Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm phối hợp sơ đồ tư duy với hoạt động nhóm trong môn Sinh học THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796.99 KB, 36 trang )


5






SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


ĐỀ TÀI:
" PHỐI HỢP SƠ ĐỒ TƯ DUY VỚI HOẠT ĐỘNG NHÓM TRONG
MÔN SINH HỌC THPT"


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Bước vào giai đoạn mới của cách mạng, giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước; và, để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nghiệp giáo dục Việt
Nam cũng ngày càng phát triển. Để phát triển giáo dục trước hết phải nâng cao chất lượng giáo
dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy và phương pháp học là một trong những con đường
quan trọng và công cụ thiết yếu. Bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống được sử dụng
ở các nhà trường trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT), có nhiều trường đã
và đang kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học tích cực.
Môn Sinh học và Công nghệ (SH & CN) là một trong những môn học quan trọng trong hệ
thống kiến thức của học sinh phổ thông, và là môn học đặc thù có thể sử dụng kết hợp các
phương pháp để nâng cao chất lượng dạy của giáo viên và chất lượng học của học sinh. Những
năm qua, thực hiện chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk, đội ngũ giáo viên


Trường Phổ thông Dân tộc nội trú (PTDTNT) Tây Nguyên đã từng bước áp dụng phương
pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy (mind map) vào một số môn như Sinh học, Công nghệ,
Vật lý , và đã thu được những kết quả khả quan. Nhưng vấn đề đặt ra là làm sao giúp
học sinh đang quen với cách dạy học theo phương pháp truyền thống, chuyển sang học
theo phương pháp sử dụng bản đồ tư duy một cách hiệu quả nhất ? Giáo viên cần lựa
chọn các phương pháp nào để khi phối hợp các phương pháp với nhau sẽ tạo được hiệu
quả cao ?
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Phối hợp sử dụng sơ đồ tư duy với hoạt động nhóm,
thảo luận và rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá nhân trong dạy, học môn SH & CN sẽ góp
phần tham gia giải đáp các câu hỏi trên, và có ý nghĩa cấp thiết đối với Trường PTDTNT
Tây Nguyên.
2. Mục đích nghiên cứu:

7

Nghiên cứu đề xuất nội dung biện pháp sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) kết hợp với các hoạt
động nhóm, thảo luận, rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá nhân, góp phần chuyển tiếp từ phương
pháp dạy học truyền thống sang phương pháp dạy học tích cực, nhằm nâng cao chất lượng dạy
và học môn SH & CN ở Trường PTDTNT Tây Nguyên.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng sử dụng SĐTD kết hợp hoạt động nhóm, thảo
luận, rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá nhân trong dạy, học môn SH & CN ở Trường PTDTNT
Tây Nguyên.
- Đề xuất và trình bày nội dung biện pháp sử dụng SĐTD kết hợp hoạt động nhóm, thảo
luận, rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá nhân trong dạy và học môn SH & CN ở Trường
PTDTNT Tây Nguyên
4. Đối tượng nghiên cứu:
Hoạt động dạy, học môn SH & CN của Trường THCS và THPT.
5. Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động dạy học môn Sinh học khối THCS và THPT, môn Công nghệ khối lớp 10, sử

dụng SĐTD kết hợp hoạt động nhóm, thảo luận và rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá nhân ở
Trường PTDTNT Tây Nguyên.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; sáng kiến được nghiên cứu và vận dụng các phương pháp
lô-gic, phân tích-tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia.
7. Đóng góp khoa học:
Kết quả sáng kiến giúp giáo viên và học sinh chuyển từ phương pháp học truyền
thống sang phương pháp dạy học bằng SĐTD kết hợp với phương pháp lấy học sinh làm

8

trung tâm; rèn luyện cho học sinh kỹ năng thuyết trình và tự nghiên cứu một cách hiệu quả.
Có thể áp dụng đối với lớp có chất lượng học sinh không đồng đều, áp dụng được cho
nhiều môn học.
Sáng kiến có thể được các trường THCS và THPT khác nghiên cứu và vận dụng phù hợp
trong dạy học các đối tượng tương ứng.
8. Kết cấu của đề tài (sáng kiến):
Gồm mở đầu, hai phần, kết luận, tài liệu tham khảo.
Phần 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TRẠNG PHỐI HỢP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ
TƯ DUY VỚI HOẠT ĐỘNG NHÓM, THẢO LUẬN, RÈN LUYỆN KỸ NĂNG BÁO
CÁO CỦA CÁ NHÂN TRONG DẠY, HỌC MÔN SINH
HỌC-CÔNG NGHỆ Ở TRƯỜNG DÂN TỘC NỘI TRÚ TÂY NGUYÊN
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học ở bậc phổ
thông cơ sở và phổ thông trung học
Sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ
thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng
thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Tác giả của SĐTD là
Tony Buzan, ông là người đã thúc đẩy làn sóng cách mạng học tập bùng nổ tại nhiều

nước trên thế giới và khu vực, trong đó có Việt Nam. Có thể nói, SĐTD là con đường dẫn
học sinh đến với phương pháp “học cách học”.
Ở Việt Nam, từ năm 2010, phương pháp dạy học tích cực bằng SĐTD đã được triển
khai thí điểm tại 355 trường trên toàn quốc. Trong dịp hè 2011, để chuẩn bị các điều kiện
cần thiết cho việc tiến hành giảm tải nội dung dạy học ở các nhà trường bậc phổ thông từ

9

năm học 2011 -2012, phương pháp dạy học bằng SĐTD là 1 trong 5 chuyên đề dạy học
tích cực đã được tập huấn cho hơn 4.000 giáo viên cốt cán bậc THCS cả nước. Đây là
một trong những phương án nhận được nhiều sự ủng hộ của học sinh cũng như cán bộ
trong ngành giáo dục, đặc biệt là đội ngũ giáo viên.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi các dòng chữ dài và đơn điệu trong sách giáo khoa thành
các bài học với những hình vẽ, đường cong sinh động và dễ hiểu không phải là vấn đề dễ
dàng đối với giáo viên và học sinh hiện nay. Việc thay đổi cách nghĩ, cách học đối với
các em học sinh là người dân tộc thiểu số, những học sinh cá biệt, hay các lớp học mà
học sinh có mặt bằng nhận thức không đồng đều, lại càng khó khăn và phức tạp hơn. Bởi
vì, từ lâu các em đã quen với việc chỉ cần ghi chép các nội dung mà thầy, cô truyền đạt,
khi về nhà chỉ cần học thuộc lòng bài cũ, không cần hiểu sâu hay áp dụng vào thực tế, tất
cả những điều đó đã ăn mòn trong cách học của các em bấy lâu nay, do vậy, việc vận
dụng phương pháp SĐTD lại càng trở nên gian nan đối với giáo viên.
Từ những vấn đề lý luận nêu trên, có thể khẳng định SĐTD là một công cụ hữu ích
trong giảng dạy và học tập. Bằng phương pháp này, giáo viên và học sinh có thể trình bày
ý tưởng và nội dung bài học một cách rõ ràng, sáng tạo, thông tin được tóm tắt cô đọng,
đưa ra được nhiều ý tưởng mới… Trong đó, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, tổ chức,
nhận xét, bổ sung và đánh giá trong tiết học; học sinh không phải ghi chép nhiều, thời gian
của tiết học được dùng để thảo luận nghiên cứu và báo cáo; đồng thời học sinh được rèn
luyện nhiều kỹ năng, tự tin viết và báo cáo trước tập thể, qua đó giúp các em vượt qua rào
cản tự ti và dám thể hiện chính bản thân mình trước thầy, cô và các bạn trong lớp…
Trong thực tế, qua thực hiện việc giảng dạy bằng phương pháp SĐTD trong một thời

gian, có một số tác giả đã nghiên cứu và công bố các công trình nghiên cứu của mình trên
lĩnh vực áp dụng SĐTD vào việc dạy và học, nhưng vấn đề đặt ra ở đây là người giáo

10
viên phải làm gì để giúp các em làm quen với phương pháp học bằng SĐTD ? Làm sao
phát huy được khả năng sáng tạo, tư duy logic giúp các em biết cách hoạt động nhóm,
hoạt động cá nhân cho hiệu quả? Làm sao để học sinh thiết kế được SĐTD, biết cách báo
cáo và trình bày ý tưởng của mình trước tập thể?
Trong bối cảnh và thực trạng như vậy, là một giáo viên có nhiều năm thâm niên
giảng dạy học sinh THCS và THPT, đã từng thử nghiệm phương pháp dạy học theo
SĐTD, tôi nhận thấy việc đưa ra những giải pháp nhằm giúp thầy và trò chuyển đổi cách
học từ phương pháp cũ sang phương pháp mới tích cực, phối hợp các phương pháp dạy
học tích cực với nhau để tạo hiệu quả cao trong tiết học là rất cần thiết.
1.2. Thực trạng sử dụng phương pháp sơ đồ tư duy với hoạt động nhóm, thảo
luận, rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá nhân ở Trường Phổ thông Dân tộc nội trú
Tây Nguyên
Được thành lập từ năm 2004, Trường PTDTNT Tây Nguyên luôn nhận được sự
quan tâm của các cấp lãnh đạo như Học viện Khoa học Quân sự - Bộ Quốc phòng, Sở
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đắk Lắk Nhà trường có một cơ sở dạy và học đáp ứng được
nhu cầu của một trường nội trú, việc tiến hành sáng kiến kinh nghiệm này có những thuận
lợi đáng kể.
Học sinh của Trường có hai loại đối tượng: học sinh nội trú và học sinh bán trú. Học
sinh nội trú được học 3 buổi trong ngày nên việc tìm hiểu hoàn cảnh, nắm bắt được khả
năng tiếp thu bài của học sinh cũng như phát hiện ra những học sinh có năng khiếu rất
thuận tiện. Các em có thời gian tự học bài vào buổi tối trên lớp nên việc chuẩn bị bài mới
luôn đảm bảo. Bên cạnh đó Ban Giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo kịp thời nên giáo viên
có những ý tưởng mới hay những biện pháp dạy học mới mang tính sáng tạo sẽ được ủng
hộ và triển khai vào thực tế.

11

Bên cạnh những thuận lợi nói trên, khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi cũng
gặp không ít những khó khăn ví dụ như phòng thí nghiệm và đồ dùng dạy học của môn
Sinh học và môn Công nghệ còn thiếu thốn; học sinh là con em đồng bào dân tộc ít
người, hay những học sinh cá biệt ở trường khác chuyển tới; mặt bằng kiến thức không
đồng đều, các em quen với lối học thụ động; học sinh bán trú chỉ học hai buổi trong ngày,
các em tự học ở nhà vào buổi tối nên giáo viên khó kiểm tra được việc tự học của các em;
phần lớn gia đình phụ huynh học sinh ở xa Trường, có một số ít gia đình việc quan tâm
tới con cái gửi học nội trú chưa được thường xuyên… Chính những khó khăn trên đã
khiến tập thể giáo viên của Trường luôn mong muốn tìm ra biện pháp tốt nhất để giúp các
em bù lấp những khoảng trống kiến thức ở lớp dưới, hỗ trợ để các em tiếp thu tốt chương
trình đang học, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo của Trường.
Hiện nay trong thực tế, còn nhiều học sinh, sinh viên học tập một cách thụ động, đơn
thuần là chỉ nhớ kiến thức một cách máy móc mà không rèn luyện kỹ năng tư duy hay
thuyết trình. Với cách học truyền thống đã khiến tư duy của nhiều học sinh đi vào lối mòn,
học sinh chỉ ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường thẳng… với cách ghi chép này
chúng ta không kích thích được sự phát triển của trí não, điều đó làm cho một số học sinh
tuy học tập rất chăm chỉ nhưng sự tiếp thu vẫn hạn chế. Học sinh học bài nào biết bài đó,
cô lập nội dung của các môn mà chưa nhận thấy sự liên hệ của kiến thức vì thế chưa phát
triển được tư duy logic và tư duy hệ thống, việc vận dụng kiến thức vào các bài học tiếp
theo và ứng dụng trong thực tiễn còn rất hạn chế. Các em không nắm bắt được kiến thức
trọng tâm, mối liên kết của chúng, bài học trở nên đơn điệu, khó nhớ kiến thức, không kích
thích được tính sáng tạo của cá nhân và tập thể. Bên cạnh đó học sinh luôn cảm thấy mất tự
tin khi đứng trước tập thể, không biết làm thế nào để trình bày một vẫn đề cho logic và
mang tính thuyết phục. Kết quả dẫn đến học sinh không tập trung trong giờ học, mất tự tin
khi đến lớp, buồn chán, thất vọng và đánh mất sự đam mê học hỏi.

12
Trăn trở trước thực tế hết sức khó khăn: Trường chúng tôi là một trường nội trú, số
lớp học của các khối rất ít (khối lớp nhiều nhất chỉ có 3 lớp, khối lớp ít nhất chỉ có 1 lớp)
học sinh không được phân thành các lớp chọn, mặt bằng nhận thức kém vì phần lớn học

sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số. Những em là học sinh người kinh lại rơi vào
các trường hợp học sinh cá biệt hay con em các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt như cha
mẹ li hôn, cha mẹ lo làm kinh tế nên không có thời gian chăm sóc, quản lý con cái Vì
thế việc giúp các em nâng cao trình độ nhận thức, tiếp thu bài học nhanh, phát huy tính
sáng tạo, khả năng tư duy và tự giác học tập là một vấn đề nan giải đối với đội ngũ giáo
viên của Trường. Cũng chính từ lý do này, tôi đã nghiên cứu, áp dụng và mạnh dạn đưa
ra biện pháp ban đầu, giúp học sinh biết kết hợp một số phương pháp học tập tích cực và
sử dụng SĐTD trong môn Sinh học và môn Công nghệ.
Từ năm 2010 trở về trước, với sự tìm tòi thử nghiệm, được sự giúp đỡ của tập thể,
bản thân tôi đã chủ động từng bước triển khai tiết học bằng cách cho học sinh chuẩn bị
bài mới ở nhà, trên lớp học thầy và trò cùng hoạt động nhóm, sử dụng đồ dùng học tập
phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, giáo viên dẫn dắt gợi mở vấn đề, đặt câu
hỏi, học sinh nghiên cứu và trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra. Thật vui mừng, trên
tổng thể, với phương pháp dạy học này, chúng tôi đã thu được nhiều thành tích đáng
khích lệ, tỉ lệ học sinh đạt điểm khá giỏi rất cao, không có học sinh thi lại môn Sinh học.
Từ năm 2010 đến nay, tôi đã sử dụng SĐTD để dạy môn Sinh học và môn Công
nghệ trong chương trình chính khóa. Tôi nhận thấy, nếu chúng ta chuyển ngay từ phương
pháp học ghi chép sang sử dụng bản đồ tư duy thì học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn. Học
sinh sẽ lúng túng không biết phải bắt đầu từ đâu, không biết tìm từ chìa khóa, không biết
thiết kế một SĐTD cho hiệu quả.
Để đánh giá thực trạng học sinh khi chưa được hướng dẫn thiết kế SĐTD, chúng tôi

13
đã làm một phép so sánh thông qua một số bài kiểm tra 15 phút. Dạng đề thứ nhất: cho
học sinh trả lời câu hỏi bằng phương pháp truyền thống, học thuộc lòng và nghi chép lại.
Dạng đề thứ hai: yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi bằng cách sơ đồ hóa hiểu biết của các
em. Kết quả cho thấy điểm số của hai dạng bài kiểm tra là tương đương nhau. Điều này
cho thấy muốn học sinh hiểu và vận dụng tốt phương pháp học mới thì phải hướng dẫn và
giúp các em chuyển từ lối học cũ sang cách học mới một cách cụ thể.
Biện pháp nào có thể giải quyết những tồn tại gặp phải khi thực hiện sáng kiến kinh

nghiệm khi mà hầu hết học sinh không biết tìm những từ trọng tâm mà chỉ viết được các
ghi chú theo kiểu truyền thống? Các em chỉ biết cách chắt lọc thông tin từ sách giáo
khoa, các ghi chú này vẫn dài mà không cần thiết cho việc học của học sinh trong bài học
đó, như vậy thời gian học bị tiêu hao mà không hiệu quả, các ghi chép dài dòng khó nhớ.
Cuối tiết học tôi đặt câu hỏi để kiểm tra xem các em có ghi nhớ được gì không. Câu trả
lời là hầu hết các em không thể nhớ được nội dung và hệ thống hóa được kiến thức của
bài, học sinh phải nhìn lại sách giáo khoa mới trả lời được các câu hỏi.
Đây là khó khăn của hầu hết các thầy cô và học sinh gặp phải khi chuyển từ cách
học truyền thống sang sử dụng SĐTD. Tất cả chúng ta đều nhận thấy SĐTD giúp người
học sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian hơn, giải quyết các vấn đề triệt để hơn, thấy được
bức tranh tổng thể, lên được kế hoạch, truyền đạt thông tin tốt hơn; và cảm nhận bước
đầu: không khí tiết học nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn Tuy nhiên, làm sao để áp dụng
cho đối tượng học sinh có học lực từ trung bình trở xuống, đặc biệt với học sinh là dân
tộc thiểu số ở vùng cao ? Đây lại là một vấn đề nan giải đặt ra. Và chúng tôi lai tiếp tục
nghiên cứu, thử nghiệm, để từ đó có kinh nghiệm sẽ trình bày phần tiếp sau.
Kết luận phần 1

14
Bên cạnh việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, thì đổi mới phương pháp dạy
học với mục tiêu lấy học sinh làm trung tâm chính là bước phát huy tính tự giác, tích cực,
độc lập, sáng tạo của người học
Đội ngũ giáo viên Trường PTDTNT Tây Nguyên đã từng bước áp dụng phương
pháp dạy học bằng SĐTD trong thời gian qua, với một số môn hoc, trong đó có môn SH
& CN. Từ thực tế sử dụng và kết quả mang lại, có thể khẳng định SĐTD là một công cụ
hữu ích trong giảng dạy và học tập. Tuy nhiên, việc thực hiện SĐTD không đơn giản và
dễ dàng, khi mà học sinh đang quen với phương pháp truyền thống từ bao nhiêu năm nay.
Vậy, dạy học theo phương pháp SĐTD như thế nào cho hiệu quả nhất ?
Từ những suy nghĩ trên, phần trọng tâm của đề tài sẽ trình bày các nội dung biện
pháp phối hợp sử dụng SĐTD với hoạt động nhóm và thảo luận, rèn luyện kỹ năng báo
cáo của cá nhân để phát huy tính tự chủ, sáng tạo cho học sinh, đồng thời để giáo viên lựa

chọn phương pháp phù hợp và đạt hiệu quả cao trong quá trình truyền thụ bài giảng.
Những nội dung này sẽ được trình bày kỹ trong phần 2.
Phần 2
BIỆN PHÁP PHỐI HỢP SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY VỚI HOẠT
ĐỘNG NHÓM, THẢO LUẬN, RÈN LUYỆN KỸ NĂNG BÁO CÁO
CỦA CÁ NHÂN TRONG DẠY HỌC MÔN SINH HỌC-CÔNG NGHỆ
2.1. Mục tiêu phối hợp hoạt động nhóm, thảo luận, rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá
nhân nhằm nâng cao chất lượng dạy, học môn Sinh học - Công nghệ
Việc sử dụng phương pháp SĐTD phối hợp với các phương pháp học tập hoạt động
nhóm, thảo luận, rèn luyện kỹ năng báo cáo của cá nhân trong dạy học nhf đạt tới các
mục tiêu sau:

15
Giúp học sinh chuyển từ cách học truyền thống sang cách học tích cực thông qua
hoạt động nhóm và rèn luyện kỹ năng báo cáo.
Tiếp tục chuyển đổi từ phương phương pháp hoạt động nhóm, thảo luận và rèn luyện
kỹ năng báo cáo sang kết hợp các phương pháp học nói trên với việc sử dụng SĐTD.
Trong đó vai trò của hoạt động nhóm, báo cáo và thảo luận cân bằng với việc sử dụng
SĐTD.
Tận dụng tối đa thời gian của tiết học vào các hoạt động tích cực của học sinh, giảm
việc ghi chép trên lớp. Do đó, giúp học sinh bớt căng thẳng, mệt mỏi để tập trung vào
việc nghe giáo viên giảng giải, phân tích bài học.
Quá trình thực hiện phương pháp SĐTD, giáo viên sẽ đóng vai trò là người tổ chức,
hướng dẫn, nhận xét, bổ sung và đánh giá học sinh, chứ không đơn thuần chỉ là người
truyền đạt kiến thức giáo khoa một cách khô khan.
Ngoài ra, với phương pháp SĐTD có thể áp dụng cho nhiều môn học, có thể sử dụng
rộng rãi ở nhiều trường học, kể cả các địa phương có điều kiện khó khăn, vùng xa xôi.
2.2. Nội dung và cách thức phối hợp hoạt động nhóm, thảo luận, rèn luyện kỹ năng
báo cáo của cá nhân trong dạy, học môn Sinh học - Công nghệ ở Trường Dân tộc nội trú
Tây Nguyên

Để giúp học sinh phối hợp tốt hoạt động nhóm, thảo luận, rèn luyện kỹ năng báo
cáo, quan sát, nhận xét, đóng góp ý kiến và sử dụng SĐTD hiệu quả chúng ta cần tiến
hành các giai đoạn cơ bản như sau:
2.2.1. Đánh giá tình tình cụ thể của đối tượng dạy để phân nhóm

16
Trước tiên cần kiểm tra học lực và kết quả môn Sinh học của học sinh thông qua
bảng điểm của những năm học trước, tiếp theo giáo viên đưa ra những câu hỏi có cấp độ
khó nâng cao dần để chọn lọc và đánh giá đúng thực chất của học sinh.
Sau đó giáo viên tiến hành phân nhóm để các em hoạt động cố định trong các tiết
học. Thông thường với sĩ số học sinh trung bình của trường tôi là 35 học sinh/lớp, tôi
chia mỗi lớp thành 4 nhóm, trong đó có cả học sinh giỏi, khá, trung bình và yếu xem lẫn
nhau. Việc phân nhóm và hoạt động cùng nhau một cách cố định trong mỗi tiết học sẽ
giúp các em làm quen với nhau và tinh thần hỗ trợ sẽ được nâng cao bởi vì kết quả hoạt
động của mỗi nhóm sau mỗi tiết học đều được đánh giá, xếp loại. Kết quả hoạt động của
mỗi thành viên chính là kết quả hoạt động chung của cả nhóm.
Mỗi nhóm đều có danh sách cụ thể. Ở đây không có nhóm trưởng, qua quá trình áp
dụng giảng dạy và theo dõi của cá nhân, tôi thấy rằng nếu phân công nhóm trưởng dễ dẫn
đến hiện tượng những em học sinh yếu hơn sẽ ỷ lại, đợi chờ kết quả của nhóm trưởng và
các bạn khác mà không vân động suy nghĩ, đóng góp ý kiến cũng như khả năng tư duy
của mình.
Tôi yêu cầu các nhóm hoạt động theo tiêu chí mà giáo viên đưa ra. Việc cá nhân nào
sẽ đại diện cho cả nhóm lên báo cáo hay trả lời câu hỏi sẽ không được biết trước. Chính
điều này sẽ giúp tất cả các thành viên của nhóm đều phải nỗ lực và hoạt động hết sức
mình, nếu cá nhân nào không hiểu nội dung kiến thức, các em bắt buộc phải tìm tòi hay
hỏi bạn bè để hiểu và trả lời được những vấn đề đó.
Việc chia nhóm ngay từ những ngày đầu rất quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng tới kết
quả hoạt động và điểm số của các em sau này.
2.2.2. Tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm chủ động - bước đệm để chuyển sang
học bằng sơ đồ tư duy


17
- Chuẩn bị tiết học:
Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị bài trước khi đến lớp bằng cách tìm các mục
chính và nội dung chính của bài học. Học sinh trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa và
tự mình tìm những kiến thức trọng tâm của của bài học. Giáo viên cần kiểm tra việc
chuẩn bị bài trước khi tiến hành nội dung bài mới một cách kỹ lưỡng để tập cho học sinh
thói quen tự học tập nghiên cứu ở nhà. Nếu bỏ qua khâu này, học sinh sẽ không tự giác
chuẩn bị SĐTD khi giáo viên đưa ra yêu cầu ở các bước sau.
- Tiến trình tiết học: Được tiến hành thông qua các bước cụ thể sau:
Bước 1: tiến hành bài học bằng cách giải quyết hệ thống câu hỏi cho trước trên bảng.
Giáo viên yêu cầu học sinh di chuyển chỗ ngồi, về vị trí hoạt động nhóm, cùng nhau
thảo luận trả lời các câu hỏi mà giáo viên đưa ra. Hệ thống câu hỏi này bám sát nội dung
bài học. Mục đích của bước này nhằm giúp học sinh tìm ra những nội dung cơ bản nhất
trong các mục của bài mới để từ đó biết cách tìm ra từ chìa khóa sau này.

[Hình1: Hệ thống câu hỏi giáo viên cho trước để học sinh thảo luận nhóm]

18
Thời gian hoạt động nhóm thông thường sẽ chiếm 1/3 thời lượng tiết học. Giáo viên
chỉ ghi đề mục của bài học trên bảng, và chia cột theo số lượng mục lớn trong bài. Trong
quá trình học sinh thảo luận theo nhóm, giáo viên sẽ bao quát và hỗ trợ các em, định
hướng cho các em có thể tìm ra những câu trả lời hợp lý. Hết thời gian thảo luận học sinh
ở các nhóm trở về vị trí ban đầu.


[Hình 2: Học sinh thảo luận theo nhóm]

Bước 2: hoàn thiện nội dung thảo luận trên bảng
Sau khi học sinh đã ổn định lại vị trí, giáo viên sẽ chỉ định các nhóm hoàn thành bài

mới bằng cách mỗi nhóm cử một đại diện lên viết phần nội dung chính mà nhóm mình đã
thảo luận lên các phần đã được kẻ sẵn trên bảng. Thông thường mỗi nhóm sẽ phụ trách
mỗi mục lớn trong sách giáo khoa.

19

[Hình 3: Học sinh đang hoàn thành nội dung thảo luận trên bảng và báo cáo]

Bước 3: báo cáo trước tập thể phần mới thảo luận
Trong khi các đại diện của các nhóm hoàn thành phần ghi chép trên bảng, giáo viên
tiếp tục chỉ định bất kỳ học sinh nào đó trong các nhóm, lên báo cáo trước lớp từng phần
theo trình tự trong nội dung bài học.
Để thực hiện tốt bước này, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách giới thiệu bản
thân, cách báo cáo một nội dung kiến thức và kết thúc bài báo cáo của mình. Mỗi học
sinh khi lên báo cáo sẽ giới thiệu họ tên của mình, thuộc nhóm mấy và nội dung mình sẽ
báo cáo. Nội dung phần báo cáo cần bám sát những ý chính của bài học, dựa trên việc
thảo luận những câu hỏi mà giáo viên đã đưa ra từ đầu tiết học. Các học sinh khác sẽ
nghe bạn báo cáo. Kết thúc phần báo cáo của mình, học sinh sẽ cám ơn các bạn và giáo
viên đã lắng nghe và nhận những ý kiến đóng góp.
Bước 4: giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận chung và hoàn thiện kiến thức từng
mục của bài học

20
Học sinh cả lớp sẽ đưa ra ý kiến nhận xét về cả hình thức và nội dung kiến thức,
đóng góp cho thành viên vừa báo cáo. Giáo viên sẽ tổ chức hoạt động này, sau khi tiếp
nhận ý kiến của các thành viên trong những nhóm khác, giáo viên sẽ chốt lại những ý
chính cần phải nắm được trong mục này, đồng thời dùng dụng cụ học tập như tranh ảnh,
mô hình, mẫu vật để hỗ trợ, lấy thêm ví dụ và giảng giải những nội dung khó, mang tính
tư duy hay chuyên môn cao. Ở bước này giáo viên đóng vai trò người điều khiển, nhận
xét, đánh giá và hoàn thiện kiến thức cần nắm được ở mục vừa thảo luận.

Thời gian đầu học sinh sẽ cảm thấy bỡ ngỡ khi tự tìm tòi kiến thức cũng như đứng
trước cả lớp để trình bày một vấn đề, nhưng chỉ sau vài tiết học như thế, học sinh sẽ quen
dần với cáchhọc này, các em có thể thảo luận để tìm ra được nội dung kiến thức cơ bản
của bài học và tự tin báo cáo.
Cũng tại thời điểm này, các học sinh được cử lên ghi chép nội dung thảo luận các
mục trên bảng cũng đã hoàn thành nhiệm vụ. Giáo viên sẽ sửa và bổ sung ngay từng mục
sau báo cáo và ghi chép.
Học sinh cả lớp sẽ xem lại phần chuẩn bị ở nhà của mình và bổ sung những phần
kiến thức còn thiếu. Như vậy giáo viên sẽ không còn nặng nề về vở soạn hay vở ghi chép
của học sinh nữa, vì học sinh sẽ kết hợp hai loại vở để tích lũy thông tin cho mình.
Cứ như vậy giáo viên và học sinh sẽ báo cáo, thảo luận để giải quyết hết nội dung
bài học mới.
Bước 5: Tổng hợp kiến thức và đánh giá
Cuối tiết học toàn bộ nội dung kiến thức cần nắm bắt được thể hiện trên bảng. Học
sinh hoàn thiện bài học trong vở của mình. Kết quả của ý thức hoạt động thảo luận nhóm,

21
việc ghi chép trên bảng, kết quả báo cáo trước lớp và kết quả những ý kiến đóng góp
đúng sẽ là thành tích chung của cả nhóm.
Giáo viên đánh giá và xếp loại A, B, C, D cho các nhóm. Với những cá nhân có
thành tích tốt sẽ được cộng điểm hay cho điểm ngay sau tiết học. Điều này động viên các
em rất nhiều để học tốt hơn.

[Hình 4: Bài học đã hoàn thiện trên bảng]

Hoạt động thảo luận nhóm, tập tìm các từ chìa khóa và báo cáo như trên sẽ được áp
dụng trong 2 tới 3 tuần đầu, giúp học sinh làm quen với việc chủ động nghiên cứu và tìm
tòi kiến thức mới, giúp các em tự tin khi đứng lên báo cáo một vấn đề nào đó trước tập
thể hay trước đám đông. Hầu hết học sinh của chúng ta ở các trường có nhiều học sinh là
con em đồng bào dân tộc thiểu số, mỗi khi đứng trước tập thể để báo cáo một vấn đề, các

em thường lúng túng không biết bắt đầu từ đâu, diễn giải vấn đề đó và kết thúc như thế
nào. Rào cản ngôn ngữ và khả năng diễn đạt đã hạn chế khả năng học tập sáng tạo của
học sinh rất nhiều. Qua cách học như trên tôi đã giúp các em học sinh của mình rất tự tin,

22
hứng khởi và hoạt động tích cực trong tiết học, các em biết tự học tập và khai thác hình
trong sách giáo khoa cũng như đưa ra được các ví dụ hợp lý.
Đây chính là bước đệm để giúp học sinh chuyển sang cách học với SĐTD một cách
hiệu quả.
2.2.3. Hướng dẫn học sinh hiểu khái niệm, ý nghĩa, biết cách thiết kế sơ đồ tư duy
và tìm từ chìa khóa.

[ Hình 5: Giới thiệu sơ đồ tư duy]

Sau khi học sinh đã quen với cách học chủ động trong hoạt động nhóm, giáo viên
cần có tiết ngoại khóa hoặc phụ đạo để giúp các em hiểu khái niệm SĐTD là gì, tại sao
nên chuyển từ cách học truyền thống sang cách học nhóm và sử dụng SĐTD ? Đưa ra
những SĐTD mẫu và kết quả học tập bằng SĐTD ở các trường khác và các nước khác
trên thế giới, đặc biệt là các bài báo, bài phỏng vấn với tác giả của SĐTD, các hình ảnh
thực tế, thông qua hoạt động này giúp các em say mê hứng thú trong việc tiếp cận với
phương pháp học mới. Qua thực tế cho thấy, nhiều học sinh trung bình, khá và giỏi sẽ

23
hưởng ứng ngay và thích thú với việc học theo SĐTD, nhưng phần lớn các em học sinh
yếu và kém sẽ cảm thấy chán nản, không muốn học vì bản thân các em đã không chịu
khó tìm tòi, đầu từ thời gian vào việc chuẩn bị bài ở nhà, bên cạnh đó các em không xác
định được đâu là từ chìa khóa và trọng tâm của bài. Chính vì vậy việc truyền cảm hứng
cho các em, hướng dẫn để các em có thể tự thiết kế được SĐTD cũng rất cần được chú ý.
Việc hoạt động nhóm theo phương pháp chia nhóm cố định sẽ hỗ trợ học sinh có học lực
yếu kém ở các trường dân tộc nội trú hay những trường có lượng học sinh khá giỏi còn

hạn chế, giải quyết những tồn tại này.

[Hình 6: Học sinh tham gia tiết ngoại khóa về sơ đồ tư duy]

2.2.4. Giáo viên thiết kế mẫu sơ đồ tư duy
Việc tìm hiểu lý thuyết chỉ là bước mở đầu, việc thực hành và giúp các em được tiếp
cận với SĐTD trong tiết học thực tế sẽ giúp cho các em hiểu rõ việc mình phải làm hơn.
Hoạt động nhóm như đã nêu ở mục 2.1.2 đã giúp học sinh rèn luyện khả năng bao quát
vấn đề, tìm được nội dung chính của bài học, rèn luyện kỹ năng báo cáo và ghi chép trên

24
bảng, nhưng việc tìm ra từ chía khóa và phát huy khả năng tư duy sáng tạo của các em thì
cần phải thông qua SĐTD.
Để tiến hành một tiết dạy với mục đích vừa học bài mới vừa hướng dẫn học sinh
thiết kế SĐTD đòi hỏi giáo viên phải có khả năng bao quát, tổng hợp kiến thức, cân đối
thời gian và tổ chức tiết học hợp lý, bên cạnh đó giáo viên phải có kỹ năng vẽ hình. Giáo
viên tiến hành vẽ tiêu đề bài học ở trung tâm bảng bằng phấn màu, sau đó đặt câu hỏi cho
học sinh về số lượng mục trong bài, nội dung chính từng mục và cách thiết kế cụ thể một
bài học trên bảng. Mỗi mục được thiết kế theo dạng nhánh với từng màu khác nhau. Giáo
viên đặt các câu hỏi tương tự hệ thống câu hỏi ở phần trước đã rèn luyện cho học sinh để
điền từ chìa khóa vào các nhánh của SĐTD. Kết quả sau tiết học, học sinh cùng giáo viên
thiết kế xong bài học bằng SĐTD. Giáo viên cũng nhắc học sinh những điểm tránh không
sử dụng khi tạo một SĐTD như quá lạm dụng màu sắc, chỉ chú ý tới vẽ hình mà quên nội
dung kiến thức
Giáo viên làm mẫu cho học sinh từ 2 đến 3 tiết, sau đó yêu cầu học sinh về nhà tự
thiết kế bài học mới bằng SĐTD như đã được hướng dẫn. Ở đây giáo viên không bó buộc
cứng nhắc ý tưởng của học sinh, cần tôn trọng các em và chỉ nhắc nhở khi có những học
sinh vẽ sơ đồ bằng những hình dáng không phù hợp với lứa tuổi hay nội dung kiến thức.

25


[Hinh 7: Bài học bằng sơ đồ tư duy]

2.2.5. Tiến trình phối hợp hoạt động nhóm, thảo luận, rèn luyện kỹ năng báo cáo
và sử dụng sơ đồ tư duy
- Công tác chuẩn bị:
Đối với giáo viên: soạn bài và thiết kế bài học theo SĐTD. Dựa vào nội dung bài
mới để đưa ra hệ thống câu hỏi. Phần câu hỏi này có thể được ghi chép sẵn trên bảng phụ
hoặc viết lên bảng. Chuẩn bị một số đồ dùng dạy học như tranh ảnh, sơ đồ, ảnh động,
máy chiếu… với nội dung tương ứng để minh họa cho kiến thức được thể hiện trên
SĐTD bởi vì khi sử dụng SĐTD, sẽ không dủ diện tích bảng để học sinh vẽ hay lồng ghép
tranh ảnh vào sơ đồ. Chuẩn bị danh sách học sinh và đối tượng học sinh nào giáo viên
muốn đánh giá trong buổi học hôm đó.
Đối với học sinh: Toàn bộ học sinh đã được hướng dẫn thiết kế SĐTD sẽ chuẩn bị
bài mới ở nhà bằng cách tự thiết kế sơ đồ theo ý tưởng của mình. Bên cạnh đó các em
chuẩn bị thêm một số hình ảnh có liên quan tới bài học, giải thích các hình vẽ và sơ đồ có
trong nội dung bài mới. Lớp học phải có phấn màu và nơi treo tranh, bảng phụ.

26


[Hình 8: Một bài chuẩn bị ở nhà của học sinh]

- Tiến trình bài mới:
Bước 1: Giáo viên kiểm tra công tác chuẩn bị ở nhà của học sinh
Giáo viên dành khoảng 5 phút để kiểm tra việc chuẩn bị sơ đồ ở nhà của học sinh.
Khoảng thời gian này tương ứng với việc kiểm tra bài cũ theo cách dạy truyền thống.
Giáo viên chọn ra những bài làm đạt chất lượng tốt về hình thức, có tính sáng tạo cao và
một số bài làm sơ sài, có tính chống đối. Sau đó phân tích những điểm được và chưa
được của công việc chuẩn bị bài của học sinh, khuyến khích các em đã chuẩn bị tốt bằng

những lời khen, chỉ ra các điểm mạnh mà các em này đã làm được. Bên cạnh đó nhắc nhở
các em chưa tích cực, chỉ ra các điểm tồn tại của học sinh bằng những câu nhận xét hài
hước, tránh làm các em cảm thấy bị tổn thương vì khả năng vẽ, phối màu, tổ chức và thiết
kế bài học cần có năng khiếu và thời gian làm quen làm. Qua hoạt động kiểm tra bài soạn

27
ở nhà giáo viên sẽ khởi động tiết học, gây hứng thú cho học sinh ngay khi mới vào giờ
học.




[Hình 9: So sánh bài chuẩn bị tốt (bên trái) và bài chuẩn bị chưa tốt(bên phải)]


Cũng qua thao tác này, bước đầu giáo viên đã định hình cho các em biết phải làm gì
với bài học mới thông qua các bài chuẩn bị của các học sinh được biểu dương. Giáo viên
cũng đánh giá được thái độ học tập của tập thể cũng như cá nhân, qua đây cũng có thể
cho điểm học sinh hay cộng điểm để khuyến kích học sinh.

Bước 2: Hoạt động nhóm
Kết thúc phần kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh, giáo viên yêu cầu học
sinh cả lớp nhìn bao quát bài mới và đọc rõ tiêu đề bài học, dẫn dắt học sinh vào bài mới
thông qua những câu chuyện hay kiến thức thực tế.

28
Nhìn bề ngoài, đây là một việc làm không cần thiết lắm đối với học sinh THCS và
THPT bởi vì các em đều có thể đọc được tiêu đề của bài, những qua quá trình dạy học
theo phương thức phối hợp hoạt động nhóm với SĐTD tôi nhận thấy, việc yêu cầu học
sinh bao quát bài mới và đọc to tiêu đề của bài là rất quan trọng. Thao tác này giúp học

sinh nắm được thông tin tổng thể bài học và hiểu được nội dung cần nghiên cứu của bài
mới, bởi vì tiêu đề và các đề mục đã thể hiện rất rõ kiến thức cần nắm bắt trong bài học.
Giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi liên quan tới nội dung bài học, khi trả lời các câu
hỏi này, học sinh sẽ nắm được nội dung bài mới. Các câu hỏi này có thể được chuẩn bị
trước bằng bảng phụ hay giáo viên sẽ viết lên bảng trong khi học sinh hoạt động nhóm.
Học sinh về nhóm của mình để thảo luận, các em sẽ đưa SĐTD đã thiết kế ở nhà, đối
chiếu với bài của các bạn khác, kiểm tra lại các mục và nội dung chính, bổ sung các thông
tin còn thiếu trong bài của mình, trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa và giải thích hình
vẽ hay sơ đồ trong bài học. Trong quá trình chuẩn bị SĐTD ở nhà các em có thể vẽ vào
giấy A4 hay vở học, có chừa ra những khoảng trống để bổ sung thêm khi giáo viên giảng
bài, toàn bộ SĐTD sau giờ học sẽ được lưu giữ lại như vở ghi chép của các em.
Trong khi học sinh hoạt động nhóm, giáo viên hỗ trợ các em khi gặp các câu hỏi
khó, sau đó giáo viên vẽ phần trung tâm với tiêu đề bài mới để trong hoạt động tiếp theo
các em sẽ tiếp tục thiết kế SĐTD. Điều cần lưu ý là giáo viên chỉ viết tiêu đề bài ở trung
tâm, không vẽ màu hay có ý tưởng gì thêm, tất cả phần thiết kế sẽ được học sinh tự làm ở
phần sau. Nếu giáo viên đưa ra ý tưởng ban đầu, bắt buộc học sinh sẽ phải nối tiếp các
hình vẽ theo ý tưởng của giáo viên, việc này sẽ hạn chế tính sáng tạo của các em.
Kết thúc hoạt động nhóm học sinh phải nắm bắt được tổng thể kiến thức có trong bài
học, giải thích được kênh hình của bài, trả lời các câu hỏi của giáo viên và câu hỏi trong
sách giáo khoa, bổ sung được sơ đồ của mình theo ý tưởng thảo luận của nhóm và sẵn sàng

29
để chuyển sang hoạt động tiếp theo của tiết học. Thời lượng của việc hoạt động nhóm
khoảng 1/3 thời gian tiết học.


[Hình 10: Giáo viên hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm]

Bước 3: Báo cáo và thiết kế bài mới bằng SĐTD trên bảng
(1) Học sinh thiết kế SĐTD trên bảng:

Sau khi kết thúc hoạt động nhóm, giáo viên yêu cầu các nhóm cử đại diện lên bảng
thiết kế các mục của bài học, ví dụ nhóm thứ nhất thiết kế phần I, nhóm thứ hai sẽ thiết kế
phần II… như vậy các em đã thảo luận toàn bộ nội dung của cả bài học, nhưng khi thiết kế
SĐTD trên bảng thì mỗi nhóm chỉ vẽ một mục. Các nhóm sẽ không biết trước nhóm mình
sẽ thiết kế mục nào nên bắt buộc các em phải thảo luận kỹ lưỡng nội dung của cả bài,
không có hiện tượng bỏ qua kiến thức. Nếu giáo viên giao nhiệm vụ trước cho học sinh,
các em sẽ tập trung vào mục mình sẽ làm mà bỏ qua các mục khác, dẫn tới có nội dung
được nghiên cứu sâu, nhưng có những mục các em không hiểu.

×