Tải bản đầy đủ (.doc) (233 trang)

Một số vấn đề về định hướng XHCN ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.78 KB, 233 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Định hớng XHCN là một vấn đề đợc Đảng ta chính thức nêu ra từ Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Đây là một chủ đề lý luận và thực tiễn rất
cơ bản, trọng yếu, giữ vai trò chỉ dẫn và chi phối các hoạt động t tởng, lý
luận và thực tiễn, đợc toàn Đảng, toàn dân ta hết sức quan tâm. Đặc biệt,
trong tình hình hiện nay, khi công cuộc đổi mới ở Việt Nam đang diễn ra
trong bối cảnh quốc tế và trong nớc hết sức phức tạp, chịu sự tác động của
nhiều yếu tố khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau, đang đứng trớc những thời
cơ và vận hội to lớn cũng những thách thức và nguy cơ không thể xem thờng
thì vấn đề định hớng XHCN ngày càng giữ vai trò quan trọng, có ý nghĩa
quyết định đối với thực tiễn hôm nay và tơng lai mai sau của đất nớc.
Giữ vững định hớng XHCN là một nguyên tắc của công cuộc đổi mới.
Sự thành công hay thất bại của công cuộc đổi mới đó ở Việt Nam hiện nay
phụ thuộc vào việc giữ vững định hớng đó hay không. Do vậy, làm rõ thực
chất của định hớng XHCN, tính đúng đắn của nó, những điều kiện và vai trò
các nhân tố thực hiện định hớng để từ đó tạo cơ sở khoa học cho hoạch định
các đờng lối, chủ trơng, chính sách trong công cuộc đổi mới, nhằm thực hiện
thắng lợi những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là điều quan trọng và
cần thiết.
Vì thế việc nghiên cứu vai trò định hớng XHCN của Nhà nớc đối với
sự phát triển nền kinh tế Việt Nam có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vừa cơ
bản, vừa cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu:
Vấn đề định hớng XHCN nói chung, vai trò của Nhà nớc nói riêng
trong thực hiện định hớng đợc sự quan tâm của nhiều nhà khoa học ở nhiều
cấp, nhiều ngành. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu độc lập
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của các nhà khoa học cũng nh công trình nghiên cứu tập thể các vấn đề nói


trên dới nhiều góc độ khác nhau. Ví dụ:
+ Một số chơng trình, đề tài thuộc các chơng trình khoa học công
nghệ cấp Nhà nớc.
- Chơng trình KX01 Những vấn đề lý luận về CNXH và về con đờng
đi lên CNXH ở nớc ta do GS.TS. Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm.
- Đề tài KX05-04 Đặc trng cơ bản của hệ thống chính trị nớc ta trong
giai đoạn quá độ lên CNXH do GS. PTS. Nguyễn Ngọc Long chủ nhiệm.
- Đề tài KX03-04 Cơ chế thị trờng và vai trò của Nhà nớc trong quản
lý nền kinh tế nớc ta hiện nay do GS. TS. Lơng Xuân Quỳ làm chủ nhiệm...
+ Một số cuốn sách chuyên khảo:
- Định hớng XHCN ở Việt Nam, Một số vấn đề lý luận cấp bách, của
ông Trần Xuân Trờng.
- Một số vấn đề về định hớng XHCN ở Việt Nam của tác giả Nguyễn
Đức Bách, Nhị Lê, Lê Văn Yên.
- Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam của ông
Lê Đăng Doanh.
- Kinh tế Việt Nam trớc thế kỷ XXI, cơ hội và thách thức của Nguyễn
Minh Tú.
- Đổi mới hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý kinh tế ở nớc ta,
của các tác giả Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao.
+ Một số luận án PTS., ThS. gần đây:
- Định hớng XHCN ở Việt Nam, nội dung cơ bản và những điều kiện
chủ yếu để thực hiện của Nguyễn Văn Oanh.
- Vai trò định hớng XHCN của kiến trúc thợng tầng chính trị đối với
sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay
của Huỳnh Thanh Minh...
Ngoài ra còn các công trình nghiên cứu đợc công bố trên nhiều tạp
chí, thông tin chuyên đề:
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

- Hội thảo Một số vấn đề về định hớng XHCN ở nớc ta đăng trên
Tạp chí Cộng sản từ số 4 tháng 2/1996 đến số 7 tháng 4/1996.
- Kinh tế thị trờng và định hớng XHCN của Bùi Ngọc Chởng - Tạp chí
Cộng sản tháng 6/1995.
- Vai trò lãnh đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của
Nhà nớc trong điều kiện nền kinh tế thị trờng ở nớc ta hiện nay của Nguyễn
Tiến Phồn, Tạp chí Triết học số 3/1995.
- Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới
chính sách xã hội của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí triết học số 3/1996.
Mặc dù các công trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết đã đề cập khá
nhiều đến các khía cạnh khác nhau có liên quan trực tiếp đến đề tài: quá độ
lên CNXH bỏ qua chế độ chính trị TBCN, bớc chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng, vai trò của các nhân tố chủ quan
trong việc lựa chọn và thực hiện định hớng XHCN ... Song cha có một công
trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống dới góc độ triết học về Vai trò
định hớng XHCN của Nhà nớc đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam
hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án:
a. Mục đích:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về mối quan hệ giữa Nhà
nớc và kinh tế.
- Làm sáng tỏ tác động của Nhà nớc với quá trình xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN ở Việt Nam. Từ đó đề xuất
một số phơng hớng nâng cao vai trò của Nhà nớc trong điều kiện kinh tế thị
trờng định hớng XHCN ở Việt Nam.
b. Nhiệm vụ của luận án:
Để đạt đợc mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Phân tích một cách có hệ thống lý luận Mác - Xít về quan hệ giữa
Nhà nớc và kinh tế với t cách là phơng pháp luận nền tảng cho việc xem xét
3

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vai trò của Nhà nớc trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị tr-
ờng định hớng XHCN ở Việt Nam.
- Phân tích một số các học thuyết kinh tế, một số mô hình kinh tế thị
trờng hiện đại nhằm khẳng định vai trò ngày càng tăng của Nhà nớc trong
nền kinh tế thị trờng.
- Phân tích và chứng minh việc xây dựng nền kinh tế thị trờng định h-
ớng XHCN ở Việt Nam là con đờng tất yếu, hợp quy luật vận động của lịch
sử trong thời đại ngày nay.
- Làm rõ nội dung và phơng thức định hớng XHCN của Nhà nớc đối
với sự phát triển nền kinh tế thị trờng ở Việt Nam.
- Trên cơ sở phân tích thực tiễn hơn 10 năm đổi mới, luận án làm rõ
thực trạng, những vấn đề phát sinh và một số phơng hớng nhằm tiếp tục
nâng cao vai trò của Nhà nớc trong định hớng XHCN sự phát triển nền kinh
tế.
4. Phơng pháp nghiên cứu:
Trong quá trình nghiên cứu, luận án lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và t t-
ởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận, phơng pháp luận; luận án sử dụng các đ-
ờng lối chính sách của Đảng và Nhà nớc, kết quả các công trình nghiên cứu
có liên quan.
Luận án sử dụng chủ yếu các phơng pháp của CNDVBC và CNDVLS
đặc biệt là các phơng pháp phân tích và tổng hợp, phơng pháp thống nhất
lôgíc và lịch sử, phơng pháp thống nhất lý luận và thực tiễn...
5. Cái mới của luận án:
- Góp phần nghiên cứu tơng đối có hệ thống mối quan hệ giữa Nhà n-
ớc và kinh tế.
- Góp phần vạch cơ sở khoa học của định hớng xã hội chủ nghĩa trong
sự phát triển kinh tế và vai trò của Nhà nớc trong định hớng đó.
- Góp phần nêu ra một số phơng hớng nhằm nâng cao vai trò của Nhà
nớc đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam theo định hớng XHCN.

4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
6. ý nghĩa thực tiễn:
Những kết quả đạt đợc trong luận án sẽ góp phần vào thực tiễn nghiên
cứu và giảng dạy môn triết học Mác - Lênin, có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho môn kinh tế chính trị học và một số môn khác trong phạm vi liên
quan đến đề tài.
7. Kết cấu của luận án.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận án bao gồm 3 chơng, 7 tiết.
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng 1
vai trò của Nhà nớc đối với sự phát triển kinh tế
1.1. Nhà nớc với kinh tế.
Lịch sử phát triển của xã hội loài ngời có giai cấp cho thấy mối quan
hệ giữa Nhà nớc và kinh tế là một tất yếu khách quan. Theo quan niệm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, mối quan hệ kinh tế - Nhà nớc, về thực chất, là biểu
hiện tập trung nhất mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng (CSHT) và kiến trúc th-
ợng tầng (KTTT) của xã hội, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Khi nghiên cứu đời sống xã hội, các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác -
Lênin đã chỉ ra rằng con ngời "muốn sống đợc thì trớc hết cần phải có thức
ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Nh vậy hành vi lịch
sử đầu tiên là việc sản xuất ra những t liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy,
việc sản xuất ra đời sống vật chất và đó là một hành vi lịch sử, điều kiện cơ
bản của mọi lịch sử mà hiện nay cũng nh hàng ngàn năm về trớc, ngời ta
phải thực hiện hàng ngày, hàng giờ chỉ để nhằm duy trì đời sống con ngời "
1
.
Nh vậy, sản xuất vật chất là hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là hành vi
mang tính chất vĩnh cửu của con ngời. Và "trong sự sản xuất ra đời sống của

mình, con ngời ta có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào
ý chí của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với
một trình độ phát triển nhất định của các lực lợng sản xuất vật chất của họ.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội - tức
là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một KTTT pháp lý và chính trị "
2
.
Cái cơ sở hiện thực Mác chỉ ra ở đây chính là cơ sở hạ tầng của một xã
hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định, chính là sự tổng hợp của toàn bộ
những quan hệ sản xuất cùng tồn tại trong giai đoạn lịch sử đó: Những quan
1
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, t1, NXB Sự thật H 1980, tr. 286-287.
2
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập2 NXB S. H. 1981 tr. 637.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hệ sản xuất thống trị, những quan hệ sản xuất tàn d của xã hội trớc và những
quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tơng lai. Đặc trng của CSHT ở mỗi
xã hội cụ thể là do kiểu quan hệ sản xuất thống trị quyết định, còn các kiểu
quan hệ sản xuất khác - kiểu quan hệ sản xuất tàn d, kiểu quan hệ sản xuất
mầm mống cũng có những vai trò vị trí nhất định. Các kiểu quan hệ sản xuất
đó (thống trị, tàn d, mầm mống) trong CSHT vừa thống nhất lại vừa đấu
tranh với nhau tạo nên sự phong phú đa dạng và phức tạp của CSHT.
CSHT của mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau là khác nhau. Sự khác nhau
đó là do tính chất của kiểu quan hệ sản xuất thống trị quy định. Trong xã hội
có đối kháng giai cấp, CSHT của xã hội cũng có tính chất đối kháng. Do địa
vị kinh tế, do mối quan hệ đối với t liệu sản xuất (TLSX) của các giai cấp
khác nhau, đối kháng nhau, nên sự tồn tại của mâu thuẫn và đấu tranh trong
CSHT là điều không thể tránh khỏi.
Cơ sở hạ tầng của xã hội đang trong thời kỳ quá độ, trong điều kiện

tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác
nhau thì tính chất của nó phụ thuộc vào mối quan hệ giữa các thành phần
kinh tế , phụ thuộc vào tỷ trọng của chúng. Đặc trng chung của CSHT quá độ
là kết cấu kinh tế đa thành phần, tính chất đan xen, quá độ. Kết cấu đó làm
cho nền kinh tế vừa sống động, vừa phong phú lại vừa phức tạp, vừa đấu
tranh lại vừa hợp tác giữa các thành phần kinh tế. Tuy nhiên, trong điều kiện
đó thành phần kinh tế đóng vai trò chủ đạo sẽ chi phối các thành phần kinh
tế khác, tác động trực tiếp đến xu hớng chung của toàn bộ đời sống xã hội,
thực hiện sự định hớng cho nền kinh tế.
Nh vậy, CSHT là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng bao giờ cũng có cấu trúc
phức tạp, nhất là trong điều kiện mang tính chất quá độ, đan xen nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Và bao giờ, trong mỗi giai
đoạn lịch sử - xã hội nhất định luôn có một thành phần kinh tế đóng vai trò
chủ đạo chi phối, quy định đặc trng cho CSHT của giai đoạn đó.
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
KTTT là toàn bộ những quan điểm, t tởng của xã hội (chính trị, pháp
quyền, triết học, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật...), những thiết chế tơng ứng
và những quan hệ nội tại của chúng đợc hình thành trên một CSHT nhất
định. Tức là các yếu tố của KTTT đều hình thành trên cơ sở của cơ cấu kinh
tế của xã hội, do cơ cấu kinh tế ấy quy định và là sản phẩm của cơ cấu ấy.
Cơ cấu kinh tế của xã hội lúc nào cũng là cái cơ sở hiện thực là cái xét đến
cùng, giải thích toàn bộ thợng tầng kiến trúc là những thể chế pháp luật và
chính trị cũng nh những quan niệm tôn giáo, triết học và các quan niệm khác
của mỗi thời kỳ lịch sử nhất định
3
.
Mỗi yếu tố của KTTT đều có những đặc điểm riêng, quy luật phát triển
riêng nhng không tách rời nhau, mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và

cùng liên hệ với CSHT bởi lẽ chúng đều đợc nảy sinh từ CSHT, phản ánh
CSHT. Những bộ phận của KTTT nh Nhà nớc và pháp luật, các đảng phái
chính trị và các hệ t tởng chính trị có liên hệ trực tiếp với CSHT, còn các yếu
tố khác nh triết học, tôn giáo, đạo đức, nghệ thuật... thì ở xa CSHT và phản
ánh CSHT một cách gián tiếp.
Cũng nh CSHT, KTTT của xã hội có giai cấp đối kháng là một hệ
thống có kết cấu hết sức phức tạp, không thuần nhất: bao gồm những quan
điểm, t tởng cùng những thiết chế của giai cấp thống trị, những quan điểm
của giai cấp bị trị, những quan niệm tồn tại dới dạng tàn d do KTTT của xã
hội ở giai đoạn trớc để lại, những quan điểm, tổ chức của các tầng lớp trung
gian và cả những quan điểm, những tổ chức của những giai cấp mới đang
trong quá trình hình thành. Trong cơ cấu đó, bộ phận chủ yếu chi phối, có
tính quyết định tính chất của KTTT ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định chính
là hệ t tởng, quan điểm chính trị và thể chế của giai cấp đang giữ địa vị thống
trị. Giai cấp nào chiếm giữ địa vị thống trị về kinh tế, tức nắm đợc những
TLSX chủ yếu của xã hội, thì tất nhiên trong đời sống chính trị và tinh thần
giai cấp ấy cũng chiếm địa vị thống trị. Và do đó, tính chất của hệ t tởng của
3
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập5 NXB S. H. 1983, tr. 43.
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
giai cấp ấy cũng quy định luôn cả tính chất của KTTT trong giai đoạn lịch sử
đó.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, do trong CSHT tồn tại những quan
hệ đối kháng nên KTTT cũng mang tính chất đối kháng. Các giai cấp trong
xã hội do địa vị của họ trong hệ thống sản xuất của xã hội khác nhau, đối
kháng nhau mà cách nhìn nhận của họ đối với đời sống xã hội, những quan
điểm chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, triết học... của họ cũng rất
khác nhau. Sự đối kháng đó đợc biểu hiện ở sự xung đột về quan điểm ở
cuộc đấu tranh t tởng của các giai cấp.

Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của KTTT của xã hội có đối kháng
giai cấp là Nhà nớc - cơ quan quyền lực đặc biệt của xã hội, công cụ sắc bén
của giai cấp thống trị tiêu biểu cho chế độ xã hội về mặt chính trị, pháp lý.
Chính nhờ có Nhà nớc mà những quan niệm, quan điểm, hệ t tởng của giai
cấp thống trị mới trở thành cái thống trị trong toàn bộ đời sống xã hội.
CSHT và KTTT là hai mặt cơ bản của đời sống xã hội. Giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại với nhau, trong đó CSHT
giữ vai trò quyết định.
CSHT với tính cách là cơ cấu kinh tế hiện thực sản sinh ra KTTT tơng
ứng, quy định tính chất của KTTT. Sự đa dạng, phong phú, phức tạp và sống
động của KTTT chính là sự phản ánh tính đa dạng, phong phú, phức tạp của
CSHT đã sản sinh ra nó. Trong tác phẩm "Ngày 18 tháng Sơng mù của Lui
Bônapác" C. Mác đã viết: "Cả một KTTT, những cảm giác, những ảo tởng,
những lối suy nghĩ và quan niệm sống khác nhau và độc đáo đã mọc lên trên
những hình thức sở hữu khác nhau, trên các điều kiện sinh hoạt xã hội. Toàn
thể giai cấp tạo ra và hình thành nên tất cả những cái đó trên cơ sở những
điều kiện vật chất của mình và trên những quan niệm xã hội tơng ứng"
4
. Khi
có những biến đổi căn bản trong CSHT thì sớm muộn cũng dẫn đến những
thay đổi căn bản trong KTTT. Khi CSHT có thay đổi nhng cha phải là những
4
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, Tập2 NXB S. H. 1981 tr. 424.
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thay đổi căn bản thì ở KTTT chỉ có những biến đổi mang tính điều chỉnh
nhất định. Ta có thể thấy rõ điều này trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa t
bản trong hơn năm thế kỷ qua. Hình thức đầu tiên của CNTB là CNTB tự do
cạnh tranh. Trong hình thức này, TLSX của xã hội đợc "phân chia" cho nhiều
chủ sở hữu với qui mô nhỏ và vừa. Các nhà máy xí nghiệp, các quá trình sản

xuất đợc tổ chức theo qui mô phù hợp với hình thức sở hữu đó. Khi CNTB tự
do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền, khi CNTB phát triển lên giai
đoạn chủ nghĩa đế quốc với nét đặc trng là sự thống trị của các tổ chức độc
quyền thì nền sản xuất xã hội có nhiều biến đổi to lớn: quy mô sản xuất xã
hội không còn bó hẹp trong các quy mô nhỏ và vừa. Nhờ vào sự tích tụ tập
trung t bản mà các công ty cổ phần, các xí nghiệp khổng lồ ra đời và tiếp sau
đó là những công ty độc quyền quốc gia và xuyên quốc gia. Những hình
thức mới của sản xuất xã hội trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa cho thấy tính
chất xã hội hoá của nền sản xuất xã hội đã phát triển đến cao độ và tơng ứng
với nó là hình thức mới của sở hữu t bản - hình thức tập thể. Từ những biến
đổi trong cơ cấu kinh tế - xã hội đã dẫn đến những biến đổi trong KTTT, đặc
biệt trong Nhà nớc - yếu tố cơ bản và quan trọng của KTTT của xã hội có
giai cấp. Sự thay đổi của Nhà nớc đợc thể hiện từ cách thức tổ chức đến nội
dung, tính chất, phơng thức hoạt động trong mọi lĩnh vực, nhất là trong lĩnh
vực kinh tế. Nếu trong giai đoạn tự do cạnh tranh Nhà nớc chỉ tồn tại với t
cách "ngời lính" canh gác cho nền sản xuất TBCN, cho chế độ t hữu t bản
chủ nghĩa nhỏ và vừa thì chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, do
những biến đổi trong nền sản xuất xã hội, do những biến đổi trong chế độ sở
hữu và do đó trong sự phân công lao động xã hội cũng nh phân phối những
sản phẩm do xã hội tạo ra mà Nhà nớc ngày càng can thiệp sâu hơn vào kinh
tế. ở giai đoạn này t bản tài chính đã cấu kết với bộ máy Nhà nớc, biến Nhà
nớc thành công cụ riêng của các tập đoàn t bản tài chính và làm cho Nhà nớc
trở thành Nhà nớc độc quyền. Nh vậy, các yếu tố của KTTT, đặc biệt là Nhà
nớc, với t cách là cơ quan quyền lực đặc biệt của tổ chức chính trị xã hội, là
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
yếu tố cơ bản của KTTT của xã hội có giai cấp, đã có những biến đổi to lớn.
Nhà nớc từ chỗ đứng ngoài nền sản xuất xã hội đã trở thành một chủ sở hữu,
một nhà sản xuất kinh doanh. Dù có những biến đổi to lớn nh vậy, nhng xét
về bản chất giai cấp, chức năng cơ bản thì Nhà nớc ấy vẫn là Nhà nớc của

giai cấp t sản, là ngời bảo vệ cho quyền sở hữu t nhân t bản chủ nghĩa.
KTTT ra đời từ CSHT, bị quy định bởi CSHT tơng ứng nhng nó không
phải là sản phẩm hoàn toàn thụ động. Trong đời sống xã hội, KTTT luôn tác
động mạnh mẽ đến CSHT. Trong th gửi Joseph Bloch ở Komigsbog, Ph.
Ăngghen viết: "Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định lịch sử,
xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực... Chúng ta
tự làm nên lịch sử của chúng ta, nhng trớc hết là với những tiền đề và trong
những tiền đề và điều kiện ấy thì chính những điều kiện kinh tế giữ vai trò
cuối cùng. Nhng những tiền đề và điều kiện chính trị... và tất cả cái truyền
thống đang ám ảnh đầu óc con ngời cũng đóng một vai trò, tuy không phải
quyết định..."
5
. Bốn năm sau đó, năm 1894, Ăngghen đã nhắc lại một cách
cụ thể hơn luận điểm trên trong th ông viết cho W. Borgius ở Breslau: "Sự
phát triển về mặt chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... dựa vào
sự phát triển kinh tế. Nhng tất cả những sự phát triển đó đều tác động lẫn
nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn không phải điều kiện
kinh tế là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác
dụng thụ động"
6
.
Sự tác động mạnh mẽ của KTTT đến CSHT thể hiện rõ nét nhất ở sự
tác động của chính trị, của Nhà nớc đối với kinh tế.
Theo Ăngghen, với t cách là một cơ quan quyền lực của xã hội, Nhà n-
ớc có trong tay một loạt các công cụ thuế khoá, chính sách buôn bán... để
tác động vào kinh tế. Bằng những thứ đó, "tác động ngợc lại của quyền lực
Nhà nớc đối với sự phát triển của kinh tế có thể có ba loại: nó có thể tác
động theo cùng một hớng với sự phát triển kinh tế, lúc đó sự phát triển kinh
5
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI, NXB S. H. 1981 tr. 726-727.

6
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI NXB S. H. 1981 tr. 788.
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tế sẽ nhanh hơn; nó có thể đi ngợc lại hớng phát triển kinh tế, và trong trờng
hợp này, ở các dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một thời gian nhất định, hay là
nó có thể ngăn cản một vài xu hớng phát triển nào đấy của nền kinh tế và
quy định những hớng phát triển khác. Trong trờng hợp này rốt cuộc rồi cũng
dẫn đến một trong hai trờng hợp trên"
7
.
Vì sao Nhà nớc lại có thể tác động đến sự phát triển của kinh tế theo
nhiều chiều hớng khác nhau, thậm chí trái ngợc nhau nh vậy?
Hiện tợng đó có nhiều nguyên nhân mà trớc hết là từ nguồn gốc xuất
hiện của Nhà nớc. Cũng nh các yếu tố khác của KTTT, Nhà nớc xuất hiện từ
những nguyên nhân kinh tế. Khác với một số yếu tố khác nh đạo đức, tôn
giáo, nghệ thuật... Nhà nớc chỉ xuất hiện trong một giai đoạn phát triển lịch
sử nhất định của nền sản xuất xã hội. Trong "Nguồn gốc của gia đình, của
chế độ t hữu và của Nhà nớc" Ph. Ăngghen đã khẳng định rằng Nhà nớc là
một hiện tợng lịch sử. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có Nhà n-
ớc, lúc đó các quan hệ xã hội và ngay cả xã hội nữa, kỷ luật, tổ chức lao
động đều duy trì đợc là nhờ có sức mạnh của phong tục, tập quán, nhờ có uy
tín và sự kính trọng đối với những bộ não của thị tộc, hoặc đối với phụ nữ -
địa vị của phụ nữ không chỉ ngang với nam giới mà còn cao hơn nữa và lúc
đó không có một hạng ngời riêng biệt, hạng ngời chuyên môn thống trị. Sở
dĩ ở đây cha có Nhà nớc là vì nền sản xuất của xã hội còn rất thấp kém. Với
những công cụ lao động hết sức thô sơ: cái que, cái gậy, viên đá..., với chế
độ công hữu, đất đai là tài sản của toàn thể bộ lạc, tất cả mọi thành viên của
toàn thể bộ lạc phải tham gia vào quá trình lao động sản xuất, làm chung, ăn
chung, không có của cải d thừa để tích luỹ, để dành.

Tuy nhiên, cũng nh mọi sự vật, hiện tợng trong thế giới, xã hội không
đứng im, ngng trệ mà nó luôn trong quá trình vận động, biến đổi và phát
triển. Sự vận động, biến đổi, phát triển của xã hội bắt nguồn từ trong quá
trình sản xuất vật chất. Xã hội loài ngời từ chỗ sử dụng những công cụ có
7
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI NXB S. H. 1981 tr. 734.
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sẵn trong tự nhiên hoặc qua sơ chế đến chỗ biết sử dụng những công cụ bằng
kim loại. Chính việc sử dụng những công cụ lao động mới này đã làm cho
nền sản xuất xã hội phát triển, của cải đợc tạo ra ngày một nhiều hơn, phong
phú hơn, kinh nghiệm lao động đợc tích luỹ nhiều hơn, phân công lao động
xã hội đợc thực hiện: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Nhờ vậy khả năng phát
triển kinh tế độc lập của mỗi gia đình trong bộ lạc hình thành và trên thực tế
đã xuất hiện gia đình theo chế độ gia trởng. Gia đình là một nhóm làm kinh
tế bao gồm nhiều thế hệ con cháu của ông tổ. Họ sống chung với nhau và
cùng lao động, cùng sử dụng của cải chung dới sự quản lý của ngời chủ gia
đình. Sự xuất hiện gia đình theo chế độ gia trởng đã làm rạn nứt chế độ thị
tộc và gia đình riêng lẻ đã trở thành lực lợng đối lập với thị tộc. Về vấn đề
này, sau khi nghiên cứu về chế độ thị tộc Hi Lạp, Ph. Ăngghen đã viết: "Nh
vậy, trong chế độ Hy Lạp ở thời đại anh hùng, chúng ta thấy tổ chức thị tộc
cổ đang còn tồn tại hoàn toàn sung sức, nhng đồng thời chúng ta cũng thấy
chế độ ấy đã bắt đầu suy sụp. Chế độ phụ quyền, với việc để lại tài sản cho
con cái đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tích luỹ của cải trong gia đình và
biến gia đình thành một thế lực đối lập với thị tộc"
8
.
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, lao động của một ng ời
đã tạo ra lợng của cải nhiều hơn mức cần thiết để duy trì cuộc sống của chính
bản thân họ. Do vậy, xuất hiện những điều kiện vật chất cho sự chiếm đoạt ra

đời. Một nhóm ngời trong thị tộc đã sử dụng quyền lực của mình - quyền lực
mà thị tộc đã giao cho họ một cách tự nguyện trớc đây để điều hành sự hoạt
động của thị tộc làm công cụ để chiếm đoạt những đất đai mầu mỡ, những
đàn gia súc đông đúc, những chiến lợi phẩm thu đợc trong chiến tranh làm
của riêng, để bảo vệ những lợi ích riêng của mình và đồng thời để bắt những
ngời khác trong cộng đồng phaỉ phục tùng họ. Thứ quyền lực ấy, lúc này trở
thành vật cha truyền con nối và ngày càng mạnh lên sau những cuộc chiến
tranh. Các cơ quan quyền lực xã hội của thị tộc trớc đây nh Hội đồng bộ lạc
8
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI, NXB S. H. 1984 tr. 168.
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
và các thủ lĩnh quân sự dần dần tách khỏi dân c, biến thành các cơ quan
thống trị bộ lạc mình và các bộ lạc khác. Một nhóm ngời thân cận, tin cậy đ-
ợc hình thành bên cạnh ngời cầm đầu thị tộc bộ lạc. Lúc đầu họ chỉ là
những vệ binh, dần về sau họ đợc hởng những đặc quyền đặc lợi và đó chính
là mầm mống của đội quân thờng trực của Nhà nớc sau này.
Nh vậy là trong đời sống kinh tế - xã hội đã xảy ra những biến đổi vô
cùng to lớn. Tổ chức xã hội thị tộc đã tỏ ra bất lực trớc những thay đổi đó.
Tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội không biết đến mâu thuẫn nội tại và
nó chỉ có thể thích hợp với kiểu xã hội ấy mà thôi. Trong xã hội đó, ngoài d
luận xã hội ra không có bất kỳ một phơng tiện cỡng chế nào cả, mọi quyền
lực đợc thực thi một cách tự nguyện, tự giác. Nhng cho đến đây "một xã hội
mới đã ra đời, một xã hội do toàn bộ những điều kiện kinh tế của sự tồn tại
của nó mà phải chia ra thành những ngời tự do và nô lệ, thành những kẻ giàu
có đi bóc lột và những ngời nghèo khổ bị bóc lột, một xã hội không những
không thể điều hoà lại một lần nữa những mặt đối lập đó, mà còn buộc phải
đẩy chúng đi đến chỗ ngày càng găy gắt... Tổ chức thị tộc đã không còn tồn
tại nữa. Nó đã bị sự phân công ấy tức là sự phân chia của xã hội thành giai
cấp, phá tan. Nó đã bị Nhà nớc thay thế"

9
.
Và thế là Nhà nớc đã xuất hiện từ ngay chính trong lòng xã hội do sự
phát triển của bản thân xã hội, do nhu cầu cần thiết phải ổn định xã hội để
tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Nhà nớc ở các nớc khác
nhau trên thế giới là khác nhau do những điều kiện kinh tế, xã hội và môi tr-
ờng khác nhau. Trong "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ t hữu và của Nhà
nớc" Ăngghen phân tích sự ra đời của Nhà nớc chiếm hữu nô lệ ở ba trung
tâm lớn: Aten, Rôma và của ngời Giécmanh. Theo đó, ở mỗi trung tâm, sự
hình thành Nhà nớc có những nét đặc trng riêng. ở Aten, theo Ăngghen, nơi
đã hình thành Nhà nớc dới hình thức thuần tuý nhất, cổ điển nhất, Nhà nớc
"nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ sự đối lập giai cấp đã phát triển ngay trong
9
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI NXB S. H. 1984 tr. 258-259.
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nội bộ thị tộc". ở Rôma sự thắng lợi của giới bình dân trong cuộc đấu tranh
chống tầng lớp quý trộc của thị tộc đã dẫn đến sự hình thành Nhà nớc. Còn
đối với ngời Giécmanh "Nhà nớc nảy sinh trực tiếp từ việc chinh phục những
đất đai rộng lớn của ngời khác".
Sự hình thành Nhà nớc ở phơng Đông và phơng Tây cũng có những
nét cơ bản khác nhau. Nếu nh ở phơng Tây Nhà nớc thờng hình thành trực
tiếp từ nhu cầu điều chỉnh xung đột giai cấp đã trở nên gay gắt không thể
điều hoà đợc bằng các tổ chức thị tộc, thì ở phơng Đông, bên cạnh cơ sở
phân hoá xã hội là tiền đề vật chất không thể thiếu đợc, "nhân tố thuỷ lợi và
bảo vệ, bản thân nó không thể sản sinh ra Nhà nớc, nhng nó có thể thúc đẩy
quá trình hình thành Nhà nớc và quy định thêm tính chất, chức năng của
Nhà nớc đó."
10
Đặc điểm chung đó trong sự hình thành Nhà nớc ở phơng

Đông cũng có ở Việt Nam, hơn nữa ở Việt Nam đặc điểm đó còn để lại dấu
ấn sâu đậm trong quá trình lịch sử về sau. Các nhà sử học Việt Nam đã
khẳng định: "yêu cầu tự vệ chống giặc ngoại xâm cùng với yêu cầu thuỷ lợi
của nền kinh tế nông nghiệp đã có tác động rất mạnh vào quá trình hình
thành Nhà nớc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Nhà nớc đó ra đời có phần
sớm hơn so với điều kiện chín muồi của sự phân hoá xã hội"
11
.
Nh vậy, dù xuất hiện ở đâu, vào thời điểm nào, dới hình thức nào và
mang những đặc điểm cụ thể gì thì Nhà nớc quyết không phải là một quyền
lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội... Nhà nớc là sản phẩm của một xã hội đã
phát triển tới một giai đoạn nhất định và tất cả mọi quyền lực xã hội và tất cả
mọi bạo lực chính trị đều bắt nguồn từ những tiền đề kinh tế, từ phơng thức
sản xuất và trao đổi của xã hội nhất định trong lịch sử
12
. Nhà nớc ra đời từ sự
phát triển của kinh tế, do sự phát triển của kinh tế quy định. Đó là nguyên lý
bất di bất dịch. Vì vậy, chính ở đây, khi phân tích nguồn gốc của Nhà nớc
chúng ta đã thấy ngay rằng trong bản thân nó đã chứa đựng chức năng điều
10
Lịch sử Việt Nam tập 1, NXB đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà nội 1991, tr.87.
11
Lịch sử Việt Nam tập 1, NXB đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà nội 1991, tr.93.
12
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI, NXB S. H. 1984 tr. 260.
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
tiết kinh tế, đã bao hàm khả năng tác động đến kinh tế. Theo nghĩa đó V.I.
Lênin đã chỉ rõ: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế"
13

, "là kinh tế
cô đọng lại"
14
và "bạo lực (nghĩa là quyền lực Nhà nớc) cũng là một tiềm lực
kinh tế"
15
.
Thứ hai: Bất kỳ Nhà nớc nào trong lịch sử cũng mang bản chất giai
cấp. Mọi hành vi hoạt động của Nhà nớc đều do bản chất giai cấp quy định.
Trên đây chúng ta đã rút ra kết luận cơ bản là Nhà nớc ra đời từ
nguyên nhân kinh tế, nó là sản phẩm của mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hoà đợc trong xã hội có đối kháng giai cấp. Ra đời trong xã hội đó, Nhà nớc
là bộ máy bạo lực dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với các
giai cấp khác, là công cụ để bảo vệ quyền lợi mà trớc hết là quyền lợi kinh tế
của giai cấp thống trị. "Nhà nớc là Nhà nớc của giai cấp có thế lực nhất, của
cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có Nhà nớc, mà cũng trở thành
giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm đợc những phơng tiện
mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức"
16
.
Xuất hiện trong xã hội có đối kháng giai cấp, với t cách là "một lực l-
ợng tựa hồ nh đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ
cho sự xung đột đó nằm trong vòng "trật tự"
17
nhng Nhà nớc cha bao giờ và
không bao giờ trong lịch sử xã hội có giai cấp lại không mang bản chất giai
cấp. Nhà nớc điều hoà xung đột giai cấp, đảm bảo cho xã hội loài ngời có thể
tồn tại đợc, nhng sự điều hoà đó diễn ra trong khuôn khổ lợi ích và phù hợp
với ý chí của giai cấp thống trị. Điều đó đúng với xã hội chiếm hữu nô lệ,
phong kiến và cả xã hội t sản... Trong "Vấn đề về nhà ở", khi đề cập tới Nhà

nớc t sản, Ăngghen đã viết: "Nhà nớc không phải là cái gì khác hơn là quyền
lực tổng hợp có tổ chức của những giai cấp hữu sản, những địa chủ và những
nhà t bản, đối lập với những giai cấp bị bóc lột, những nông dân và công
13
V.I. Lênin, Toàn tập, tập42, NXB tr. 349.
14
V.I. Lênin, Toàn tập, tập45, NXB tr.147.
15
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI, NXB S. H. 1984 tr.739.
16
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI, NXB S. H. 1984 tr.
17
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI NXB S. H. 1984 tr.260-261.
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân. Điều gì mà cá nhân những nhà t bản... không muốn thì Nhà nớc của
họ cũng không muốn"
18
.
Nhà nớc mang bản chất giai cấp, Nhà nớc là bộ máy thống trị của giai
cấp thống trị về kinh tế, là công cụ dùng để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống
trị. Cho nên, trong mọi trờng hợp, nếu bất kỳ một lực lợng xã hội nào, một
xu thế phát triển nào của lịch sử, bất luận xu thế đó có phù hợp với tiến trình
phát triển khách quan của lịch sử đi chăng nữa thì giai cấp thống trị vẫn sử
dụng Nhà nớc để chống lại chúng, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp mình.
Chính điều đó lý giải vì sao khi tác động vào kinh tế Nhà nớc lại có thể làm
cho nó vận động tiến lên theo hớng này hay hớng khác, thậm chí thụt lùi.
Thứ ba: Sau khi ra đời Nhà nớc đã thực hiện những chức năng nhất
định- chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Chức năng đối nội của Nhà nớc là sự thể hiện quyền lực của nó trong

mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Trong đó Nhà nớc có hai chức năng sau:
Một là, chức năng chuyên chính, trấn áp, bảo vệ sự tồn tại của Nhà nớc, bảo
vệ lợi ích căn bản của giai cấp thống trị khỏi mọi sự tấn công từ phía giai cấp
bị thống trị và các tầng lớp khác trong xã hội. Hai là, chức năng tổ chức xây
dựng xã hội tạo nên một trật tự xã hội nhất định để xã hội có thể tồn tại và
phát triển đợc: duy trì trật tự xã hội, quản lý về kinh tế, giáo dục, văn hoá...
Chức năng đối ngoại, thể hiện ở quan hệ của Nhà nớc đối với các quốc
gia khác trên trờng quốc tế. Trong chức năng này, tuỳ thuộc vào điều kiện
lịch sử cụ thể mà Nhà nớc có thể:
+ Bảo vệ đất nớc, chống mọi sự tấn công và xâm lợc từ bên ngoài;
+ Mở rộng lãnh thổ bằng cách phát động chiến tranh xâm lợc;
+Thiết lập quan hệ hữu nghị hợp tác trên nguyên tắc các bên tham gia
cùng có lợi đồng thời bảo đảm đợc an ninh, chủ quyền của mỗi quốc gia.
Các chức năng đối nội và đối ngoại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
và cùng bị chi phối bởi lợi ích cuả giai cấp cầm quyền. Nghĩa là các hoạt
18
C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập18, NXB CTQG- S. H. 1995 tr.352.
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
động diễn ra trên hai lĩnh vực đó đều là những hoạt động có định hớng, phản
ánh ý chí, lợi ích của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, khẳng định nh vậy không
có nghĩa là trong mọi Nhà nớc đều không có sự kết hợp giữa những hoạt
động thể hiện lợi ích giai cấp với những hoạt động thể hiện lợi ích chung của
toàn xã hội. Khi nghiên cứu lịch sử, ngời ta thấy bất kỳ Nhà nớc nào cũng
đều phải thực hiện những chức năng chung - những chức năng đảm bảo lợi
ích chung cho toàn xã hội. Những chức năng này xuất hiện do sự phát triển
của sản xuất, do yêu cầu của phân công lao động xã hội. Tính chất giai cấp
và tính chất xã hội hoà quện vào nhau và cùng tham gia quy định hoạt động
của Nhà nớc. Vì "ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị
chính trị; và sự thống trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức

năng xã hội của nó"
19
.
Nhấn mạnh mối quan hệ giữa tính giai cấp và tính xã hội của Nhà nớc
thể hiện qua các chức năng nh trên không có nghĩa là đi đến xoá bỏ tính giai
cấp của nó. Nhà nớc đã, đang và sẽ mang tính giai cấp. Mọi hoạt động của
Nhà nớc, xét đến cùng đều do lợi ích giai cấp chi phối. Nếu sự khác biệt lợi
ích trong xã hội mất đi, nếu "Nhà nớc thực sự trở thành đại biểu của toàn thể
xã hội thì bản thân nó trở thành thừa"
20
, thì Nhà nớc cũng sẽ không tồn tại
với t cách là Nhà nớc nữa. Điều đó một lần nữa giải thích vì sao sự tác động
của Nhà nớc đến kinh tế, đến CSHT lại phong phú, đa dạng, phức tạp đến nh
vậy đồng thời giải thích vì sao Nhà nớc lại có thể hoặc thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển của kinh tế.
Sự tác động của Nhà nớc đến CSHT kinh tế đã diễn ra trong suốt chiều
dài lịch sử kể từ khi nó xuất hiện đến nay.
Trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại, do những nguyên nhân kinh tế mà Nhà
nớc chiếm hữu nô lệ đã ra đời. Ngay sau khi ra đời, Nhà nớc chiếm hữu nô
lệ, dới sự cầm quyền của Sôlông, Cli-xten chẳng hạn, đã dùng quyền lực thực
19
C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập20, NXB CTQG. H. 1984 tr.253.
20
C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập20, NXB CTQG. H. 1984 tr.389.
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thi nhiều biện pháp khác nhau nhằm một mặt xoá bỏ tàn tích của xã hội cộng
sản nguyên thuỷ, mặt khác tạo dựng củng cố và phát triển xã hội chiếm hữu
nô lệ.
Sôlông (khoảng 638 - 558 trớc công nguyên) đợc coi là một nhà cải

cách vĩ đại. Theo sự đánh giá của các nhà sử học, cải cách của ông đã làm
thay đổi hẳn chế độ chính trị và xã hội cũ của Aten, đánh đòn nặng nề vào
tàn tích của chế độ thị tộc và sự thống trị của giai cấp quý tộc, tạo điều kiện
cho sự phát triển của chế độ t hữu, đặt cơ sở cho nền dân chủ chủ nô Aten
21
.
Sôlông đã làm những gì? Trớc tiên ông "xâm phạm chế độ sở hữu" bằng
cách tuyên bố xoá bỏ mọi nợ nần, giải phóng cho những ngời bị buộc phải
làm nô lệ vì nợ nần, quy định mức sở hữu ruộng đất, tức là đem lại quyền sở
hữu cho những ngời nông dân. Liền sau đó ông thực hành một loạt những
biện pháp kinh tế và tác động khác nhằm khuyến khích và thúc đẩy sự phát
triển của thủ công nghiệp, thơng nghiệp nh cải cách chế độ tiền tệ, thừa nhận
quyền tự do di sản cho bất kỳ ai theo ý muốn (trớc đó tài sản của ngời quá cố
thuộc quyền sở hữu của thị tộc của ngời đó)... Cải cách quan trọng nhất của
Sôlông là nhằm vào thủ tiêu những đặc quyền đặc lợi của quý tộc, xác định
địa vị của mỗi công dân theo mức tài sản của họ. Với những nội dung đó, cải
cách của Sôlông đã giáng đòn chí tử vào chế độ cộng sản nguyên thuỷ, vào
cái xã hội đã sinh ra nó tức chế độ công hữu, đa chế độ t hữu - cơ sở kinh tế
của xã hội chiếm hữu nô lệ vào cuộc sống, tạo điều kiện cho sự hình thành
và phát triển vững chắc của xã hội chiếm hữu nô lệ.
Tuy vậy, những cải cách của Sôlông đã không thủ tiêu đợc hoàn toàn
những tàn tích của chế độ thị tộc: chế độ sở hữu lớn cũng nh những ảnh h-
ởng chính trị của tầng lớp quý tộc vẫn còn chiếm u thế; việc chia lại ruộng
đất cho nông dân cũng đã không thực hiện đợc. Cuộc cải cách của Sôlông
không triệt để. Sự xoá bỏ hoàn toàn những cơ sở, điều kiện của xã hội thị tộc,
của phơng thức sản xuất cũ phải chờ đến cải cách của Cli-xten.
21
Chiêm Tế, lịch sử thế giới cổ đại, T2, NXB GD, H. 1971, tr.40.
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Vừa lên cầm quyền, Cli-xten liền thực hành ngay một loạt cải cách mà
tính chất của nó, theo Ăngghen, là cách mạng. Trong "Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ t hữu và của Nhà nớc" Ăngghen viết: "Cuộc cách mạng của
Cli-xten (509 trớc công nguyên) lật đổ hẳn họ [tầng lớp quý tộc]... đồng thời
lại lật đổ cả tàn tích cuối cùng của chế độ thị tộc nữa"
22
. Sở dĩ đợc đánh giá
cao nh vậy là vì Cli-xten đã phân chia tất cả công dân Aten theo những khu
vực hành chính. Bằng cách đó, ông đã xoá bỏ đợc sợi dây cuối cùng níu kéo
sự tồn tại của xã hội thị tộc: sợi dây huyết thống - sợi dây vốn đã không bền
chặt, vì cái cơ sở kinh tế của nó - một cơ sở kinh tế mang tính thuần nhất chỉ
dựa trên chế độ công hữu, đã bị xâm phạm bởi các cải cách của Sôlông trớc
đó. Cuộc cải cách của Cli-xten đã làm thay đổi toàn bộ xã hội Aten từ cơ cấu
của bản thân chính quyền Nhà nớc cho đến đời sống kinh tế xã hội, đã làm
tạo ra một xã hội chiếm hữu nô lệ điển hình.
Nh vậy, trong giai đoạn đầu, Nhà nớc chiếm hữu nô lệ đã bằng quyền
lực để thực hiện cải cách nhằm một mặt xoá bỏ mối quan hệ, các tàn tích của
xã hội cộng sản nguyên thuỷ, mặt khác thiết lập nên cơ sở kinh tế cho xã hội
mới - xã hội chiếm hữu nô lệ, chế độ t hữu.
Sau khi đã thiết lập đợc cơ sở kinh tế vững chắc cho sự tồn tại của xã
hội chiếm hữu nô lệ, Nhà nớc chủ nô lại tiếp tục sử dụng quyền lực của mình
can thiệp vào đời sống kinh tế xã hội. Pháp luật quy định nô lệ phải làm việc,
không đợc phản đối (pháp luật cổ đại Trung quốc), nếu nô lệ không vâng lời
có thể bị cắt tai, nô lệ bỏ trốn thì bản thân và những ngời che dấu cho họ bị
xử tử hình (luật Hăm Murabi), nô lệ ốm đau thì chủ nô đợc phép bỏ cho chết
dần, nô lệ bỏ chốn thì những ngời trong gia đình bị xử tử hình (luật La mã).
Đồng thời pháp luật cũng đảm bảo cho tính tuyệt đối của quyền t hữu đối với
nô lệ và mọi tài sản khác của chủ nô, quyền cha truyền con nối nô lệ và
những tài sản đó... (luật La Mã) chống lại mọi sự xâm phạm quyền t hữu đó
bằng các hình phạt nh tử hình đối với tôị ăn cắp hoa quả (luật Paracông thế

22
C. Mác - Ph. Ăngghen, Tuyển tập, TậpVI, NXB S. H. 1984 tr.182.
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kỷ thứ VII trớc công nguyên) bị đối xử nh nô lệ đối với những ngời tự do
phạm tội ăn cắp và bị giết chết sau khi bị hành hạ đối với nô lệ phạm cùng
tội ăn cắp (luật La mã)... Và do vậy, đơng nhiên là ở đó luật pháp cũng đảm
bảo cho tính tuyệt đối của quyền chiếm hữu toàn bộ của caỉ vật chất do sức
lao động của nô lệ tạo ra.
Sự can thiệp của Nhà nớc trong xã hội CHNL đối với kinh tế nh vậy là
mang tính gián tiếp. ở đây, Nhà nớc không can thiệp trực tiếp vào quá trình
sản xuất kinh doanh, không tham gia vào việc quy định sản xuất cái gì, sản
xuất nh thế nào, cần tạo ra bao nhiêu sản phẩm và sản xuất cho ai; Nhà nớc,
bằng cách ban bố pháp luật, kiểm tra giám sát việc thi hành luật pháp mà tạo
ra môi trờng cho quá trình sản xuất. Đơng nhiên, để đảm bảo cho các hoạt
động của mình đợc diễn ra, Nhà nớc cũng buộc các chủ nô phải có những
đóng góp nhất định.
Trong xã hội CHNL, vào thời kỳ hình thành và phát triển sự tác động
của Nhà nớc đối với kinh tế bằng hình thức trên đã tạo điều kiện cho nền sản
xuất xã hội. Nhng càng về sau, nhất là vào khoảng thế kỷ thứ II, thứ III, cũng
chính sự can thiệp của của Nhà nớc, cũng chính môi trờng pháp lý mà Nhà
nớc đã tạo ra cho nền kinh tế lại trói buộc sự phát triển của lực lợng sản xuất,
đã tạo ra một lực lợng sản xuất với tính chất và trình độ hết sức đơn giản, với
những ngời lao động chây ì, chậm chạp, lời biếng và những công cụ lao
động nặng nề thô kệch (để đối phó với sự phá hoại của nô lệ). Những ngời
chủ nô sử dụng nô lệ để tiến hành lao động sản xuất nhng không hề quan
tâm đến việc cải tiến phơng pháp canh tác. Chủ nô chiếm đoạt toàn bộ thành
quả lao động của nô lệ nhng không đảm bảo việc cung cấp những t liệu sinh
hoạt tối thiểu cho họ. Tình trạng ngợc đãi nô lệ, xem họ nh những công cụ
biết nói, nh trâu ngựa, dùng roi vọt cỡng bức họ làm việc đã không thể làm

cho năng suất lao động nâng lên. "Nô lệ đãlàm cho năng suất ruộng đất giảm
sút nghiêm trọng. Họ bị cỡng bách làm việc nh trâu ngựa và sống một cuộc
đời khổ ải không khác gì loài vật. Họ cày cấy bừa bãi, khi gieo hạt họ cố ý
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gieo lung tung, làm lãng phí rất nhiều hạt giống; họ gặt lúa đem về sân nhà
chủ mà không chú ý xem lúa đã chín cha. Thậm chí trong khi gánh lúa về
nhà chủ, họ tìm cách thu giấu lúa đi hoặc cố ý làm làm rơi vãi lúa ở dọc đ-
ờng"
23
. Để cứu vãn tình thế đảm bảo cho sự tồn tại của mình, dần dần các
chủ nô đã cấp nhà, giao đất, nông cụ, súc vật kéo, giống má... cho nô lệ và
sau mỗi vụ họ lại thu một phần lớn hoa lợi cho chủ. Bằng cách đó nô lệ đã
biến thành lệ nông.
Tuy nhiên, sự ra đời của chế độ lệ nông cũng không làm cho PTSX
chiếm hữu nô lệ phục sinh, không làm cho lực lợng sản xuất phát triển. So
với những ngời nô lệ, lệ nông có một chút tự do hơn và do đó có tinh thần tự
nguyện sản xuất hơn. Nhng những ngời lệ nông, về mặt pháp lý vẫn là nô lệ,
về kinh tế họ bị trói chặt vào mảnh đất mà chủ nô giao cho, và "nói đúng ra,
họ không phải là ngời nô lệ, nhng cũng không phải là ngời tự do". Hơn nữa,
dù có thay đổi trong cách quản lý tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm
của quá trình sản xuất để phơng thức sản xuất CHNL có những biểu hiện
"phục sinh", nhng bằng sức mạnh của mình, Nhà nớc lại can thiệp quá thô
bạo vào khâu phân phối, bắt lệ nông phải đóng su cao thuế nặng, đóng góp
sức ngời sức của phục vụ cho bộ máy quan liêu ngày càng phình to và sự tiêu
sài hoang phí của nó, cho nên những biểu hiện "phục sinh" đó cũng qua đi
nhanh chóng để lại đằng sau nó những cánh đồng hoang hoá, những thành
thị tiêu điều, nền kinh tế xác xơ. Xã hội CHNL lâm vào khủng hoảng. Xã hội
phong kiến ra đời thay thế nó.
Sự tan rã một cách mau chóng của xã hội CHNL và sự hình thành xã

hội phong kiến diễn ra chủ yếu nhờ những biến đổi to lớn xảy ra trong đời
sống kinh tế, chủ yếu biểu hiện ở ba mặt sau:
- Lãnh địa hoá toàn bộ ruộng đất trong xã hội.
- Nông nô hoá giai cấp nông dân.
- Trang viên hoá nền kinh tế.
23
Chiêm Tế, LSTG cổ đại, t2, tr. 220.
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội châu Âu thời kỳ
đó sở dĩ diễn ra nhanh chóng là vì Nhà nớc đã ban hành và thực hiện một
loạt những chính sách khác nhau mà tiêu biểu là chính sách phân phong
ruộng đất từ thời Saclơ Mácten thế kỷ VII đến Saclơmanhơ thế kỷ IX ở xứ
Gôlơ. Khác với chế độ phong tặng ruộng đất trớc kia, chính sách phân phong
ruộng đất của Saclơ Mácten là chính sách ban cấp ruộng đất có điều kiện.
Ruộng đất ban cấp chỉ đợc sử dụng hết đời chứ không đợc truyền cho con
cháu. Nhng sang đến thế kỷ IX, dới thời Saclơmanhơ, do kết quả của chiến
tranh chinh phục mà chính sách ban cấp ruộng đất có phần lới rộng hơn. Ng-
ời đợc nhận đất ban cấp với diện tích rộng hơn, đợc phép truyền cho con
cháu. Nhờ vậy mà giai cấp phong kiến đợc hình thành ngày một đông đảo
hơn.
Sự tác động của Nhà nớc vào kinh tế không chỉ thấy ở La mã, Gôlơ
thờ cổ, trung đại mà còn thấy phổ biến ở các nơi khác. ở phơng Đông, ngay
từ thời cổ đại, sự can thiệp, tác động của Nhà nớc vào kinh tế có phần sâu sắc
hơn. Do phải chịu nhiều tác động của thiên tai, chiến tranh xâm lợc, các
cộng đồng ngời ở phơng Đông phải thờng xuyên tập hợp, đoàn kết lực lợng
để chống thiên tai, ngoại xâm. Lực lợng đảm nhiệm công việc tổ chức cộng
đồng làm những công việc đó không phải ai khác mà là các tổ chức Nhà nớc.
Nh vậy, ở đây ngoài những yếu tố mang tính chất chung của lịch sử xã hội
loài ngời nh sự phân hoá giai cấp trong xã hội, điều mà C. Mác và Ph.

Ăngghen đã không ít lần đề cập đến, quy định sự ra đời của Nhà nớc, trong
xã hội phơng Đông những công việc mang tính chất chung nh bảo vệ chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, chống thiên tai... cũng là nguyên nhân cơ
bản (nếu không muốn nói là nguyên nhân quyết định) của sự ra đời Nhà nớc.
Chính vì lẽ đó mà trong một chừng mực nhất định có thể nói vai trò kinh tế
của Nhà nớc phơng Đông trong buổi bình minh của nó mang đậm tính chất
xã hội. Nói cách khác, tính chất đó còn bị chi phối chủ yếu bởi lợi ích quốc
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
gia, dân tộc chứ không phải chủ yếu là lợi ích giai cấp nh ở phơng Tây và ở
một số giai đoạn phát triển sau này của nó.
ở Việt Nam, sự can thiệp của Nhà nớc vào kinh tế diễn ra rất sớm. Từ
thời Hùng Vơng dựng nớc, thời kỳ mà theo các nhà sử học, Nhà nớc còn
đang trong hình thức phôi thai, sự can thiệp của Nhà nớc Việt Nam vào kinh
tế đã rõ nét. Nhà nớc giữ vai trò chỉ huy xây dựng các công trình công cộng
nh đắp đê chống lũ, xây dựng hệ thống kênh ngòi, làm đờng sá. Từ sau khi
nhân dân ta giành đợc độc lập và bắt tay vào xây dựng quốc gia phong kiến
độc lập, sự can thiệp của Nhà nớc vào quá trình kinh tế đã góp phần giải
phóng sức sản xuất (chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp), tạo điều kiện cho
quan hệ sản xuất phong kiến ra đời.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần
và Lê sơ đều tập trung sự chú ý của mình vào vấn đề ruộng đất, cơ sở quan
trọng nhất của phơng thức sản xuất phong kiến. Trớc đó, ruộng đất ở Việt
Nam tồn tại dới hai hình thức chủ yếu: đất công thuộc quyền sở hữu của Nhà
nớc và đất t thuộc quyền sở hữu của t nhân. Các triều đại phong kiến nói trên
đã đa ra những chính sách làm thay đổi mối quan hệ của hai hình thức sở
hữu này.
Nhà Đinh đã thực hiện chế độ phong cấp ruộng đất-chế độ ban thởng
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nớc cho các quan lại, quý tộc, ngời có
công với triều đình. Sang thời Lý, Lê chính sách này có những thay đổi căn

bản. Thời Lý, ruộng phong cấp đợc chia làm hai loại: ruộng thực ấp và thực
phong. Ruộng thực phong ràng buộc ngời dân ở đó với quý tộc, còn ruộng
thực ấp không chỉ ràng buộc dân với quý tộc mà còn ràng buộc họ với Nhà
nớc. Do vậy, thời Lý ruộng thực ấp đợc chú ý hơn. Thời Trần, chính sách
phong cấp ruộng đất phát triển theo hớng có lợi cho sự ra đời chế độ t hữu
ruộng đất. Ruộng đất phân phong không còn chia làm hai loại nh trớc mà đ-
ợc hiểu nh chế độ thực phong thời Lý. Chính vì vậy mà nhiều thái ấp của
quý tộc Trần ra đời. Bên cạnh việc phong thái ấp, nhà Trần còn cho phép v-
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
ơng hầu, quý tộc chiêu mộ dân nghèo khai hoang lập điền trang. Khác với
các thái ấp, các điền trang thuộc quyền sở hữu của quý tộc.
Cuối thời Trần, điền trang, thái ấp đều đợc mở rộng, nhiều nông dân
biến thành nông nô, nô tỳ chịu sự áp bức bóc lột nặng nề. Quan hệ nông nô,
nô tỳ lúc đó đã đi ngợc lại xu thế phát triển của sản xuất xã hội do vậy đã
kìm hãm sức sản xuất, đẩy nhà Trần lâm vào khủng hoảng kinh tế chính trị
và đi đến sụp đổ. Sự sụp đổ của nhà Trần là một bằng chứng lịch sử cho thấy
vai trò quyết định của kinh tế trong mối quan hệ với Nhà nớc, đồng thời cho
thấy khi Nhà nớc tác động ngợc với xu thế phát triển khách quan của kinh tế
- xã hội thì sớm hay muộn nó cũng sẽ bị diệt vong.
Nhà Hồ thay thế nhà Trần, Hồ Quý Ly đã ban hành chính sách "hạn
điền" và "hạn nô". Với chính sách này chế độ điền trang thái ấp, nông nô, nô
tỳ vẫn đợc thừa nhận nhng số điền trang, thái ấp, nông nô, nô tỳ của quý tộc
Trần đã chuyển sang tay Nhà nớc. Bằng cách đó nhà Hồ mong muốn tăng
quyền lực kinh tế, chính trị của mình lên. Tuy nhiên, về thực chất, chính
sách "hạn điền", "hạn nô" không góp phần giải phóng sức sản xuất đang bị
kìm hãm mà ngợc lại còn làm cho tình trạng này trầm trọng thêm. Chính vì
vậy, nhà Hồ cũng giống nh nhà Trần đã bị tớc bỏ quyền thống trị trong xã
hội.
Dới thời Lê sơ, năm 1477 nhà nớc ban hành chính sách "lộc điền".

Theo chính sách này chỉ có vua và quan tứ phẩm trở lên mới đợc hởng "lộc
điền". "Lộc điền" có một phần ruộng đất đợc cấp vĩnh viễn còn phần lớn chỉ
đợc cấp cho sử dụng. Chính sách "lộc điền" đã đánh dấu một bớc phát triển
trong kinh tế Việt Nam. Nhờ có chính sách này quan hệ địa chủ tá điền ra
đời thay thế cho quan hệ nông nô, nô tỳ, chế độ t hữu phát triển một bớc
đáng kể, sức sản xuất đợc giải phóng, năng suất lao động xã hội tăng lên.
Bên cạnh ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà nớc còn có ruộng đất thuộc
sở hữu t nhân. Đó là số ruộng đất của địa chủ và nông dân tự canh, trong đó
ruộng đất của địa chủ là chủ yếu.
25

×