CHƯƠNG I : QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ CHỨC
NĂNG CỦA TIỀN TỆ
Từ khi xuất hiện, tiền tệ đã đóng một vai trò rất quan trọng trong nền
kinh tế và người ta đã ví “Tiền thực sự là huyết mạch” làm cho hàng hóa lưu
thông như máu đưa oxy và chất dinh dưỡng nuôi cơ thể. Vậy tiền do đây mà
có?
1.1. Quá trình hình thành và các hình thức tiền tệ :
1.1.1. Quá trình hình thành :
Lịch sử đã cho thấy rằng trong thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên
thủy với công cụ lao động thô sơ, người ta tự cung cấp cho nhau số sản phẩm
ít ỏi mà họ săn bắt và hái lượm được. Đến khi ý thức về phân công lao động
được hình thành và họ đã có được số lượng sản phẩm thừa tương đối, từ đó
làm nảy sinh quan hệ trao đổi nhưng là những sản phẩm cần thiết cho sự sống
còn của mình. Đó chỉ là sự trao đổi hoàn toàn mang tính chất ngẫu nhiên, sự
trao đổi hàng lấy hàng theo công thức H – H’
Ví dụ : 1 con cừu = 1kg thóc.
Khi công cụ lao động được cải tiến, phân công lao động xã hội phát
triển, trao đổi hàng hóa thường xuyên hơn, thị trường hàng hóa đã phong phú,
đa dạng hơn. Phạm vi trao đổi càng mở rộng thì việc trao đổi trực tiếp không
còn phù hợp. Khi đó, người ta đặt ra “vật trung gian” làm phương tiện trao
đổi, nghĩa là có sự tách rời hai giai đoạn mua và bán theo công thức : H – Vật
trung gian – H’
Chính sự ra đời của “vật trung gian” trong trao đổi mở đầu cho sự xuất
hiện của tiền tệ.
“Vật ngang giá chung là một thứ hàng hóa có khả năng trao đổi trực
tiếp với một hàng hóa bất kỳ và khi vai trò vật ngang giá chung đó được cố
định ở một thứ hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ của giá trị.
Như vậy, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt dùng làm vật ngang giá
cho tất cả các hàng hóa, là sự thể hiện chung của giá trị, là sự thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những giá sản xuất hàng hóa,
do quá trình phát triển lịch sử của trao đổi hàng hóa tạo ra.
Từ phân tích trên ta có thể khẳng định rằng nguồn gốc của tiền tệ là kết
quả của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Là một loại hàng hóa đặc biệt, tiền tồn tại dưới hình thức nào?
1
1.1.2. Các hình thức tiền tệ :
Trong tiến trình của tiền tệ từ xưa cho đến nay, người ta phân tích làm
bốn thời kỳ :
1.1.2.1. Thời kỳ hóa tệ :
Đây là hình thức tiền đầu tiên của nhân loại, nó là hình thái tiền tệ được
áp dụng trong một thời gian quá dài so với các hình thái tiền khác. Người ta
chọn một loại hàng hóa có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, có
thể bảo tồn lâu ngày và mang tính phổ biến đặc trưng cho địa phương.
Khi đã có “hóa tệ” làm trung gian để trao đổi trong sản xuất và mua
bán, thương mại phát triển mạnh và hoạt động kinh tế bành trướng rất mau
chóng. Nhưng nhìn chung, hóa tệ có nhiều điều bất tiện : Khi trao đổi người
ta phải thỏa thuận về tỷ lệ giá cả của hàng hóa, số lượng hàng hóa …., nó chỉ
được công ở từng địa phương …. Mặt khác, theo quy luật phát triển của nền
sản xuất thì trao đổi hàng hóa sẽ không còn nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của
địa phương. Điều đó đòi hỏi có một vật trung gian khác mang tính chất phổ
biến, dễ phân chia, dễ vận chuyển, tồn tại lâu làm chức năng tiền tệ. Đó là
nguyên nhân ra đời của tiền tệ kim loại.
1.1.2.2. Thời kỳ kim tệ :
Tiền tệ đòi hỏi phải được mọi người chấp nhận một cách phổ biến, phải
khá quý, làm phương tiện trao đổi trong thời gian dài, có sức mua ổn định,
không thể nhân lên một cách không có giới hạn đến mức bất cứ ai cũng có thể
có thoải mái, không mất công sức gì, đồng thời có thể được chia nhỏ, tiện lợi.
Do những đòi hỏi trên đã làm cho những kim loại quý đóng vai trò tiền tệ một
cách tự nhiên.
Có cùng một tiến triển đã đẩy các nước có nguồn kinh tế, pháp lý khác
nhau đến chỗ sử dụng các kim loại quý nhất là vàng bạc làm công cụ trao đổi
vì chúng đáp ứng được những yêu cầu của một đồng tiền đã nêu ở trên.
Trong thế kỷ thứ 18, 19 có các loại tiền như : chế độ song bản vị,
nhưng đến khi vàng càng trở nên quý hiếm và cách xa bạc thì chế độ song bản
vị chuyển thành chế độ bản vị vàng.
Kinh tế và các vấn đề xã hội khác càng phát triển, các câu hỏi và yêu
cầu càng được đặt ra cao hơn, người ta bắt đầu tìm kiếm những phương tiện
khác tiện lợi hơn để làm tiền. Thêm vào đó, xã hội ngày càng trở nên thiếu tài
nguyên do dân số gia tăng, vì mọi nguồn lực không phải vì vô hạn, sự tiết
kiệm các dạng nguyên liệu như kim loại là rất cần thiết. Đó là một trong
những lý do giúp tiền giấy ra đời và phát triển nhanh chóng từ cuối những
năm 1600 cho đến nay.
1.1.2.3. Thời kỳ tiền giấy :
Tiền giấy chỉ là một loại tiền dấu hiệu, bản thân nó không có giá trị nên
được sử dụng là phương tiện trao đổi thì phải dựa vào sự tín nhiệm của con
người. Sự xuất hiện đầu tiên của tiền giấy là giao sao hay giao tử ở Trung
2
Quốc vào triều Tống. Lưu thông tiền giấy đã trãi qua hai giai đoạn : giai đoạn
tiền giây khả hoán và giai đoạn tiền giấy bất khả hoán.
Tiền giấy khả hoán, nghĩa là tiền giấy có thể đổi ra vàng hay bạc bất cứ
lúc nào. Tiền giấy khả hoán tồn tại từ thế kỷ thứ 17, được củng cố bởi học
thuyết của David Ricardo, kéo dài đến tận những năm 30 thế kỷ XX.
Kể từ năm 1931, sau cuộc khủng hoảng kinh tế, tất cả các nước áp dụng
hệ thống không chuyển đổi được của đồng tiền. Kể từ đó, ở mọi nơi, tiền giấy
ngân hàng không có khả năng chuyển đổi. Đó là tiền giấy bất khả hoán, nó là
loại tiền được quy ước bởi luật pháp dùng để lưu hành trong trao đổi và hoàn
toàn không đổi ra vàng hay bạc được. Đó là tiền giấy pháp định do nhà nước
phát hành và được luật pháp của quốc gia quy định rằng giấy này tương
đương với một giá trị nhất định trong trao đổi. Ở đây chính pháp luật đã gán
cho tờ giấy một giá trị cao hơn giá trị của bản thân nó.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia điều có tiền giấy, vì đơn giản là tiền
giấy có thể được làm ra những số lượng rất lớn với chi phí rất hạ hơn so với
loại nguyên liệu hay hàng hóa nào khác để tạo ra tiền. Khi nền kinh tế ngày
càng bành trước và nhu cầu về số lượng của tiền tăng lên không ngừng thì
thực sự chỉ tiền giấy là loại tiền tiết kiệm nhất các nguồn lực khan hiếm trong
xã hội.
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng đã tạo điều kiện hình thành
loại tiền khác, đó là tiền qua ngân hàng và tiền điện tử.
1.1.2.4. Tiền qua Ngân hàng – Tiền điện tử :
Bút tệ là thứ tiền vô hình sử dụng bằng cách ghi chép trong sổ sách kế
toán ngân hàng. Mọi nghiệp vụ thanh toán tiền bạc giữa người này với người
kia được thực hiện bằng cách ghi giảm trong tài khoản của người phải trả một
số tiền để chuyển sang tài khoản của người nhận tại ngân hàng. Bút tệ là lệch
chuyển khoản hay sec. Nó xuất hiện đầu tiên tại Anh vào giữa thế kỷ thứ 19.
Tiền tệ ra đời đánh dấu bước ngoặc trong nhận thức về tiền của mỗi
con người. Đó là thứ tiền hoàn toàn dựa trên tín nhiệm của công chúng đối
với cơ quan đã phát hành tiền đó.
Lúc mà khoa học kỹ thuật đi sâu vào đời sống của kinh tế xã hội thì
tiền điện tử ra đời. Tiền điện tử là các giá trị được số hóa, lưu trữ và xử lý
thông qua kỹ thuật thông tin được quản lý bởi các định chế tài chính. Người
sở hữu món tiền đã được tiến hành “tiền điện tử” sẽ có một công cụ duy nhất
là một tấm thẻ nhựa để tiến hành việc dùng tiền khi có nhu cầu. Tiền điện tử
cho phép thanh toán ngay, giảm thiểu thời gian luân chuyển chứng từ qua
ngân hàng hoặc ghi chép chứng từ thanh toán. Do đó việc sử dụng thẻ thanh
toán đang là xu hướng của những nước phát triển.
Ngày nay, ngoài ra các loại tiền trên còn có các loại giấy tờ có giá trị
như : cổ phiếu của các công ty cổ phần, trái phiếu của nhà nước và các công
ty, tín phiếu của kho bạc …. Gọi chung là các loại giấy nợ.
3
1.2. Bản chất và chức năng của tiền :
1.2.1. Bản chất của tiền :
Trong quá trình phát triển của mình, tiền đã trải qua nhiều hình thức
khác nhau mà ngày nay chủ yếu là tiền giấy và tiền qua ngân hàng, chúng dựa
trên sự tín nhiệm của con người chứ không có giá trị bản thân chính điều này
đã gây ra nhiều tranh cãi và đã hình thành nhiều quan điểm khác nhau về bản
chất của tiền.
Từ thế kỷ 16, Thomas – Nen, đại diện cho thuyết tiền tệ kim thuộc cho
rằng : vàng, bạc tự nhiên, mới là tiền tệ và họ cho rằng chữ vàng, bạc mới đủ
khả năng thực hiện chức năng của tiền tệ.
Trái ngược quan điểm trên, đến thế kỷ thứ 18, khi các loại tiền dấu hiệu
ra đời và nó vẫn phục vụ cho trao đổi được thì trường phái tiền tệ duy danh lại
đề cao tiền dấu hiệu và họ kết luận rằng : tiền tệ chỉ là một công cụ kỹ thuật
tiện cho trao đổi hàng hóa, chỉ là đơn vị thanh toán trừu tượng nên bản thân
tiền tệ không có giá trị nội tại và nhà nước hoàn toàn có thể phát hành tiền
giấy với những dấu hiệu quy ước là có thể phục vụ cho trao đổi hàng hóa.
Khi nghiên cứu nguồn gốc của tiền dựa trên sự phát triển của các hình
thái giá trị, K.Marx – nhà duy vật biện chứng – đã khẳng định như sau “Một
khi người ta đã hiểu rằng nguồn gốc của tiền tệ là ở ngay trong hàng hóa thì
người ta đã khắc phục được cái khó khăn chính trong sự phân tích tiền tệ” (tài
liệu số 4, trang 71). Ông cho rằng nếu đóng vai trò là vật trung gian trao đổi
thì tiền dấu hiệu vẫn đảm nhận được vai trò tiền tệ, còn vàng thì trở thành tiền
trong những điều kiện nhất định và một khi đã được thừa nhận đóng vai trò
tiền tệ thì vàng vẫn là hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật ở thế kỷ 20, không chỉ có
sự tồn tại của tiền vàng hay tiền giấy nữa mà xét ở góc độ rộng hơn thì các
loại sec, tiền qua ngân hàng, chứng khoán …. Nếu chúng có thể chuyển đổi
thành tiền mặt thì cũng được xem là tiền. Điều đó đúng như Samuelson đã kết
luận : “Bản chất của tiền tệ ngày nay đã được phơi bày rõ ràng, người ta
muốn có tiền tệ với danh nghĩa là tiền chứ không phải là hàng hóa, không
phải vì bản thân nó mà vì những thứ mà dùng nó sẽ mua được…. Bản chất
của tiền tệ là dùng để làm phương tiện trao đổi” (Tài liệu số 6, trang 332)
Để hiểu rõ hơn về bản chất của tiền, ta đi vào phân tích vai trò, chức
năng của tiền.
1.2.2. Vai trò của tiền :
Với giả định rằng : “chúng tôi giả định vàng là hàng hóa giữ chức năng
tiền tệ” (tài liệu số 5, trang 186) thì Marx cho rằng chức năng của tiền thực
hiện trong điều kiện kinh tế hàng hóa phát triển là : Chức năng thước đo giá
trị, chức năng phương tiện lưu thông, chức năng phương tiện cất trữ, chức
năng tiền tệ thế giới.
4
Ngày nay, mặc dù vàng vẫn được thừa nhận là thước đo giá trị, là
phương tiện cất trữ và tiền thế giới nhưng do yêu cầu của nền kinh tế hàng
hóa thị trường, người ta đã hạn chế sử dụng vàng làm phương tiện trao đổi.
Do đó ta có thể xem xét ở ba chức năng sau :
1.2.2.1. Thứ nhất, là chức năng thước đo giá trị :
Theo Marx đây là chức năng cơ bản nhất của tiền vì bản chất của chức
năng này là đo lường giá trị của tất cả các hàng hóa bằng tiền. Điều này có
nghĩa là tiền tệ đo giá trị của hàng hóa thông qua lượng thời gian lao động xã
hội cần thiết kết tinh trong hàng hóa. Không chỉ Marx mà các nhà kinh tế học
hiện đại đều chấp nhận lý luận này.
Với chức năng này tiền tệ biểu thị và so sánh giá cả của tất cả các hàng
hóa, từ đó sẽ làm cho đời sống kinh tế được đơn giản hóa hơn nhiều. Vì thực
tế cho thấy rằng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa thì chủng loại hàng
hóa trên thế giới ngày càng phong phú và vô số. Nếu không có đơn vị thanh
toán chung thì người ta sẽ phải mất nhiều thời gian để xác định những quan
hệ tỷ lệ giữa các hàng hóa với nhau khi trao đổi được thực hiện. Mà việc làm
đó đôi khi không chính xác trong khi thời gian là vàng bạc. Nhưng đâu phải
người ta chỉ tính đến giá cả hiện tại mà còn phải dự đoán cho cả tương lai.
Việc làm đó chỉ xảy ra được khi có một đơn vị thanh toán chung. Ngoài ra
tiền tệ còn giúp cho người tiêu dùng so sánh, đánh giá nhằm lựa chọn loại
hàng hóa có lợi nhất cho mình.
Đối với nền kinh tế thị trường : ở tầm vĩ mô trong hệ thống kế toán
quốc gia, đồng tiền với chức năng thước đo giá trị đã được vận dụng để tính
tổng mức GDP, GNP trong từng kỳ. Điều đó giúp cho quá trình phân phối
tổng sản phẩm quốc dân và đánh giá hiệu quả nền kinh tế để có biện pháp tận
dụng những nguồn tàinguyên quốc gia phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước. Ở phạm vi quy mô, chức năng trên của tiền là cơ sở để
các doanh nghiệp hoạch toán, tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản
phẩm, đánh giá hiệu quả kinh doanh nhằm tìm ra phương thức đầu tư có lợi
nhất.
1.2.2.2. Thứ hai, là chức năng phương tiện trao đổi của tiền :
Khi tiền chưa xuất hiện, người ta trao đổi theo công thức H – H’. để
thực hiện được quy trình H – H’ đòi hỏi việc hao phí thời gian để tìm một nhu
cầu phù hợp về sản phẩm trao đổi. Điều đó làm hạn chế quá trình lưu thông
hàng hóa, đặc biệt khi phân công lao động sâu sắc và kinh tế có nền chuyên
môn hóa cao thì công thức H – H’ không đáp ứng được.
Thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền vận động theo công
thức H – T – H’. đối với người sản xuất khi hàng hóa tiêu thụ được tức là đã
chuyển từ hình thái H sang hình thái T, giá trị hàng hóa được thực hiện. Với
lượng tiền sở hữu, người ta có thể chuyển đổi ra bất kỳ hàng hóa nào cần cho
nhu cầu của họ. Từ đó đã toát lên ý nghĩa thực của tiền trong nền kinh tế là
5
tạo khả năng thanh toán tức thì, mà điều đó, đó rất cần cho nền kinh tế hàng
hóa thị trường phát triển.
Là phương tiện trao đổi tiền có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau
như : tiền vàng, tiền giấy, sec …. Nhưng khi làm chức năng phương tiện lưu
thông thì tiền tệ phải là tiền mặt. Để làm tròn chức năng trung gian trao đổi thì
tiền tệ phải là một đơn vị để đo lường giá trị, do đó người ta phải định giá đơn
vị tiền tệ.
Với chức năng này, tiền góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đồng
thời qua quá trình đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ còn giúp ta
phát hiện những khiếm khuyết trong sản xuất như mẫu mã, chất lượng hàng
hóa, điều tiết cung cầu – trong từng khu vực của nền kinh tế.
Vai trò của tiền trong trao đổi hàng hóa được David Hume nói rằng :
“Tiền với một cách chính xác không là mục tiêu của thương mại, nhưng nó là
phương tiện để mọi người trao đổi hàng hóa lẫn nhau, tiền không phải là chiếc
bánh của cổ xe thương mại, nhưng nó là nhiên liệu để khởi động chiếc xe ấy
dễ dàng và êm ái” (Tài liệu số 3, trang 92)
1.2.2.3. Thứ ba là chức năng phương tiện tích lũy :
Hoạt động kinh tế là một hoạt động xảy ra trong thời gian hàng hóa sản
xuất ra có thể hư hao nhanh chóng, không thể tồn trữ lâu ngày, nhưng nếu
đem trao đổi để lấy tiền thì nhờ đó có thể bảo tồn trong thời gian vô định giá
trị của những sản phẩm do con người sản xuất ra. Và do tiền được tạo ra
không chỉ để sử dụng hết mà còn dành cho việc tích lũy đề phòng bất trắc
hoặc để chuyển nhu cầu tiêu dùng từ thời điểm này sang thời điểm khác. Tiền
tệ cất trữ là tiền tệ rút ra khỏi lưu thông.
Trong thời kỳ sản xuất hàng hóa giản đơn, hình thức cất trữ là cất giấu.
Nhưng ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp
muốn mở rộng sản xuất, các tầng lớn dân cư muốn mua những vật phẩm có
giá trị sử dụng cao thì người ta tích lũy dưới dạng tiền giấy hoặc số dư trên tài
khoản ký thác tại ngân hàng. Bởi vì khi thực hiện chức năng này đồng tiền đã
tạo điều kiện lưu giữ một khả năng sử dụng ngay tức khắc trong khi các dạng
dự trữ tài sản khác đòi hỏi phải có thời gian và chi phí giao dịch khi cần
chuyển sang tiền để sử dụng.
Tóm lại, tiền và những vật khác nhau, ở các thời điểm khác nhau, tuy
vậy, nó luôn quan trọng đối với nhân dân và nền kinh tế.
Trong khoa học kinh tế ngày nay, tiền tệ được xem như là một trong
những công cụ mà nhà nước có thể vận dụng nhằm đạt tới những mục tiêu
kinh tế mong muốn. Hơn nữa trong các nền kinh tế hiện đại, tiền tệ thường tỏ
rõ ảnh hưởng quan trọng đối với các chu trình kinh tế, lạm phát, kinh doanh
và lãi suất. A. Smith đã hoàn toàn hợp lý khi đã thấy được sự xuất hiện của
tiền là một quá trình khách quan theo yêu cầu của trao đổi hàng hóa, nó là
6
phương tiện khắc phục khó khăn của trao đổi hàng hóa trực tiếp, là “Chiếc
bánh xe vĩ đại của lưu thông hàng hóa” (tài liệu số 2)
Ngày nay hầu như ai cũng dùng tiền. Hằng ngày, hằng tuần, hàng năm
chúng ta tồn tại, sinh hoạt và phát triển cá nhân dựa trên những giao dịch liên
quan đến tiền. Tiền xuất hiện, phát triển, hiện diện khắp nơi, thúc đẩy hoạt
động thương mại và kinh tế. Nhưng tiền đi vào nền kinh tế bằng cách nào và
bao nhiêu tiền trong nền kinh tế là tốt nhất? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ
tìm hiểu về quy luật lưu thông tiền tệ. Đối với nước ta, quy luật này đã và
đang ảnh hưởng ra sao.
CHƯƠNG II : QUY LUẬT LƯU THÔNG TIỀN TỆ VÀ Ý NGHĨA
THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1. Quy luật lưu thông tiền tệ :
Vai trò, chức năng của tiền tệ đã được đề cập ở trên từ đó ta thấy rõ sự
quan trọng của tiền. Và chính vì thế mà các vấn đề về tiền luôn gây nhiều
tranh cãi. Về quy luật lưu thông tiền tệ cũng có rất nhiều cách nhìn, tiếp cận
và nghiên cứu khác nhau. chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về các trường phái
này.
2.1.1. Quy luật lưu thông tiền tệ với K. Marx:
Bắt nguồn từ yêu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa, Marx đã
nghiên cứu sự ra đời của tiền tệ là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của
sản xuất và trao đổi hàng hóa. Do đó, trên quan điểm xem lưu thông hàng hóa
quyết định lưu thông tiền tệ, Marx cho rằng : “số lượng tiền cần thiết cho lưu
thông nhiều hay ít là hoàn toàn tùy thuộc vào số lượng hàng hóa đang lưu
thông, mức giá cả cao hay thấp và tốc độ lưu thông của tiền nhanh hay chậm.
Từ phân tích đó, ta có công thức :
K
C
=
Với : + K
C
: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông.
+ H : Tổng số giá trị của hàng hóa lưu thông.
+ V : Tốc độ lưu thông tiền tệ.
Như vậy, Marx đã gọp hai nhân tố sản lượng hàng hóa và mức giá cả
thành khái niệm tổng giá cả hàng hóa (H), nhân tố này tỉ lệ thuận với tổng
khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông, còn tốc độ lưu thông tiền tệ (V) là số
vòng lưu thông của một số lượng tiền tệ nhất định và nó tỉ lệ nghịch với lượng
tiền cần thiết cho lưu thông (K
C
).
Nếu gọi K
T
là lượng tiền thực có trong lưu thông (là lượng tiền mà ta
chủ động cung ứng vào lưu thông) thì yêu cầu của quy luật này phải bảo đảm
quan hệ cân đối giữa K
T
và K
C
, nghĩa là K
T
= K
C
.
Có hai trường hợp vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ là :
7
K
T
< K
C
hoặc là K
T
> K
C
Thực tế ta thấy số lượng tiền tệ trong lưu thông ít hơn nhiều so với tổng
số giá cả hàng hóa bán ra bởi mỗi đơn vị tiền tệ trong một thời gian nhất định
được luân chuyển từ tay người này sang tay người khác để phục vụ cho lưu
thông hàng hóa. Hai trường hợp vi phạm K
C
của Marx đưa ra cho ra hai khái
niệm: Thiếu tiền trong trường hợp K
T
< K
C
gọi là thiểu phát và thừa tiền khi
K
T
> K
C
gọi là lạm phát. Về vấn đề này, tôi sẽ trình bày riêng ra cho rõ ràng
hơn.
2.1.2. Quy luật lưu thông tiền tệ với quan điểm của Irving Ficher : (Tài
liệu số 3, trang 101 – 108).
Xuất phát từ sự kiện thực tế lịch sử là việc nâng cao mức giá cả hàng
hóa nói chung do phát hiện ra các mỏ vàng, bạc tự nhiên ở Bắc Mỹ vào thế kỷ
16 – 17 bổ sung nguồn vàng, bạc ở Châu Âu đã làm cho giá cả tăng lên 3 – 4
lần, David Hume đã kết luận là giá cả hàng hóa được xác định bởi khối lượng
tiền tệ trong lưu thông, và nếu khối lượng hàng hóa tăng thì giá cả hàng hóa
sẽ hạ xuống, còn giá trị tiền tệ sẽ tăng lên. Khi khối lượng tiền tệ đi vào lưu
thông tăng quá nhiều hay tăng đột ngột làm cho vật giá tăng lên.
Tiếp tục tư tưởng của David Hume, P. Fishet cho rằng nói chung tiền
không có giá trị trong lĩnh vực lưu thông và chỉ có khả năng mua nó được xác
định bởi một lượng của cải mua được bằng một lượng tiền nhất định.
Để thiết lập công thức “phương trình trao đổi”, Fisher dựa vào nhận xét
rất thông thường : nếu ta lấy một thời gian nhất định, như một ngày, một tuần
hay một tháng …. Số tiền lưu hành trong thời gian đó trãi ngang bằng giá trị
của các vụ trả tiền đã được thực hiện trong thời gian đó.
Ví dụ : trong một ngày ở một huyện có các vụ trả tiền sau :
Vụ thứ nhất : A mua lúa của B hết 7.000 (ĐVT)
Vụ thứ hai : C mua vải của D hết 5.000 (ĐVT)
Vụ thứ ba : E trả công cho F là 3.000 (ĐVT)
Tổng cộng số tiền lưu hành ngày hôm đó ở huyện là 15.000 (ĐVT) tức
là bằng giá trị của hàng hóa, dịch vụ trao đổi trong ngày. Fisher gọi số tiền
lưu hành trên là M, tốc độ lưu hành của số tiền đó là V, hiệu lực của số tiền
lưu hành là MV. Gọi P là giá trung bình, Y là tổng số hàng hóa, dịch vụ trao
đổi, giá trị của các hàng hóa dịch vụ này là PY.
Phương trình sẽ là : MV = PY
Dựa vào phương trình, ta có thể suy diễn như sau : Nếu P tăng thêm thì
M sẽ tăng thêm hoặc Y tăng, V giảm thì M cũng sẽ tăng và ngược lại.
Phương trình trao đổi trên biểu diễn mối liên hệ giữa thu nhập với số
lượng và tốc độ của tiền. Như vậy lượng tiền nhân với số lần đã cho má đồng
tiền đó được chi ra trong một năm phải bằng thu nhập danh nghĩa.
8
Fisher cho rằng tốc độ là khá bất biến trong thời gian ngắn, cho nên ông
đưa ra học thuyết số lượng tiền tệ : Học thuyết này cho rằng khi lượng tiền
(M) tăng gấp đôi thì MV tăng gấp đôi và do đó PY cũng phải tăng gấp đôi.
Học thuyết này của Fisher cho rằng : “Những sự vận động trong mức giá cả
chỉ là kết quả của những thay đổi trong số lượng tiền tệ”. (Tài liệu số 3, trang
107).
Phương trình được viết lại như sau :
M = x PY
Khi thị trường tiền tệ cân bằng, số lượng tiền mà nhân dân nắm giữ (M)
bằng số lượng tiền được yêu cầu (Md). Đặt N = Md, vì V là hằng số nên đặt
K = , ta có phương trình như sau :
Md = K x PY (với K là thời gian trung bình nhân dân nắm
giữ tiền mặt)
Như vậy, Fhser cho rằng khối lượng tiền tệ được yêu cầu thuần túy là
hàm số của thu nhập, lãi suất không ảnh hưởng gì đến Md Ông nghĩ rằng cần
về tiền tệ được xác định bởi (1) Mức giao dịch phát sinh do mức thu nhập
danh nghĩa (PY) : (2). Các tổ chức trong nền kinh tế mà ảnh hưởng đến cách
dân chúng tiến hành giao dịch, cách này quyết định tốc độ và từ đó quyết định
K.
Nhưng trong thực tế giữa M và P không chỉ có một tương quan đơn
thuần mà giữa mối tương quan đó, có nhiều yếu tố khác.
Trước hết là tốc độ V của tiền. Có nhiều trường hợp M không đổi,
nhưng P vẫn tăng, vì sao? Vì V tăng khi con người thay đổi cách tiêu xài
mạnh hơn, tiền lưu thông sẽ nhanh hơn khi khối lượng của hàng hóa, dịch vụ
chưa thay đổi kịp, giá của nó sẽ tăng lên. Hoặc là có khi M tăng nhưng P
không tăng là do khuynh hướng tiết kiệm của các chủ thể kinh tế tăng lên, tốc
độ V chậm bớt, làm cho tổng giá trị thay đổi không tăng.
Ngoài ra còn có sự tham gia của số lượng hàng hóa và dịch vụ đem trao
đổi. Khi M tăng, nếu Y còn tồn kho nhiều thì P cũng khó tăng lên. Nếu P có
tăng thì cũng là tạm thời nếu nền kinh tế còn thừa khả năng sản xuất.
Trong thời gian ngắn : V và Y ít thay đổi vì trong thời gian ngắn
khuynh hướng tiêu thụ của cả nước ít biến đổi, làm cho V ít biến đổi và Y có
thể bất biến. Do vậy, trong thời gian ngắn chỉ có M và P thay đổi và chúng tỉ
lệ thuận với nhau. Theo đó, để cho mức giá ổn định thì cần phải gia
tăng(không hợp lý). Khối lượng tiền tệ N theo sự thay đổi dự tính của Y.
Thực tế chỉ ở rất ít các nước công nghiệp thì V mới tương đối ổn định
và cũng chỉ là ở những nước có đồng tiền ổn định. Trái lại, ở các nước đang
phát triển và có nền kinh tế đang chuyển đổi có đồng tiền yếu kém, thì tốc độ
vòng quay V dao động rất mạnh.
Theo Fisher thì tốc độ V được xác định bởi các tổ chức trong một nền
kinh tế mà ảnh hưởng đến cách các cá nhân thực hiện các giao dịch. Nếu
9
người ta dùng số ghi nợ và thẻ tín dụng để tiến hành các giao dịch của mình
thì tiền được sử dụng ít hơn, dẫn đến lượng tiền được yêu cầu ít đi để tiến
hành các giao dịch do thu nhập danh nghĩa gây nên, và tốc độ V sẽ tăng lên.
Còn nếu mua trả bằng tiền mặt và bằng sec là thuận tiện hơn thì cần sử dụng
lượng tiền nhiều hơn để tiến hành các giao dịch được sinh ra bởi cùng một
mức thu nhập danh nghĩa và tốc độ V sẽ giảm xuống.
Vậy phương trình về khối lượng tiền tệ của Fisher MV = PY là luôn
luôn đúng vì nó phản ánh cân bằng kinh tế vĩ mô. Nhưng hạn chế của ông
chính là cho rằng V bất biến.
2.1.3. Quy luật lưu thông tiền tệ với trường phái Cambridge :
(Tài liệu số 3, từ trang 108 – 111)
Mặc dù từ sự phân tích, trường phái Cambridge đưa đến phương trình
tương tự như Fisher. Nhưng cách tiếp cận của họ thì khác với Fisher trong mô
hình của Cambridge, họ quan tâm đến việc các cá nhân sẽ muốn giữ bao
nhiêu tiền trong một loạt tình huống giả định. Ở đây, các cá nhân có sự linh
hoạt trong việc sử dụng và quyết định nắm giữ tiền và hoàn toàn không lệ
thuộc vào thể chế. Các nhà kinh tế Cambridge cho rằng số lượng tiền tệ phải
tỷ lệ với thu nhập danh nghĩa và biểu thị qua hàm số.
Md = K x PY
Với K là hệ số Cambridge chỉ phần “Có” trong tài khoản của dân cư
dưới hình thức tiền tệ.
Trong phương trình trên, V và K biến đổi ngược chiều, cho nên K là con số
đảo của V, tức K = 1/V.
Trường phái Cambridge cho rằng, số lượng tiền tệ tính chung cho toàn
xã hội do ba thành phần : gia đình, doanh nghiệp và chính phủ nắm giữ vừa
để giao dịch, để đề phòng, để đầu cơ là số lượng tiền tệ trong lưu thông gồm
tiền giấy, tiền kim loại và ký thác không ký hạn ở ngân hàng. Nó được đo
lường bởi phương trình trao đổi :
Md = K x PY
Với K là hệ số Cambridge chỉ phần “có” trong tài khoản của dân cư
dưới hình thức tiền tệ.
Trong phương trình trên, V và K biến đổi ngược chiều, cho nên K là
con số đảo của V, tức K = 1/V.
Trường phái Cambridge cho rằng, số lượng tiền tệ tính chung cho toàn
xã hội do ba thành phần : gia đình, doanh nghiệp và chính phủ nắm giữ vừa
để giao dịch, để đề phòng, để đầu cơ là số lượng tiền tệ trong lưu thông gồm
tiền giấy, tiền kim loại và ký thác không ký hạn ở ngân hàng. Nó được đo
lường bởi phương trình trao đổi :
M = KTP
Với : M là số lượng tiền lưu thông.
10
T là số lượng hàng hóa và dịch vụ.
P là mức giá chung của một đơn vị sản phẩm của T
K là khoảng thời gian trung bình mà dư số tiền mặt nằm nhàn rỗi
trong công chúng để chờ chi tiêu. Như vậy K cũng góp phần làm
tăng hoặc giảm M.
Qua nghiên cứu về hai sự phân tích của Fisher và Cambridge về số
lượng tiền tệ, vấn đề đặt ra là V có thật sự là hằng số không? Ta biết rằng
ngay cả trong ngắn hạn thì tốc độ lưu thông tiền tệ biến động khá nhiều, nên
khó mà chấp nhận quan điểm cho rằng V là hằng số.
Công thức MV = PY của Fisher chỉ xem tiền với chức năng làm
phương tiện lưu thông mà không tính đến chức năng phương tiện tích lũy. Do
đó, Pigou đã đưa ra phương trình gọi là “phương án Cambridge” trong đó đã
tính đến tiền với cả hai chức năng : là phương tiện lưu thông và tích lũy. Do
đó không chỉ tính đến cung tiền (Ms) của Fisher mà còn phải tính đến cầu tiền
(Md). Công thức của Pigou là : Md = KPY
Với : Md : cầu về dư tiền mặt hay nhu cầu thực tế về tiền.
K : hệ số dư tiền mặt hay nhu cầu tài khoản của dân cư dưới hình
thức tiền tệ.
P : Mức giá : Y : Sản lượng hàng hóa lưu thông.
Chỉ tiêu K giả định sự cần thiết tính toàn động cơ giữa tiền và lưu
thông tiền trên cơ sở tồn quỹ. Động cơ đó là lãi suất. Theo ông K tỉ lệ nghịch
với lãi suất.
2.1.4. Quy luật lưu thông tiền tệ với Keynes :
(tài liệu số 3, trang 112 – 116)
Theo Keyns, có ba động cơ đằng sau tiền tệ là (1). Động cơ giao dịch,
(2). Động cơ dự phòng, (3). Động cơ đầu cơ.
Với dộng cơ giao dịch, Keynes cho rằng nếu giá hàng hóa tính bằng
tiền lên cao, nhân dân cần có nhiều tiền hơn để giao dịch và ngược lại.
Với động cơ đầu cơ : đối với những người giữ tiền mặt, nếu lãi suất I
thấp họ sẽ không gởi tiền vào ngân hàng mà họ sẽ giữ một món tiền mặt dồi
dào, chờ cơ hội đầu cơ. Đối với những người thiếu tiền mặt, gặp trường hợp
lãi suất thấp họ sẽ vay tiền để tiêu thụ hoặc hành nghề. Chính lý do này khi lãi
suất xuống quá thấp, phần thanh khoản đầu cơ của nhân dân trở nên cực kỳ do
dãn. Điều này có nghĩa là nếu lãi suất thấp hơn thì tổng số nhu cầu tiền mặt
của dân cư sẽ tăng vượt quá bổ sung tiền mặt và nếu lãi suất cao hơn thì sẽ có
một số tiền mặt thặng dư không ai muốn giữ.
Keynes cho rằng khi lãi suất càng giảm thì khối lượng tiền đưa vào lưu
thông càng tăng. Ta có minh họa sau :
11
Lói sut
Vỡ hai yu t lói sut v khi lng tin t l nghch vi nhau, nờn
mun gim lói sut thỡ cn phi da thờm tin vo lu thụng.
Keynes phõn tớch tin t theo phng phỏp v mụ. ễng phõn tớch quỏ
trỡnh lu thụng tin t gn lin vi chu chuyn kinh t, vi cỏc yu t ca nn
kinh t quc dõn, luõn chuyn hng húa v u t, tớch ly v tiờu dựng, tin
lng v giỏ c, thu nhp quc dõn v phõn phi thu nhp quc dõn, u t v
lói sut ngõn hng, phõn tớch cung cu tin t. T ú Keynes a ra cụng
thc tng quỏt v nhu cu tin t nh sau :
M = M
1
+ M
2
= L
1
Y + L
2
i.
Vi : M : l cu tin t
L
1
: h s s dng khi tin M
1
sn xut ra khi lng
sn phm quc dõn Y.
L
2
: h s s dng khi tin M
2
u t, I l lói sut.
Keynies a ra nguyờn tc s nhõn : khi trong mt nn kinh t,
ngi ta tung thờm mt s tin mt chi tiờu vo mc ớch u t hay tiờu
th, s tin ny vn cú nh hng lm tng thờm li tc tin t ca ton quc.
Núi cỏch khỏc, lm tng thờm sn lng ton quc (ti liu s 3 trang 115)
v iu ny ỳng khi trong nc cũn nhiu yu t sn xut cha c s
dng. Trỏi li, nu cỏc c s sn xut cng nh nng lc ó tn dng ri, vic
tung thờm tin vi nh hng dõy chuyn ca nú, thay vỡ lm tng thờm s
lng hng húa v dch v sn xut, ch lm cho giỏ c tng theo mt tc
ngy cng mau, tc lm phỏt s xy ra.
Lói sut tỏc ng n lu thụng tin t bng nhiu cỏch thụng qua h
thng ngõn hng, qua th trng tin t, th trng chng khoỏn, qua lói sut
thc.
2.1.5. Quy lut lu thụng tin t vi Friedman (ti liu s 1)
Theo Friedman s cung tin t hoc c xỏc nh bng s lng tin
kim loi a vo lu thụng hoc bi s lng tin t do nh nc hoc h
thng ngõn hng to ra. Nhu cu v tin l hm s vi nhiu bin s, trong ú
cú thu nhp, giỏ c, lói sut, c cu ti sn v s a thớch cỏ nhõn. Lun im
trờn th hin qua cụng thc sau :
M = KPY
Vi : M : S lng tin t, P l ch s giỏ c
12
Khoỏi lửụùng tien teọ
K : Là tương quan của thu thập tiền tệ trong thu nhập
Y : Thu nhập quốc dân tính theo giá không đổi.
Vậy nếu giá cả tăng hoặc thu nhập quốc dân tăng sẽ làm cho khối
lượng tiền M tăng lên và ngược lại. Friedman cho rằng khi lượng tiền cung
ứng thay đổi nó gián tiếp làm chuyển đổi tình trạng sản xuất và trao đổi trong
nền kinh tế thông qua thái độ và phản ứng của các cá nhân trong đời sống.
Nhu cầu về tiền sẽ quyết định trực tiếp đến giá cả hàng hóa, lãi suất và hoạt
động kinh tế.
2.1.6. Quy luật lưu thông tiền tệ với quan niệm tiền tệ trung lập : (tài
liệu số 3 – trang 121 – 122)
Quan niệm tiền tệ trung lập có từ thế kỷ 17 với thuyết định hướng của
tác giả Jean Bodin cho rằng người ta có thể mặc cho số tiền lưu thông tăng
thêm hay giảm bớt tùy theo hoạt động kinh tế. Khi hoạt động kinh tế phồn
thịnh nhu cầu cầu về tiền tăng. Lúc đó, những người cần tiền sẽ vay tiền ở các
ngân hàng. Nếu dựa vào nhu cầu thị trường để cho vay, các ngân hàng có thể
cho vay với lãi xuất thấp nếu họ có sẵn tiền và ngược lại khi không có nhiều
tiền để cung ứng thì có thể cho vay lãi suất cao.
Theo họ tiền tệ chỉ làm trung gian trao đổi, nên số lượng của nó tùy
thuộc vào tình trạng kinh tế.
Qua phân tích về quy luật lưu thông tiền tệ với các trường phái khác
nhau ta thấy rằng khối tiền tệ của quốc gia nhiều hay ít, tăng hay giảm là tùy
thuộc vào những yếu tố phức tạp. Hàm số tiền tệ của quốc gia nhằm diễn tả
mối tương quan giữa khối tiền tệ và các yếu tố này. Do mức cung cầu ở mỗi
quốc gia khác nhau nên lượng tiền đưa vào lưu thông của mỗi nước là khác
nhau.
Sau đây xin phép trình bày về lạm phát vấn đề vi phạm Kq > Kc mà
liên quan mật thiết đến quy luật lưu thông tiền tệ.
2.1.7. Lạm phát (tài liệu số 2 + 3 – trang 122 - 128)
Lạm phát là một trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ 20
và đụng chạm mọi hệ thống kinh tế trong thế kỷ thứ 19, dù có những cơn sốt
ngắn nhưng giá cả cần tương đối ổn định. Những năm sau cuộc thế chiến lần
thứ nhất là thời kỳ gia tăng quá trình làm phát với quy mô lớn các cuộc khủng
hoảng dầu mỏ những năm 70 kéo theo sự gia tăng lạm phát rất rõ, còn sau đó,
nhờ vào những chính sách ổn định mà một quá trình giảm lamk phát đã bắt
đầu trong những năm 80. Vậy lạm phát là gì, từ đau mà có?
Lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập trong lưu thông, vượt quá
như cầu cần thiết của lưu thông hàng hóa làm cho tiền giấy bị mất giá và giá
cả chung tăng lên một cách kéo dài.
Khi xem xét lạm phát, các nhà kinh tế nhìn ở nhiều góc độ khác nhau:
Lênin cho rằng lạm phát là một hình thức công trái cường bách sâu xa
nhất vì lạm phát làm cho giá hàng hóa tăng, làm cho thu nhập khả dụng của
13
nhân dân bị đánh giá lại và làm cho đời sống của nhân dân trở nên khó khăn
hơn (tài liệu số 2, trang 180)
Với Karl Marx cho rằng hiện tượng lạm phát thường dẫn đến việc phân
phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội có lợi cho giai cấp bọc lột và làm
thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân lao động (tài liệu số 2, trang 180)
Đến thập niên 80 các nhà kinh tế châu Âu lại thỏa hiệp với quan điểm
lạm phát là sự phát hành tiền nằm trong chính sách nhằm tài trợ cho các
khoảng chi của Nhà nước.
2.1.7.1. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát, tác động:
Nghiên cứu học thuyết trong giai đoạn các nước còn áp dụng chế độ
lưu thông tiền kim khí, cơ chế tiền giấy khả hoán, Marx đưa ra quy luật lưu
thông tiền giấy: “Việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn trong số lượng
vàng (hay bạc) do tiền giấy tượng trưng mà lẻ ra phải lưu thông thất sự” (tài
liệu số 5, trang 242). Từ đó nếu số lượng tiền giấy vượt quá số tiền vàng (bạc)
cần thiết thì tiền giấy sẽ bị mất giá và lạm phát sẽ xảy ra.
Sau thế chiếm lần thứ nhất, kể từ cuộc khủng hoảng 1929 – 1933,
người ta so sánh hai khối : khối hàng hóa và dịch vụ có thể đem bán trên thị
trường và khối tiền tệ mà nhân dân có thể sử dụng để mua hàng. Nếu hai khối
này có giá trị ngang nhau theo mức giá hiện tại thì không có lạm phát lẫn
giảm phát. Nếu khối tiền tệ tăng thêm trong khi khối hàng hóa, dịch vụ không
đổi thì lạm phát sẽ xuất hiện. Và khi khối tiền càng tăng làm phát càng cao.
Ngày nay người ta phân biệt hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến lạm phát:
Một là : lạm phát do cầu kéo : là tổng mức cầu vượt quá khả năng sản
xuất của nền kinh tế
Hai là : lạm phát do chi phí đẩy là khi chi phí đẩy gía lên ngay cả trong
thời kỳ tài nguyên không được sử dụng hết.
Vậy lạm phát có ảnh hưởng gì đến nền kinh tế ?
Một là : lạm phát ảnh hưởng đến chức năng của tiền tệ. Một tỷ lệ lạm
phát thấp ít ảnh hưởng đến chức năng của tiền tệ, nhưng tỷ lệ lạm phát thấp ít
ảnh hưởng đến chức năng cất trữ của tiền. Ngoài ra lạm phát có ảnh hưởng
đến chức năng thanh toán của tiền, các tài sản được đánh giá theo giá trị hiện
hành cho phù hợp với ảnh hưởng của lạm phát. Điều này làm rối loạn lưu
thông tiền tệ.
Hai là : lạm phát là một quá trình tự thân làm tăng giá liên tục. Trong
điều kiện lạm phát ở mức cao, giá cả hàng hóa bị tăng liên tục, làm sản xuất
gặp khó khăn, cơ cấu nền kinh tế mất cân đối, đời sống nhân dân gặp khó
khăn, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng …
Như vậy lạm phát xảy ra là do sự vi phạm quy luật lưu thông tiền tệ.
Nó ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội về kinh tế, văn hóa …
2.1.7.2. Các loại lạm phát và cách khắc phục :
14
Lạm phát có ba loại :
Một là lạm phát vừa phải ở mức độ thấp còn gọi là lạm phát một con số
biểu hiện ở giá cả tăng chậm trong khoảng 10% trở lại.
Hai là lạm phát phi mã : Xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỉ lệ hai
hoặc ba con số.
Ba là : Siêu lạm phát. Xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi
mã. Ví dụ ở Đức từ 1/1922 – 11/1923 chỉ số giá tăng lên từ 1 đến 10.000.000,
kho tiền của Đức tăng 7 tỉ lần từ 1921 – 1923.
Các biện pháp chống lạm phát là : (1). Hạn chế tiền tệ hay đóng bằng
tiền tệ, (2). Kiềm giữ giá, (3). Lạm phát chống lạm phát.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta hiện nay trong việc vận dụng quy
luật lưu thông tiền tệ :
Trong bài nói chuyện tại học viện Nguyễn Ái Quốc, đồng chí tổng bí
thư Nguyễn Văn Linh đã nêu vấn đề : “Muốn sản xuất và lưu thông hàng hóa
phải có một số lượng tiền cần thiết, quy luật số lượng cần cho lưu thông đã
được Karl Marx nghiên cứu. Cần vận dụng quy luật đó vào tình hình của ta ra
sao?” (Tài liệu số 2, trang 9).
Câu hỏi đó được đặt ra từ lâu, song ý nghĩa là sự cần thiết của nó không
thay đổi theo thời gian. Trong quá khứ ta cũng đã vận dụng quy luật K
C
của
Marx, và nhất là ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, đồng tiền đóng vai trò
cực kỳ quan trọng thì việc nghiên cứu, vận dụng quy luật K
C
của Marx cũng
cần thiết.
Xin được phép nhắc lại một ít về lịch sử mà Đảng và nhà nước ta đã
vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ vào những năm 1980.
Năm 1989 được xem là năm chống lạm phát có kết quả của nước ta.
Trong cuộc hội thảo chống lạm phát, do tạp chí cộng sản tổ chức tháng 12 –
1988 ý kiến được nhất trí cao là xóa bỏ lãi suất âm, riêng lãi suất thực tế để
rút tiền mặt đang lưu thông vào ngân hàng và đạt kết quả cao, thu hút về ngân
hàng trên 1000 tỷ đồng tiền tiết kiệm. Năm 1988, tiền tăng 4,7 lần thì giá tăng
4,5 lần, nhưng đến tháng 11/1989 tiền tăng gấp 3 lần mà giá chỉ tăng 36,8%
cả năm. Sự khác lạ đó là do Đảng và Nhà nước đã vận dụng quy luật K
C
của
Marx. K
C
tăng lên gấp 3 lần là do khối lượng hàng hóa ta đưa ra lưu thông (H)
tăng lên gấp 2 – 3 lần và tốc độ lưu thông tiền V chậm lại. Do H tăng, V giảm
dần đến K
C
tăng là hợp quy luật nên lạm phát được ngăn chặn.
Còn thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay ra sao? Vấn đề nóng
bỏng của nước ta trong giai đoạn hiện tại là chỉ số giá CPI tăng cao, lạm phát
ở mức cần quan tâm kiểm soát.
Về chỉ số giá CPI : trong 6 tháng đầu năm 2004 CPI tăng đột biến 7,2%
trong khi tăng trưởng chỉ đạt 7,0%. Các nguyên nhân làm CPI tăng là
Về nhân tố chủ quan : chính phủ tăng cước phí chuyển hàng không là
8%, vận chuyển đường sắt 10%, công tác điều hành quản lý thị trường còn
15
thiếu sót, tình trạng đầu cơ, độc quyền phân phối tân dược nhập khẩu làm cho
giá dược phẩm và dịch vụ y tế tăng 9,1%. Nhu cầu tiêu dùng xã hội tăng, tổng
mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội tăng 16%. (Tài liệu số 6, trang 48).
Về lạm phát, ông NGUYỄN ĐỨC KHIÊM, chủ nhiệm kinh tế và ngân
sách của Quốc hội kiến nghị : “Những biến động giá cả trong thời gian qua
không phải là hiện tượng nhất thời mà là bị bắt đầu của lạm phát ở mức độ
cần quan tâm kiểm soát” (tài liệu số 8, trang 16). Hiện tại tính chung cho cả
năm 2004, lạm phát đã ở mức 9,5%. Nguyên nhân nào gây ra lạm phát?
Thứ nhất, do nhóm lương thực thưïc phẩm tăng cao: lương thực tăng
16,2%, thực phẩm tăng 14,6%, dịch cúm gia cầm, do hoa quả rau màu Việt
Nam có hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật cao gây mất an toàn.
Thứ hai : Chi phí sản xuất tăng do giá một số nguyên liệu nhập khẩu
tăng, ở thời điểm cao nhất giá thép đạt 9,3 triệu, đồng 1 tấn, thị trường bất
động sản ở mức cao. Do sự bất ổn khu vực Trung Đông làm giá xăng dầu thế
giới tăng cao, đỉnh cao vào tháng 5 – 2004 là 41,85USD/tháng.
Thứ ba : Việt Nam vẫn trong tình trạng nhập siêu.
Thứ tư : Do đà tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn đạt ở mức cao,
với tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm là 7,0% dẫn đến mức tín
dụng tăng cao, khi đó dẫn tới sự gia tăng của lạm phát.
Thứ năm, do Fed tăng lãi suất tiền gửi bằng USD thêm 0,25%. Để giữ
tỷ giá hối đoái ổn định lãi suất tiền gởi bằng VND sẽ tăng theo.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như : chậm cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước, cuối năm 2003 trên thế giới xuất hiện nạn dịch bò
điên ở Anh, Mỹ, lở mồm lông móng ở lợn …. Đã gián tiếp đẩy giá tiêu dùng
loại lương thực, thực phẩm an toàn trong nước tăng cao. Năm 2003 gây ra
cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng thương mại đã đẩy lãi suất lên cao
đỉnh điểm vời lãi suất tiền gởi vào các ngân hàng thương mại năm 2003 đạt
11,5%/1 năm với mức lạm phát chỉ 3% .
Với tình trạng hiện nay, lạm phát đã ở ngưỡng hai con số, nếu quá trình
lạm phát tiếp tục tăng cao, không ổn định xảy ra trong thời gian dài và một tỷ
giá hối đoái suy giảm sẽ dẫn đến rủi ro trên các tài sản danh nghĩa bằng VND
sẽ tăng lên, công chúng sẽ chuyển sang các tài sản danh nghĩa sang đồng tiền
có tính ổn định (chủ yếu là USD).
Trong khi đó giá vàng liên tục biến động, đỉnh điểm vào tháng 1/2004
giá vàng SJC tại Việt Nam đạt 815.000
đ
/1 chỉ, tăng 60 – 70% giá trị so với
năm 2003. Khi đó sẽ càng làm tăng mức độ USD hóa nền kinh tế Việt Nam
(tài liệu số 7, trang 26 – 27).
Trước tình hình CPI tăng cao, lạm phát gia tăng đến đánglo ngại thì
chính phủ và nhà nước ta đã vận dụng quy luật lưu thông tiền tệ mà chủ yếu
quan chính sách tiền tệ ra sao?
16
Thực tế thời gian qua, ngân hàng Nhà nước đã có những giải pháp điều
hành chính sách tiền tệ linh hoạt, bám sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường,
góp phần duy trì ổn định tiền tệ, ổn định lãi suất, góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô. Từ tháng 7/2004, ngân hàng nhà nước đã tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc để hạn
chế khả năng tạo tiền, thực hiện mục tiêu kiểm soát tăng trưởng tín dụng, qua
đó góp phần kiểm soát lạm phát.
Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua ngân hàng, từ
đó đề ra các giải pháp cho năm 2994 trong 6 tháng còn lại : nếu lạm phát vượt
khỏi tầm kiểm soát thì sẽ áp dụng các giải pháp thắt chặt tiền tệ một cách thận
trọng, có cân nhắc theo dõi sát diễn biến của thị trường. Nhất là CPI và lạm
phát. Áp dụng chính sách giá trần để kiểm soát giá cả.
Thời gian qua, chính sách tiền tệ nới lỏng chỉ quan tâm đến khía cạnh
tăng trưởng kinh tế mà chưa chú ý đến vấn đề kiểm soát giá cả. Ngành ngân
hàng chỉ kiểm soát được lượng tiền lưu thông qua ngân hàng.
Qua phân tích trên thì ý nghĩa của quy luật lưu thông tiền tệ đối với
nước ta là như thế nào? Theo tôi có các ý nghĩa cơ bản sau :
Một là : Dựa vào chỉ số có giá CPI và tỷ lệ lạm phát ta có thể xem xét
được nền kinh tế đang ở trong tình trạng nào, từ đó đề ra giải pháp thích hợp
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hai là, việc điều hành lượng tiền lưu thông ta sẽ dựa vào lãi suất, tỷ giá
hối đoái. Chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô.
CHƯƠNG III : MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Một số quan điểm :
Qua quá trình xem xét các quy luật lưu thông tiền tệ, theo tôi không có
một quy luật K
C
nào chung cho tất cả các khối tiền. Bởi lẽ đặc điểm lưu thông
của mỗi loại khối tiền khác nhau nên quy luật lưu thông của nó cũng khác
nhau.
Dĩ nhiên là giữa lạm phát và đồng tiền có một mối quan hệ rõ ràng và
rất logic khiến người ta nghĩ rằng lạm phát không thể tồn tại nếu tiền không
tăng lên. Nhưng mối liên quan đó không phải là mối quan hệ nhân quả. Trong
thực tế, một nền kinh tế khan hiếm, hàng ít, trong những giai đoạn có nguy cơ
chiến tranh và tình hình rất ổn định, giá có khuynh hướng tăng vọt mặt dù
không hề có sự gia tăng của khối tiền.
Giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát cũng có mối quan hệ nhưng
không chắc rằng nước có lạm phát cao tăng trưởng chậm hơn nước có lạm
phát thấp. Lạm phát cao sẽ đưa đến hậu quả tiêu cực đối với sự phát triển,
điều đó đúng. Nhưng chúng ta nghĩ gì khi vào thời kỳ siêu lạm phát toàn cầu
lại là thời kỳ hưng thịnh của thế giới tư bản với tốc độ tăng trưởng thần kỳ
10% của Nhật? Lạm phát đáng sợ nhưng “một chút lạm phát (dưới 10%) lại là
cái mà các nền kinh tế đang cần để giảm gánh nặng về nợ và nhờ đó mà tăng
17
trưởng. Do đó, vấn đề ở đây không phải là loại lạm phát mà phải biết ổn định
lạm phát ở mức có lợi cho tăng trưởng kinh tế.
3.2. Các giải pháp đề nghị :
Tôi xin phép có một vài ý kiến sau :
Một, không chỉ kiểm soát khối lượng tiền tệ M mà còn phải kiểm soát
cả tốc độ lưu thông tiền tệ V. Điều đó phụ thuộc vào giá trị đồng tiền VND.
Muốn ổn định giá trị VND thì phải ổn định vật giá. Theo đó ngân hàng trung
ương phải ổn định tỷ giá hối đoái không quá thăng trầm bằng cách mua hay
bán ngoại tệ. Nước ta hiện nay, khả năng ổn định giá trị quốc ngoại của đồng
tiền còn hạn chế. Cho nên cần phải mở rộng đầu tư các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước, làm sao để nước ta có thể thu hút đầu tư mạnh hơn nữa.
Hai, muốn ổn định lưu thông tiền tệ cần điều chỉnh, xem xét lãi suất
cho phù hợp chúng ta cần nghiên cứu học hỏi nhiều hơn về mô hình lượng
hóa rủi ro lãi suất của thế giới để có thể vận dụng vào tình hình của ta.
Ba, phải luôn giữ tăng trưởng tín dụng đủ đảm bảo nhu cầu đáp ứng
vốn cho sự tăng trưởng kinh tế, tức là đầu tư vào các dự án có hiệu quả, nâng
cao chất lượng tín dụng để làm giảm khả năng gây ra lạm phát. Khi cần ngăn
chặn lạm phát không nên dựa vào lãi suất quá cao theo kiểu vung tiền ra mua
vốn với bất kể giá nào mà cần phải cải tiến nghiệp vụ.
Bốn, Ở Trung Quốc, Thái Lan sử dụng công cụ vĩ mô chủ yếu vào quá
trình điều tiết là các luật điều chỉnh thị trường nội địa. Ta cần phải học hỏi và
nghiên cứu vấn đề này. Thực hiện việc kiểm soát giá cả và cả lượng hàng
cung ứng, đánh giá và dự báo tốt tình hình thị trường từng mặt hàng. Do đó
cần phải xây dựng một đội ngũ chuyên gia. Các chuyên gia này sẽ thu thập
các thông tin thị trường về từng mặt hàng, sau đó tiến hành phân tích dự báo
về xu hướng cung – cầu, giá cả rồi thông tin cho quần chúng qua báo, tạp chí,
truyền thanh, truyền hình.
Năm, cần đóng cửa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ hoặc
thực hiện cổ phần hóa để giảm gánh nặng ngân sách. Đồng thời tăng cường
xuất khẩu để đem lại một nguồn thu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng
không cần thiết bằng cách đánh thuế thật nặng những mặt hàng đó.
Sáu, cần phải chống tham nhũng. Nước ta thời gian qua, tham nhũng đã
rút đi biết bao nhiêu tiền của ngân sách cùng góp phần làm bội chi ngân sách.
Cần phải xây dựng luật chống tham nhũng, ngăn chặn tình trạng móc nối giữa
các tổ chức trong việc tham nhũng. Theo tôi, khi xây luật tham nhũng cần quy
trách nhiệm thật nặng cho những hành vi sai trái, đồng thời cũng phải quy
trách nhiệm cho cả cơ quan quản lý cấp trên.
Bảy là, tiền mặt là tiền đề gây ra lạm phát. Do đó cần muốn hạn chế
lạm phát cần phải hạn chế sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế. Đối với các tổ
chức đều phải mở tài khoản ở ngân hàng, đồng thời giữa các tổ chức, mọi
thanh khoản phải thông qua ngân hàng, kho bạc. Mức tồn quỹ tiền mặt của
18
các tổ chức phải quy định ở mức nào đó tương đương với tiền bán hàng hóa,
dịch vụ. Mở rộng tổ chức mạng thanh toán điện tử, khi trả lương cho cán bộ,
công nhân viên hay người lao động ở các khu chế xuất, khu công nghiệp là
không trả tiền mặt mà chuyển vào tài khoản của thể ATM của họ. Bên cạnh
đó cần tuyên truyền để mọi người có ý thức không sử dụng tiền mặt.
19
Qua bài viết tôi đã nêu lên được những vấn đề liên quan đến tiền như
nguồn gốc hình thành, các loại tiền, chức năng và vai trò của tiền. Từ đó làm
cơ sở để lý luận lưu thông tiền tệ. Các quan điểm, cách nhìn khác nhau của
các trường phái về quy luật cũng được phân tích cặn kẽ. Hệ thống hóa vấn đề
đi từ quá khứ đến hiện tại.
Phần ý nghĩa thực tiễn của quy luật lưu thông tiền tệ đối với nước ta
hiện nay, tôi đã trình bày thực trạng của Việt Nam về chỉ số giá cả, lãi suất,
lạm phát, các vấn đề liên quan sâu sắc đến quy luật lưu thông tiền tệ, lấy đó
làm cơ sở suy ra ý nghĩa của vấn đề. Tuy nhiên vấn đề này còn tương đối khó
nên sự hiểu biết và cách trình bày không được mạch lạc, cũng chưa đi sâu vào
vấn đề.
Về quan điểm cá nhân và phương hướng giải quyết : Đó là tất cả những
gì tôi rút ra được qua quá trình nghiên cứu. Đề tài mặc dù không quá khó
nhưng với trình độ của một sinh viên, sự hiểu biết còn hạn chế. Bênh cạnh đó,
còn bị hạn chế về thời gian cũng như tư liệu nên không tránh khỏi những sai
sót, kính mong Cô góp ý và thông cảm.
Em chân thành cảm ơn Cô.
20