Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tiểu Luận: Ảnh Hưởng Của Lạm Phát Đối Với Thuế Thu Nhập Cá Nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.78 KB, 21 trang )

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 1




TIỂU LUẬN THUẾ

ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN




GVHD : PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng
SVTH : Lương Trung Quý
Lớp : Ngân hàng Đêm 6 – K20






Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 2




Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN

VÀ LẠM PHÁT

1. Khái quát chung về thuế thu nhập cá nhân (TNCN)
1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân
a. Định nghĩa thu nhập
Tùy theo mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế quan niệm về thu nhập dưới các góc độ khác
nhau. Hai nhà kinh tế Anh là R.M Haig và H.G Simons đầu thế kỷ 20 đã đưa ra định nghĩa về thu
nhập (sau này gọi là định nghĩa Haig-Simons) cho rằng thu nhập là tổng giá trị của cải ròng tăng
lên của một cá nhân cộng với sự tiêu dùng của người đó trong một thời gian nhất định, thường là
một năm. Quan điểm này mang tính lý thuyết và được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, trên thực tế
rất khó thực hiện, vì giá trị tăng thêm mới chỉ tồn tại ở tiềm năng, mặt khác lại biểu hiện dưới các
hình thức khác nhau như tiền, hàng hóa và dịch vụ song lại chỉ được thực hiện khi có sự chuyển
dịch quyền sở hữu.
Dựa trên cơ sở định nghĩa của Haig-Simons, các nhà kinh tế hiện đại đưa ra quan niệm mới
về thu nhập làm cơ sở đánh thuế TNCN
- Khái niệm bao quát: thu nhập là mọi khoản thu nhập ròng từ các nguồn sau khi khấu trừ
các chi phí tạo ra chúng.
- Quan niệm hạn hẹp: dựa trên cơ sở thu nhập chỉ giới hạn trong những lợi ích phát sinh lặp
đi lặp lại, có tính liên tục để hình thành phương thức đánh thuế thu nhập từ các nguồn phát
sinh thu nhập.
Dựa trên các định nghĩa trên có thể nhận thấy thu nhập có đặc điểm chung sau: Thu nhập là
tổng các tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ là một chủ thể nào đó trong nền
kinh tế - xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình
phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng


SVTH: Lương Trung Quý 3
(thường là một năm).
b. Thuế thu nhập cá nhân
Thuế TNCN phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Thuế xuất hiện khi trong xã hội xuất hiện sản phẩm thặng dư cùng với sự phân chia giai
cấp, Thuế được giai cấp thống trị dùng như một công cụ để tạo ra nguồn thu chủ yếu cho mọi nhu
cầu chi tiêu của bộ máy nhà nước nói chung hay của giai cấp thống trị nói riêng.
Trên cơ sở những khái niệm về Thuế, chúng ta có thể rút ra khái niệm về thuế TNCN theo
pháp luật hiện hành như sau: “Thuế thu TNCN là loại thuế chủ yếu đánh vào thu nhập của cá
nhân nhằm thực hiện công bằng xã hội, động viên một phần thu nhập của cá nhân vào ngân sách
nhà nước và có thể được sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua việc khuyến khích làm
việc hay nghỉ ngơi, thông qua việc thu hay không thu thuế đối với các khoảng thu nhập từ kinh
doanh, đầu tư,…. Thuế này được coi là loại thuế đặc biệt vì có lưu ý đến hoàn cảnh của các cá
nhân có thu nhập phải nộp thuế thông qua việc xác định miễn, giảm thuế hoặc khoản miễn trừ đặc
biệt.
1.2. Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân
- Thuế TNCN là thuế trực thu, đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Do là thuế
trực thu nên nó phản ánh sự đồng nhất giữa đối tượng nộp thuế theo luật và đối tượng chịu
thuế theo ý nghĩa kinh tế. Người nộp thuế cũng là người chịu thuế, người chịu thuế TNCN
không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế sang cho các đối tượng khác tại thời điểm
đánh thuế.
- Thuế TNCN có diện đánh thuế rất rộng, thể hiện trên hai khía cạnh:
 Thứ nhất, đối tượng đánh thuế TNCN là toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc
diện đánh thuế, không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở
nước ngoài.
 Thứ hai, đối tượng phải kê khai nộp thuế TNCN là toàn bộ những người có thu nhập
từ hoạt động kinh doanh, bao gồm tất cả công dân của nước sở tại và những người
nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên nhưng có số ngày có mặt,
làm việc, có thu nhập theo mức độ quy định của pháp luật thuế TNCN.
- Thuế TNCN là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên nguyên tắc theo luật

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 4
định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế TNCN gắn với quyền lực, sức mạnh của Nhà
nước.
- Thuế TNCN là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Nó vận động
một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải trả cho Nhà nước do được
hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
- Thuế TNCN luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Hầu hết các quốc gia đều
gắn chính sách thuế TNCN với một số chính sách xã hội khác (như phúc lợi công cộng,
chăm sóc sức khỏe…).
Thuế TNCN có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập bao gồm: công dân
nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xuyên hay không thường xuyên tại nước đó và
hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá nhân đều phải tính thuế không kể nguồn thu nhập
phát sinh trong nước hay ngoài nước. Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách của
thuế TNCN rất cao.
Việc đánh thuế TNCN thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy tiến từng phần. Đặc
điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế TNCN là điều tiết mạnh người có thu nhập cao,
góp phần thực hiện công bằng xã hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp
ứng được nhu cầu đó vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao.
Xét về góc độ kinh tế, thuế TNCN có tính trung lập cao hơn so với các loại thuế khác vì việc
tăng hay giảm thuế TNCN hầu như không kéo theo những biến đổi về cơ cấu kinh tế.
1.3. Vai trò của thuế TNCN
Trước bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và những sự biến đổi lớn của điều kiện
kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc ban hành Luật thuế TNCN ở nước ta là hết sức cần thiết
và có vai trò quan trọng về nhiều mặt. Là một bộ phận của hệ thống thuế nên thuế TNCN vừa
mang vai trò chủ yếu của thuế nói chung, vừa có các vai trò riêng mà các loại thuế khác không có
được.
1.3.1 Đối với nền kinh tế- xã hội

* Tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước
Thuế TNCN là một trong những bộ phận quan trọng cấu thành thuế nói chung nên cũng góp
một phần quan trọng để tạo nguồn tài chính cho nhà nước. Thuế TNCN được tính với diện rộng,
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 5
khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách rất lớn. Bên cạnh đó, thuế TNCN tác động trực tiếp vào
thu nhập của dân cư mà người dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đều mong muốn và cố gắng có
thu nhập ngày càng cao để nâng cao đời sống vật chất tinh thần. Thuế TNCN luôn có sự gia tăng
nhanh chóng cùng với sự tăng lên của thu nhập bình quân đầu người.
* Góp phần thực hiện công bằng xã hội
Trong mỗi quốc gia, thu nhập của mỗi cá nhân phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khả
năng và trình độ lao động, vị trí công tác, quyền sở hữu về tài sản của cá nhân đó. Tuy nhiên, các
yếu tố nói trên của mỗi cá nhân thường không giống nhau nên đã tạo ra sự khác nhau về thu nhập
của mỗi người. Chính sự khác nhau ấy là nguồn gốc tạo ra sự phân cực giàu nghèo, là sự bất bình
đẳng trong xã hội. Để giải quyết vấn đề này, các nước đã dùng nhiều hình thức và biện pháp khác
nhau trong đó thuế TNCN được xem như một công cụ hữu hiệu để điều tiết bớt thu nhập của
những người có thu nhập cao, đảm bảo công bằng xã hội.

Hình: Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu nhập
Để thấy rõ vai trò của thuế TNCN , có thể sử dụng đường cong Lorenz sau đây. Trên đồ thị,
đường cong Loenz càng gần đường phân giác thì càng phản ánh sự phân phối công bằng. Điều đó
được trợ giúp bởi thuế lũy tiến thông qua thực hiện thuế TNCN để đảm bảo rút ngắn khoảng cách
phân hóa giàu nghèo xã hội.
* Điều tiết thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Thuế TNCN là một công cụ rất cần thiết để thực hiện việc kiểm soát thu nhập của các tầng
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng


SVTH: Lương Trung Quý 6
lớp dân cư, thực hiện công bằng xã hội và quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Để kiểm soát thu
nhập dân cư, nhà nước phải sử dụng đồng thời cả hai cơ chế quản lý quỹ tiền lương, tiền công,
chế độ báo cáo quyết toán kinh doanh…và cơ chế kê khai nộp thuế TNCN, tuy ban đầu có thể
chưa chính xác, nhưng sẽ là căn cứ để thống kê thu nhập dân cư phục vụ chương trình mục tiêu
nghiên cứu quốc gia, hoạch định chính sách phát triển phù hợp khi tính tuân thủ pháp luật, pháp
chế xã hội được nâng lên.
Thông qua các cơ chế và công cụ quản lý đó mà nhà nước sẽ có giải pháp tăng cường hoặc
giảm bớt điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư làm cho tổng cầu xã hội giảm hoặc tăng, từ đó
có tác dụng co hẹp hay kích thích kinh tế phát triển. Đó chính là vai trò quản lý điều tiết vĩ mô
nền kinh tế mà chính sách thuế TNCN góp phần tác dụng đáng kể.
Thực hiện điều tiết kinh tế trong điều kiện tăng năng suất và hiệu quả kinh tế theo lý thuyết
trọng cung, các nhà kinh tế học thuộc trường phái này mà đại diện là Laffer đã đưa ra đường cong
lý thuyết nổi tiếng là đường cong Laffer

Mô hình đường cong Laffer cho thấy mối quan hệ giữa thuế suất và tổng thu nhập từ thuế.
Nếu mức thuế được xác định cao hơn mức t0 sẽ gây ra phản ứng như hạ thấp động lực kinh
doanh, chuyển vốn đầu tư sang lĩnh vực khác chịu thuế thấp hơn, chuyển sang hoạt động ngầm để
trốn thuế. Điều này cho thấy, nếu thuế suất của thuế thu nhập hợp lý sẽ tác động kích thích tăng
trưởng kinh tế và tăng thu cho ngân sách. Việc nghiên cứu một mức thuế TNCN phù hợp để nâng
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 7
cao kích thích của nó được đánh giá quan trọng hơn vai trò công bằng mà nó tạo ra trong phân
phối thu nhập.
* Góp phần phát hiện thu nhập bất hợp pháp
Thực tế đã chứng minh nhiều khoản thu nhập của một số cá nhân nhận được từ việc thực hiện
các hành vi bất hợp pháp hoặc bằng cách lợi dụng những kẽ hở của pháp luật mà nhà nước không
kiểm soát được như tham ô, nhận hối lộ, buôn bán hàng quốc cấm, trốn tránh thuế, lừa đảo chiếm

đoạt tài sản của nhà nước và công dân Những hành vi này ảnh hưởng rất xấu đến đời sống kinh
tế – xã hội của mỗi quốc gia. Phải kết hợp hữu hiệu nhiều biện pháp để ngăn chặn và chống lại
những hành vi trên, một trong số các biện pháp ngăn chặn đó thì phải kể đến vai trò của thuế
TNCN.

1.3.2 Đối với hệ thống thuế
* Góp phần khắc phục nhược điểm của một số loại thuế khác
Một số thuế gián thu như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đều có nhược điểm là có
tính luỹ thoái và ảnh hưởng đến người nghèo nhiều hơn người giàu vì khi tiêu thụ cùng một
lượng hàng hoá mọi người không phân biệt giàu nghèo và đều phải chịu thuế như nhau. Nếu tính
thuế TNCN theo phương pháp luỹ tiến từng phần sẽ góp phần khắc phục được nhược điểm này
* Góp phần hạn chế sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp
Trong doanh nghiệp thường tồn tại cả thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế TNCN Giữa hai
loại thuế này luôn luôn tồn tại mối quan hệ gắn bó với nhau. Thuế TNCN còn góp phần khắc
phục sự thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp khi có sự thông đồng giữa các doanh nghiệp hay
giữa doanh nghiệp với cá nhân. Trong trường hợp doanh nghiệp kê khai cao hơn thực tế những
chi phí phải trả cho các cá nhân để làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp hòng trốn thuế
thu nhập doanh nghiệp thì các cá nhân nhận được những khoản trả nói trên sẽ phải nộp thêm thuế
TNCN đối với phần thu nhập nhận được kê khai tăng thêm đó. Thu nhập của doanh nghiệp tăng
thường kéo theo sự tăng lên của thuế TNCN và thuế thu nhập doanh nghiệp.
* Góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế
Xây dựng và phát triển, hoàn thiện chính sách thuế TNCN là góp phần hoàn thiện hệ thống
chính sách thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập với kinh tế thế giới. Việc ban
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 8
hành Luật thuế TNCN là bước thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng về lĩnh vực tài chính
tiền tệ đồng thời là bước đi phù hợp lộ trình cải cách thuế theo mục tiêu chiến lược Chính phủ đã
hoạch định.

Nhận thức đúng vai trò vị trí hiện tại cũng như hướng phát triển hoàn chỉnh của chính sách
thuế TNCN, quán triệt đầy đủ nội dung yêu cầu của Luật thuế TNCN mới ban hành để tuyên
truyền, giáo dục pháp luật thuế, vận động toàn dân hiểu biết, chấp hành là nghĩa vụ và trách
nhiệm của các tổ chức, cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức, công dân theo quy định của Luật
Quản lý thuế, ban hành ngày 29/11/2006.
Tóm lại, Thuế TNCN đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, ngày
càng trở thành nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Dù không phải là mục tiêu chủ yếu,
song thực hiện phát triển chính sách thuế trực thu nói chung, thuế TNCN nói riêng chính là là
việc tạo lập và phát triển nguồn thu vững chắc cho ngân sách nhà nước. Cùng với xu hướng tăng
trưởng kinh tế ngày càng cao, hội nhập và phát triển, thu nhập quốc dân đầu người ngày càng lớn
thì khả năng huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua thuế TNCN sẽ ngày càng
tăng và sẽ ngày một dồi dào. Tuy nhiên, vì công tác quản lý thuế TNCN còn nhiều hạn chế nên
những vai trò này vẫn chưa thực sự được phát huy ở những nước chậm phát triển
1.4. Nguyên tắc đánh thuế TNCN:
- Đánh thuế trên cơ sở thu nhập chịu thuế hiện hữu
Mặc dù cá nhân có nhiều nguồn thu nhập khác nhau nhưng thực tế, không phải toàn bộ thu
nhập phát sinh đều thuộc đối tượng điều chỉnh của thuế TNCN. Thu nhập cá nhân chỉ điều chỉnh
phần thu nhập chịu thuế, vì vậy thu nhập chịu thuế được xác định trên cơ sở các thu nhập được
sau khi miễn trừ một số khoản chi phí của người nộp thuế.
- Đánh thuế TNCN theo phương pháp lũy tiến
Thuế TNCN chủ yếu là thuế lũy tiến: là sắc thuế có tỷ lệ ngày càng tăng theo thu nhập chịu
thuế, là loại thuế thu nhiều phần trăm hơn vào thu nhập của người có thu nhập cao và ít phần trăm
vào thu nhập của người có thu nhập thấp. Thuế lũy tiến được coi là phương pháp hữu hiệu để
đánh thuế theo khả năng trả thuế của cá nhân. Người thu nhập cao có nhiều khả năng trả thuế hơn
người thu nhập thấp. Cơ sở lý thuyết: độ hữu dụng biên của thu nhập giảm dần

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 9





2. Lạm phát:
2.1 Khái niệm:
Lạm phát được định nghĩa là sự gia tăng liên tục trong mức giá chung. Điều này
không nhất thiết có nghĩa giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo
cùng một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Lạm phát vẫn có thể xảy ra khi giá
của một số hàng hóa giảm, nhưng giá cả của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.
Lạm phát cũng có thể được định nghĩa là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Trong
bối cảnh lạm phát, một đơn vị tiền tệ mua được ngày càng ít đơn vị hàng hóa và dịch vụ
hơn. Hay nói một cách khác, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta sẽ phải chi ngày càng nhiều
tiền hơn để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ nhất định.
Nếu thu nhập bằng tiền không tăng kịp tốc độ trượt giá, thì thu nhập thực tế, tức là
sức mua của thu nhập bằng tiền sẽ giảm. Do vậy, thu nhập thực tế tăng lên hay giảm xuống
trong thời kỳ lạm phát phụ thuộc vào điều gì xảy ra với thu nhập bằng tiền, tức là, phải
chăng các cá nhân có nhận thêm lượng tiền đã giảm giá trị đủ để bù đắp cho sự gia tăng của
mức giá hay không. Người dân vẫn có thể trở nên khá giá hơn khi thu nhập bằng tiền tăng
nhanh hơn tốc độ tăng giá.
Lạm phát không chỉ đơn thuần là sự gia tăng của mức giá mà đó phải là sự gia tăng
liên tục trong mức giá. Nếu như chỉ có một cú sốc xuất hiện làm tăng mức giá, thì dường
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 10
như mức giá chỉ đột ngột bùng lên rồi lại giảm trở lại mức ban đầu ngay sau đó. Hiện tượng
tăng giá tạm thời như vậy không được gọi là lạm phát.
Trường hợp ngược lại của lạm phát là giảm phát, diễn ra khi mức giá chung liên tục
giảm. Khi đó, sức mua của đồng nội tệ liên tục tăng.

2.2 Đo lường lạm phát:
Để đo lường mức độ lạm phát mà nền kinh tế trải qua trong một thời kỳ nhất định,
các nhà thống kê kinh tế sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi
của mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau:


Trong đó:
π
e
: tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm)
P
t
: mức giá của thời kỳ t
P
t-1
: mức giá của thời kỳ trước đó
Người ta thường sử dụng chỉ số điều chỉnh GDP (D) và chỉ số giá tiêu dùng (CPI) để đo
lường mức giá chung. Trong thực tế, các số liệu công bố chính thức về lạm phát trên toàn
thế giới đều được tính trên cơ sở CPI.
2.3 Các lạm nguyên nhân gây ra lạm phát:
2.3.1. Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ:
Những nhà kinh tế học thuộc phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung tiền
thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra và được giải thích bằng phương trình số lượng sau:
M.V = P.Y
Trong đó: M: Lượng cung tiền danh nghĩa
V: Tốc độ lưu thông tiền tệ
P: Chỉ số giá (mức giá trung bình)
Y: Sản lượng thực
Học thuyết này cho rằng khi tăng lượng tiền cung ứng thì mức giá cả cũng tăng
theo tương ứng (vì V và Y gần như không đổi trong ngắn hạn). Nội dung học thuyết tập

trung luận giải những yếu tố hình thành giá cả có liên quan trực tiếp đến:
- Quá trình hình thành và phát triển thị trường tiêu dùng (cầu hàng hóa, dịch vụ);
P
t



P
t
-
1


P
t
-
1

π
e
=
===
=
x

100%

Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng


SVTH: Lương Trung Quý 11
- Cung hàng hoá và dịch vụ;
- Mối tương quan giữa cung và cầu hàng hoá;
- Giá cả sản xuất.
Tất cả các yếu tố hình thành giá cả được xem xét như là nguyên nhân tăng giá. Về
cảm giác thì ai cũng có thể nhận thấy rằng giá cả năng lượng, nguyên liệu… có tác động
đến lạm phát nhưng sự tác động này phải nằm trong mối liên hệ của 4 yếu tố nêu trên (cung,
cầu, mối tương quan giữa cung cầu, giá cả sản xuất).
2.3.2. Lạm phát do cầu kéo:
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao
động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch
sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.
Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có
cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.
2.3.3. Lạm phát do cầu thay đổi:
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng
khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng
nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn
không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức
giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.

2.3.4. Lạm phát do chi phí đẩy:
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố
sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, đó là lạm phát do chi phí đẩy. Chi phí tăng lên bởi một
số yếu tố như:
- Tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động.
- Các cuộc khủng hoảng về nhiên nguyên vật liệu cơ bản như: dầu mỏ, sắt thép.
- Do thuế suất tăng làm ảnh hưởng đến mức sinh lời của các doanh nghiệp.
2.3.5. Lạm phát do cơ cấu:
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành

kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động
trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 12
tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
2.3.6. Lạm phát do xuất khẩu:
Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy
động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng
cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
2.3.7. Lạm phát do nhập khẩu:
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu
tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường hợp OPEC quyết định tăng giá
dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng.
Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
2.3.8. Lạm phát tiền tệ:
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho
đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là
nguyên nhân gây ra lạm phát.
Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt
quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế́. Có thể
do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ
thị trường mở hay chính sách tiền tệ nới lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong
tay bạn có nhiều hơn 100 triệu , thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. Áp
lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên.
2.3.9. Lạm phát đẻ ra lạm phát:
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá tăng
lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng cao tạo

nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung hàng hóa
sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên => gây ra lạm phát.






Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 13
Chương 2: MỐI QUAN HỆ CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN

1. Các tác động của lạm phát đến nền kinh tế:
Lạm phát có ảnh hưởng nhất định nhất định đến sự phát triển kinh tế - xã hội tùy theo
mức độ của nó. Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh
những tác hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại
nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm
phát đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng và các thể chế có tiên tri
được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một điều bất ngờ. Nếu như lạm
phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn
bởi người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước
được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm
mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế.
1.1 Tác động phân phối lại thu nhập và của cải:
Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác nhau
trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những người có tài sản,
những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng lên, còn

giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương, những người
gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại.
Để tránh thiệt hại, một số nhà kinh tế đưa ra cách thức giải quyết đơn giản là lãi suất
cần được điều chỉnh cho phù hợp với tỷ lệ lạm phát. Ví dụ, lãi suất thực là 3%, tỷ lệ tăng giá
là 9%, thì lãi suất danh nghĩa là 12%. Tuy nhiên, một sự điều chỉnh cho lãi suất phù hợp tỷ
lệ lạm phát chỉ có thể thực hiện được trong điều lạm phát ở mức độ thấp.
1.2 Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm:
Trong điều kiện nền kinh tế chưa đạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy
sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm
vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân.
Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì
thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát tăng lên. Nhà
kinh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm”, theo đó
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 14
một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp thấp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ
lạm phát cao hơn.
1.3 Tác động đến nguồn thu ngân sách nhà nước:
Lạm phát gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước bằng việc bào mòn giá trị thực của
những khoản công phí. Ngoài ra lạm phát cao kéo dài và không dự đoán trước được làm cho
nguồn thu ngân sách nhà nước bị giảm do sản xuất bị suy thoái. Tuy nhiên, lạm phát cũng
có tác động làm gia tăng số thuế nhà nước thu được trong những trường hợp nhất định. Nếu
hệ thống thuế tăng dần (thuế suất lũy tiến) thì tỷ lệ lạm phát cao hơn sẽ đẩy người ta nhanh
hơn sang nhóm phải đóng thuế cao hơn, và như vậy chính phủ có thể thu được nhiều thuế
hơn mà không phải thông qua luật.
1.4 Các tác động khác:
Trong điều kiện lạm phát cao và không dự đoán được, cơ cấu nền kinh tế dễ bị mất
cân đối vì khi đó các nhà kinh doanh thường hướng đầu tư vào những khu vực hàng hóa có

giá cả tăng lên cao, nhưng ngành sản suất có chu kỳ ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh, hạn
chế đầu tư vào những ngành sản suất có chu kỳ dài, thời gian thu hồi vốn chậm vì có nguy
cơ gặp phải nhiều rủi ro. Trong lĩnh vực lưu thông, khi vật giá tăng quá nhanh thì tình trạng
đầu cơ, tích trữ hàng hóa thường là hiện tượng phổ biến, gây nên mất cân đối giả tạo làm
cho lưu thông càng thêm rối loạn. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, lạm phát xảy
ra làm tăng tỷ giá hối đoái. Sự mất giá của tiền trong nước so với ngoại tệ tạo điều kiện
tăng cường tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tuy nhiên nó gây bất lợi cho hoạt động nhập
khẩu. Lạm phát cao và siêu lạm phát làm cho hoạt động của hệ thống tín dụng rơi vào tình
trạng khủng hoảng. Nguồn tiền trong xã hội bị sụt giảm nhanh chóng, nhiều ngân hàng bị
phá sản vì mất khả năng thanh toán, lạm phát phát triển nhanh, biểu giá thường xuyên thay
đổi làm cho lượng thông tin được bao hàm trong giá cả bị phá hủy, các tính toán kinh tế bị
sai lệch nhiều theo thời gian, từ đó gây khó khăn cho các hoạt động đầu tư. Trong thời kỳ
lạm phát giá cả hàng hóa – dịch vụ tăng lên một cách vững chắc, bên cạnh đó tiền lương
danh nghĩa cũng theo xu hướng tăng lên, vì vậy thu nhập thực tế của người lao động nói
chung có thể vững hoặc tăng lên, hoặc giảm đi chứ không phải bao giờ cũng suy giảm.
Như vậy lạm phát đã ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và nhà
nước phải áp dụng những biện pháp thích hợp để kiềm chế, kiểm soát lạm phát.
2. Tác động của lạm phát đối với thuế thu nhập cá nhân:
2.1 Tác động của lạm phát đối với thuế thu nhập cá nhân:
- Lạm phát tác động tới thuế thu nhập cá nhân bằng nhiều cách. Bất cứ đại lượng nào của
thuế thu nhập được tính bằng số đo danh nghĩa, như là các dòng thuế và các khoản giảm
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 15
thuế, đều thay đổi giá trị khi có lạm phát. Nếu các dòng thuế cố định theo các số đo danh
nghĩa, thì trong trường hợp lạm phát mà nó làm cho thu nhập danh nghĩa tăng lên, người trả
thuế được đẩy lên dòng thuế cao hơn. Hiện tượng này, được nhắc đến như là sự trườn lên
của dòng thuế, là một cách mà thuế suất trung bình tăng lên theo thời gian. Để ngăn chặn sự
trườn lên của dòng thuế này, các dòng thuế có thể được áp dụng hệ số theo những thay đổi

của chỉ số giá. Các khoản khấu trừ chuẩn, miễn giảm cá nhân, và tín dụng cũng được xác
lập theo các số đo danh nghĩa và bị giảm giá trị trong trường hợp lạm phát nếu chúng không
được áp dụng hệ số theo những thay đổi của chỉ số giá. Một số hệ thống thuế thu nhập chỉ
số hóa những tiêu chí danh nghĩa này theo lạm phát, nhưng thực tế là các chính phủ thường
nuốt lời về những khoản điều chỉnh theo lạm phát. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, các
tiêu chí danh nghĩa này được điều chỉnh định kỳ, tạo cho chính phủ có một sự linh động hơn
về ngân sách và cơ hội để giành điểm chính trị của những người trả thuế bằng việc đề nghị
cắt giảm thuế trong khi đó chúng thực chất chỉ là bù đắp cho ảnh hưởng của lạm phát.
Ví dụ về tác động chuyển nhóm thu nhập
- Nhóm thu nhập 0 - 5.000.000đ chịu thuế suất 5%; nhóm thu nhập trên 5.000.000đ
chịu thuế suất 10%.
- Tỷ lệ lạm phát trong GĐ 2009-2011 là 50%
- Thu nhập danh nghĩa của một cá nhân năm 2009 là 5.000.000đ sẽ tăng lên
7.500.000đ vào năm 2011.
ĐVT: ngàn đồng
Năm 2009 2011
Thu nhập danh nghĩa 5.000 7.500
Thuế danh nghĩa 250 500
Thuế suất bình quân 5% 6.67%
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 16
Thuế theo giá thực 250 333.5


 Cá nhân này rơi vào nhóm thu nhập cao hơn và phải chịu thuế suất 10%.
 Thuế suất trung bình tăng từ 5% năm 2009 lên 6,67% năm 2011 do chuyển nhóm thu
nhập chịu thuế, mặc dù xét về giá trị thực thì sức mua của người này là không thay
đổi. Hơn nữa, nghĩa vụ thuế theo giá trị thực đã tăng 83.500đ

Hiệu chỉnh tác động chuyển nhóm thu nhập do lạm phát gây ra thông qua chỉ số
hoá.
 Chỉ số hóa các nhóm thu nhập chịu thuế theo lạm phát là cần thiết để tránh tác
động "chuyển nhóm thu nhập".
 Nếu các nhóm thu nhập được điều chỉnh, thì nhóm đầu tiên sẽ tăng lên tới
7.500.000đ với thuế suất 5%.
 Bây giờ cả thuế suất trung bình và thuế theo giá trị thực năm 2009 và 2011 đều
bằng nhau.
Năm 2009 2011
Thuế suất
5% <5.000 <7,500
10% >5.000 >7.500
Thuế phải trả
Thu nhập d.nghĩa 5.000 7.500
Thuế danh nghĩa 250 375
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 17
Thuế suất bình quân 5% 5%
Thuế theo giá thực 250 250

2.2 Tác động của lạm phát đối với thuế trực thu khác (trên vốn và tiền lãi):
- Việc đánh thuế vào thu nhập từ vốn là một lĩnh vực khác nữa mà lạm phát tác động qua
lại với luật thuế để thay đổi gánh nặng thuế thực. Lợi tức có từ vốn nói chung là được đánh
thuế trên cơ sở danh nghĩa. Một số luật thuế thực hiện hệ số hóa lợi tức vốn theo lạm phát,
ví dụ như Vuơng quốc Anh, nhưng điều này cũng tạo ra sự phức tạp nhất định về mặt quản
lý hành chính và đặt ra một số vấn đề để hệ số hóa được thực hiện một cách thỏa đáng. Giả
sử mua một tài sản trị giá 1tỷ đồng. Ba năm sau bán được 2 tỷ đồng. Giả sử thêm rằng,
trong 3 năm đó mức giá chung tăng gấp đôi. Trên phương diện giá thực, việc bán tài sản

mang lại một khoản lãi thực bằng 0. Tuy nhiên, nghĩa vụ thuế tính trên thu nhập từ vốn dựa
trên sự khác biệt giữa giá mua và giá bán danh nghĩa. Do đó, phải chịu một khoản thuế tính
trên 1 tỷ đồng lãi giả tạo. Tóm lại, vì phần tăng lênh của tiền lãi trên vốn (do lạm phát ) phải
chịu thuế nên gánh nặng thuế thực phụ thuộc vào tỷ lệ lạm phát.
- Chúng ta hãy xem xét lãi suất danh nghĩa là 16%. Giả sử thêm rằng mức lạm phát
dự đoán là 12%. Do đó đối với những ai cho vay ở mức lãi suất danh nghĩa là 16% thì lãi
suất thực chỉ là 4%, vì đó là tỷ lệ sức mua tăng lên thực sự của người cho vay. Tuy nhiên,
thuế lại được tính trên khoản tiền lãi danh nghĩa chứ không phải lãi thực. Tức là, thuế phải
được tính theo số tiền nhận được mà nó không đại diện cho một khoản thu nhập thực sự
nào. Lãi danh nghĩa chứ không phải lãi thực thường được đánh thuế khi nó được nhìn nhận
là nguồn thu nhập và được khấu trừ khi vay, điều này làm tăng lên trong gánh nặng về thuế
đối với người cho vay và làm giảm gánh nặng về thuế đối với người đi vay trong tình trạng
lạm phát làm tăng lãi suất danh nghĩa.
3. Tác động của thuế thu nhập cá nhân đến lạm phát:
- Trong môi trường nền kinh tế có lạm phát cao, những công cụ thường được các Chính
phủ sử dụng để kiềm chế lạm phát như chính sách tiền tệ thắt chặt, đẩy lãi suất tăng cao, cắt
giảm đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước… đều có những hạn chế nhất định như lãi suất
tăng cao để hạn chế tăng trưởng tín dụng khiến cho doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng, sản
xuất kinh doanh trì trệ; hay chính sách cắt giảm đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước cũng
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 18
ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế, do nhà nước là chủ đầu tư lớn nhất nên khi cắt giảm
đầu tư đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, công ăn việc
làm của người dân… Chính vì thế, trong khi doanh nghiệp vẫn tiếp tục đương đầu với khó
khăn, chính sách tiền tệ và tài khóa chưa thể nới lỏng thì chính phủ cần thực hiện những
biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho nhà đầu tư và doanh nghiệp để kích thích sản xuất và phát
triển. Một trong những biện pháp đó chính là việc miễn, giảm, hoãn các khoản thuế trực thu
phải đóng; cải cách các thủ tục để doanh nghiệp dễ dàng gia nhập thị trường, nới lỏng một

số quy định để doanh nghiệp phát triển và mở rộng kinh doanh Trong đó, trực tiếp và hiệu
quả nhất chính là các chính sách miễn giảm thuế. "Độ trễ" của chính sách này được chứng
minh là rất ngắn. Giải pháp này thường phát huy tác dụng ngay sau khi chính sách được ban
hành.
- Ngoài ra, ta cũng biết rằng lạm phát được coi như là một đòn bẩy vào chính mức
thuế thu nhập của người có thu nhập. Cụ thể môi trường lạm phát cao thì làm cho các khoản
mất đi từ thuế có tác động lớn hơn rất nhiều so với môi trường lạm phát thấp (thuế trên
thuế). Chính vì vậy, giảm thuế trong môi trường lạm phát cao có tác dụng tích cực về hỗ trợ
mức sống, hỗ trợ vốn cho việc tiếp tục duy trì hoạt động đầu tư, kinh doanh.
- Nếu lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân chi phí đẩy, việc miễn giảm các loại thuế
như trên là rất cần thiết. Đó cũng là một cách để cứu doanh nghiệp và chống suy giảm kinh
tế, chống lạm phát Nếu lạm phát bắt nguồn từ nguyên nhân cầu kéo thì khi giảm thuế trực
thu có nghĩa là làm tăng thu nhập của doanh nghiệp, của dân chúng. Thu nhập khả dụng của
người dân tăng lên chắc chắn làm tăng tiêu dùng, không những hiện tại hôm nay mà cả
trong tương lai. Chính từ việc tăng tiêu dùng lên như vậy, nếu nguồn cung ứng hàng hoá và
dịch vụ trong nền kinh tế không tăng theo kịp thì chắc chắn dẫn đến lạm phát tăng. Do vậy,
công cụ thuế chỉ phát huy tác động hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát khi đã xác định rõ
nguyên nhân gây ra lạm phát, nếu không sẽ có tác dụng ngược như trên








Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 19

Chương 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
VÀ LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM
3.1
. THỰC TRẠNG LUẬT THUẾ TNCN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Hiện nay, mức giảm trừ cá nhân 4 triệu đồng/người/tháng, mức giảm trừ gia cảnh 1,6
triệu đồng/người/tháng. Theo khảo sát 100 người tại thành phố Hà Nội, 82% phiếu hợp lệ
và 74% cho rằng mức giảm trừ cá nhân và giảm trừ gia cảnh này là thấp và quá thấp. Với
câu hỏi, nếu không phù hợp thì mức giảm trừ nên quy định là bao nhiêu? 35% người được
hỏi đánh dấu vào mức cao nhất là 6 triệu đồng/tháng, 33% ở mức 5,5 triệu đồng/tháng, 29%
ở mức 5 triệu đồng/tháng. Với kiến nghị mức giảm trừ người phụ thuộc, 52% đề nghị ở mức
cao nhất 3,5 triệu đồng/người/tháng, 33% ở mức 3 triệu đồng/người/tháng và 15% ở mức
2,5 triệu đồng/người/tháng.
Luật thuế TNCN đã bộc lộ những bất cập :
- Việc quy định mức giảm trừ một cách cứng nhắc, không tính đến yếu tố trượt giá
đã làm cho Luật nhanh chóng bị lạc hậu so với sự biến động của thực tiễn.
- Mức độ giãn cách về thu nhập giữa các bậc thuế trong biểu thuế lũy tiến từng phần
hiện nay là quá thấp: bậc 1 và bậc 2 là 5 triệu đồng/tháng, bậc 2 và bậc 3 là 8 triệu
đồng/tháng, với 3 mức thuế suất là 5%, 10% và 15%. Chỉ một khoảng thu nhập đến 18 triệu
đồng/tháng mà có tới 3 mức thuế suất như vậy sẽ làm cho mức điều tiết về thuế tăng nhanh,
trong khi đây là thu nhập của số đông những người làm công ăn lương trong các doanh
nghiệp, họ thuộc tầng lớp lao động có tri thức, nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của
xã hội hiện đại.
Có 4 yếu tố để căn cứ tính mức giảm trừ gia cảnh. Đó là tốc độ tăng trưởng GDP,
biến động chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đề án cải cách chính sách tiền lương giai đoạn 2013-
2020 và kết quả điều tra xã hội học của Tổng cục Thống kê về thu nhập và mức sống dân
cư. Trong các yếu tố đó, chỉ có đề án cải cách tiền lương là có tính chất cố định, các thông
tin khác đều là biến số khó lường, đặc biệt là CPI. Tính từ thời điểm xây dựng Luật Thuế
TNCN (năm 2007) đến hết năm 2011, CPI đã tăng tổng cộng xấp xỉ 70%. Giả sử đến năm
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN
GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng


SVTH: Lương Trung Quý 20
2014 - thời điểm Luật Thuế TNCN (sửa đổi) có hiệu lực, lạm phát được kiềm chế đúng như
kế hoạch là tăng dưới 10% trong cả hai năm 2012 và 2013 thì CPI có thể tăng tổng cộng gần
90%. Thế nhưng mức khởi điểm chịu thuế chỉ được đề xuất tăng từ 4 triệu đồng lên 6 triệu
đồng/tháng, tương đương 50%. Mức giảm trừ gia cảnh cho mỗi người phụ thuộc được tăng
từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 2,4 triệu đồng/tháng còn thấp hơn ngưỡng 50% nói trên.
Trong nhiều năm trở lại đây, Việt Nam đều đặt mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức
7%/năm nhưng rất khó đạt được, chỉ duy nhất năm 2009 lạm phát ở mức 6,5% nhưng trong
năm đó, đời sống người dân vẫn chưa được cải thiện vì lâm vào trạng thái nguy hiểm hơn:
thiểu phát.
Biểu thuế lũy tiến từng phần quá dày, khoảng cách giữa các bậc chịu thuế quá thấp.
Biểu thuế suất như hiện nay không tạo động lực cho người dân làm việc, tăng thu nhập vì
thu nhập vừa nhích lên đã rơi vào bậc thuế khác và phải đóng thuế nhiều hơn đến 5%.
3.2. KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH THUẾ TNCN TRONG TƯƠNG LAI
Theo dự thảo Luật sửa đổi Luật thuế thu nhập cá nhân, từ 1/7/2013, mức giảm trừ gia
cảnh cho bản thân người nộp thuế tăng từ 4 triệu hiện hành lên 9 triệu đồng/tháng, tương
ứng 108 triệu đồng/năm. Mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc tăng từ 1,6 triệu
đồng/tháng hiện hành lên 3,6 triệu đồng/tháng. Khi đó, 2,6 triệu người dân đang nộp thuế
bậc 1 hiện nay (nếu không tăng thu nhập) thì sẽ không phải nộp thuế. Tháng 8, Ủy ban
thường vụ Quốc hội sẽ họp bàn về dự thảo Luật. Chính phủ sẽ trình chính thức Quốc hội tại
kỳ họp tháng 10 tới.
Phương pháp luận tính thuế cũng phải tính lại. 9 triệu đồng giảm trừ gia cảnh cho
người nộp thuế tuy cao hơn trước nhưng xét cho cùng, vẫn là tăng theo mức cứng. Bất cứ
một con số cứng nào đưa vào Luật, dù là 6 triệu, 9 triệu thì rồi vẫn bị phụ thuộc vào tốc độ
thay đổi của giá cả. Tâm lý chung toàn xã hội lâu nay vẫn sợ lạm phát. Vì thế, việc đưa ra
mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế cần có một cơ sở lâu bền để xem xét
Ngoài ra, với lạm phát như ở Việt Nam, biến động mạnh và thất thường như vậy,
đồng tiền mất giá rất nhanh, 9 triệu đồng bây giờ là nhiều, nhưng khi đối chiếu vào cuộc
Ảnh hưởng của lạm phát đối với thuế TNCN

GVHD: PGS-TS. Nguyễn Ngọc Hùng

SVTH: Lương Trung Quý 21
sống thực tế, chưa chắc đã phù hợp. Phương pháp tạo sự đồng thuận lớn nhất là nên để điều
chỉnh thuế theo mức lương tối thiểu. Vì hiện nay, tiền lương tối thiểu cũng sẽ phải điều
chỉnh để phù hợp biến động giá cả và cũng đều là "chạy" theo lạm phát.
Theo TS Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội,
việc tăng mức khởi điểm chịu thuế là cần thiết và tất yếu. Tuy nhiên, cách tốt nhất là tính
theo lương tối thiểu. Cách tính này đáp ứng được cả 2 nhu cầu: phù hợp với mức sống thực
tế của người dân và dễ áp dụng; hạn chế tình trạng lạm dụng, thiệt hại cho cả người nộp
thuế và Nhà nước. Nên quy định phần trăm hoặc số lần so với mức lương tối thiểu để sau
này cơ quan thuế chỉ cần nhân với mức lương tối thiểu và số lần quy định trong luật thì sẽ ra
được mức chịu thuế cho từng thời điểm. Đây cũng là một trong những phương án được
người dân, nhà khoa học ủng hộ.
Nhà nước nên quy định lại mức thuế suất cao nhất của biểu thuế lũy tiến từng phần là
25%, bằng với mức điều tiết của Luật thuế TNDN, bởi mức thu nhập chịu thuế này thường
là của các cá nhân kinh doanh. Như vậy sẽ đảm bảo bình đẳng hơn giữa hai sắc thuế trực
thu này.
Cần giãn khoảng cách giữa các bậc thuế. Khoảng cách giữa các bậc thuế là quá gần
nên tác dụng điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân gần như không thay đổi đáng kể. Sau khi
giảm trừ gia cảnh, bậc 1 có mức thu nhập chịu 5 triệu đồng cho đến bậc 7 cao nhất là 80
triệu đồng chỉ cách nhau 16 lần. Trong khi đó, tại Trung Quốc, khoảng cách này là cách
nhau 53 lần, ở Philippines cách nhau 50 lần, ở Malaysia 40 lần và ở Thái Lan là 27 lần.
Cần giảm số bậc thuế. Biểu thuế quá nhiều bậc như hiện nay sẽ khiến Việt Nam bị
hạn chế trong cạnh tranh, thu hút nhân lực so với các nước trong khu vực, đồng thời tạo ra
sự bất bình đẳng giữa các nhóm người dân. Có thể kiến nghị bỏ bậc thuế suất 35% như hiện
nay.
Có thể mở rộng diện nộp thuế với mức thuế suất thấp hơn, bậc 1 có thể từ 2-3% để
huy động nguồn thu cho NSNN


×