao nguyên ngồi/Tiếng gà trưa
gáy khan bên đồi/Chợt như phố kia không người/Còn lại tôi bước hoài (Lời thiên thu
gọi). Đó là tiếng mưa như lời ru miệt mài/ngàn năm ngàn năm trong ca khúc Tuổi đá
buồn, tiếng mưa khiến câu hỏi "còn ai còn ai?" bật ra não nuột như tiếng thở dài của thi
nhân trước nỗi cô đơn trên nhân thế.
Cần nói thêm rằng: giữa trùng trùng âm thanh của thế giới, cùng với lời ru, dường
như Trịnh Công Sơn yêu nhất tiếng mưa. Không phải chỉ vì mưa đã giăng mịt mùng
trong các ca khúc của ông, mà còn vì tiếng mưa nhiều khi được ông dùng như một âm
chuẩn để "đo" các thanh âm khác, tiếng lá chẳng hạn. Dùng tiếng mưa "đo" tiếng lá, ông
có những ca từ tuyệt hay: Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ (Diễm xưa), Lá hát như mưa
suốt con đường đi (Em còn nhớ hay em đã quên) v.v Và bằng phương pháp đo cộng
hưởng này, ông đã gom nhặt được hầu hết những âm thanh gợi bóng cô đơn và sầu thảm.
Cô đơn, ở một khía cạnh nào đó, là cây thập giá tinh thần mà người nghệ sĩ đích thực
phải mang vác suốt cuộc đời mình. Trong cô đơn, Trịnh Công Sơn tỏ ra có một thính lực

thật kỳ lạ, ông nghe thấy muôn trùng lên tiếng, những thanh âm kết dệt một bầu khí thật
ma mị liêu trai: Đêm nghe gió tự tình/Đêm nghe đất trở mình vì mưa/Đêm nghe gió thở
dài/Đêm nghe tiếng khóc cười của bào thai Đêm nghe gió than hoài/ Đêm nghe lá đưa
lời hàm oan/Đêm nghe thân xác mịt mùng/Đêm nghe tiếng muôn trùng đẩy đưa (Nghe
tiếng muôn trùng). Đi tới cùng của cô đơn, Trịnh Công Sơn rút gọn toàn bộ thế giới vào
chính bản thân mình, ông nghe từ chính mình những âm vọng bi thiết của nhân sinh: Đôi
khi ta lắng nghe ta/Nghe sóng âm u/Dội vào đời buốt giá/Hồn ta gió cát phù du bay
về/Đôi khi trên mái tình ta/Nghe những giọt mưa/Tình réo tình âm thầm/Sầu réo sầu bên
bờ vực sâu (Tình xa).
Tận hiến cuộc đời mình cho nghệ thuật, Trịnh Công Sơn và các ca khúc của ông
đã tạo nên một bộ phận giá trị, không thể tách rời trong dòng chảy ca khúc trữ tình Việt
Nam thế kỷ XX. Những ca khúc mang giai điệu buồn. Buồn, đó cũng là chủ âm trong ca
từ của ông. Bởi lẽ, ở một phương diện nào đó, dường như cái tạng sẵn có của Trịnh Công
Sơn không hợp với những vui vẻ hời hợt. Thượng đế đã bắt (hay đã ban?) cho ông sứ
mệnh của kẻ có thể lắng trong mình những âm thanh u uất, những tiếng nói tang thương
từ cõi người và cõi đời rồi chưng cất chúng thành những ca từ buồn và đẹp. Cái sự buồn
rất thật ấy bởi vì được cất cao từ bản ngã của cái Tôi bản thể mà biểu trưng nên nó trở
thành “nỗi buồn đẹp”, nỗi buồn của con người, của thân phận. Một điều mà chúng ta có
thể khẳng định chắc chắn: Đó sẽ là di sản không bao giờ bị mất chân giá trị của Trịnh
Công Sơn.
Nỗi buồn, sự cô đơn và tuyệt vọng luôn túc trực, tiềm tàng trong mỗi người, đặc
biệt là với những ai còn có dù chỉ một ít thôi sự ưu ái đối với cuộc sống này, với cõi đời
này. Bởi lẽ một cái tôi biết buồn, biết ghen tị, biết cô đơn là một cái tôi biết yêu- yêu đời,
yêu người và yêu mình. Và như một đại văn hào đã viết “Tuyệt vọng là tiếng hát đẹp
nhất!”, Trịnh Công Sơn sau những giây phút lắng hồn mình trong nỗi cô đơn và tuyệt
vọng đã phân trần: " không ai muốn làm một tên tuyệt vọng. Nhưng tôi nguyện làm tên
tuyệt vọng. Bởi nhiều sớm mai khi tôi thức dậy không thấy được hoa quả khai sinh trong
trái tim người Nỗi vinh nhục đã mang ta ra khỏi đời sống để đưa đến những đấu trường.
Tôi đang bắt đầu những ngày học tập mới. Tôi là đứa bé. Tôi là người bạn. Ðôi khi tôi là
người tình. Chúng tôi cùng vẽ lại chân dung của nhân loại. Vẽ lại con tim khối óc. Trên

những trang giấy tinh khôi chúng tôi không bao giờ thấy bóng dáng những đường kiếm
mưu đồ, những vết dao khắc nghiệt. Chúng tôi vẽ lại những đất đai, trên một đời sống
không còn bạo lực ". Và thông qua lăng kính tâm hồn Trịnh, có lẽ là không hàm hồ khi
nói rằng nỗi buồn, cô đơn và tuyệt vọng là những bản chất cố hữu của mỗi con người, là
thước đo những chân giá trị của thân phận. Đó là kết quả của trái tim, của khối óc, và của
cả một quá trình họ Trịnh tập chạy cùng thời gian. Trong tất cả những điều chân thật về
con người, có lẽ cảm giác của nỗi buồn, của sự cô đơn, tuyệt vọng là chân thật nhất. Bởi
lẽ không ai có thể dối lừa con tim mình. Và như thế nỗi buồn, cô đơn đã trở thành niềm
tin, thành triết lý sống " Tin vào niềm tuyệt vọng có nghĩa là tin vào chính mình. Tin
vào cuộc đời vốn không thể khác. Và như thế, tôi đang yêu thương cuộc đời bằng nỗi
lòng của tên tuyệt vọng." (Trịnh Công Sơn).
Cái tôi nghệ sĩ cần có đủ nỗi buồn để thấy mình còn tồn tại giữa cuộc sống này,
cần có đủ niềm đau để nhận ra mình là người đa cảm, cần những khoảnh khắc cô đơn để
yêu mình hơn, yêu đời hơn, và cần những phút giây tuyệt vọng để chiến thắng nỗi sợ hãi,
ám ảnh về sự tàn phai và cái chết.
Nỗi buồn, sự cô đơn của mỗi cá thể, của mỗi thân phận mà cũng có lúc không phải
của riêng ai. Cái tôi đa cảm ấy đã buồn nỗi buồn của bản thân và của mỗi kiếp người. Đó
là tiếng kêu đau thương của người mẹ mà gia tài dành tặng cho con chỉ là “một rừng
xương khô, một núi đầy mồ” (Ca dao mẹ). Và đó không còn là chuyện tình cảm của một
cá nhân, mà là nỗi buồn của toàn thể dân tộc, của người mẹ Việt Nam khóc thương cho
những đứa con da vàng. Đôi khi tiếng hát của nỗi cô đơn lại được cất lên từ sự lạc lõng
của một (hay những) “đàn bò vào thành phố” (Du mục); của ai đó trong những buổi
“chiều một mình qua phố”, hay nhẹ nhàng vương trên nhưng giây phút “ướt mi”…
Nói tóm lại cái buồn, cái cô đơn của thân phận con người vừa là tâm sự bản thể,
vừa là nỗi ám ảnh của mọi kiếp người. Nó là sự phản ánh của hiện thực đời sống khách
quan qua lăng kính tâm hồn của người nghệ sĩ. Trịnh Công Sơn đã đánh thức, đã khơi gợi
trong mỗi con người một hoặc nhiều hơn nỗi buồn, nỗi cô đơn, niềm tuyệt vọng để ai đó
thoáng chút giật mình bỗng thấy đau nỗi đau kiếp người, nỗi đau nhân thế. Để rồi khi
chợt tỉnh “giấc mơ xưa”, trầm ngâm chiêm nghiệm sự tồn tại của bản thể, của cái Tôi và
của cõi đời nhiều khi mong manh hơn niềm tuyệt vọng.

1.2. Con người bản thể trước sự sống và cái chết, ám ảnh về nỗi tàn phai
Những ca khúc viết về thân phận con người của Trịnh Công Sơn trước sự sống cái
chết và nỗi tàn phai cũng chỉ là đi tìm cái hữu hạn của kiếp sống. Sự hiện diện của mỗi số
phận bắt buộc phải đi qua một khoảng thời gian nào đó, do định mệnh an bài và cái
không gian vô định phải nhận diện. Theo nhà Phật đó là nhân quả, là luân hồi, là sự sinh
trưởng không ngơi nghỉ và biến hoá vô cùng để phát triển, tạo nên cái “nghiệp” cho số
phận. Nên cái thân phận khốn khó mà mỗi kiếp người phải mang nặng, không nằm trong
phạm trù riêng, nó trải rộng ra cả thế gian này với những sai biệt xuyên qua cung số. Cát
bụi lại trở về cát bụi… “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi /Để một mai vươn hình hài lớn
dậy Ôi cát bụi phận này /Vết mực nào xoá bỏ không hay” ("Cát bụi")
Xuyên suốt thế giới âm nhạc Trịnh Công Sơn là tình yêu lứa đôi và một nỗi buồn
thê thiết phận người. Đó là một thế giới quá vô thường, mỏng manh đến bàng hoàng.
Trịnh Công Sơn đã gây dựng một thế giới tinh thần bất toàn trên cái nền tảng cũng bất
toàn của Phật giáo đó là cõi người Sinh - Lão - Bệnh - Tử.
Trong cái nhìn thông thường, có một đứa bé chào đời, đó là một niềm vui. Nhưng
với Phật giáo sự lý giải giản đơn chỉ là một kiếp luân hồi. Con người sinh ra để phải chịu
bao nhiêu khổ đau. Vì vậy mà với Trịnh Công Sơn đó là một “tin buồn từ ngày mẹ cho
mang nặng kiếp người”. Trong cái nhìn tương đồng, kinh Cựu ước cũng viết rằng: “Hãy
để ngày ấy lụi tàn, ngày mà tôi sinh ra đời và đêm mà người ta nói rằng đã có một con
người được kết thành thai”.
Con người không thể tự quyết định sự ra đời của chính mình, vì nó là câu chuyện
dài kỳ của nhân duyên. Với cái nhìn rất chi hồn nhiên vào cõi tồn sinh, Trịnh Công Sơn
đã ngơ ngác tự hỏi mình, câu hỏi của nhân loài: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một
mai vươn hình hài lớn dậy”.
Một câu hỏi ném vào hư không như một viên đá cuội ném xuống và mất hút giữa
mặt hồ cuộc đời rộng thênh thang, có chăng chỉ hồi vọng những vòng sóng nhỏ lăn tăn
một nỗi ngậm ngùi.
Canh cánh với cái nhìn thấu suốt cõi người, Trịnh Công Sơn không hề né tránh
bản chất của Sinh - Diệt, dù ngay khi ông giả định, thì giả định đó cũng là một sự thật tê
tái cõi lòng “Hôm nay thức dậy. Không nhìn thấy mặt trời. Như vừa mới vào đời. Tay mẹ

đâu rồi. Nôi trống ru ai”. Không có gì khác người khi đó là cái nhìn triết học về thân
phận con người ngay từ lúc nó chào đời, nhìn thấy tia nắng đầu tiên và chào cuộc đời
cũng bằng thân mệnh của tiếng khóc đầu tiên.
Nhất quán với tư tưởng Phật giáo, Trịnh Công Sơn đã nhìn thấy ngay từ khi sinh
ra, trong con người đã tiềm tàng “mầm bệnh”, hữu thân hữu bệnh. Bệnh ở đây là những
cơn đau của thể xác và đặc biệt là nỗi đau tinh thần xuất phát từ nhận thức “vì với ý thức,
người là một con vật bị bệnh”. Chu Sơn không cần nhiều hàm ý khi viết rằng chính Trịnh
Công Sơn “đã chiếm lấy nỗi đau làm báu vật, đồng thời làm vũ khí của riêng mình”.
Nỗi đau khổ tâm hồn ấy đã suốt đời như ngôi sao chiếu mệnh người nhạc sĩ tài hoa, khiến
ông cất lên những lời ca quán tưởng nhất, giải thích một hợp đồng thân phận trọn vẹn
nhất, có sức thuyết phục nhiều người nhất về sự có mặt của Nỗi - Đau - Làm - Người.
Sống với những giấc mơ, Trịnh Công Sơn thấy mình hóa thành chim, như nghìn năm
trước Trang Tử thấy mình hóa bướm, nhưng rồi ông “như con chim bệnh, thiếu hạnh
phúc trần gian”.
Bệnh ở đây là sự ngốc dại, ngậm ngùi “tự làm khô héo tôi đây”, là “ngủ dài lâu
mang theo vết thương sầu”, bệnh đến mệt mỏi, ơ thờ và nặng nề nhất, để lại nhiều di
chứng nhất đó là BỆNH YÊU: thắc thỏm chờ đợi, như đứng đi trên lửa, nằm ngồi không
yên, chút niềm hy vọng “đôi môi em là đốm lửa hồng” chợt lụi tàn tắt vùi nỗi thất vọng:
“Chiều nay còn mưa sao em không lại. Nhớ mãi trong cơn đau vùi”.
Đi tìm sự đồng nhất, đồng thuận giữa bệnh = nỗi đau thân xác = nỗi đau tinh thần
= nỗi đau tình yêu, Trịnh Công Sơn đã đẩy phạm trù cái “bệnh” của Phật giáo vượt qua
giới hạn của cách hiểu thông thường về phạm trù của bệnh.
Bệnh trở thành một thực thể tồn tại như một phần của bản chất Cái Đẹp. Thông
qua giai điệu nồng nàn của âm nhạc Trịnh Công Sơn, con người không còn sợ hãi bệnh,
xem bệnh là một tất nhiên - cái giới hạn mà khi nhận thức được nó, con người sẽ tiến gần
đến với sự tiệm ngộ.
Đó là một cuộc sống chung, hóa vàng nỗi sợ hãi, những cơn đau thành một cái đẹp
vô lời. Bệnh trở thành một đóa hoa lạ trong nhận thức sâu thẳm về phận người. Cái “vết
thương thời đại” ấy (chữ dùng của Bửu Ý) là một thú đau thương khá bất ngờ và đầy ma
lực của âm nhạc Trịnh.

“Bao nhiêu năm làm kiếp con người. Chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Sau phạm
trù Sinh, cánh cửa già nua Lão đã kẽo kẹt mở toanh ra một màu tóc trắng. Đã xa rồi
khoảng cách bao nhiêu năm của Sinh để tiếp cận với Diệt. Phạm trù Lão trong âm nhạc
Trịnh Công Sơn là sự nối tiếp nỗi buồn của Sinh.
Hình ảnh lau trắng = tóc bạc trở lại trong nhiều ca khúc của ông. Nó đến chậm
chạp, từng ngày, như cười cợt, như đánh đố, như thách thức kiếp người ngắn ngủi. Và lúc
này Trịnh Công Sơn như một đứa trẻ đi tìm trâu lạc ra đồng giữa ngọ tròn mắt ngạc nhiên
rồi ồ lên khờ dại: “Chiều hôm thức dậy. Ngồi ôm tóc dài. Chập chờn lau trắng trong tay”.
Giữa dòng phù sinh, kiếp người rồi chỉ là một con - phù - du - tóc - bạc. Không ngần ngại
nhận thức sự thật trần trụi ấy, tựa vào vô thường, Trịnh Công Sơn ôm cầm thản nhiên ca
lời ca yêu thương của một chú ve sầu: “Ôi phù du. Từng tuổi xuân đã già. Một ngày kia
đến bờ. Đời người như gió qua”.
Dù thông thái, con người chưa bao giờ chịu chấp nhận ngày nọ mình sẽ là con phù
du tóc bạc. Nỗi ham sống từ chối ánh sáng hoang mạc như con đà điểu rúc đầu vào cát
bỏng từ chối những hiểm nguy đe dọa sự sinh tồn. Phạm trù cái Lão tồn tại tất yếu trong
âm nhạc Trịnh Công Sơn, là màu cỏ lau hắt hiu buồn, là một tín hiệu như chiếc then mục
cài cánh cửa kết thúc một đời người.
Dù muốn hay không, thất vọng hay hy vọng, cười hay là khóc, thì cái chết, sự
chết, nỗi chết vẫn lơ lửng trên đầu con người. Kinh Thánh dạy con người hãy tập làm
quen với cái chết “chết đi trở về với chúa ấy là sống muôn đời”.
Phật giáo dạy chết là sự thay đổi một trạng thái, là Tán sau khi đã Tụ, một sự tiếp nối vô
thường. Triết học hiện sinh xem cái chết là một điều phi lý nhất trên đời, dù là hiện sinh
hành động hay hiện sinh Cơ đốc giáo, cũng đều thấy trong cái chết một sự băng hoại tầm
thường. Với Trịnh Công Sơn, cái chết là một thường trực, nỗi ám ảnh ngay từ khi một
hình hài mới ra đời.
Có thể thiết lập một từ điển về cái chết trong âm nhạc Trịnh Công Sơn với hàng
trăm “kiểu chết” khác nhau. Chết bất chợt “Chợt như xác thân không còn. Và cạnh tôi là
đồng vắng”. Chết trong một lời khuyên nhủ “Thôi về đi, đường trần đâu có gì”. Chết như
đất trời lịm tắt “Một ngày như mọi ngày. Từng chiều lên hấp hối”. Cái chết là một vô
thủy vô chung “Không có cái chết đầu tiên. Và có đâu bao giờ. Đâu có cái chết sau

cùng”. Cái chết thanh thiên bạch nhật trong đời thực “Chìm dưới cơn mưa. Một người
chết đêm qua”. Chết trong cả giấc mơ “Một lần nằm mơ, tôi thấy tôi qua đời”.
Có một điều bất ngờ, là ở mỗi “kiểu chết”, Trịnh Công Sơn đều nhìn thấy những
tư thế chết bi tráng, hầu như không muốn làm hạt bụi của con người. Cái tư thế mà bậc
đại trí Chế Lan Viên sinh thời đã viết “Vê hạt cát thời gian chọi lại với vô cùng”. Có tư
thế chết thơ mộng và kêu dũng “Người nằm co như loài thú trong rừng sương mù. Người
nằm yên không kêu than chết trên căn phần”. Có tư thế chết chỉ là một dấu bàn chân quên
trở lại “Chìm dưới cơn mưa. Bàn chân nhỏ bé. Năm nay năm nay đã quên đường về”.
Quả là khó có cái chết đau thương nào lại nhẹ nhàng như là “quên” như vậy, mà nỗi đau
đã được nén chịu rồi lặp đi lặp lại qua trạng từ chỉ thời gian “năm nay, năm nay ”. Chết
chủ động tiếp nhận với tư thế của một lời chào không chút ngại ngần “Đường trần rồi
khăn gói. Mai kia chào cuộc đời. Nghìn trùng cơn gió bay”
Và không ở đâu cái chết vốn tràn ngập bi thương và phi lý lại xuất hiện đẹp như
đoạn kết một cuộc hẹn hò “Những hẹn hò từ nay khép lại. Thân nhẹ nhàng như mây”.
Vậy đó, sau khi đã mô tả hàng trăm “kiểu chết” tàn lạnh khói hương, tạc vào giai điệu
buồn như phúc âm hàng trăm “tư thế chết” dịu dàng và lẫm liệt, Trịnh Công Sơn - nhạc
sĩ, bỗng trở thành một Thiền Sư đốn ngộ với nụ cười nhẹ nhàng rằng cái chết không đe
dọa được ai.
Tạo hóa đã đùa cợt con người và đến lượt mình con người minh triết có thể “nhân
định thắng thiên” bằng cái nhìn trực diện, không trốn tránh và sợ hãi trước cánh cửa vô
thường Sinh - lão - bệnh - tử.
2. Tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn
Tạ ơn đời, tạ ơn tình yêu là một trong những đặc điểm nổi bật trong ca từ Trịnh
Công Sơn. Tình yêu ở Trịnh Công Sơn là tình yêu không hạnh phúc. Hầu hết trong
những tình ca của ông là những bức tranh mang tên: tình phụ, tình sầu, tình xa, tình xót
xa vừa, tình nhớ, tình vơi Hạnh phúc có chăng, chỉ đong bằng những mảnh vụn và
những mảnh vụn cũng sẽ chìm trôi.
Trong đời người ai chẳng từng yêu và được yêu và tránh sao khỏi những cuộc
tình tan vỡ. Thế giới tình yêu của Trịnh Công Sơn là một đóng góp thành công trong việc
phát hiện và biểu hiện những ngôn ngữ tình yêu sâu kín, thể hiện mọi cung bậc tình cảm,

nhớ thương, tương tư, mong chờ, giận hờn, trách móc, xót xa, biệt ly, thất tình, tình phụ
Điều đó làm nên tính chân thật, đa dạng trong các ca từ của ông. Lạc vào thế giới tình ca
của ông, mỗi người đều bắt gặp thân phận tình yêu của mình.
Trong bài Biển nhớ, viết về mối tình với cô Tôn Nữ Bích Khê, người Nha Trang,
một bạn học cùng lớp thời Sư Phạm Quy Nhơn, Trịnh Công Sơn nói lên nỗi chờ mong,
da diết: “Ngày mai em đi/ Biển nhớ tên em gọi về/ Gọi hồn liễu rũ lê thê/ Gọi bờ cát
trắng đêm khuya/ Ngày mai em đi/ Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ/ Sỏi đá trông em
từng giờ/ Nghe buồn nhịp chân bơ vơ ”
Chỉ trong một bài Biển nhớ, mà chúng ta bắt gặp đến 2 từ chờ, 3 từ nhớ, 6 từ buồn,
6 từ gọi. Có lẽ chưa có một bản tình ca nào mà nỗi nhớ cồn cào, mãnh liệt đến thế.
Tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn buồn, đau một cách lặng lẽ. Ông kể lể, thì
thầm như tự an ủi chính mình. Không quằn quại, tuyệt vọng như Hàn Mặc Tử, không
mặc cảm như Nguyễn Bính, không vội vã cuống quýt như Xuân Diệu. “Vì tình yêu của
Trịnh Công Sơn là chiếc bóng lung linh, thấp thoáng, chập chờn: “tình không xa nhưng
không thật gần ” (Như một lời chia tay), thoắt ẩn thoắt hiện: “rộn ràng nhưng biến
nhanh ” (Tình sầu). Những mối tình “không hẹn mà đến, không chờ mà đi” (Bốn mùa
thay lá), nghĩa là chẳng có hẹn hò, thề thốt, ràng buộc gì nhau. Tất cả chỉ là tình cờ: “Ta
gặp tình cờ như là cơn gió (Hoa vàng mấy độ), “coi như phút ấy tình cờ” (Nguyệt ca).
Trong “Thủ bút Trịnh Công Sơn” có viết: “Khi bạn hát một bản tình ca là bạn
đang muốn hát về cuộc tình của mình. Hãy hát đi đừng e ngại. Dù hạnh phúc hay dở
dang thì cuộc tình ấy cũng là một phần máu thịt của bạn rồi”. Điều ông nói quả thật
đúng; hơn thế nữa, khi lắng nghe một bản tình ca cũng là khi “lắng nghe im lặng cuộc
tình” (Tôi đang lắng nghe).
Theo Lê Hữu, thực ra, Trịnh Công Sơn thích nói về tình phụ hơn là tình yêu, vì
ông nghĩ hầu như ai đến với ông cũng chỉ chực chờ phụ rẫy ông vậy. “Cái may ở đời là
được yêu và đôi khi cái may ở đời là bị phụ tình”, ông nói thế. Và những tình phụ, phụ
tình vẫn trải đầy trong những ca từ của ông.
Ru em phụ rẫy trong ta
Yêu em, yêu thêm tình phụ (Ru em)
Em phụ tôi một thời bé dại

Trả nợ một đời em đã phụ tôi (Xin trả nợ người)
Trịnh Công Sơn cũng viết về duyên và nợ, những món nợ tình chẳng bao giờ
thanh toán nổi: Trả nợ một đời không hết tình đâu (Xin trả nợ người)
Trong những tình khúc Trịnh Công Sơn, tình yêu vừa là mật ngọt, vừa là mật
đắng:
Tình yêu mật ngọt, mật ngọt trên môi.
Tình yêu mật đắng, mật đắng trong đời (Lặng lẽ nơi này)
Tại sao lại như vậy? Trịnh Công Sơn không có lời giải thích, chỉ nghe ông
nói: “Con người không thể sống mà không yêu. Có người yêu thì hạnh phúc, có người
yêu thì đau khổ. Nhưng dù đau khổ hay hạnh phúc, con người vẫn muốn yêu. Tình yêu vì
thế mà tồn tại”.
Những chuyện tình ông viết thường là những chuyện tình lặng lẽ, không sóng gió,
không sôi nổi, nhưng không phải là không đắm say, nồng nàn:
Tôi xin làm cây xa, đứng nhìn em rực rỡ
Tôi xin làm nụ cười, chờ em giữa đôi môi
Tôi xin làm mộng nhỏ, em vừa giấc ngủ say
(Vì tôi cần thấy em yêu đời)
Cái thứ tình yêu vừa dịu vợi xa xôi, lại cũng thật gần gụi ấy vấn vương gót chân
người, xô đẩy tình nhân đến với tình nhân, rút gần những khoảng cách yêu tin, và trói
chặt tâm hồn người. Chúng ta dễ dàng nhận ra một tình yêu xuyên suốt các tác phẩm của
họ Trịnh và mang một phong cách rất Trịnh: Yêu em với đủ các sắc thái (nhớ nhung, lặng
lẽ pha chút hờn dỗi) để tiến tới yêu đời. Trịnh Công Sơn ru người tình mà cũng chính là
ru mình, ru đời…
Tình khúc Trịnh Công Sơn là một di sản vô cùng quý giá trong dòng nhạc Trịnh
nói riêng và trong âm nhạc trữ tình Việt Nam nói chung. Có thể nói rằng tình yêu trong
các ca khúc của Trịnh đã, đang, và sẽ mãi còn ám ảnh người nghe bao thế hệ.
KẾT LUẬN
Bao nhiêu năm đã trôi qua kể từ ngày họ Trịnh bước những bước chân mò mẫm
vào lịch sử âm nhạc dân tộc. Bao nhiêu năm ấy, rất nhiều thứ đã phôi pha cùng thời gian,
nhưng nhạc Trịnh vẫn còn đó, lặng lẽ mà sâu xa như một lời tự tình, như tiếng thở dài

của kẻ chợt nhận ra mình sau một giấc ngủ vùi trong vòng nôi “ngậm ngùi”.
Thật khó mang xét định điều gì đã chôn sâu âm nhạc Trịnh Công Sơn trong long
người nghe đến như vậy. Nhưng có lẽ một điều mà bất cứ ai yêu mến nhạc Trịnh đều
nhận ra rằng ca từ của Trịnh sâu xa, huyền hoặc, cơ hồ như đang nói về thứ gì đó rất xa
xôi, như là ảo vọng. Nhưng xét cho cùng cái thứ ngôn ngữ hiện sinh ấy lại được người
nhạc sĩ tài ba chưng cất từ chính cõi đời, từ nỗi ám ảnh của cái chết, sự tàn phai, nỗi
buồn, cô đơn và tuyệt vọng của thân phận con người; được cô đọng và khúc xạ trong âm
ba của tình yêu và niềm khao khát sống.
Trong phạm vi bài tiểu luận, người viết đã cố gắng trình bày một số luận điểm của
vấn đề đã được nêu ra trong âm nhạc Trịnh Công Sơn. Đó là quá trình tổng hợp các bài
nghiên cứu về cố nhạc sĩ này, cũng như qua đó thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả về
nội dung ca từ nhạc Trịnh. Bài viết chắc chắn còn có rất nhiều hạn chế, thiếu sót, rất
mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và tất cả các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!

×