Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho đội ngũ cán bộ khuyến nông huyện Bảo Thắng - Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.5 KB, 70 trang )

PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau công cuộc thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, nền nông nghiệp nước ta đã có những bước phát triển nhanh, đạt
nhiều thành tựu to lớn. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự
cấp, quy mô nhỏ, Việt Nam đã vươn lên để từng bước trở thành một nước có
nền nông nghiệp hàng hoá, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và có tỷ suất
hàng hoá ngày càng lớn, có vị thế đáng kể trong khu vực và thế giới. Nước ta
đã đứng thứ nhất về xuất khẩu hạt tiêu; đứng thứ hai về xuất khẩu gạo, cà phê,
hạt điều; đứng thứ tư về xuất khẩu cao su và đứng thứ sáu về xuất khẩu chè.
Ngoài ra Việt Nam còn xuất khẩu nhiều loại nông sản có giá trị khác như hoa,
quả, rau, thịt lợn.
Đồng hành cùng người nông dân để chia sẻ những thuận lợi, khó khăn trên
con đường hướng tới phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả và bền vững là
những cán bộ, nhân viên, tình nguyện viên hệ thống Khuyến nông Việt Nam.
Trải qua trên 17 năm hoạt động, kể từ ngày 02/3/1993, khi Chính phủ ban
hành Nghị định 13/CP về công tác khuyến nông, hệ thống khuyến nông Việt
Nam đã được hình thành, củng cố và ngày càng phát triển một cách toàn diện.
Khuyến nông khuyến ngư đã tích cực chuyển giao những TBKHKT và công
nghệ mới, đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ kỹ thuật, canh tác cho nông
dân, chuyển tải kịp thời mọi chủ trương, đường lối, chính sách phát triển sản
xuất nông lâm ngư nghiệp của Đảng và Nhà nước… Khuyến nông Việt Nam
thực sự đã góp phần tạo nên sự tăng trưởng mạnh mẽ về năng suất, chất lượng
sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, đảm bảo an ninh lương thực, đóng vai trò
quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo và sự nghiệp phát triển nông
nghiệp, nông thôn, nông dân.
1
1
Tuy vậy, sau hơn 12 năm thực hiện Nghị định 13/CP, công tác khuyến
nông đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi


hỏi ngày càng cao của sản xuất, khoa học công nghệ và xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã trình Chính phủ
để sửa đổi, bổ sung một số nội dung hoạt động khuyến nông, thay thế cho
Nghị định 13/CP. Ngày 26/4/2005, Chính phủ đã chính thức ban hành Nghị
định 56/2005/NĐ-CP về khuyến nông, khuyến ngư. Tiếp đến ngày
08/01/2010, Chính phủ ban hành Nghị định 02/2010/NĐ-CP về khuyến nông
để sửa đổi, bổ sung một số nội dung. Trong nghị định này quy định cụ thể hơn
về nội dung hoạt động khuyến nông bao gồm: Bồi dưỡng, tập huấn, đào tạo cho
người sản xuất và người hoạt động khuyến nông; thông tin tuyên truyền; trình
diễn và nhân rộng mô hình; tư vấn và dịch vụ khuyến nông; hợp tác quốc tế về
khuyến nông. Tổ chức khuyến nông từ Trung ương tới địa phương cũng được
quy định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, cơ chế quản lý. Các chính sách khuyến
nông cũng được điều chỉnh trong quy định này.
Bảo Thắng là một huyện vùng thấp nằm ở trung tâm tỉnh Lào Cai. Toàn
huyện có 12 xã và 03 thị trấn. Đây là một huyện chủ yếu sản xuất trong ngành
nông nghiệp, khoảng 85% dân số có nguồn thu nhập chủ yếu từ làm ruộng và
chăn nuôi. Trong những năm gần đây, giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp
tăng lên đáng kể. Sản xuất lương thực và số lượng đầu gia súc và gia cầm
tăng lên không ngừng qua các năm. Cơ cấu cây trồng vật nuôi đang chuyển
dịch theo chiều hướng hợp lý và thâm canh cao, nâng cao giá trị thu nhập trên
một đơn vị diện tích, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên góp
phần xóa đói giảm nghèo.
Có được những kết quả trên là nhờ có sự quan tâm chỉ đạo sát sao của
UBND huyện, mà trực tiếp là Phòng NN & PTNT, trong đó có sự đóng góp
không nhỏ của Trạm khuyến nông huyện. Hiện nay huyện Bảo Thắng có 21
2
2
CBKN do Trạm Khuyến nông huyện trực tiếp quản lý. Vậy một câu hỏi đặt ra ở
đây là: Với một đội ngũ CBKN và cơ chế quản lý như vậy thì hiện nay họ đang
hoạt động như thế nào, đã phát huy được hết vai trò, năng lực của mình hay chưa,

có giải pháp gì giúp họ nâng cao hiệu quả hoạt động của mình hay không?
Xuất phát từ thực tiễn trên và được sự đồng ý của Ban giám hiệu Trường
Đại học Nông Lâm Thái Nguyên; Ban chủ nhiệm khoa Khuyến Nông &
PTNT, cùng với sự giúp đỡ của các cán bộ Phòng Nông nghiệp & PTNT
huyện Bảo Thắng - Lào Cai, Trạm khuyến nông huyện Bảo Thắng, Thầy giáo
TS. Bùi Đình Hòa, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu thực trạng
và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho đội ngũ cán
bộ khuyến nông huyện Bảo Thắng - Lào Cai”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng hoạt động và vai trò của đội ngũ CBKN tại huyện
Bảo Thắng - Lào Cai, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động cho đội ngũ CBKN tại huyện Bảo Thắng - Lào Cai.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hoá lại những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động khuyến nông.
- Đánh giá được cơ cấu tổ chức và thực trạng hoạt động của đội ngũ
CBKN huyện Bảo Thắng - Lào Cai.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho đội ngũ
CBKN tại huyện Bảo Thắng - Lào Cai.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Củng cố kiến thức từ cơ sở đến chuyên ngành đã học trong trường, ứng
dụng kiến thức đó vào thực tiễn.
- Rèn luyện các kỹ năng thu thập xử lý số liệu, viết báo cáo.
3
3
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đánh giá một cách tổng quát thực trạng hoạt động và vai trò của đội ngũ các CBKN
tại huyện Bảo Thắng, do đó có thể làm tài liệu tham khảo cho Trạm Khuyến nông, Phòng NN
& PTNT huyện Bảo Thắng trong việc rà soát bố trí lại đội ngũ CBKN trên địa bàn huyện và
làm tài liệu cho các khoá học tiếp theo.

4
4
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Những kiến thức lý luận cơ bản về khuyến nông
2.1.1. Khái niệm khuyến nông
Theo nghĩa Hán - Văn: “khuyến” có nghĩa là khuyến khích - khuyên bảo
- triển khai, còn “nông” là nông - lâm - ngư - nghiệp, nông dân, nông thôn.
“Khuyến nông” nghĩa là khuyên mở mang phát triển trong nông nghiệp.
Khuyến nông được tổ chức theo nhiều cách khác nhau và phục vụ nhiều
mục đích có quy mô khác nhau, vì vậy khuyến nông là một thuật ngữ khó
định nghĩa được một cách chính xác, nó thay đổi tùy theo lợi ích mà nó mang lại.
“Khuyến nông được định nghĩa như thể là một tiến trình của việc lôi kéo quần chúng
vào việc trồng và quản lý một cách tự nguyện” (D. Maholy, 1987).
“Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến trình của việc hòa
nhập các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại, các quan điểm, kỹ năng để
quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa phương,
sử dụng các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự giúp đỡ từ bên ngoài để có khả
năng vượt qua các trở ngại gặp phải” (Theo tổ chức FAO, 1987).
“Khuyến nông là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo nhằm giúp nông
dân hình thành các ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định đúng đắn”
(A.W.Van den Ban và H.S.Hawkins, 1988).
“Khuyến nông là một từ tổng quát để chỉ tất cả các công việc có liên quan đến sự nghiệp
phát triển nông thôn, đó là một hệ thống giáo dục ngoài nhà trường, trong đó có người già và
người trẻ học bằng cách thực hành” (Thomas).
Qua rất nhiều khái niệm trên chúng ta có thể tóm tắt lại và có thể hiểu
khuyến nông theo hai nghĩa:
Khuyến nông hiểu theo nghĩa rộng: Khuyến nông là khái niệm chung để chỉ tất cả
các hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn [3].
5

5
Khuyến nông hiểu theo nghĩa hẹp: Khuyến nông là một tiến trình giáo
dục không chính thức mà đối tượng của nó là nông dân. Tiến trình này đem
đến cho nông dân những thông tin và những lời khuyên nhằm giúp họ giải
quyết những vấn đề hoặc những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông hỗ
trợ phát triển các hoạt động sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để không
ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân và gia đình họ [3].
2.1.2. Mục tiêu của khuyến nông
Mục tiêu của khuyến nông là làm thay đổi cách đánh giá, cách nhận thức của nông dân
trước những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông không chỉ nhằm những mục tiêu phát
triển kinh tế mà còn hướng tới sự phát triển toàn diện của bản thân người nông dân và nâng
cao chất lượng cuộc sống ở nông thôn.
Mục tiêu tổng quát của khuyến nông Việt Nam là thúc đẩy và hỗ trợ sản
xuất, nâng cao đời sống nhân dân nhằm đáp ứng nhu cầu của quốc gia và địa
phương trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và PTNT, đồng thời bảo tồn
được các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.
Một số hoạt động mà khuyến nông có thể tiến hành để thực hiện các mục tiêu:
- Cùng nhau chia sẻ những kiến thức bản địa cũng như các thông tin KHKT tiên tiến.
- Tăng cường mối quan hệ, kết nối giữa các cá nhân và cộng đồng.
- Tăng cường năng lực của các cá nhân và các nhóm hộ nông dân thông
qua sự giáo dục bán chính thức.
- Thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức khuyến nông và PTNT nhằm phục vụ cho việc
quản lý có hiệu quả nguồn tài nguyên đất, rừng và tiếp cận thị trường.
- Lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, theo dõi và đánh giá của các cộng
đồng dựa vào nhu cầu của người dân.
Quan điểm về mục tiêu của công tác khuyến nông hiện nay có 2 xu
hướng như ở bảng dưới đây:
6
6
Bảng 2.1: Những quan điểm khác nhau về mục tiêu của hoạt động khuyến nông

Quan điểm 1 Quan điểm 2
- Nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi - Nhằm giải quyết vấn đề
- Từng phần - Toàn diện/ Tổng thể
- Chỉ có khuyến nông - Tổng hợp nhiều dịch vụ
- Đại diện nhà nước - Tự giúp đỡ, dựa vào NGO
- Tập trung - Phi tập trung, mang tính tham gia
- Làm việc trên phạm vi rộng - Làm việc tại địa bàn nhỏ
- Chỉ chuyển giao kiến thức - Cũng làm nảy sinh ra kiến thức
- Trực tiếp - Không trực tiếp
Mỗi quan điểm trên có những mặt tích cực và hạn chế của chúng, không
có một quan điểm nào luôn đúng cả, mà cách tốt nhất là khi xác định mục tiêu
cho một chương trình khuyến nông cần căn cứ vào tình hình cụ thể và điều
kiện cho phép của chương trình đó (Đỗ Tuấn Khiêm và cs, 2005).
2.1.3. Vai trò của khuyến nông
2.1.3.1. Vai trò trong sự nghiệp phát triển nông thôn
Hình 2.1. Vai trò của khuyến nông trong sự nghiệp PTNT
Trong điều kiện nước ta hiện nay, trên 80% dân số sống ở các vùng nông thôn với 70%
lao động xã hội để sản xuất ra những nông sản thiết yếu cung cấp cho toàn bộ xã hội như
7
7
Phát
triển
nôn
g
thôn
Khuyến
nông
Giao
thông
Giáo

dục
Chính
sách
Tài
chính
Công
nghệ
Thị
trường
Tín
dụng
lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,… và sản xuất nông nghiệp
chiếm 37 - 40% giá trị sản phẩm xã hội [3].
Mặc dù nông nghiệp và nông thôn có vai trò quan trọng trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước nhưng hiện nay ở nhiều vùng nông thôn, mức
sống và trình độ dân trí còn rất thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất
lạc hậu. Đây là những thách thức rất lớn và khuyến nông được coi là một
trong những con đường góp phần giải quyết những thách thức đó.
Thông qua các hoạt động khuyến nông, nông dân và những người bên
ngoài cộng đồng có cơ hội trao đổi thông tin, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm
lẫn nhau để phát triển sản xuất và nâng cao đời sống kinh tế xã hội. Đặc biệt
khuyến nông còn tạo ra cơ hội cho nông dân trong cộng đồng cùng chia sẻ,
học hỏi kinh nghiệm, truyền bá thông tin kiến thức và giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Ngày nay, công tác khuyến nông khuyến lâm trở nên không thể thiếu
được ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương và từng hộ nông dân. Toàn bộ những cố
gắng phát triển kinh tế xã hội sẽ bị hạn chế nếu thiếu một nền sản xuất nông
nghiệp tăng trưởng bền vững. Vì vậy công tác khuyến nông cần phải được
tăng cường củng cố và phát triển.
2.1.3.2. Vai trò trong chuyển giao công nghệ
Hình 2.2: Mối quan hệ giữa việc nghiên cứu với nông dân

Những TBKHKT, công nghệ mới thường là kết quả nghiên cứu của các
cơ quan khoa học như các nhà nghiên cứu, viện nghiên cứu, các trường Đại
học,… Những tiến bộ này được nông dân lựa chọn, áp dụng vào trong sản
xuất để nâng cao năng xuất lao động. Trên thực tế, giữa nghiên cứu và áp
8
8
Khuyến nông
Nhà nghiên
cứu, viện
nghiên cứu,
Trường Đại
học
Nông dân
dụng thường trải qua một khâu trung gian để chuyển tải các tiến bộ khoa học
kỹ thuật cho nông dân. Ngược lại, những kinh nghiệm sản xuất, những nhu
cầu, những nhận xét đánh giá về kỹ thuật mới của nông dân cũng được phản
hồi đến các nhà nghiên cứu để có những nghiên cứu phù hợp với thực tế. Và
khuyến nông chính là chiếc cầu nối đó.
2.1.3.3. Vai trò đối với nhà nước
- Khuyến nông, khuyến lâm là một trong những tổ chức giúp nhà nước thực hiện các
chính sách, chiến lược về phát triển nông lâm nghiệp, nông thôn và nông dân.
- Vận động nông dân tiếp thu và thực hiện các chính sách về nông lâm nghiệp.
- Trực tiếp hoặc góp phần cung cấp thông tin về những nhu cầu, nguyện
vọng của nông dân đến các cơ quan Nhà nước, trên cơ sở đó Nhà nước hoạch
định, cải tiến đề ra được chính sách phù hợp.
2.1.4. Chức năng của khuyến nông
- Đào tạo, tập huấn nông dân: tổ chức các khóa tập huấn, xây dựng mô
hình, tham quan, hội thảo đầu bờ cho nông dân.
- Thúc đẩy, tạo điều kiện cho người nông dân đề xuất các ý tưởng, sáng
kiến và thực hiện thành công các ý tưởng sáng kiến của họ.

- Trao đổi, truyền bá thông tin: bao gồm việc xử lý, lựa chọn các thông
tin cần thiết, phù hợp từ các nguồn khác nhau để phổ biến cho nông dân giúp
họ cùng nhau chia sẻ và học tập.
- Giúp nông dân giải quyết các vấn đề khó khăn tại địa phương: tạo điều kiện giúp họ
có thể phát hiện, nhận biết và có thể phân tích được các vấn đề khó khăn trong sản xuất, đời
sống và bàn bạc cùng nông dân tìm biện pháp giải quyết.
- Giám sát và đánh giá hoạt động khuyến nông: Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra đánh giá và dân hưởng lợi.
9
9
- Phối hợp với nông dân tổ chức các thử nghiệm phát triển kỹ thuật mới,
hoặc thử nghiệm kiểm tra tính phù hợp của kết quả nghiên cứu trên hiện
trường, từ đó làm cơ sở cho việc khuyến khích lan rộng.
- Hỗ trợ nông dân về kinh nghiệm quản lý kinh tế hộ gia đình, phát triển
sản xuất quy mô trang trại.
- Tìm kiếm và cung cấp cho nông dân các thông tin về giá cả, thị trường
tiêu thụ sản phẩm.
2.1.5. Một số nguyên tắc của khuyến nông
- Khuyến nông làm cùng dân, không làm thay cho dân
- Khuyến nông không bao cấp
- Khuyến nông là một công việc đầy trách nhiệm
Một mặt, khuyến nông chịu trách nhiệm trước nhà nước là cơ quan quyết định những
chính sách phát triển nông thôn cho nên phải tuân theo đường lối và chính sách của Nhà
nước trong khi thực thi nhiệm vụ. Mặt khác, khuyến nông là đầy tớ của nông dân, có trách
nhiệm đáp ứng nhu cầu của nông dân trong vùng.
- Khuyến nông là nhịp cầu thông tin hai chiều
Hình 2.3: Nhịp cầu thông tin giữa cơ quan nghiên cứu và nông dân
2.1.6. Nội dung hoạt động của Khuyến nông
Theo Nghị định 02 của Chính Phủ về khuyến nông, khuyến ngư, nội dung
hoạt động khuyến nông, khuyến ngư gồm [9]:

Điều 4: Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo
1. Đối tượng
a) Người sản xuất theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị định
này chưa tham gia chương trình đào tạo dạy nghề do Nhà nước hỗ trợ
10
10
Khuyến
nông
Nông
dân
Cơ quan
nghiên cứu
b) Người hoạt động khuyến nông theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều
1 Nghị định này.
2. Nội dung
Bồi dưỡng, tập huấn cho người sản xuất về chính sách, pháp luật; tập
huấn, truyền nghề cho nông dân về kỹ năng sản xuất, tổ chức, quản lý sản
xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khuyến nông theo quy định tại khoản 1
Điều 1 Nghị định này; tập huấn cho người hoạt động khuyến nông nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
3. Hình thức
a) Thông qua mô hình trình diễn
b) Tổ chức các lớp học ngắn hạn gắn lý thuyết với thực hành
c) Thông qua các phương tiện truyền thông: báo, đài, tờ rơi, tài liệu
(sách, đĩa CD - DVD)
d) Qua chương trình đào tạo từ xa trên kênh truyền thanh, truyền hình,
xây dựng kênh truyền hình dành riêng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
ưu tiên là đào tạo nông dân trên truyền hình.
đ) Qua trang thông tin điện tử khuyến nông trên internet
e) Tổ chức khảo sát, học tập trong và ngoài nước

4. Tổ chức triển khai
a) Việc đào tạo nông dân và đào tạo người hoạt động khuyến nông do các
tổ chức khuyến nông quy định tại điểm b khoản 2 Điều 1 Nghị định này đảm trách.
b) Giảng viên nòng cốt là các chuyên gia, cán bộ khuyến nông có trình
độ đại học trở lên, các nông dân giỏi, các cá nhân điển hình tiên tiến, có nhiều
kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh, có đóng góp, cống hiến cho xã hội,
cộng đồng, đã qua đào tạo về kỹ năng khuyến nông.
Điều 5: Thông tin tuyên truyền
11
11
1. Phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
thông qua hệ thống truyền thông đại chúng và các tổ chức chính trị xã hội.
2. Phổ biến tiến bộ khoa học và công nghệ, các điển hình tiên tiến trong
sản xuất, kinh doanh thông qua hệ thống truyền thông đại chúng, tạp chí
khuyến nông, tài liệu khuyến nông, hội nghị, hội thảo, hội thi, hội chợ, triển
lãm, diễn đàn và các hình thức thông tin tuyên truyền khác, xuất bản và phát
hành ấn phẩm khuyến nông.
3. Xây dựng và quản lý dữ liệu thông tin của hệ thống thông tin khuyến nông.
Điều 6: Trình diễn và nhân rộng mô hình
1. Xây dựng các mô hình trình diễn về tiến bộ khoa học và công nghệ
phù hợp với từng địa phương, nhu cầu của người sản xuất và định hướng của
ngành, các mô hình thực hành sản xuất tốt gắn với tiêu thụ sản phẩm.
2. Xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
3. Xây dựng mô hình tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh nông nghiệp
hiệu quả và bền vững.
4. Chuyển giao kết quả khoa học và công nghệ từ các mô hình trình diễn,
điển hình sản xuất tiên tiến ra diện rộng.
Điều 7: Tư vấn và dịch vụ khuyến nông
1. Tư vấn và dịch vụ trong các lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 1
Nghị định này về:

a) Chính sách và pháp luật liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn
b) Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, tổ chức, quản lý để nâng
cao năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành, nâng
cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
c) Khởi nghiệp cho chủ trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ về lập dự án
đầu tư, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, huy động vốn, tuyển dụng và đào tạo lao
động, lựa chọn công nghệ, tìm kiếm thị trường.
12
12
d) Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng bảo hiểm sản xuất kinh doanh.
đ) Cung ứng vật tư nông nghiệp
2. Tư vấn và dịch vụ khác liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn.
Điều 8: Hợp tác quốc tế về khuyến nông
1. Tham gia thực hiện hoạt động khuyến nông trong các chương trình
hợp tác quốc tế
2. Trao đổi kinh nghiệm khuyến nông với các tổ chức, cá nhân nước
ngoài và tổ chức quốc tế theo quy định của Pháp luật Việt Nam
3. Nâng cao năng lực, trình độ ngoại ngữ cho người làm công tác khuyến
nông thông qua các chương trình hợp tác quốc tế và chương trình học tập
khảo sát trong và ngoài nước.
Trong những năm gần đây, để khích lệ nền nông nghiệp phát triển, Đảng
và Nhà nước đó có rất nhiều biện pháp, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất.
Đặc biệt là phải làm tốt công tác khuyến nông, ở hầu hết các tỉnh thành trong
cả nước. công tác khuyến nông được triển khai và thực hiện tốt. Nhưng mỗi
tỉnh lại thực hiện một cách khác phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và trình
độ dân trí cụ thể.
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.2.1.1. Pháp
Thế kỷ 15 - 16: một số công trình khoa học nông nghiệp ra đời như: “ngôi nhà

nông thôn” của Enstienne và Liebault nghiên cứu về kinh tế nông thôn và khoa học nông
nghiệp. Tác phẩm diễn trường nông nghiệp của Oliver de Serres đề cập tới nhiều vấn đề trong
nông nghiệp như cải tiến giống cây trồng vật nuôi [3].
Thế kỷ 18, cụm từ Phổ cập nông nghiệp (Vulgazigation Agricole), hoặc
chuyển giao kỹ thuật đến người nông dân (Transfert des Technologies
Agrcoles au Payan) được sử dụng phổ biến [3].
13
13
Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đến nay.
Trung tâm CETA (Centre d’Etuder Techniques Agricoles) nghiên cứu kỹ
thuật nông nghiệp đầu tiên được tổ chức do sáng kiến của nông dân vùng Pari
hoạt động với nguyên tắc:
- Người nông dân có trách nhiệm và chủ động trong công việc
- Sáng kiến từ cơ sở
- Hoạt động nhóm rất quan trọng
2.2.1.2. Mỹ
Năm 1845 tại Ohio, N.S.Townshned chủ nhiệm khoa Nông học đề xuất
việc tổ chức những câu lạc bộ nông dân tại các quận, huyện và sinh hoạt định
kỳ. Đây là tiền thân của khuyến nông Mỹ.
Năm 1891 Bang New York dành 10.000 USD cho khuyến nông đại học.
Năm 1892 Trường đại học Chicago, trường Wicosin bắt đầu tổ chức
chương trình khuyến nông đại học.
Năm 1907, có 42 trường đại học trong 39 Bang đã thực hiện công tác
Khuyến nông
Năm 1910, có 35 trường Đại học đã có Bộ môn khuyến nông
Năm 1914 tổ chức khuyến nông được hình thành chính thức ở Mỹ, có
1861 hội nông dân với 3.050.150 hội viên
Thuật ngữ Extension Education đã được sử dụng để chứng tỏ rằng đối
tượng giáo dục của trường đại học không nên chỉ hạn chế ở những sinh viên
do nhà trường quản lý, mà nên mở rộng tới những người đang sống ở khắp

nơi trên đất nước [3].
Cho tới nay Mỹ là nước có nền nông nghiệp rất phát triển với chỉ 6% dân
số sống bằng sản xuất nông nghiệp nhưng năng suất và sản lượng nông nghiệp
của Mỹ vẫn đạt mức cao. Điển hình là sản lượng đậu tương năm 1985 là 55 triệu
tấn, tới năm 2001 sản lượng đậu tương của Mỹ đã tăng lên 70 triệu tấn cho đến
14
14
nay Mỹ là nước xuất khẩu đậu tương lớn nhất thế giới, hàng năm xuất khẩu 16,9
triệu tấn chiếm 54% tổng khối lượng xuất khẩu đậu tương thế giới.
2.2.1.3. Anh
Thuật ngữ University Extension hay Extension of University lần đầu tiên
được sử dụng ở Anh vào những năm 1840.
Những năm 1866 thuật ngữ “Extension” và “Agricultural Extension”
được sử dụng ở Anh. Jemes Stuart thành viên của Trường Đại học Cambridge
giảng bài cho Hiệp hội phụ nữ và Câu lạc bộ những người làm việc ở miền Bắc
nước Anh. Và Jemes Stuart thường được coi là “người cha đẻ của phổ cập đại
học”. Năm 1876, Trường Đại học Luân Đôn và năm 1878 Trường Đại học
Oxford cũng dạy theo chương trình đào tạo này, và từ năm 1880 hoạt động này
trở thành một phong trào [3].
2.2.1.4. Trung Quốc
Trung Quốc là một nước đông dân nhất trên thế giới với hơn 1,3 tỷ
người nhưng nền nông nghiệp Trung Quốc không những đủ cung cấp nhu cầu
trong nước mà còn là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất thế
giới. Theo Jinguguan: “Hiện nay và trong tương lai, khuyến nông vẫn đóng
vai trò quan trọng đối với nền nông nghiệp của Trung Quốc”.
Qua nhiều năm vận dụng những chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nông nghiệp Trung Quốc trải qua rất nhiều bước thăng trầm.Trước những
năm 90 của thế kỷ XX, nông nghiệp Trung Quốc chỉ bằng mục tiêu tăng sản
lượng và số lượng, các loại vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân
bón, thuốc trừ sâu, cung cấp ồ ạt ra thị trường. Thanh niên nông thôn ra

đường phố kiếm việc làm vì thu nhập từ nông nghiệp quá ít do chất lượng
nông sản thấp [3].
Từ năm 1995 trở đi, Trung Quốc áp dụng chính sách hỗ trợ nông nghiệp
sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Các chương trình khuyến nông chuyển
15
15
giao giống cây trồng, lúa lai chất lượng cao, sản xuất đỗ tương xuất khẩu kết
hợp cải tạo đất; dự án sản xuất giống vật nuôi, nâng cao sản lượng sữa được
tập trung góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho nông dân.
Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư xây dựng, góp phần đẩy mạnh tiêu thụ
nông sản thông qua chương trình khuyến nông quốc gia, giống mới cung cấp
cho nông dân gần như cho không, hàng loạt các hoạt động tập huấn, mô
hình trình diễn được tổ chức giúp người nông dân nắm bắt được những kỹ
thuật mới. Nhờ những chính sách đúng đắn của Nhà nước và hoạt động
hiệu quả của khuyến nông, nông nghiệp Trung Quốc đã đạt được kết quả
không ngờ sau vài năm thực hiện.
Từng bước Khuyến nông trên khắp các vùng miền của Trung Quốc đã
giúp nông dân hiểu được vai trò, trách nhiệm của họ dưới sự phát triển chung
của nông nghiệp. Các Khuyến nông viên giúp nông dân nâng cao trình độ
canh tác, giúp họ hiểu được phải làm gì, làm khi nào và làm như thế nào?
Cùng họ nghiên cứu ngay trên mảnh ruộng của mình để chính họ trở thành
những chủ nhân - chuyên gia kỹ thuật viên [3].
Hai mươi năm gần đây Nhà nước Trung Quốc đã đầu tư đồng bộ cả về
hệ thống tổ chức, cơ sở thiết bị nghiên cứu cho khuyến nông, nhờ vậy điều
kiện sống của khuyến nông viên được nâng cao.
Cuối năm 1997, trên toàn đất nước Trung Quốc đã có hơn 48.500 tổ
chức khuyến nông với hơn 317.000 khuyến nông viên (từ Trung ương tới
tỉnh, huyện, xã, làng bản); khuyến nông viên phối hợp hoạt động cũng khoảng
400.000 tổ chức nông dân là kỹ thuật viên. Hiện nay khuyến nông Trung
Quốc đã là một hệ thống hoàn thiện trên quy mô cả nước sau nhiều năm

không ngừng củng cố (Phạm Kim Oanh, 2006)
2.2.1.5. Một số nước khác
16
16
Người Hà Lan dùng từ Voorliching mang nghĩa việc thắp sáng con đường
phía trước để giúp mọi người nhìn thấy đường đi. Theo gương Hà Lan, người
Indonesia nói đến việc thắp sáng bằng ngọn đuốc (penyuluhan).
Hoạt động khuyến nông ở Châu Âu, Oxtraylia, New Zealand, Canada có
nhiều điểm tương tự như Pháp, Anh, Mỹ. Hoạt động dịch vụ khuyến nông
thường bắt đầu từ các hội nông nghiệp, nó được giao trách nhiệm cho một cơ
quan thuộc Bộ Nông nghiệp.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
2.2.2.1. Sự hình thành và phát triển của khuyến nông Việt Nam
Khuyến nông Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của nền sản xuất nông nghiệp. Các vua Hùng cách đây hơn 2000 năm đã
trực tiếp dạy dân cách làm nông nghiệp: gieo hạt, cấy lúa, mở các cuộc thi để các
Hoàng tử, Công chúa có cơ hội trổ tài, chế biến các món ăn từ các nông sản tại
chỗ. Công chúa Thiều Hoa là người đầu tiên dạy dân chăn tằm dệt lụa [3].
Để tỏ rõ sự quan tâm tới nông nghiệp, Vua Lê Đại Hành (979 - 1008) là
ông vua đầu tiên đích thân đi cày ruộng tịnh điền ở Đọi Sơn, Bàn Hải thuộc
vùng Duy Tiên, Nam Hà ngày nay [3].
Các vua Lý (1009 -1056) rất coi trọng nghề nông và đã ra nhiều chính
sách chăm lo phát triển nông nghiệp.
Triều vua Lê Thái Tông (1492). Triều đình đặt chức Hà Đê Sứ và Khuyến nông
sứ đến cấp phủ huyện và từ năm 1492 mỗi xã có một xã trưởng phụ trách nông nghiệp và
đê điều. Triều đình ban bố chiếu khuyến nông, chiếu lập đồn điền, và lần đầu tiên sử dụng từ
“khuyến nông” trong bộ luật Hồng Đức [3].
Thời vua Quang Trung (1807 – 1792): Từ năm 1789 sau khi thắng giặc
ngoại xâm, Quang Trung ban bố ngay “chiếu khuyến nông” nhằm phục hồi
dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, sau 3 năm những đất đai hoang

hóa đã được phục hồi, sản xuất phát triển [3].
17
17
Đến thời kỳ nhà Nguyễn (1807 - 1884) đã định ra chức đinh điền sứ.
Nguyễn Công Trứ được giao chức vụ này. Ông đã có công khai khẩn đất hoang
để lập ra hai huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình) [3].
Như vậy trong thời kỳ phong kiến ở nước ta các vị vua không những
quan tâm tới việc đánh đuổi giặc ngoại xâm xâm lược bảo vệ tổ quốc mà còn
chú trọng tới việc phát triển sản xuất nông nghiệp, củng cố đê điều để xây
dựng đất nước, tạo cho nhân dân một cuộc sông ấm no [3].
Thời kỳ pháp thuộc (1884 - 1945) phát triển nông nghiệp và khuyến nông
chủ yếu phục vụ chính sách thuộc địa phong kiến của thực dân pháp. Người
Pháp tổ chức các Sở canh nông ở Bắc Kỳ, các Ty khuyến nông ở các tỉnh [3].
Từ sau cách mạng tháng 8/1945 – 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm tới nông nghiệp, người kêu gọi quốc dân “tăng gia sản xuất! tăng
gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa! đó là những việc cấp bách của chúng
ta lúc này”. Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân bắt tay vào khôi
phục kinh tế, phát triển sản xuất [3].
Từ năm 1958 - 1975 nông nghiệp Miền Bắc Việt Nam phát triển trong
sự tác động mạnh mẽ của mô hình HTX nông nghiệp. Từ đổi công (1956),
đến HTX bậc thấp năm 1960, đến HTX cấp cao (1968), đến HTX toàn xã
năm 1974. Thành lập các đoàn cán bộ nông nghiệp ở Trung ương, cấp tỉnh,
huyện chỉ đạo sản xuất ở cơ sở. Giai đoạn 1976 – 1988 nông nghiệp Việt
Nam thống nhất thành một mối hai miền cùng tăng gia phát triển sản xuất.
Song diễn biến tình hình có nhiều phức tạp, do sự tác động của quan hệ sản
xuất tập thể và mô hình quản lý tập chung, kế hoạch hóa tập chung. Nhiều
thiếu sót đã nảy sinh trong quản lý kinh tế và quản lý nông nghiệp, đã làm cho
nông nghiệp phát triển chậm lại đời sống nông thôn nảy sinh nhiều vướng
mắc, nông dân không yên tâm sản xuất và sinh sống [3].
18

18
Trước thực trạng suy thoái kinh tế những năm cuối thập kỷ 70 và đầu
năm 80 nói chung và nông nghiệp nói riêng, ngày 13/01/1981 chỉ thị
100CT/TW của ban Bí thư Trung ương Đảng về “cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp”
được ban hành (gọi tắt là khoán 100). Khoán 100 mặc dù chưa phải là mô
hình mới về tổ chức và quản lý nông nghiệp, mà mới chỉ là cải tiến hình thức
khoán, từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội sang khoán hộ. Đây
cũng được coi là đột phá đầu tiên vào cơ chế quản lý tập chung, quan liêu, sản
xuất tập thể. Vì vậy, coi là “Chìa khóa vàng” để mở ra thời kỳ mới của sản
xuất nông nghiệp Việt Nam [3].
Tới tháng 12/1986, đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối đổi mới trong lãnh đạo và quản lý kinh tế. Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VI (5/4/1988) về “Đổi
mới quản lý trong nông nghiệp” nhằm giải phóng sản xuất trong nông thôn
đến từng hộ nông dân, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở
nông thôn (gọi tắt là khoán 10) [3].
Ngày 02/3/1993 Chính phủ ra nghị định 13CP về công tác khuyến nông.
Bắt đầu hình thành hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến địa phương.
Năm 1993 Cục khuyến nông Khuyến lâm được thành lập: vừa quản lý nhà
nước vừa làm công tác khuyến nông. Năm 2001 Trung tâm Khuyến nông
Trung ương ra đời (trực thuộc cục khuyến nông). Tới năm 2003 Trung tâm
khuyến nông Quốc gia được thành lập.
Ngày 26/4/2005 Chính phủ đã ban hành nghị định 56/2005/CP thay thế
cho Nghị định 13CP. Trong nghị định này quy định rõ hơn về hệ thống tổ
chức khuyến nông. Bổ sung thêm nội dung tư vấn, dịch vụ khuyến nông và hợp tác
quốc tế về khuyến nông; mở rộng đối tượng tham gia đóng góp và hưởng thụ khuyến nông
nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hoá công tác khuyến nông.
19
19

Tới ngày 08/01/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2010/NĐ-CP
về khuyến nông để sửa đổi, bổ sung một số nội dung thay thế cho nghị định
56CP/2005/CP. Cụ thể các nội dung, công tác tổ chức khuyến nông, chính
sách đối với khuyến nông.
2.2.2.2. Một số kết quả đạt được của hoạt động khuyến nông Việt Nam
trong giai đoạn 1993 - 2008
a) Xây dựng các mô hình trình diễn
Trong giai đoạn 1993 - 2008, khuyến nông Việt Nam đã xây dựng được rất nhiều mô
hình trình diễn. Dưới đây là một số chương trình có hiệu quả rõ rệt nhất:
* Chương trình khuyến nông sản xuất hạt giống lúa lai F1:
Sau 15 năm, khuyến nông đã đào tạo, hướng dẫn, chuyển giao công nghệ
sản xuất hạt lai thông qua mô hình cho nông dân ở 26 tỉnh, thành phố với gần
40 đơn vị tham gia. Quy mô trình diễn 10.818 ha, kinh phí 57,745 tỷ đồng,
đưa diện tích lúa lai F1 từ 173 ha (1992) lên 1.500 ha của những năm 2000 -
2005; 1.300 ha của những năm 2006 - 2008 (do ảnh hưởng thời tiết). Năng
suất hạt giống từ 300 kg/ha (1992) lên 2.500 kg/ha những năm 2000. Nhiều
đơn vị sản xuất ở những vùng thuận lợi về thời tiết năng suất đạt 38 - 40 tạ/ha,
chất lượng hạt giống tốt, đạt tiêu chuẩn ngành. Giá thành hạt giống sản xuất
trong nước chỉ bằng 60% so với giống nhập khẩu, hàng năm tiết kiệm cho
Nhà nước hàng trăm tỷ đồng. Từ chỗ chúng ta hoàn toàn nhập nội hạt giống,
đến nay đã tự túc được khoảng 25% nhu cầu hạt giống lúa lai cho sản xuất,
góp phần khống chế giá nhập khẩu vào Việt Nam [6].
Nhờ áp dụng sáng tạo quy trình công nghệ sản xuật hạt giống F1 của thế
giới cho một số tổ hợp nhập khẩu như Nhị ưu 838, Nhị 63, Bác ưu 64, Bác ưu
903, Dưu 527 Đến nay đã có nhiều tổ hợp được lai tạo trong nước đạt kết
quả tốt như TH3-3, TH3-4, VL20, VL24, HYT83, HYT100, HYT102,
20
20
HYT103 Một số tỉnh có diện tích sản xuất lớn là: Lào Cai, Yên Bái, Nam
Định, Thanh Hoá, Quảng Nam, Đắc Lắc, Hà Nam

* Chương trình phát triển lúa lai thương phẩm:
Song song với việc phát triển sản xuất hạt giống lúa lai F1 là các chương
trình phát triển lúa lai thương phẩm. Đến nay đã phát triển ở hầu hết các tỉnh,
thành phố phía Bắc và Tây Nguyên. Năng suất bình quân đạt 65tạ/ha, cá biệt
có những nơi đạt 100tạ/ha. Từ năm 1993 đến nay chương trình khuyến nông
đã hỗ trợ kinh phí 16,9 tỉ đồng, xây dựng được 7.300ha trình diễn ở những
vùng khó khăn lương thực. Trong những năm gần đây diện tích lúa lai thương
phẩm đạt 620-650 ngàn hecta, năng suất tăng so với lúa thuần từ 10-15tạ/ha,
góp phần nâng cao năng suất, sản lượng lúa, góp phần đảm bảo an ninh lương
thực, thúc đẩy cho việc chuyển đổi mùa vụ và cơ cấu cây trồng [6].
* Chương trình phát triển ngô lai:
Chương trình phát triển ngô lai đã nâng cao năng suất ngô từ 21,1tạ/ha
năm 1995, lên 32tạ/ha năm 2004 và năm 2008 lên gần 40tạ/ha. Tỉ lệ sử dụng
giống ngô lai tăng nhanh từ 20% năm 1992 lên trên 80% năm 2008
Chương trình khuyến nông phát triển ngô lai được ngân sách nhà nước hỗ
trợ 19,682 tỉ đồng, triển khai trên quy mô 8.856 ha, trong đó sản xuất hạt
giống 1.100ha, thâm canh 7.770ha. Năng suất hạt lai đạt 25-30 tạ/ha, giá
thành 1kg hạt giống sản xuất trong nước chỉ bằng 2/3 giá thành hạt giống
nhập nước ngoài. Các giống được sử dụng trong mô hình là LVN10, LVN4,
B9698, DK888, DK999, C919 [6]
Chương trình đã đem lại hiệu quả kinh tế cao và được nông dân áp dụng
rộng rãi vào sản xuất, góp phần rất lớn trong việc hoàn thành mục tiêu 1 triệu
hecta ngô, sản lượng 4 triệu tấn (kế hoạch đến 2010), sớm hơn kế hoạch của
Bộ NN và PTNT 3 năm. Một số tỉnh thực hiện tốt chương trình như Sơn La,
Lai Châu, Hà Tây, Long An, Đồng Nai
21
21
* Chương trình cải tạo đàn bò:
Chăn nuôi bò thịt là lợi thế và là nghề có lợi nhuận kinh tế tương đối cao
so với ngành chăn nuôi khác do ít phải cạnh tranh với nguồn lương thực của

con người. Mục tiêu của chương trình là cải tạo nâng cao thể trạng và tỷ lệ
thịt xẻ của đàn bò Việt Nam bằng cách lai tạo giữa bò đực giống Red Sindhi,
Brahman, Sahiwal với bò cái nền Việt Nam. Chương trình đã thu hút gần
600.000 hộ của trên 50 tỉnh, thành và đã góp phần đưa tỷ lệ bò lai Zebu từ
10% năm 1993 lên 32% vào năm 2008, khối lượng bò trưởng thành từ 180
kg/con lên 250 - 280 kg/con và tỷ lệ thịt xẻ từ 38% lên 45 - 50%. Một số tỉnh
đã hưởng ứng và thực hiện tốt chương trình cải tạo đàn bò, đưa tỷ lệ bò lai
Zebu đạt rất cao như: Hà Tây (tỷ lệ bò lai 85%), Vĩnh Phúc (tỷ lệ bò lai 65%),
Tây Ninh (tỷ lệ bò lai 83%), Bình Dương (tỷ lệ bò lai 75%), Bình Định (tỷ lệ
bò lai 40%) Để chương trình cải tạo đàn bò đạt hiệu quả cao và bền vững,
các lớp Truyền giống nhân tạo bò cấp Quốc gia đã liên tục được mở ra, đào
tạo cho trên 1.000 dẫn tinh viên chính quy, 2.500 dẫn tinh viên cấp huyện và
trên 7.000 khuyến nông viên chăn nuôi thú y. Kỹ thuật truyền giống nhân tạo
và sử dụng tinh bò đông lạnh chất lượng cao ngày càng được áp dụng rộng rãi
và hiệu quả, từ chỗ chỉ sử dụng vài chục ngàn liều tinh năm 1993, nay đã sử
dụng gần nửa triệu liều tinh trong chương trình cải tạo đàn bò, đưa tỷ lệ bò
được TTNT lên 55% [6].
* Chương trình khuyến nông chăn nuôi gia cầm
Chương trình đã đưa một số giống gà lông màu như gà Tam Hoàng,
Lương Phượng, Isa-colour, Kabir vào nuôi ở một số tỉnh đạt kết quả rất tốt,
khối lượng gà đạt 2,2-2,5 kg ở 3 tháng tuổi, năng suất trứng đạt 140-160
quả/mái/ năm. Đây là chương trình được bà con nông dân cả nước hưởng ứng
rất nhanh, thực hiện tương đối dễ và có hiệu quả cao.
22
22
Chương trình khuyến nông chăn nuôi gia cầm ATSH với kinh phí thực
hiện là 50,103 tỷ đồng, với quy mô 2.800.625 con đã được triển khai ở gần
hết các tỉnh thành trong cả nước. Việc nuôi tập trung, đảm bảo an toàn sinh
học các giống gà thả vườn, giống vịt, ngan có chất lượng thịt thơm ngon, ít
mỡ, da vàng và mỏng, điển hình là các giống gà Lương Phượng, Sasso, gà lai

Lương Phượng- Ri, ngan Pháp… Ngoài các mô hình chăn nuôi gia cầm
thương phẩm, khuyến nông cũng đã triển khai thành công các mô hình chăn
nuôi gia cầm bố mẹ để cung cấp con giống tại chỗ ở các tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa. Nhờ đạt các tiêu chí về chi phí thức ăn thấp, tỉ lệ nuôi sống cao,
mức tăng trọng nhanh, chất lượng thịt ngon và bán được giá cao, chương trình
khuyến nông chăn nuôi gia cầm đã thực sự giúp nhiều hộ nông dân xoá được
đói, giảm được nghèo và nhiều gia đình có điều kiện vươn lên làm giàu.
b) Hoạt động tập huấn, đào tạo
Trong thời gian qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã phối hợp với
13 trường đại học và cao đẳng, 32 viện nghiên cứu và trung tâm chuyển giao
TBKT, 7 hội đoàn thể và các Cục, Vụ, Công ty tổ chức hàng chục nghìn lớp
tập huấn về kỹ thuật sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp cho gần 6 triệu lượt
người, tập huấn gần 500 lớp nghiệp vụ khuyến nông, khuyến ngư cho cán bộ
khuyến nông, khuyến ngư với khoảng hơn 13.000 lượt người tham dự [6].
Khuyến nông Việt nam đang từng bước hội nhập với Khuyến nông các nước trong khu
vực và thế giới thông qua việc tham gia xây dựng chương trình hành động về đào tạo và KN với
ASEAN, tổ chức tập huấn cho học viên các nước ASEAN tại Việt Nam và khảo sát học tập
khuyến nông các nước phát triển.
Những chương trình tập huấn đã có nội dung đa dạng, hình thức phong
phú, thời gian phù hợp với chủ đề và điều kiện tham gia của học viên. Một số
nội dung đào tạo, tập huấn đã tập trung vào những vấn đề sau: Phổ biến các
văn bản pháp luật; Nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ khuyến nông; Tập
23
23
huấn chuyển giao các TBKT mới; Biên soạn tài liệu - giáo trình tập huấn cho
cán bộ khuyến nông.
c) Hoạt động thông tin, tuyên truyền
Trong nhiều năm qua, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã có sự phối
hợp, cộng tác thường xuyên với nhiều cơ quan thông tin, nhiều loại hình báo
chí như đài truyền hình Việt Nam, báo nhân dân, báo nông nghiệp, nông thôn

ngày nay,… để cung cấp và truyền tải thông tin về hoạt động khuyến nông tới
các cấp lãnh đạo, các nhà quản lý và bà con nông dân.
Tờ tin Khuyến nông Việt Nam xuất bản 4 số/năm, từ tháng 1/2006 tăng
lên 6 số/năm (mỗi số từ 4000 - 4500 bản). Trang web khuyến nông Việt Nam
khai trương tháng 8/2003, hàng ngày có ít nhất 10 bài và hàng chục tin mới,
mỗi người có hàng trăm người truy cập. Trong thời gian qua,ở cấp trung ương
đã có hơn 12 vạn bản sách kỹ thuật, gần 30.000 tranh kỹ thuật, tờ gấp; trên 40
băng hình kỹ thuật được phát hành miễn phí dùng làm tài liệu chuyển giao
TBKT. Ngoài ra, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia còn tập hợp được trên
120 bộ phim hướng dẫn kỹ thuật làm tư liệu cho các địa phương [6].
d) Hoạt động tư vấn, dịch vụ khuyến nông
Đây là những vấn đề mới đối với khuyến nông Việt Nam. Thực tế một vài
năm gần đây mới xuất hiện phương thức tư vấn - dịch vụ trong công tác
khuyến nông và cũng mới chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở một số tỉnh như: Thái Bình, Hà
Nội, An Giang, Tiền Giang, Đồng Lai, Bình Phước,… Sở dĩ như vậy bởi vì
đại bộ phận nông dân nước ta còn nghèo, Nhà nước vẫn phải bao cấp, hỗ trợ
cho nông dân thông qua các chương trình, dự án phát triển.
24
24
PHẦN III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
- Các hoạt động khuyến nông chính của huyện
- Các cán bộ khuyến nông và một số hộ nông dân trên địa bàn.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung vào xác định vai trò của đội ngũ CBKN trên địa bàn huyện Bảo
Thắng trong chuyển giao các TBKHKT; phát triển kinh tế nông nghiệp nông
thôn; cầu nối giữa nông dân với các cơ quan nhà nước, các viện, trường, cơ sở

nghiên cứu trong giai đoạn 2008 - 2010
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn huyện Bảo Thắng - Lào Cai.
3.2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu từ tháng 01/2011 đến tháng 05/2011.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Điều kiện tự nhiên, KTXH của khu vực nghiên cứu
3.3.2. Nghiên cứu thực trạng công tác khuyến nông của huyện Bảo Thắng
3.3.3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khuyến
nông huyện Bảo Thắng.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp chọn mẫu
Căn cứ vào nội dung đề tài và đối tượng điều tra tiến hành chọn mẫu như sau:
- Phỏng vấn 06 CBKN tại Trạm khuyến nông huyện Bảo Thắng.
25
25

×