Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phân tích chiến lược Marketing trong việc xuất khẩu ngành cà phê Việt Nam từ năm 2007 – tháng 6/2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.47 KB, 24 trang )

GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
.PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và nhà nước Việt
Nam. Chủ trương này được khẳng định trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII và trong nghị quyết 01NQ/TW của Bộ chính trị với mục tiêu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa hướng về xuất
khẩu. Để thực hiện chủ trương của Đảng cùng với việc đẩy mạnh công nghiệp hóa
- hiện đại hóa đất nước và giúp Việt Nam bắt kịp với tiến trình toàn cầu hóa và hội
nhập, chúng ta cần phải tăng cường mở rộng xuất khẩu. Việt Nam hiện là một
nước nông nghiệp đã xuất khẩu nhiều mặt hàng có giá trị cao như gạo, hồ tiêu, hạt
điều… và một trong những mặt hàng đó thì không thể không kể đến mặt hàng cà
phê. Cà phê cũng chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hiện
nay, sản lượng cà phê của Việt Nam đang đứng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Brazil,
do đó từ lâu xuất khẩu cà phê là một lợi thế của Việt Nam, hàng năm lượng ngoại
tệ thu được từ việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam chiếm một lượng thật đáng kể
cho việc đóng góp vào ngân sách quốc gia. Tuy nhiên, trong những năm gần đây
khi Việt Nam gia nhập vào nhiều tổ chức thế giới thì nền kinh tế nước ta không
phải là nền kinh tế đóng như lúc trước mà phải chịu sự biến động chung của nền
kinh tế thế giới. Vì thế, nền kinh tế nước ta gặp không ít những khó khăn, một số
thế mạnh của ta vẫn chưa triệt để. Trong tình hình đó, nghiên cứu marketing để
tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu cà phê là một đòi hỏi cấp
thiết và đáng quan tâm nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc sản xuất và xuất khẩu cà phê
của Việt Nam. Vì vậy, tôi quyết định nghiên cứu đề tài “phân tích chiến lược
Marketing trong việc xuất khẩu ngành cà phê Việt Nam từ năm 2007 –
tháng 6/2010” để hiểu rõ hơn về tình hình sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt
Nam trong những năm qua như thế nào nhằm làm tài liệu cho mình và cho cả
những ai quan tâm. Do thời gian có giới hạn nên tôi chỉ nghiên cứu số liệu trong
thời gian từ năm 2007- tháng 6 năm 2010.
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
-1-


GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
II/ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung: phân tích chiến lược Marketing trong việc xuất khẩu
ngành cà phê Việt từ năm 2007- tháng 6/2010. Nhằm tìm hiểu về thực trạng xuất
khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian qua như thế nào. Từ đó phân tích
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ theo ma trận SWOT và đề ra các chiến
lược để khắc phục những mặt hạn chế sao cho việc xuất khẩu ngành cà phê được
hoàn thiện hơn.
2. Mục tiêu cụ thể:
- Khái quát về ngành cà phê Việt Nam và Marketing hỗn hợp (Marketing-
Mix).
- Thực trạng sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam theo Marketing-Mix
trong thời gian từ 2007-tháng 6/2010
- Các biện pháp để việc xuất khẩu cà phê được hiệu quả hơn từ ma trận
SWOT
III/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
3.1. phương pháp thu thập dữ liệu: đề tài sử dụng số liệu thứ cấp để phân
tích. Số liệu này được lấy chủ yếu từ mạng Internet, sách báo và một số các báo
cáo khác.
3.2. Phương pháp phân tích dữ liệu:
- Sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh để biết được thực trạng xuất khẩu cà
phê của Việt Nam trong những năm qua có những chuyển biến như thế nào.
- Từ những phương pháp trên sử dụng phương pháp diễn giải, suy luận để đề ra
các biện pháp trong việc xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong tương lai đạt hiệu
quả hơn.
IV/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu: ngành cà phê Việt Nam
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2007 – tháng 6/2010
- Không gian nghiên cứu: Việt Nam
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010

-2-
GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1- KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM VÀ
MARKETING-MIX
1.1. KHÁI QUÁT VỀ MARKETING-MIX:
1.1.1Thế nào là Marketing
Có nhiều định nghĩa khác nhau về Marketing. Nhưng bất kì định nghĩa nào cũng
nhằm thực hiện công việc tìm kiếm, xác định nhu cầu, thị hiếu chưa được thỏa
mãn. Sau đó tổ chức sản xuất, cung ứng thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng. Sau
đây là một số định nghĩa về Marketing
a) Định nghĩa của Philip Kotler: “Marketing là quá trình quản lý xã hội
thông qua sự sáng tạo của cá nhân và tập thể thay đổi sự tiêu thụ. Là tự do giao
dịch trao đổi sản phẩm và các giá trị khác, để từ đó biết được nhu cầu xã hội”.
b) Định nghĩa của Hiệp hội Marketing Mỹ: “Marketing là quá trình hoạch
định và quản lý thực hiện việc định giá, chiêu thị và phân phối các ý tưởng, hàng
hóa, dịch vụ, nhằm mục đích tạo ra các giao dịch để thỏa mãn những mục tiêu của
cá nhân, của tổ chức và của xã hội”.
c) Định nghĩa theo quan niệm mới: “ Marketing là thiết lập, duy trì và củng
cố các mối quan hệ với khách hàng và các đối tác có liên quan để làm thỏa mãn
mục tiêu của các thành viên này”.
1.1.2. Thế nào là Marketing-Mix:
Marketing hỗn hợp là sự phối hợp các hoạt động, sự bố trí, sắp xếp các thành phần
của Marketing một cách tối ưu nhất, sao cho phù hợp với điều kiện kinh doanh
thực tế nhằm tăng cường, củng cố vị trí của công ty trên thương trường cả trong
ngắn hạn và dài hạn.
1.1.3. Vai trò của Marketing-Mix trong kinh doanh
Nếu công ty biết cách phối hợp tốt các thành phần của Marketing sẽ mang lại lợi
ích rất lớn cho doanh nghiệp
- Giúp hạn chế rủi ro trong kinh doanh

- Tạo điều kiện kinh doanh thuận lợ, có nhiều cơ hội phát triển
- Thu được lợi nhuận tối đa và ổn định
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
-3-
GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
1.1.4. Các thành phần chính trong Marketing-Mix
Marketing hỗn hợp gồm 4 thành phần chủ đạo hay còn gọi là 4P gồm
- Product (P1): yếu tố này đặt câu hỏi sản xuất cái gì? Thế nào? Bao nhiêu? Từ đó
đưa ra chiến lược sản phẩm định vị, xây dựng thương hiệu
- Price (P2): đưa ra khung giá? Giá bán bao nhiêu? Từ đó đưa ra chiến lược giá
- Place (P3): Bán ở đâu? Vào lúc nào? Ta đưa ra chiến lược phân phối
- Promotion (P4): Bán bằng cách nào? Từ đó ta sẽ đưa ra chiến lược chiêu thị sao
cho sản phẩm ta được tiêu thụ mạnh.
1.2. SƠ LƯỢC VỀ NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM
Việt Nam nằm trong vùng vành đai nhiệt đới của Bắc bán cầu, nơi có khí hậu
phù hợp cho sự phát triển cây cà phê, cà phê Việt Nam mang một hương vị rất đặc
biệt. Đặc biệt là ở phía gần đường xích đạo nóng và ẩm ướt nhiệt đới khí hậu phù
hợp cho cây cà phê Brobusta, thu gom ở khu vực Tây Nguyên trong đó Đắc Lắc
chiếm trên 50% tổng sản lượng quốc gia, Phía Bắc với mùa đông lạnh phù hợp cho
cây cà phê Arabica. Ngoài ra, cà phê ở Việt Nam còn được trồng ở Trung du Bắc
Bộ, đồng bằng Sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải miền Trung và một số khu
vực ở đồng bằng Sông Cửu Long.
Ở Việt Nam, sản phẩm cà phê đang là một ngành hàng nông sản quan trọng của
nước ta, mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn. Trong những năm qua,
xuất khẩu cà phê đã đưa về lượng ngoại tệ đáng kể cho nước nhà. Cà phê là mặt
hàng nông sản xuất khẩu chủ lực đứng thứ hai thế giới sau gạo.
Hiện nay, cà phê chủ yếu của Việt Nam chủ yếu là cà phê vối với phương pháp
chế biến chủ yếu là bằng phương pháp khô nên chất lượng và giá trị không cao.
Ngành cà phê Việt Nam hiện nay có hiệp hội cà phê ca cao với tên viết tắt là
Vicofa với 78 thành viên trong đó tổng công ty cà phê Việt Nam là lớn nhất và

cũng như của ngành cà phê Việt Nam hiện nay.
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
-4-
GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
CHƯƠNG 2- THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM
THEO QUAN ĐIỂM MARKETING-MIX TRONG GIAI ĐOẠN 2007-
THÁNG 6/2010
2.1. KIM NGẠCH VÀ SẢN LƯỢNG XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH CÀ PHÊ
VIỆT NAM TỪ NĂM 2007 - THÁNG 6/2010
2.1.1. Sản lượng xuất khẩu cà phê Việt Nam trong thời gian qua
BẢNG 1: SẢN LƯỢNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM TỪ NĂM2007-
THÁNG 6/2010
Nguồn: tổng hợp từ cục thống kê
Cà phê là một mặt hàng buôn bán có giá trị kim ngạch đứng thứ 2 thế giới
đang phát triền sau dầu mỏ. Cà phê chủ yếu được trồng và xuất khẩu ở các nước
đang phát triển thuộc vành đai nhiệt đới và á nhiệt đới như Việt Nam, phần lớn sản
phẩm được nhập khẩu và tiêu thụ ở các nước công nghiệp phát triển với lượng
nhập khẩu tương đối lớn. Nhìn chung sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam
trong những năm qua có sự tăng giảm đáng kể. Do ảnh hưởng của tình hình khó
khăn kinh tế nên tình hình tiêu thụ cà phê của thế giới có xu hướng giảm đáng kể,
sản lượng xuất khẩu năm 2008 so với năm 2007 giảm 13,8% hay về lượng giảm
170 ngàn tấn , đến năm 2009 tình hình có triển vọng hơn vì sự khó khăn của nền
kinh tế đang dần được phục hồi đạt 1.183 ngàn tấn, tăng 11,7% (tức tăng 124 ngàn
tấn) so với năm 2008. Nếu so sánh giữa lượng cà phê xuất khẩu ở 6 tháng năm
2009 và 6 tháng năm 2010 ta lại thấy lượng xuất khẩu trong 6 tháng 2010 có xu
hướng giảm đáng kể (giảm 9,9%) so với 6 tháng năm 2009 tức về lượng giảm 73
ngàn tấn. Nguyên nhân của sự sụt giảm là do hiện nay tỷ lệ cây cà phê già cỗi của
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
Năm 2007 2008 2009
6

tháng
2009
6
tháng
2010
Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
Chênh lệch 6
tháng 2010/
6 tháng 2009
Tỷ lệ
(%)
Giá trị
(1.000
tấn)
Tỷ
lệ
(%)
Giá trị
(1.000
tấn)
Tỷ
lệ
(%)
Giá trị
(1.000
tấn)
Sản

lượng
XK
(1.000
tấn)
1.229 1.059 1.183 732 659 (13,8) (170) 11,7 124 (9,9) (73)
-5-
GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
nước ta chiếm gần 20% khiến năng xuất giảm, bên cạnh đó do khó khăn của nền
kinh tế làm nông dân gặp nhiều khó khăn về vốn nên chăm sóc cây cà phê kém
hơn. Ngoài ra nguyên nhân đặc biệt là do ảnh hưởng của thời tiết thay đổi thất
thường làm cho sản lượng cà phê cũng thay đổi theo. Vì vậy, đây là vấn đề cần
giải quyết trong đó chủ yếu là việc cải tạo về lượng cây già cỗi để việc xuất khẩu
cà phê của ta vẫn giữ được vị trí là nước có trữ lượng cà phê xuất khẩu đứng thứ 2
trên thế giới. Mặc khác mỗi năm nước ta sản xuất được khoảng 1 triệu tấn cà phê
nhưng lượng tiêu dùng trong nước chỉ ở khoảng 56.000 tấn chiếm chưa tới 6%
trong tổng sản lượng làm ra. Chưa tính chung trên cả thế giới tức ở khoảng
0,5kg/người/năm, chỉ tính riêng trong các nước sản xuất cà phê thì mức tiêu thụ
nội địa của Việt Nam đứng thứ 19, nhiều nước tiêu thụ khoảng 3kg/người/năm và
đặc biệt là Braxin dẫn đầu với mức 5,29 kg/người/năm. Và mỗi năm, tiêu thụ cà
phê nội địa của Braxin đạt tới khoảng 600.000 tấn, trên 50% sản lượng cà phê của
Việt Nam. Nước ta là một nước đông dân nhưng nhu cầu tiêu thụ cà phê của Việt
Nam như hiện nay thì chứng tỏ rằng các doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác
hết các tiềm năng của thị trường Việt Nam. Như vậy, để đẩy mạnh tiêu thụ cà phê
thì ngoài việc quan tâm đến xuất khẩu cũng phải chú ý, đầu tư mạnh vào thị
trường trong nước.
2.1.2. Kim ngạch xuất khẩu
BẢNG 2: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM TỪ NĂM
2007-THÁNG 6/2010
Năm 2007 2008 2009
6

tháng
2009
6
tháng
2010
Chênh lệch
2008/2007
Chênh lệch
2009/2008
Chênh lệch 6
tháng 2010/ 6
tháng 2009
Tỷ lệ
(%)
Giá
trị (tỷ
USD)
Tỷ lệ
(%)
Giá trị
(tỷ
USD)
Tỷ lệ
(%)
Giá trị
(tỷ
USD)
Kim
ngạch
(tỷ

USD)
1,9 2,1 1,7 1,1 0,9 10,5 0,2 (19,0) (0,4) (18,2) (0,2)
Nguồn: tổng hợp từ cục thống kê
Dựa vào bảng số liệu ta thấy rằng từ năm 2007 sang năm 2008 kim ngạch
xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng từ 1,9 lên đến 2,1 tỷ USD, tức năm 2008 so
với năm 2007 tăng 10,5% hay về trị giá tăng 0,2 tỷ USD, nhưng sang năm 2009
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
-6-
GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
kim ngạch đã giảm xuống chỉ còn 1,7 tỷ USD (tức giảm 19,0% hay giảm 0,4 tỷ
USD) so với năm 2008. Tương tự kim ngạch 6 tháng đầu năm năm 2010 lại giảm
so với cùng kì năm 2009, giảm một lượng tương đối cao (18,2%). Như vậy, kim
ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong những năm qua có nhiều chuyển biến
phức tạp, mặc dù sản lượng xuất khẩu năm 2008/2007 có giảm nhưng kim ngạch
lại tăng, trong khi đó sản lượng năm 2009/2008 đang trên đà tăng lên về mặt sản
lượng nhưng lại có kim ngạch xuất khẩu giảm và giảm một lượng khá cao (tới
19%), còn 6 tháng năm 2010 giảm vì sản lượng xuất khẩu giảm nên kim ngạch
cũng giảm theo đó là điều bình thường. Nguyên nhân của sự biến động này là vì
vào năm 2008 mặc dù tình trạng kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng Việt Nam vẫn
không bị ảnh hưởng nhiều do chưa hòa nhập hoàn toàn vào nền kinh tế thế giới
nên. Nhưng đến năm 2009 thì không những không tăng mà ngược lại còn bị giảm
vì do cách làm thiếu khoa học, phân tán không chuyên nghiệp của không ít nhà sản
xuất và doanh nghiệp xuất khẩu từ đó làm cho cà phê không đạt chất lượng, một
nguyên nhân đặc biệt nữa là trong năm này do sự biến động của giá cả, tháng 5-
2009 giới đầu cơ nước ngoài tung tin, giá cả cà phê sẽ tăng đột biến khiến nhiều
doanh nghiệp Việt Nam đua nhau tích trữ, thậm chí có doanh nghiệp vay nóng tiền
để mua cà phê. Đến tháng 6-2009, các quỹ đầu cơ trên sàn giao dịch London
ngừng mua để dìm giá xuống thấp và lại tung tin giá cà phê trong những tháng kế
tiếp sẽ giảm mạnh khiến các doanh nghiệp nước ta bán tháo, bán đổ, chịu lỗ vài ba
triệu đồng/tấn. Một thực trạng nữa là có quá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu bán

hàng giao xa (nhà nhập khẩu ứng trước một tỷ lệ lớn tiền hợp đồng cho nhà xuất
khẩu, phần còn lại được tính toán khi giao hàng và chốt giá dựa vào giá cà phê
giao dịch trên thị trường kỳ hạn London), doanh nghiệp Việt Nam chấp nhận mua
hàng hoá trong nước với giá cao, chờ cơ hội chốt giá trên thị trường London cao
hơn để kiếm lời nhưng giá này bị dìm liên tục, đến hạn giao hàng phải chấp nhận
“mua đắt bán rẻ” hoặc thương thảo điều chỉnh lùi kỳ hạn giao hàng và chịu mất
phí với mức vài chục USD/tấn, tuỳ theo thời gian điều chỉnh. Ngoài ra, điểm yếu
của các doanh nghiệp Việt Nam là không dự báo được sự lên xuống của thị trường,
đồng thời không đánh giá được tình hình cung, cầu thực tế trên thế giới làm cho
tình trạng doanh nghiệp Việt Nam đua nhau xuất khẩu đầu vụ vì sợ để lâu sẽ bán
không được. Đây là nguyên nhân khiến giá bị dìm xuống thấp. Vì vậy, nhà nước và
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
-7-
GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
các doanh nghiệp Việt Nam cần đưa ra những chính sách hợp lý để nâng cao mức
kim ngạch xuất khẩu, không chỉ tạo ra mức tăng nhẹ mà phải tăng thật mạnh, thật
nhiều cho xứng danh với vị thế của cà phê Việt Nam
2.2. PHÂN TÍCH 4P TRONG MARKETING-MIX VỀ THỰC TRẠNG
XUẤT KHẨU CÀ PHÊ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
2.2.1 SẢN PHẨM
2.2.1.1. Các chủng loại cà phê được sản xuất và xuất khẩu ở Việt Nam
Hiện nay ở Việt Nam có 3 loại cà phê chủ yếu là Robusta, cà phê Arabica và
cà phê Cheri.
 Cà phê Robusta (cà phê vối): loại cây trồng này rất thích hợp với khí hậu,
thổ nhưỡng ở vùng Tây Nguyên - Việt Nam nhất là vùng đất bazan, Đắc
Lắc. Cà phê Robusta có mùi thơm nồng, không chua, độ cafein cao
 Cà phê Arabica (cà phê chè): loại này có hai loại đang được trồng ở Việt
Nam là:
+ Moka: có mùi thơm quyến rũ, ngào ngạt, vị nhẹ, nhưng sản lượng
rất thấp, giá trong nước không cao vì không xuất khẩu được, trong khi giá

xuất lại rất cao gấp 2-3 lần cà phê Robusta vì trồng không đủ chi phí nên
người nông dân ít trồng loại cà phê này.
+ Catimor: mùi thơm nồng nàn, hơi có vị chua, giá xuất gấp hai lần
cà phê Robusta. Nhưng nó không thích hợp với khí hậu vùng đất tây Nguyên
vì trái chín trong mùa mưa và không tập trung nên chi phí rất cao. Hiện nay ở
Quảng Trị đang trồng thì nghiệm, đại trà loại cây này và có triển vọng rất tốt.
 Cà phê Cheri ( cà phê mít): không phổ biến lắm vì có vị rất chua, chịu
hạn tốt, công chăm sóc đơn giản, chi phí rất thấp. Nhưng thị trường xuất
khẩu không chuộng kể cả trong nước nên ít người trồng loại này.
Mặc dù có ba loại cà phê nhưng cà phê chè là cà phê có giá trị kinh tế nhất
trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê trên toàn
thế giới, trên thị trường cà phê chè được đánh giá rất cao. Cà phê vối là cây quan
trọng thứ hai trong các loại cà phê sau cà phê chè (khoảng 39% các sản phẩm cà
phê được sản xuất từ loại cà phê này). Nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới
là Việt Nam, các nước xuất khẩu quan trọng khác gồm: Côte d’Ivoire, Uganda,
Braxin và Ấn Độ. Mặc dù cà phê chè có giá trị kinh tế nhất trong các loại cà phê
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
-8-
GVHD: Hồ Lê Thu Trang SVTH: Dương Tấn Phát
nhưng nó không được sản xuất nhiều ở Việt Nam do độ cao ở Việt Nam không
phù hợp để phát triển, loài cây này lại có nhiều sâu bệnh hại nên không kinh tế
bằng trồng cà phê vối đối với Việt Nam. Hiện nay, gần 90% diện tích cà phê ở
Việt Nam được trồng cà phê vối, 10% trồng cà phê chè và khoảng 1% còn lại được
trồng cà phê mít.
Ngoài ba loại cà phê trên thì hiện nay Việt Nam còn sản xuất và xuất khẩu một
loại cà phê có giá trị cao đó là “cà phê Chồn”. Sản phẩm này chủ yếu dành cho
người có thu nhập cao và đặc biệt chủ yếu tập trung cho thị trường xuất khẩu. Cà
phê chồn được tạo ra thông qua con chồn, cứ vào vụ cà phê chồn hương chọn ăn
những quả chín mọng, không bị sâu. Enzym tiêu hoá trong dạ dày con chồn tương
tác với vỏ cà phê làm thay đổi thành phần và hương vị hạt cà phê thải ra theo

đường tiêu hoá của chồn. Loại cà phê này có hương vị hấp dẫn, quyến rũ đặc biệt
đến vị giác của người thưởng thức. Cà phê này có giá trị cao vì ngoài có hương vị
độc đáo nó còn được chế biến hoàn toàn từ công nghệ thủ công.
2.2.1.2. Chất lượng xuất khẩu của cà phê trong thời gian qua
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn thứ 2 trên thế giới sau
Brazil, và cà phê là một trong 5 mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu có giá trị cao.
Tuy nhiên, chất lượng cà phê xuất khẩu chưa đồng đều, đặc biệt hàng năm số
lượng cà phê xuất khẩu bị thải chiếm tỉ lệ cao nhất thế giới. Chất lượng cà phê là
tổng hợp của các yếu tố: chủng loại thực vật, điều kiện địa hình, khí hậu - thời tiết,
cách chăm sóc, thu hái, bảo quản, chuẩn bị xuất khẩu và vận chuyển. Trong đó,
các khâu canh tác, thu hái, bảo quản, chuẩn bị xuất khẩu và vận chuyển là con
người có thể tác động, can thiệp, thay đổi. Mặc dù, nước ta đã đưa ra tiêu chuẩn
TCVN 4193:2005 được thừa nhận là phù hợp với các tiêu chí đánh giá chất lượng
cà phê hiện nay của thế giới và được Tổ chức Cà phê thế giới (ICO) xem như một
tiêu chuẩn chung để kiểm định chất lượng cà phê đang giao dịch trên thị trường
thế giới, nhưng trên thực tế thì chúng ta chỉ tập trung kiểm tra về tỷ lệ phần trăm
hạt đen, vỡ, và do áp dụng tự nguyện nên có rất ít doanh nghiệp áp dụng. Do đó
người ta không thể tính số hạt mốc, hạt chưa chín và có tạp chất lẫn trong cà phê.
Xuất hiện tình trạng cà phê chưa chín nhưng vẫn được thu hoạch của người dân vì
mỗi vụ sẽ có những đợt thu hoạch khác nhau nên nếu để lâu người dân sợ bị bẻ
trộm và tốn công chăm sóc, gìn giữ và giá cà phê cũng cùng mức nên họ cứ thu
Phân Tích Chiến Lược Marketing Trong Việc Xuất khẩu Ngành Cà phê Việt Nam Từ 2007 - 6/2010
-9-

×