Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

ly hôn trong luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.37 KB, 54 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với những thay đổi về kinh tế - xã hội,
quan hệ giữa con ngời với con ngời trong đó có quan hệ hôn nhân và gia đình cũng
bị tác động mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê của Toà án các cấp, trong cả nớc hàng
năm số lợng các vụ án kiện về hôn nhân và gia đình mà Toà án phải thụ lý giải
quyết khoảng trên 50.000 vụ việc, chủ yếu là ly hôn và tranh chấp tài sản.
Về mặt xã hội, ly hôn là hiện tợng bất bình thờng. Nếu kết hôn là mặt phải
của xã hội thì ly hôn là mặt trái của xã hội, là cái chết của một tổ ấm gia đình. Hậu
quả của việc ly hôn là làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, gây ảnh hởng xấu đến con
cái. Ly hôn là một biện pháp chấm dứt tình trạng mâu thuẫn gay gắt giữa vợ và
chồng, vợ chồng chia tay bằng một phán quyết của Toà án, và nó không chỉ gây
hậu quả đối với các thành viên trong gia đình mà còn gây ra nhiều hậu quả khác
cho xã hội. Do vậy, ly hôn không chỉ là vấn đề riêng của mỗi gia đình mà là vấn
đề của cả xã hội quan tâm.
Ngày nay ly hôn đã đợc nhìn nhận đúng với bản chất tích cực và tiến bộ của
nó. Dới góc độ pháp lý, ly hôn đợc ghi nhận là một chế định độc lập của Luật Hôn
nhân và gia đình, nó là cơ sở cho Toà án và các bên đơng sự giải quyết vấn đề ly
hôn một cách thấu tình đạt lý, góp phần giải quyết con ngời ra khỏi sự ràng buộc
không cần thiết khi tình cảm vợ chồng không còn. Ta thấy rằng, một gia đình tốt
thì xã hội mới tốt và ngợc lại, xã hội tốt là điều kiện thúc đẩy gia đình tiến bộ.
Mặc dù vậy, khi gia đình lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể tồn tại một
cách ổn định, hạnh phúc, quan hệ hôn nhân trên thực tế đã tan vỡ, sự ly hôn là cần
thiết. Nhà nớc đặt ra chế độ hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, tiến bộ, nhằm xây
dựng gia đình dân chủ, hoà thuận, bền vững ngay cả khi gia đình đó tan vỡ thì sự
bình đẳng về quyền và lợi ích giữa vợ và chồng vẫn đợc đảm bảo. Đó là sự tiến bộ
thể hiện quyền tự do ly hôn của hai vợ chồng.
Từ khi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời, nhà nớc đã tuyên truyền
và phổ biến rộng rãi để mọi ngời dân hiểu biết trong việc bảo vệ quyền lợi của mọi
thành viên và xây dựng hạnh phúc gia đình XHCN. Các cấp, các ngành mà đặc


1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biệt là ngành Toà án đã góp phần không nhỏ vào việc tổ chức và hoàn thiện pháp
luật. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử các vụ án ly hôn cho thấy, còn tồn tại một số
vớng mắc nh vấn đề xác định căn cứ ly hôn, hậu quả pháp lý của ly hôn. Nhiều vụ
đã phải qua nhiều cấp xét xử do có sự kháng cáo của đơng sự và kháng nghị của
ngời có thẩm quyền. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do trình độ, năng lực
của một số cán bộ xét xử cha đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của công việc. Bên
cạnh đó, cần phải nói tới sự cha hoàn thiện của pháp luật đã dẫn đến tình trạng các
nhà áp dụng pháp luật có cách hiểu không thống nhất nên đã vận dụng pháp luật
một cách tuỳ tiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trong Khóa luận này em lựa chọn nghiên cứu đề tài: Ly hôn trong Luật
Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
này là dựa trên cơ sở các quy định của luật thực định để giải quyết việc ly hôn của
vợ chồng cho hợp lý, chính xác, đảm bảo quyền, lợi ích của các bên. Trên cơ sở
đó, tìm hiểu những quy định còn bất cập, cha cụ thể, để từ đó có những nhận xét,
kiến nghị nhằm hoàn thiện vấn đề ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam.
Với mục đích trên, Khóa luận thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn. Với nhiệm vụ này,
em sẽ trình bày khái niệm ly hôn, tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ về chế
định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn phát triển.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về ly hôn. Với nội dung
này, Khóa luận đi sâu phân tích nội dung những quy định về ly hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam năm 2000, so sánh với pháp luật của một số nớc trên
thế giới để thấy rõ những điểm thành công và hạn chế của pháp luật Việt nam
trong vấn đề ly hôn.
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về ly hôn thông qua hoạt động xét xử
của Toà án. Qua đó, đánh giá về những thành công và hạn chế của việc áp dụng

pháp luật về ly hôn để từ đó sẽ nêu lên một số những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về ly hôn.
3. Phơng pháp nghiên cứu
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong khóa luận sẽ sử dụng những phơng pháp sau đây: Phơng pháp luận;
phơng pháp lịch sử; phơng pháp phân tích, tổng hợp; phơng pháp thống kê; phơng
pháp so sánh, .
4. Cơ cấu của Khóa luận
Về bố cục của Khoá luận, ngoài phần Mục lục, Lời nói đầu và Danh mục tài
liệu tham khảo thì Khóa luận này đợc chia làm 3 Chơng:
Chơng 1: Khái quát chung về ly hôn
Chơng 2: Ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
Chơng 3: Thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về ly
hôn và một số kiến nghị hoàn thiện chế định về ly hôn
Chơng 1
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khái quát chung về ly hôn
1. Khái niệm về ly hôn
Quan hệ hôn nhân dới chế độ xã hội chủ nghĩa với đặc điểm tồn tại lâu dài,
bền vững cho đến suốt cuộc đời con ngời vì nó đợc xác lập trên cơ sở tình yêu th-
ơng, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do
nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung
sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn đợc đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các
thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân
nhng là mặt không thể thiếu đợc khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình
cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ.
Vấn đề ly hôn đợc quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là
khác nhau. Một số nớc cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo thiên chúa), bởi vì theo họ

quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý chúa. Một số nớc thì hạn chế ly
hôn bằng cách đa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt. Cấm ly hôn hay hạn
chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân.
Pháp luật của Nhà nớc xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly hôn
chính đáng của vợ chồng, không cấm hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm
hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết
quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hôn của mình. Nhà
nớc bằng pháp luật không thể cỡng ép nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau,
thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì quan
hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thơng gắn bó giữa họ đã hết và mục đích của hôn
nhân đã không thể đạt đợc. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn
nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ chồng, con cái và các
thành viên trong gia đình.
1
Theo Lê-nin thực ra tự do ly hôn tuyệt không có
nghĩa là làm tan rã những mối liên hệ gia đình mà ngợc lại, nó củng cố những
mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững
chắc trong một xã hội văn minh
2
. Nhng bên cạnh đó, ly hôn cũng có mặt hạn chế
1
1. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trờng Đại học luật Hà Nội, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2007, Tr.239
2
2. V.I.Lênin -Toàn tập, Tập 25, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1980, Tr 335.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đó là sự ly tán gia đình, vợ chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án
phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn
nhân với nhiều yếu tố khác để đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia

đình, lợi ích của nhà nớc và của xã hội.
Nh vậy, ly hôn là sự chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc
quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng. (Điều 8,
khoản 8, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
2. Sơ lợc lịch sử chế định ly hôn trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn
phát triển
2.1. Ly hôn trong cổ luật Việt Nam
Trong cổ luật Việt Nam, các căn cứ ly hôn thờng đợc biết dới tên duyên
cớ ly hôn hay các trờng hợp ly hôn. Các duyên cớ ly hôn trong cổ luật thấm
nhuần sâu sắc t tởng Nho giáo, nghĩa là chúng đợc quy định dựa trên sự bất bình
đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là
quyền lợi cá nhân. Chính vì vậy, mà duyên cớ ly hôn trong cổ luật đợc chia làm 3
loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình.
Trờng hợp rẫy vợ
Rẫy vợ là việc ngời chồng đợc đơn phơng bỏ vợ ngoài tầm kiểm soát của
các thiết chế xã hội. Điều 301 Bộ luật Hồng Đức quy định: nếu ngời vợ phạm phải
một trong các điều thất xuất thì chồng phải bỏ vợ, nếu không bỏ vợ sẽ bị tội
biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trờng hợp nào đợc coi là thất
xuất, nhng trong Hồng Đức thiện chính th (Đoạn 64) và Bộ luật Gia Long (Điều
108) đã nêu rõ, đó là bảy trờng hợp sau: không có con, dâm đãng, không thờ bố
mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông và bị ác tật.
Trong quan niệm của xã hội Trung Quốc cũng nh xã hội Việt Nam truyền
thống, việc hôn nhân không đơn thuần là việc hai cá nhân tạo lập một gia đình mà
hơn thế, nó là việc của hai bên gia tộc. Đối với cộng đồng gia tộc, mục đích của
hôn nhân là để duy trì dòng dõi và thờ phụng tổ tiên. Trong hoàn cảnh ấy, việc
không có con đợc coi là bất hiếu với cha mẹ, gây thiệt hại cho lợi ích gia tộc và vì
cớ ấy, ngời chồng đợc phép đơn phơng rẫy bỏ vợ mình. Cũng trong lợi ích của
cộng đồng gia tộc mà việc ngời vợ ghen tuông hay dâm đãng nếu ngời chồng
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368

không bỏ thì bại hoại gia đạo, ngời vợ trộm cắp mà không bỏ thì vạ lây đến chồng,
nếu ngời vợ bị ác tật thì khi có việc tế tự thì sẽ không làm đợc cỗ, ảnh hởng tới lợi
ích gia đình, ngời chồng cũng phải bỏ. Ta thấy, duyên cớ để ngời chồng bỏ vợ chủ
yếu quy vào lỗi của ngời vợ mà những lỗi này bắt nguồn từ địa vị thấp kém của
ngời phụ nữ trong xã hội phong kiến. Năm trong số bảy duyên cớ rẫy vợ nói trên
tuy có phần lỗi của ngời vợ (dù không hẳn nghiêm trọng), nhng vì lợi ích gia đình,
ngời chồng đợc quyền đơn phơng ly hôn không cần biết đến ý kiến ngời vợ cũng
nh không cần xét đâu là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm lỗi của ngời vợ. Hai
duyên cớ còn lại, không có con và bị ác tật, dù ngời phụ nữ không có lỗi nhng vẫn
đợc các nhà làm luật chấp nhận nh các duyên cớ ly hôn, cũng là vì mục đích để
bảo vệ quyền lợi của gia đình. Sự hy sinh quyền lợi cá nhân vợ chồng để bảo vệ
quyền lợi gia đình còn đợc các nhà lập pháp hớng Nho giáo đẩy xa đến mức mô
phỏng hoàn toàn quy định của pháp luật Trung Quốc, theo đó, nếu ngời chồng
không bỏ vợ trong trờng hợp thất xuất thì ngời chồng bị xử tội biếm (Điều 310
Bộ luật Hồng Đức, Đoạn 166 Hồng Đức Thiện chính th). Có thể nói, pháp luật can
thiệp khá sâu vào cuộc sống gia đình của mỗi nhà. Việc ly hôn không là sự tự
nguyện giữa hai ngời mà hoàn toàn phụ thuộc vào địa vị kinh tế, vào sự phân tầng
giai cấp xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh các trờng hợp thất xuất, cổ luật Việt Nam còn quy
định 3 trờng hợp ngời chồng không đợc bỏ vợ (tam bất khứ) dù cho ngời vợ có
phạm phải một trong các điều thất xuất, đó là: vợ đã để tang nhà chồng đợc 3
năm; khi vợ chồng lấy nhau nghèo hèn, sau trở nên giàu có; khi vợ chồng lấy
nhau, vợ còn bà con họ hàng, khi bỏ vợ, vợ không còn nơi nơng tựa. Nếu vợ nằm
trong trờng hợp thất xuất nhng nại đợc ra trờng hợp tam bất khứ mà chồng
vẫn bỏ vợ, thì chồng chồng bị phạt nhẹ hai trật và hai vợ chồng phải đoàn tụ lại.
Tuy nhiên, tam bất khứ không có hiệu lực nếu ngời vợ phạm phải tội thông
gian.
Trờng hợp ly hôn bắt buộc
Ngoài các trờng hợp thất xuất, cổ luật Việt Nam còn quy định khi việc kết
hôn vi phạm các điều kiện của kết hôn thì vợ chồng buộc phải ly dị. Luật không

quy định bằng cách thống kê đâu là các điều kiện thiết yếu của hôn nhân (luật chỉ
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quy định các nghi lễ kết hôn) cũng nh quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ chồng, mà
luật chỉ can thiệp khi có sự vi phạm các điều kiện hoặc các nghĩa vụ này và ly hôn
bắt buộc đợc coi nh là hình phạt cho sự vi phạm ấy. Chẳng hạn, về sự vi phạm
nghĩa vụ chung sống giữa hai vợ chồng, Điều 308 Bộ luật Hồng Đức quy định:
phàm ngời chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại thì mất vợ. Nếu vợ đã có con
thì cho hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Đây là quy
định nhằm ràng buộc trách nhiệm của ngời chồng. Trong gia đình dới chế độ
phong kiến, vợ chồng phải có nghĩa vụ đối với nhau, đó là nghĩa vụ đồng c. Tức là
vợ chồng phải cùng nhau chung sống, cùng ăn ở với nhau và nghĩa vụ phù trợ ràng
buộc trách nhiệm đối với nhau giữa hai vợ chồng. Ngoài ra, ngời vợ phải thực hiện
hai nghĩa vụ đối với chồng là trung thành và tòng phụ. Vì vậy, khi bớc chân về nhà
chồng, họ phải theo chồng nhng họ cũng không hoàn toàn lệ thuộc vào chồng mà
họ vẫn phải lo làm lo ăn để nuôi sống gia đình. Hành vi bỏ lửng vợ mà không có
lý do chính đáng là vi phạm nghĩa vụ đồng c và nghĩa vụ phù trợ của vợ chồng.
Việc bỏ lửng vợ, không có trách nhiệm gia đình là không làm tròn bổn phận của
ngời chồng trong gia đình. Hơn nữa, điều này làm cho ngời chồng không còn là
trụ cột trong gia đình để ngời vợ có thể nhờ cậy. Trong cuộc sống gia đình, vợ
chồng phải có sự quan tâm, chăm sóc nhau cả về thể chất và tinh thần. Việc ngời
chồng bỏ lửng vợ là coi nh không còn tình nghĩa vợ chồng nữa. Do đó, để bảo vệ
quyền lợi của ngời phụ nữ, luật Hồng Đức cho phép ngời vợ đợc trình quan và thực
hiện quyền ly hôn của mình. Ngoài ra, theo Điều 333 luật Hồng Đức thì Nếu con
rể lấy chuyện phi lý mà mắng nhiếc cha mẹ vợ. Đem việc tha quan sẽ cho ly dị.
Theo quan niệm của Nho giáo thì bất hiếu với cha mẹ là điều không thể dung thứ
đợc. Vì vậy, việc con rể lấy chuyện thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ cũng là điều bất
hiếu, xúc phạm đến danh dự gia giáo của gia đình, phá hoại tình nghĩa vợ chồng.
Tuy nhiên, trong trờng hợp này ngời vợ phải tha quan và nếu quan cho phép mới
đợc ly dị, chứ ngời vợ không đợc tự ý bỏ chồng.

Điều 108 lệ thứ hai Luật Gia Long cũng quy định: nếu ngời chồng mất tích
hoặc bỏ trốn 3 năm không về thì ngời vợ đợc trình quan xin phép cải giá và nhà vợ
không phải hoàn lại đồ sính lễ.
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ly hôn bắt buộc cũng đợc áp dụng nh kết hôn giữa những ngời có quan hệ
thân thích, cùng họ với nhau, đang có tang cha mẹ mà lấy vợ, lấy chồng, các quan
lại lấy đàn bà, con gái hát xớng làm vợ cả, vợ lẽ. Ví dụ : theo quy định của Điều
309, Luật Hồng Đức quy định: ai lấy nàng hầu làm vợ thì xử tội phạt, vì quá say
đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm ; Điều 317 quy định: ngời nào
đang có tang cha mẹ hoặc tang chồng mà lại cới vợ hoặc lấy chồng thì bị xử tội
đồ, ngời khác biết mà vẫn cứ kết hôn thì xử biếm ba t và đôi vợ chồng mới cới
phải chia lìa hoặc nh Điều 323 có quy định: các quan và thuộc lại lấy đàn bà,
con gái hát xớng làm vợ cả, vợ lẽ, đều xử phạt 70 trợng, biếm ba t; con cháu các
quan viên mà lấy những phụ nữ nói trên, thì xử phạt 60 trợng và đều phải ly dị .
Theo quy định của Điều 108, luật Gia Long quy định: khi vợ chồng phạm
phải điều nghĩa tuyệt thì buộc phải ly hôn. Nghĩa tuyệt có thể do lỗi của vợ
(vợ mu sát chồng), lỗi của chồng (chồng bán vợ) hoặc là lỗi của hai vợ chồng.
Riêng trờng hợp nếu vợ phạm phải nghĩa tuyệt mà chồng không bỏ, thì chồng
cũng bị phạt 80 trợng. Nghĩa là, ở các trờng hợp nghĩa tuyệt dù ngời phụ nữ
cũng đợc quyền ly hôn trong một số tình huống, địa vị pháp lý của họ cũng không
đợc bình đẳng với chồng. Có thể nói, với các trờng hợp ly hôn bắt buộc, cổ luật
Việt Nam cha phân biệt sự khác nhau giữa chế định ly hôn với huỷ hôn trái pháp
luật.
Trờng hợp thuận tình ly hôn
Pháp luật thành văn đầu tiên về việc thuận tình ly hôn có từ thời Hồng Đức,
theo đọan 167 Hồng Đức Thiện chính th, hai vợ chồng bất hoà thuận nguyện xin
ly dị, thì tờ ly hôn phải tay viết tay ký, ..Tờ hợp đồng ly hôn ấy phải làm thành
hai bản, vợ chồng mỗi ngời cầm một bản, rồi mỗi ngời phân chia một nơi. Dới chữ
niên hiệu và ngày, chồng ký họ tên, vợ điểm chỉ; trong họ hoặc muốn mợn ngời

viết thay cũng đợc . . Thuận tình ly hôn có thể do vợ chồng tính tình không hợp
hoặc do nhiều nguyên nhân khác mà không phải bó buộc theo điều khoản hoặc
hình thức của pháp luật, luật không có những dự liệu bắt buộc mà ly hôn đợc
quyết định theo ý chí của hai vợ chồng và vì vậy đã góp phần thực hiện quyền bình
đẳng của ngời vợ trong gia đình với ngời chồng.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Điều 108, luật Gia Long, thuận tình ly hôn đợc quy định nh sau: nếu
chồng vợ trẹo ý không vui nhau, cả hai đều muốn ly dị, tình thì không hợp, ân đã
lìa thì không thể nào hoà lại đợc, cho phép họ ly dị, không bị tội .
Nh vậy, việc nghiên cứu duyên cớ ly hôn trong cổ luật Việt Nam cho phép
rút ra một số nhận xét sau:
1

Một là, khác với luật đơng đại chỉ chấp nhận một căn cứ ly hôn duy nhất
dựa trên thực chất sự tan vỡ của cuộc hôn nhân, trong cổ luật Việt Nam thì căn cứ
ly hôn đợc quy định không đơn nhất mà đa dạng hoặc ngời chồng có thể tự ý ly
hôn theo ý chí đơn phơng của mình khi vợ phạm phải một trong các điều thất
xuất, hoặc hai vợ chồng có thể thuận tình ly hôn, cũng có khi vợ hay chồng bị bắt
buộc ly hôn khi bên kia vi phạm một trong các điều kiện thiết yếu của hôn nhân
hay vi phạm các nghĩa vụ của vợ chồng. Điều quan trọng là, một khi những điều
kiện của các căn cứ ly hôn nói trên hội đủ, các đơng sự đợc phép đặt dấu chấm
hết cho cuộc hôn nhân của mình.
Hai là, trong xã hội phong kiến Việt Nam thời kỳ ảnh hởng đậm nét bởi t t-
ởng Nho giáo, nếu nh việc kết lập hôn nhân chính là vì lợi ích gia đình, thì khi huỷ
bỏ hôn nhân, cũng là do quyền lợi của gia đình chi phối hơn là do mối quan hệ
giữa bản thân ngời vợ và ngời chồng. Nói cách khác, ý chí cá nhân của vợ chồng
bị gạt ra ngoài lề không chỉ khi họ kết lập hôn nhân của chính họ, mà còn khi cuộc
hôn nhân của họ bị huỷ bỏ, để thay vào đó là lợi ích gia dình, gia tộc. Ly hôn vì
lí do thất xuất hay nghĩa tuyệt là sự phản ánh triệt để quan điểm này.

Ba là, cũng dới ảnh hởng của t tởng Nho giáo đề cao đức trị mà những quy
định về duyên cớ ly hôn đã đợc thiết lập trên cơ sở đạo đức và nhân cách cá nhân
để rồi bằng cách ấy chúng đã xoá nhoà ranh giới giữa đạo đức và pháp luật.
1

Bốn là, duyên cớ ly hôn trong cổ luật thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và
chồng, trong đó số phận ngời phụ nữ phụ thuộc vào ý chí của ngời chồng và gia
đình chồng. Các trờng hợp ly hôn do thất xuất đã thể hiện rõ nguyên tắc này. Ngay
cả trong trờng hợp thuận tình ly hôn, cũng không có bất cứ sự đảm bảo nào cho
ngời phụ nữ.
2.2. Thời kỳ Pháp thuộc (đến trớc năm 1945)
1
1.Tạp chí Nhà nớc và pháp luật, 8 ( 208 )
1
1.Vũ Văn Mẫu, Việt Nam dân luật lợc khảo, tập I, Gia đình, Sài Gòn, 1962, tr 561
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với mục đích phục vụ cho chính sách cai trị, thực dân Pháp đã chia đất nớc
ta thành 3 miền: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ với tổ chức bộ máy nhà nớc và hệ
thống pháp luật riêng.
Tại Nam Kỳ đã áp dụng quy định của của Bộ Dân Luật giản yếu 1883 quy
định quyền xin ly hôn chỉ do ngời chồng quyết định, ngời vợ không có quyền xin
ly hôn nhng đợc áp dụng chế độ tam bất khứ để hạn chế quyền xin ly hôn của
ngời chồng. Chồng không có quyền xin bỏ vợ nếu nh ngời vợ đã để tang nhà
chồng 3 năm, khi lấy nhau nghèo mà về sau giầu có, ngời vợ không còn nơi nơng
tựa để trở về nhà.
Trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và Trung Kỳ thì việc giải quyết ly hôn đợc xác
định trên cơ sở lỗi của vợ chồng tiếp tục đợc kế thừa. Tại Điều 118, 119 Bộ Dân
luật Bắc Kỳ năm 1931 để giải quyết duyên cớ ly hôn cho riêng vợ (chồng). Theo
Điều 118 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định ngời chồng có thể xin ly hôn vợ vì: vợ

phạm gian, vợ bỏ nhà chồng mà đi, tuy đã bách phải về mà không về, vợ thứ đánh,
chửi, tệ bạc với vợ chính. Điều 119 Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định ngời vợ có thể
xin ly hôn vì những duyên cớ sau: chồng không làm đúng nghĩa vụ đã cam đoan
sau khi kết hôn, chồng bỏ nhà đi quá hai năm không có cớ gì chính đáng và không
lo liệu việc nuôi sống vợ con, Vấn đề ly hôn thời kỳ này, chủ yếu đ ợc xây
dựng trên nền tảng Nho giáo phong kiến trớc đây và dựa theo Dân luật của Pháp
năm 1804 với quan điểm thuần tuý coi hôn nhân là một hợp đồng do Dân luật điều
chỉnh.
2.3. Giai đoạn từ 1945 đến nay
2.3.1. Từ năm 1945 - 1954
Cách mạng tháng Tám 1945 đã đa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên đại vị
làm chủ đất nớc, xây dựng cuộc sống hoà bình, xã hội không còn chế độ ngời bóc
lột ngời. Dới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đấu tranh xoá bỏ chế độ hôn nhân
và gia đình phong kiến cổ hủ, lạc hậu để xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình
văn minh, tiến bộ. Do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ chúng ta mới giành đợc chính
quyền, khó khăn chồng chất, chế độ phong kiến còn đè nặng trong t tởng của nhân
dân nên nhà nớc ta cha thể ban hành một đạo luật về hôn nhân và gia đình mà chỉ
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thực hiện phong trào vận động đời sống mới để nhân dân ta tự nguyện xoá bỏ hủ
tục lạc hậu.
Bên cạnh cuộc vận động, ngày 10/10/1945 Chủ tịch nớc đã ban hành Sắc
lệnh số 90/ST, cho phép áp dụng những quy định trong bộ luật của chế độ cũ có
chọn lọc trên nguyên tắc là không đợc trái với lợi ích của nhà nớc Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, trong đó, có vấn đề hôn nhân và gia đình và hậu quả của ly hôn.
Cũng ngay trong bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nớc Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: tất cả mọi ngời đều sinh ra có quyền
bình đẳng .và m u cầu hạnh phúc và trong bản Hiến Pháp đầu tiên của nớc ta
năm 1946, quyền bình đẳng giữa nam và nữ đã đợc ghi nhận tại Điều 19 Hiến
pháp: đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phơng diện

1
. Điều này làm cơ sở
pháp lí quan trọng cho việc đấu tranh xoá bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong
kiến, đặt nền móng cho xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình dân chủ, tiến bộ.
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch nớc Việt Nam DCCH đã ban hành Sắc lệnh số
97/SL về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ trong lĩnh vự hôn nhân và gia đình. Đến ngày 17/11/1950, Chủ tịch nớc Việt
Nam DCCH ban hành Sắc lệnh số 159/SL quy định về vấn đề ly hôn.
Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 có 15 điều, trong đó có 8 điều quy định
về hôn nhân và gia đình. Tại Điều 4 của Sắc lệnh này quy định cho phép ngời đàn
bà sau khi ly dị chồng, có thể lấy chồng khác ngay sau khi Toà tuyên án ly dị, nếu
dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đang có thai.
Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 với 9 điều, trong đó đã xoá bỏ sự bất
bình đẳng về nguyên nhân ly hôn giữa vợ và chồng trong pháp luật cũ. Điều 2 của
Sắc lệnh số159 quy định: Toà án có thể cho phép vợ chồng ly hôn trong các trờng
hợp sau:
1
- Ngoại tình;
- Một bên can án phạt giam;
- Một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng;
- Một bên mắc bệnh điên hoặc một bệnh khó chữa khỏi;
1
1. Hiến pháp nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946
1
1. Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nớc Việt Nam dân chủ Cộng hoà quy
định về vấn đề ly hôn
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Vợ chồng tính tình không hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể
chung sống đợc.

Ngoài ra, Sắc lệnh số 159 còn quy định việc bảo vệ phụ nữ có thai và thai
nhi trong khi ly hôn: nếu vợ có thai thì vợ hay chồng có thể xin Toà tạm hoãn để
sau kỳ sinh nở mới xử việc ly hôn ( Điều 5 ).
Cả hai Sắc lệnh số 97/SL và 159/SL đã đề ra một số nguyên tắc chung, tiến
bộ góp phần không nhỏ vào việc xoá bỏ chế độ hôn nhân phong kiến, giải phong
phụ nữ, thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt Nam trong thời kỳ đầu của cách
mạng dân tộc dân chủ. Quyền bình đẳng của ngời phụ nữ trong gia đình và ngoài
xã hội bớc đầu đợc thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những u điểm mang tính dân
chủ và tiến bộ của một nền pháp chế mới, Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly
hôn vẫn dựa trên cơ sở lỗi của vợ chồng.
2.3.2. Từ năm 1955 đến 1975
Đây là thời kỳ đất nớc ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền: miền Bắc dới sự
lãnh đạo của chính quyền nhà nớc Việt Nam DCCH, miền Nam dới sự cai trị của
đế quốc Mỹ và chính quyền phong kiến Sài Gòn. Trớc tình hình đó, Đảng và nhà
nớc ta đã đề ra nhiệm vụ cho mỗi miền.
ở miền Bắc, chế độ hôn nhân và gia đình đợc xây dựng trên nguyên tắc tự
do, tiến bộ, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của ngời phụ nữ và con cái. Trên
cơ sở Hiến pháp 1959 ghi nhận sự bình đẳng dân chủ giữa phụ nữ và nam giới về
các mặt, nhà nớc bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em, bảo vệ hôn nhân và gia
đình. Luật Hôn nhân và gia đình đợc Quốc hội khoá I thông qua ngày 29/12/1959
và có hiệu lực ngày 13/01/1960. Lần đầu tiên căn cứ ly hôn đợc xác định hoàn
toàn khác. Việc giải quyết ly hôn không dựa trên yếu tố lỗi của các bên nh trớc
đây mà trên cơ sở thực trạng của quan hệ hôn nhân. Căn cứ ly hôn phản ánh hôn
nhân không thể tồn tại đợc nữa, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, cuộc sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đợc thì Toà án sẽ cho
ly hôn. (Điều 26, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định: Khi một bên
vợ hoặc chồng xin ly hôn, cơ quan có thẩm quyền sẽ điều tra và hoà giải, hoà giải
không đợc, Toà án nhân dân sẽ xét xử. Nếu tình trạng trầm trọng, đời sống chung
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368

không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đợc thì Toà án nhân dân sẽ
cho ly hôn).
Để áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 một cách đúng đắn, đồng
thời, phát huy hết tác dụng, nâng cao hiệu quả trong việc thi hành luật nhất là
trong giải quyết ly hôn và giải quyết hậu quả ly hôn. Toà án nhân dân tối cao đã
ban hành các thông t, chỉ thị để hớng dẫn Toà án các địa phơng giải quyết việc ly
hôn:
- Thông t số 690 ngày 29/4/1960 của TANDTC hớng dẫn việc xử lý ly hôn
và các vấn đề có liên quan;
- Thông t số 01 ngày 6/01/1964 của TANDTC hớng dẫn việc giải quyết cấp
dỡng nuôi con;
- Chỉ thị số 69 ngày 24/12/1969 của TANDTC hớng dẫn việc giải quyết về
nhà ở, đảm bảo chỗ ở cho đơng sự sau ly hôn.
Do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, nên Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959
không tránh khỏi những hạn chế nhất định, vì do có nhiều quy định mang tính chất
đối kháng về quan điểm với các quy định tơng ứng trong pháp luật phong kiến,
thực dân nhng do điều kiện, hoàn cảnh lịch sử lúc ban hành lại thêm các quy định
thực sự có tác đụng đặt cơ sở hoàn chỉnh cho các quan hệ hôn nhân gia đình mới
XHCN đặc biệt là quan hệ nhân thân và tài sản phát sinh trong đời sống gia đình.
ở miền Nam, sau năm 1954, đế quốc Mỹ đã thay chân thực dân Pháp, thực
hiện âm mu chia cắt lâu dài đất nớc ta, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lợc kiểu
mới. Dới chính sách cai trị của đế quốc Mỹ và chế độ nguỵ quyền Sài Gòn, hệ
thống các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình đợc ban hành với những nội
dung lạc hậu, gồm có:
- Luật Gia đình ngày 02/01/1959 (Luật số 1-59) dới chế độ Ngô Đình
Diệm;
- Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 về giá thú và tài sản cộng đồng;
- Bộ Dân luật ngày 20/12/1972 dới chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Các văn bản trên đều đã quy định bãi bỏ chế độ đa thê, song vẫn thựchiện
nguyên tắc bất bình đẳng giữa vợ chồng, bảo vệ quyền gia trởng. Chế độ đa thê bị

phá bỏ nhng ngời vợ vẫn phụ thuộc chồng. Trong Bộ luật Gia đình ngày
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
02/01/1959 thể hiện một t tởng hết sức cực đoan, việc này đợc thể hiện ở Điều 55:
cấm chỉ sự vợ chồng ruồng bỏ nhau về sự ly hôn, trừ trờng hợp đặc biệt Tổng
thống có thể quyết định
1
.
Sắc luật số 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ luật Sài Gòn ngày 20/01/1972 có
quy định căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, việc giải quyết ly hôn dựa trên nguyên cớ ly
hôn đợc xác định dựa trên lỗi của vợ chồng. Điều 63 Sắc luật số 15/64 quy định 5
duyên cớ ly hôn mà nội dung chủ yếu là dựa trên lý do xin ly hôn của Sắc luật
ngày 17/01/1950 nhng đã sửa lại cho cụ thể hơn: duyên cớ ly hôn do một bên bỏ
nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng đợc sửa lại là có án văn xác
định sự biệt tích của ngời phối ngẫu đã thất tung, hoặc lý do vợ chồng tính tình
không hợp, đối xử với nhau không thể chung sống đợc, thể hiện bằng các hành vi
cụ thể vì sự ngợc đãi, bạo hành hay nhục mạ thờng xuyên làm cho vợ chồng
không thể chung sống với nhau đợc nữa. Bên cạnh đó, một bên có quyền xin ly
hôn khi có án văn quy định xử ngời phạm tội vì có hành vi phế bỏ gia đình (Điều
63). Chế độ ly thân và ly hôn theo Bộ Dân luật năm 1972, duyên cớ ly hôn gồm :
- Vì sự mất tích của ngời phối ngẫu;
- Vì ngời phối ngẫu bị kết án trọng hình;
- Vì sự ngợc đãi, bạo hành hay nhục mạ khiến cho vợ chồng không thể ăn ở
với nhau đợc nữa
2
.
Trờng hợp vợ chồng thuận tình ly hôn chỉ diễn ra trong khoảng thời gian
hôn thú đợc lập trên 2 năm và không quá 20 năm. Hậu quả pháp lý của ly hôn là
chấm dứt hoàn toàn quan hệ vợ chồng. Ngời vợ đợc lấy lại tên riêng của mình và
chỉ có thể tái giá sau 300 ngày, kể từ khi hôn nhân chấm dứt.

2.3.3. Từ năm 1976 đến nay
Sự ra đời của Hiến pháp 1980 đã có quy định mới về nguyên tắc xây dựng
chế độ hôn nhân và gia đình đã đòi hỏi Luật hôn nhân và gia đình phải có những
quy định để cụ thể hóa những nguyên tắc này. Sau 30 năm thực hiện ở miền Bắc
và hơn 10 năm thực hiện ở miền Nam, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có
một số quy định không phù hợp. Điều này đòi hỏi phải có Luật Hôn nhân và gia
đình mới phù hợp. Xuất phát từ tình hình trên, tại kỳ họp thứ 12 Quốc hội khoá
1
1. Bộ luật gia đình của chế độ Sài Gòn cũ năm 1959
2
2. Bộ luật dân sự Sài Gòn năm 1972
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
VII ngày 29/11/1986 đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 gồm 10
Chơng, 57 điều. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời có sự kế thừa có chọn
lọc của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 đã đợc xây dựng trên 5 nguyên tắc
sau: Hôn nhân tiến bộ, tự nguyện; hôn nhân một vợ, một chồng; vợ chồng bình
đẳng; bảo vệ quyền lợi của cha mẹ và con cái; bảo vệ bà mẹ và trẻ em.
Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, căn cứ ly hôn đợc quy định tại
Điều 40:
Khi vợ hoặc chồng, hoặc cả hai vợ chồng có đơn xin ly hôn thì Toà án
nhân dân tiến hành điều tra và hoà giải.
Trong trờng hợp cả hai vợ chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không thành và
xét nếu đúng là hai bên thực sự tự nguyện ly hôn, thì Toà án nhân dân công nhận
cho thuận tình ly hôn.
Trong trờng hợp một bên vợ hoặc chồng xin ly hôn, nếu hoà giải không
thành thì Toà án nhân dân xét xử. Nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đợc thì Toà án nhân
dân cho ly hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 đã từng bớc nâng cao nhận thức và ý

thức của ngời dân trong việc thi hành các quy định của nhà nớc. Từng bớc xoá bỏ
chế độ hôn nhân phong kiến, t sản thay vào đó là một chế độ hôn nhân gia đình tự
do, tiến bộ. Vai trò của ngời phụ nữ trong gia đình và trong xã hội đợc đề cao.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ra đời khi nhà nớc ta bắt đầu thời kỳ
đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để đáp ứng với sự đổi
mới trên thì hệ thống pháp luật Việt Nam cũng phải có sự đổi mới cho phù hợp với
sự phát triển chung của xã hội, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 trở nên
không phù hợp với hoàn cảnh xã hội hiện tại. Do vậy, đòi hỏi Luật Hôn nhân và
gia đình phải có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh mới. Tại Kỳ họp thứ 7,
Quốc hội khoá X ngày 09/6/2000 đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình gồm 13
Chơng, 110 điều và đợc xây dựng trên các nguyên tắc :
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng;
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa ngời
theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam và ngời nớc ngoài
đợc tôn trọng và bảo vệ;
- Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình;
- Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội, con
có nghĩa vụ tôn trọng, chăm sóc, nuôi dỡng cha mẹ, cháu có nghĩa vụ kính trọng,
chăm sóc, phụng dỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan
tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
- Nhà nớc và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa
con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong và ngoài giá thú;
- Nhà nớc, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của ngời mẹ.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định căn cứ ly hôn theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Căn cứ ly hôn không đợc quy định riêng biệt mà
đợc quy định chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Toà

án nhân dân phải tiến hành điều tra và hoà giải nhằm bảo vệ lợi ích của gia đình và
chỉ khi nào xét thấy quan hệ quan hệ vợ chồng đã thực sự đến mức tình trạng
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt
đợc thì Toà án mới giải quyết cho ly hôn (Điều 89).
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã kế thừa, phát triển và mở rộng hơn,
cụ thể hơn, chi tiết hơn so với luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 nhằm mục đích
giải quyết tốt nhất vấn đề ly hôn trong xã hội Việt Nam.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chơng II
ly hôn theo Luật
hôn nhân và gia đình việt nam năm 2000

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đợc Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 7,
ngày 09/6/2000 thông qua, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2001 trên cơ sở tiếp tục
kế thừa và phát triển hệ thống pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Luật gồm
13 Chơng, 110 điều, đợc xây dựng trên cơ sở 6 nguyên tắc:
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng;
- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa ngời
theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam và ngời nớc ngoài
đợc tôn trọng và bảo vệ;
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia
đình;
- Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội, con
có nghĩa vụ tôn trọng, chăm sóc, nuôi dỡng cha mẹ, cháu có nghĩa vụ kính trọng,
chăm sóc, phụng dỡng ông bà, các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan
tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
- Nhà nớc và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa

con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong và ngoài giá thú;
- Nhà nớc, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ
các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của ngời mẹ.
Một trong những nguyên tắc quan trọng khi kết hôn là phải có sự tự nguyện
của hai bên nam nữ. Tự nguyện hoàn toàn trong việc kết hôn là hai bên nam nữ
thực sự mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thơng chân chính
giữa họ nhằm mục đích là cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Sự tự nguyện
của các bên trong việc kết hôn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể
tồn tại lâu dài và bền vững.
Hôn nhân tự nguyện cũng đồng thời phải đảm bảo tự do ly hôn. Nếu nh
không thể bắt buộc ngời ta kết hôn thì cũng không thể buộc họ tiếp tục cuộc sống
vợ chồng khi cuộc sống đó hoàn toàn không có sự tự nguyện và hạnh phúc gia
đình không thể hàn gắn đợc.
Nhà nớc bảo hộ hôn nhân, đảm bảo quyền tự do ly hôn của vợ chồng không
có nghĩa là giải quyết ly hôn tuỳ tiện, theo ý chí, nguyện vọng của vợ chồng mà
bằng pháp luật, nhà nớc kiểm soát việc giải quyết ly hôn vì trong quan hệ hôn
nhân, không chỉ có lợi ích riêng của hai vợ chồng mà còn có lợi ích của các thành
viên khác trong gia đình, lợi ích của nhà nớc và xã hội. Vì vậy. thông qua pháp
luật, nhà nớc chỉ giải quyết ly hôn khi có đủ những căn cứ theo quy định của pháp
luật.
1. Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
1.1. Khái niệm căn cứ ly hôn
Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân là hiện tợng xã hội mang tính giai cấp
sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhau, giai cấp thống trị đều thông qua nhà nớc, bằng pháp luật quy định chế độ
hôn nhân phải phù hợp với ý chí của nhà nớc. Tức là nhà nớc bằng pháp luật quy
định trong những điều kiện nào thì cho phép xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời
xác định trong những điều kiện, căn cứ nhất định mới cho phép xoá bỏ (chấm dứt)

quan hệ hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn đợc quy định trong pháp luật của nhà
nớc.
Nh vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết hay điều kiện đợc quy định trong
pháp luật và chỉ có những tình tiết (điều kiện) đó thì Toà án mới cho ly hôn
1
.
Nhà nớc phong kiến và nhà nớc t sản quy định giải quyết ly hôn là dựa vào
lỗi của vợ, chồng. Nhà nớc t sản coi hôn nhân nh là hợp đồng nên chấm dứt hôn
nhân cũng nh chấm dứt hợp đồng và dựa vào lỗi của các bên. Việc giải quyết vấn
đề ly hôn ở những nớc này là dựa vào hình thức của quan hệ hôn nhân, do vậy,
việc xét xử của Toà án là việc làm hết sức rập khuôn, máy móc.
Quan điểm của nhà nớc xã hội chủ nghĩa là giải quyết ly hôn dựa vào thực
chất của quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh giá một cách khách quan. Giải quyết
ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là cuộc hôn nhân đã
chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Tuy nhiên, không phải sự tuỳ tiện
của nhà lập pháp, cũng không phải sự tuỳ tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất
của sự kiện mới quyết định đợc là cuộc hôn nhân đã chết hoặc cha chết, bởi vì, nh
mọi ngời đều biết, việc xác nhận sự kiện chết tuỳ thuộc vào thực chất của vấn đề,
chứ không phải vào nguyện vọng của những bên hữu quan
2
.
Nh vậy, việc Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn là công nhận thực tế đã
và đang tồn tại trong mối quan hệ vợ chồng là không thể cải thiện đợc. Giải quyết
cho vợ chồng ly hôn trong những trờng hợp này là điều hay cho cả vợ chồng và
cho xã hội.
1.2. Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
Điều 89, Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định:
1
1. Luật s - Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ - Thạc Sĩ Ngô Thị Hờng : Một số vấn đề lí luận và thực
tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, Tr. 160

162
2
2. C.Mác và Ph. Ănggheh : Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, T1,Tr. 234 -
235
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Toà án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt đợc thì Toà án
quyết định cho ly hôn.
2. Trong trờng hợp vợ hoặc chồng của ngời bị Toà án tuyên bố mất tích xin
ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn.
Khi có yêu cầu ly hôn của vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng, Toà án phải tiến
hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần xác định tình
trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải quyết. Việc giải
quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ phù hợp với
nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên trong gia
đình. Ngợc lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ hạnh phúc
gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn đợc và gây ra hậu quả
không đáng có. Mặt khác, giải quyết ly hôn cũng đòi hỏi sự linh hoạt trong việc
vận dụng căn cứ ly hôn đối với mỗi trờng hợp cụ thể.
Trớc hết cần hiểu quan hệ vợ chồng ở vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài là giữa vợ chồng có nhiều lục đục, mâu thuẫn sâu sắc
đến mức vợ chồng không thể chịu đựng nhau đợc nữa, các thành viên trong gia
đình không thể chung sống bình thờng, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại đợc, sự
tan vỡ của hôn nhân và ly tán của gia đình là không thể tránh khỏi. Vì vậy, không
thể hiểu giản đơn tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài là
biểu hiện tình yêu giữa vợ và chồng mà rộng hơn đó là tình trạng về cuộc sống gia
đình nói chung và các mối quan hệ xung quanh. Môi trờng và không khí căng
thẳng của gia đình đã bó buộc con ngời phải chịu đựng trong một hoàn cảnh hoàn
toàn đặc biệt. Hoàn cảnh cũng không những không bình thờng mà còn rơi vào tình

trạng không thể giải quyết đợc nh ngời chồng đánh đập vợ, một bên có quan hệ
ngoại tình, ngời vợ bỏ về nhà mẹ đẻ Tình trạng này đã ảnh h ởng xấu đến cá
nhân vợ chồng, đến việc giáo dục con cái và đời sống bình thờng của các thành
viên trong gia đình.
Nếu nh quan hệ vợ chồng mới chỉ dừng lại ở tình trạng trầm trọng có thể
mang tính bồng bột cha thực sự chín chắn để hiểu rõ vấn đề thì còn cơ hội để xây
dựng lại một cuộc sống gia đình. Thế nhng trong thời điểm tình trạng trầm trọng
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cũng không phải ai cũng tìm cách thoát ra đợc để trở lại cuộc sống bìn thờng. Tình
trạng trầm trọng thờng kéo dài theo một hậu quả là đời sống chung không thể kéo
dài và tồn tại. Một gia đình bền vững không phải là một gia đình luôn hoàn hảo,
không có mâu thuẫn mà là một gia đình dám nhìn nhận và xử lý mâu thuẫn đó.
Khi mâu thuẫn dẫn đến đời sống chung không thể kéo dài thì mâu thuẫn đã không
thể giải quyết đợc. Đời sống chung ở đây không có nghĩa đơn thuần là sự chung
sống. Cuộc sống của vợ chồng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: lối sống, cách sinh
hoạt, tính cách, sở thích mỗi bên, quan điểm nhìn nhận về cuộc sống, về con ngời.
Để hoà nhịp với cuộc sống gia đình, vợ chồng phải biết cùng nhau giải quyết tốt
mọi vấn đề, đặc biệt khi có mâu thuẫn. Có nh vậy mới giữ vững đợc sự ổn định
của gia đình.
Cuộc sống gia đình không có sự hoà hợp thì giữa vợ chồng sẽ thờng xuyên
xảy ra xung đột gay gắt, quyền và nghĩa vụ đối với nhau, đối với việc xây dựng gia
đình và chăm sóc con cái sẽ không đợc tốt. Tất cả điều đó sẽ tạo ra một áp lực tâm
lý cho đời sống tinh thần của vợ chồng, chi phối hành vi xử sự giữa vợ và chồng.
Quan hệ vợ chồng từ tình cảm yêu thơng đã chuyển sang đối nghịch, họ không thể
chịu đựng đợc với nhau. Đời sống chung chỉ làm con ngời bế tắc và đau khổ. Ly
hôn dù sao cũng là giải pháp tốt nhất cho cả hai vợ chồng khỏi bị tù túng.
Để có một đánh giá chính xác về tình trạng quan hệ vợ chồng, Nghị quyết
số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân
dân tối cao hớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm

2000 đã nêu rõ: đợc coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
- Vợ, chồng không yêu thơng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, nh : Ngời
nào chỉ biết bổn phận ngời đó, bỏ mặc ngời vợ hoặc ngời chồng muốn sống ra sao
thì sống, đã đợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức nhắc nhở, hoà giải
nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngợc đãi, hành hạ nhau, nh : Thờng xuyên
đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của
nhau, đã đợc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở,
hoà giải nhiều lần.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Vợ chồng không chung thuỷ với nhau, nh : Có quan hệ ngoại tình, đã đợc
ngời chồng hoặc ngời vợ hay bà con thân thích của họ, hoặc cơ quan, tổ chức nhắc
nhở, khuyên bảo nhng vẫn tiếp tục có hành vi ngoại tình. (Mục 8, điểm a.1, Nghị
quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000).
Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài đợc,
thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng nh h-
ớng dẫn tại điểm a.1 mục 8 của Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao . Trên thực tế cho
thấy, nếu đã đợc nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại
tình hoặc vẫn tiếp tục có quan hệ sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có
hành vi ngợc đãi, hành hạ, xúc phạm nhau thì có căn cứ để nhận định rằng đời
sống chung của vợ chồng không thể kéo dài đợc. (Mục 8, điểm a.2, Nghị quyết số
02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000).
Ngoài ra, mục đích của hôn nhân không đạt đợc theo Mục 8, điểm a.3, Nghị
quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 là không có tình nghĩa vợ chồng,
không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự,
nhân phẩm, uy tín của vợ chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngỡng, tôn giáo
của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
Khi thực tế quan hệ vợ chồng ở trong tình trạng trầm trọng, đời sống

chung không thể kéo dài thì thờng dẫn tới hậu quả làm cho mục đích của hôn
nhân không đạt đợc. Mục đích của hôn nhân là tình yêu giữa nam và nữ muốn
chung sống với nhau suốt đời, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững
trên cơ sở giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Con ngời tiến tới hôn nhân với mục đích
mong muốn có đợc một cuộc sống hạnh phúc. Do vậy, khi mục đích hôn nhân
không đạt đợc thì quan hệ hôn nhân thờng có tác động ngợc lại. Khi đó chấm
dứt hôn nhân đợc giải quyết bằng việc ly hôn.
Mục đích của hôn nhân nói chung xuất phát từ bản chất của hôn nhân. Toà
án không thể dựa vào mục đích của hai ngời kết hôn mà xem xét có đạt đợc hay
không để giải quyết ly hôn. Phần lớn mục đích của nam và nữ trớc khi kết hôn là
hớng tới xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững nhng cũng có nhiều cuộc hôn
nhân đợc xác lập bắt đầu từ những mục đích khác nhau. Dù cho họ từng kết hôn
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với mục đích nào đi chăng nữa thì mục đích của hôn nhân bền vững, hạnh phúc
vẫn là tiêu chuẩn cao nhất mà bất kỳ ai kết hôn cũng hớng tới. Tuy nhiên, mục
đích của vợ hay chồng đôi khi cũng ảnh hởng tới cuộc sống gia đình nếu nh nó
không đạt đợc sau khi kết hôn. Mục đích của hai ngời không phải bao giờ cũng
giống nhau. Hôn nhân có thể đem đến cho ngời này nhng lại không làm thoả mãn
mục đích của ngời kia hoặc cả hai ngời. Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu đợc
mục đích của hôn nhân. Nhà làm luật ở đây muốn nói đến mục đích cốt lõi của
hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững. Hôn nhân với mục đích rất
phong phú và có thể thay đổi nhng mục đích của hôn nhân lại mang tính cố định
duy nhất. Bất cứ một cuộc hôn nhân nào, nếu không đạt đợc mục đích đó thì việc
duy trì nó là không cần thiết và vợ chồng có thể đợc ly hôn.
Ví dụ: Trờng hợp ly hôn giữa anh Nguyễn Văn Nam và chị Bùi Thanh Tú
tại TAND quận Đống Đa. Anh Nam và chị Tú kết hôn với nhau năm 1991, năm
đầu họ chung sống với nhau rất hạnh phúc và có với nhau một cháu gái. Chị ở nhà
nội trợ còn anh làm lái xe, thờng xuyên vắng nhà. Do vậy, anh ít khi về thăm nhà
và không quan tâm đến hai mẹ con chị. Trong 8 năm kéo dài nh vậy đã khiến cho

chị Tú nghi ngờ. Chị đã điều tra và phát hiện anh đã có quan hệ bất chính với ngời
phụ nữ khác. Do vậy, lần nào anh về thăm nhà là vợ chồng anh chị lại cãi cọ, đánh
đập nhau. Sự việc này kéo dài tự năm 1998 đến năm 2001, anh Nam có đơn xin ly
hôn, TAND quận Đống Đa và TAND TP Hà Nội đã bác đơn. Đến năm 2003, anh
Nam lại có đơn xin ly hôn với ly do là từ năm 1998 đến nay, quan hệ vợ chồng
anh không hàn gắn đợc, tình nghĩa vợ chồng không còn và việc này đã kéo dài qua
lâu nên thiết tha xin ly hôn. Chị Tú cũng thừa nhận quan hệ vợ chồng đã chấm dứt
vào năm 1998. Từ năm 1999 đến nay, mỗi lần anh Nam về nhà lại liên tục hành
hạ, đánh đập chị. Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn nhng không nhất trí ly
hôn vì không muốn làm ảnh hởng đến con cái. Nh vậy, ta có thể thấy quan hệ hôn
giữa anh Nam và chị Tú đã mâu thuẫn trầm trọng, cả hai ngời đều thừa nhận vợ
chồng không còn tình cảm với nhau nữa. Qua nhiều lần hoà giải và hai lần xử bác
đơn xin ly hôn, vợ chồng anh chị cũng không hàn gắn lại đợc. Hơn nữa anh chị lại
thờng xuyên cãi chửi nhau. Cuộc hôn nhân chỉ còn là hình thức làm cho hai ngời
rằn vặt, đau khổ. Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, bền
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vững nhng điều đó không đạt đợc đối với anh chị mà cả hai ngời đều không đợc
sống một cách yên ổn. Bản án số 02/LHST ngày 14/8/2003 của TAND huyện Gia
Lâm đã quyết định: xử cho ly hôn giữa anh Nam và chị Tú, chấm dứt một cuộc
hôn nhân tan vỡ đã kéo dài mà không đạt đợc mục đích
1
.
Trong quá trình giải quyết ly hôn cần phải có sự phân biệt giữa căn cứ ly
hôn với nguyên nhân, lý do và động cơ xin ly hôn của đơng sự. Nguyên nhân ly
hôn là những hiện tợng, sự kiện tác động đến hôn nhân và làm cho hôn nhân tan
vỡ, ly hôn là kết quả tất yếu của mối quan hệ nhân quả với nguyên nhân nào đó
phát sinh trong cuộc sống vợ chồng chẳng hạn nh tính tình vợ chồng không hợp,
ngoại tình . còn lý do ly hôn chỉ là cái cớ mà đ ơng sự dựa vào đó để Toà án giải
quyết ly hôn. Trong nhiều trờng hợp, lý do ly hôn cũng đồng thời là nguyên nhân

ly hôn. Còn số ít, để tránh việc phải nêu ra nguyên nhân, động cơ thầm kín, họ th-
ờng tìm những lý do nào đó hợp lý để che lấp đi nguyên nhân thực sự dẫn đến ly
hôn.
Khác với nguyên nhân và lý do ly hôn, động cơ ly hôn thờng mang tính
tiềm ẩn. Đó là trờng hợp tâm lý bên trong của đơng sự, thúc đẩy đơng sự xin ly
hôn. Vợ chồng khi ly hôn thờng có xu hớng che đậy động cơ ly hôn, cho dù động
cơ có chính đáng hay không. Có thể lấy ví dụ sau: Một đôi vợ chồng cới nhau đã
10 năm mà không có con, chị vợ biết mình không có khả năng sinh đẻ, chị quyết
định xin ly hôn chồng để giải toả tâm lý cho mình và tạo điều kiện cho anh chồng
có cơ hội kết hôn với ngời khác. Qua điều tra, Toà án nhận thấy hai bên vợ chồng
vẫn thực sự yêu thơng nhau, có thể khắc phục đợc tình trạng nên đã kiên trì thuyết
phục anh chị đoàn tụ.
Việc giải quyết ly hôn hay không là dựa vào căn cứ ly hôn theo quy định tại
Điều 89, luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Toà án muốn giải quyết cho đơng
sự ly hôn hay không ly hôn thì phải căn cứ vào thực trạng hôn nhân của họ. Việc
tìm hiểu nguyên nhân, lý do, động cơ ly hôn là rất cần thiết nhằm mục đích giải
quyết linh hoạt các vụ án, xác định căn cứ ly hôn thật chính xác, hạn chế đến mức
thấp nhất việc ly hôn, bảo vệ và củng cố hạnh phúc gia đình.
1
1. TAND huyện Gia Lâm, Bản án sơ thẩm số 02/LHST ngày 14/8/2003
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ở một số nớc trên thế giới, cơ sở của việc giải quyết vấn đề ly hôn lại có sự
kết hợp giữa thực trạng của hôn nhân và yếu tố lỗi để giải quyết việc ly hôn.
Theo Bộ luật dân sự Pháp, Điều 243 quy định: Vợ hoặc chồng có thể xin ly
hôn khi nêu ra toàn bộ những sự việc bắt nguồn từ bên vợ hoặc chồng làm cho
cuộc sống chung không thể tiếp tục. Theo quy định này, một bên vợ hoặc chồng
làm đơn đến Toà án xin ly hôn trong đó có nêu lỗi của bên kia và nếu bên kia thừa
nhận lỗi trớc Toà thì Toà sẽ tuyên ly hôn và theo Điều 230 BLDS Pháp quy định:
Nếu hai vợ chồng cùng xin ly hôn thì không phải nói rõ lý do, trong trờng hợp

này, căn cứ cho ly hôn đợc xác định nếu việc ly hôn do một bên xin với lý do bên
kia làm cho cuộc sống chung không thể tiếp tục và bên kia chấp nhận thì thẩm
phán tuyên bố cho ly hôn mà không cần xem xét với yếu tố lỗi. Nh vậy, trong tr-
ờng hợp này ly hôn đợc giải quyết theo sự thoả thuận của đơng sự. Điều đó cũng
phù hợp với bản chất của hôn nhân khi pháp luật của Pháp coi hôn nhân là một
hợp đồng nh những hợp đồng dân sự khác. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự Pháp cũng có
xét đến tình trạng hôn nhân trên thực tế của vợ chồng, Toà án sẽ xử cho ly hôn,
nếu tính tình của một ngời đã thay đổi đến mức không thể sống chung đợc nữa và
theo những dự đoán có lý nhất, không thể đợc khôi phục trong tơng lai. Bên cạnh
việc xác định về tình trạng đời sống chung tan vỡ, còn phải xét đến thời gian sống
riêng biệt của hai vợ chồng, pháp luật quy định khoảng thời gian đó là 6 năm
(Điều 237 BLDS Pháp )
1
. ở Canađa, luật pháp về ly hôn có sự kết hợp giữa căn cứ
ly hôn trong việc xác định yếu tố lỗi và thực trạng hôn nhân. Hôn nhân đợc coi là
tan vỡ khi hai vợ chồng sống riêng rẽ đã hơn một năm và lí do là hôn nhân bị rạn
nứt, khi hai vợ chồng có quan hệ ngoại tình với ngời khác hoặc khi vợ hoặc chồng
có đối xử ngợc đãi cả về tinh thần lẫn thể chất làm bên kia không thể chịu đựng đ-
ợc. Trờng hợp đó Toà án sẽ cho ly hôn
2
. Còn theo luật Hôn nhân và gia đình ở
Singapore, ly hôn chủ yếu dựa vào yếu tố lỗi trong đó việc xác định hôn nhân tan
vỡ, không thể phục hồi căn cứ vào việc một bên ngoại tình thông dâm mà bên kia
không thể tha thứ, khoan dung để chung sống với nhau đợc, một bên bị tệ bạc quá
đáng, có sự ruồng bỏ không chung sống liên tục trong 2 năm và không có ý định
1


1. Bộ luật dân sự nớc Cộng hoà Pháp năm 1998, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội
2


2. Luật ly hôn của Canada năm 1985
25

×