Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là bộ phận chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, có vai trò
và vị trí to lớn trong sự phát triển của đất nước. Trong thời đại xu thế hội
nhập là tất yếu như hiện nay sự cạnh tranh trong nội bộ ngành và với bên
ngoài khá gay gắt. Để nông nghiệp Việt Nam ngày một phát triển, có khả
năng cạnh tranh với hàng hóa các nước thì yêu cầu đặt ra là người dân phải
có kiến thức về sản xuất, chăm sóc cây trồng, vật nuôi, nắm được yêu cầu và
quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn, các thông tin thị trường … Một trong
những kênh thông tin giúp người dân có được những điều đó là hệ thống tổ
chức khuyến nông. Công tác khuyến nông đem lại nhiều lợi ích thiết thực
thấy rõ như: góp phần nâng cao nhận thức cho người nông dân về chủ
trương, chính sách pháp luật, kiến thức, kĩ năng về khoa học kĩ thuật, quản
lí; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn;
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả cây trồng vật nuôi, phát triển sản
xuất theo hướng bền vững; góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông thôn.
Trong những năm qua nền nông nghiệp nước ta đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn, sản xuất nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Từ một nước có
nền nông nghiệp lạc hậu tự cung, tự cấp, quy mô nhỏ, Việt Nam đã trở thành
nước xuất khẩu nông sản có thứ bậc trên thế giới: Đứng thứ nhất về xuất
khẩu hạt tiêu; Đứng thứ hai về xuất khẩu gạo (sau thái lan) và còn một số các
sản phẩm nông sản khác như : đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê, hạt điều; đứng
thứ tư về xuất khẩu cao su; đứng thứ sáu về xuất khẩu chè. Ngoài ra nước ta
còn xuất khẩu nhiều loại nông sản có giá trị khác như: rau, củ, quả…
Trải qua các thời kỳ lịch sử nhà nước ta đều có những chủ trương
chính sách phát triển nông nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp,
hướng tới phát triển một nền nông nghiệp hiệu quả và bền vững. Đồng hành
với sự phát triển của nông nghiệp chính là những cán bộ, nhân viên, tình
nguyện viên hệ thống Khuyến nông Việt Nam.
Ngày 02/03/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13/CP về công tác
khuyến nông, hệ thống khuyến nông Việt Nam đã được hình thành. Sau hơn
17 năm hoat động hệ thống khuyến nông Việt Nam ngày càng phát triển. Đội
ngũ cán bộ Khuyến Nông đã tích cực chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ mới, đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác
cho nông dân. Khuyến nông Việt Nam thực sự đã góp phần tạo nên sự tăng
trưởng mạnh mẽ về năng suất, chất lượng sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp,
đảm bảo an ninh lương thực, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xoá đói
giảm nghèo và sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy vậy, sau quá trình thực hiện Nghị định 13/CP, công tác khuyến
nông đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi
hỏi ngày càng cao của sản xuất, khoa học công nghệ và xu hướng hội nhập
kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, Bộ NN và PTNT đã trình Chính phủ để sửa
đổi, bổ sung một số nội dung hoạt động khuyến nông, thay thế cho Nghị định
13/CP. Ngày 26/4/2005, Chính phủ đã chính thức ban hành Nghị định
56/2005/NĐ - CP về khuyến nông, khuyến ngư.
Nghị định 56/2005/NĐ - CP ra đời đã quy định rõ hơn về hệ thống tổ
chức khuyến nông (nhất là tổ chức khuyến nông cơ sở), mục tiêu, nguyên
tắc, chính sách và nội dung hoạt động khuyến nông (bổ sung thêm nội dung
tư vấn, dịch vụ khuyến nông và hợp tác quốc tế về khuyến nông); mở rộng
đối tượng tham gia đóng góp và hưởng thụ khuyến nông nhằm thực hiện mục
tiêu xã hội hoá công tác khuyến nông.
Hiện nay, sau 5 năm thực hiện nghị định 56/2005/NĐ - CP vẫn còn nhiều
bất cập. Do vậy, ngày 08/01/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số
02/2010/NĐ - CP về khuyến nông để sửa đổi, bổ sung một số nội dung. Trong
nghị định này quy định cụ thể hơn về nội dung hoạt động khuyến nông bao
gồm: Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo cho người sản xuất và người hoạt động
khuyến nông; thông tin tuyên truyền; trình diễn và nhân rộng mô hình; tư vấn
và dịch vụ khuyến nông; hợp tác quốc tế về khuyến nông. Tổ chức khuyến
nông từ Trung ương tới địa phương cũng được quy định rõ hơn về chức năng,
nhiệm vụ, cơ chế quản lý. Các chính sách khuyến nông cũng được điều chỉnh
trong quy định này; Đặc biệt bổ sung các chính sách đối với đội ngũ CBKN cơ
sở.
Vậy một câu hỏi đặt ra ở đây là: Với một đội ngũ cán bộ khuyến nông ở
cơ sở khá đầy đủ và cơ chế quản lý như vậy thì hiện nay họ đang hoạt động như
thế nào, đã phát huy được hết vai trò, năng lực của mình hay chưa, có giải pháp gì
giúp họ nâng cao năng lực của mình hay không? Xuất phát từ thực tiễn trên tôi đã
chọn huyện Quảng Uyên - tỉnh Cao Bằng để thực hiện đề tài: “Tìm hiểu thực
trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động của
cán bộ khuyến nông huyện Quảng Uyên - tỉnh cao Bằng”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng hệ thống khuyến nông và kết quả đạt được từ công
tác khuyến nông huyện Quảng Uyên trong những năm qua (2008 - 2010).
- Phân tích được mặt mạnh, mặt yếu và những thuận lợi, khó khăn
của hệ thống khuyến nông.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của
công tác khuyến nông huyện Quảng Uyên - Cao Bằng.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng hoạt động và vai trò của đội ngũ cán bộ khuyến
nông tại Trạm Khuyến nông huyện Quảng Uyên - Cao Bằng. Trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động cho đội
ngũ cán bộ khuyến nông huyện Quảng Uyên - Cao Bằng.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Thông qua quá trình thực hiện đề tài giúp cho sinh viên củng cố kiến
thức từ cơ sở đến chuyên ngành đã học trong trường và ứng dụng kiến thức
đó vào thực tiễn.
- Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến thuận lợi, khó khăn trong các
hoạt động khuyến nông. Từ đó đề xuất các giải pháp và làm cơ sở cho những
nghiên cứu tiếp theo.
- Bổ sung tài liệu, kiến thức thực tế cho bản thân để sau này ra trường
làm việc tốt hơn.
- Rèn luyện các kỹ năng thu thập xử lý số liệu, viết báo cáo.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Thấy được những hạn chế trong công tác tổ chức hoạt động của đội
ngũ cán bộ khuyến nông huyện Quảng Uyên để đưa ra phương pháp tổ chức
hoạt động cho phù hợp.
- Đề tài đánh giá một các đề tài đánh giá một cách tổng quát thực trạng
hoạt động của đội ngũ các cán bộ khuyến nông cơ sở tại huyện Quảng Uyên
do đó có thể làm căn cứ để lựa chọn phương pháp tổ chức cho phù hợp, góp
phần nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, thay đổi tư duy sản xuất, cải
thiện đời sống nhân dân.
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Các cơ sở khoa học về khuyến nông
2.1.1. Khái niệm khuyến nông
- Theo nghĩa Hán - Văn: “khuyến” có nghĩa là khuyến khích - khuyên
bảo - triển khai, còn “nông” là nông - lâm - ngư - nghiệp, nông dân, nông
thôn. “Khuyến nông” nghĩa là khuyên mở mang phát triển trong nông
nghiệp.
- Khuyến nông được tổ chức theo nhiều cách khác nhau và phục vụ
nhiều mục đích có quy mô khác nhau, vì vậy khuyến nông là một thuật ngữ
khó định nghĩa được một cách chính xác, nó thay đổi tùy theo lợi ích mà nó
mang lại.
“Khuyến nông được định nghĩa như thể là một tiến trình của việc lôi kéo
quần chúng vào việc trồng và quản lý một cách tự nguyện” (D. Maholy, 1987).
“Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến trình của việc hòa
nhập các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại, các quan điểm, kỹ năng để
quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa phương,
sử dụng các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự giúp đỡ từ bên ngoài để có khả
năng vượt qua các trở ngại gặp phải” (Theo tổ chức FAO, 1987).
“Khuyến nông là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo nhằm giúp nông
dân hình thành các ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định đúng đắn”
(A.W.Van den Ban và H.S.Hawkins, 1988).
“Khuyến nông là một từ tổng quát để chỉ tất cả các công việc có liên
quan đến sự nghiệp phát triển nông thôn, đó là một hệ thống giáo dục ngoài nhà
trường, trong đó có người già và người trẻ học bằng cách thực hành” (Thomas).
Qua rất nhiều khái niệm trên chúng ta có thể tóm tắt lại và có thể hiểu
khuyến nông theo hai nghĩa:
Khuyến nông hiểu theo nghĩa rộng: Khuyến nông là khái niệm chung
để chỉ tất cả các hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển nông
thôn.
Khuyến nông hiểu theo nghĩa hẹp: Khuyến nông là một tiến trình
giáo dục không chính thức mà đối tượng của nó là nông dân. Tiến trình này
đem đến cho nông dân những thông tin và những lời khuyên nhằm giúp họ
giải quyết những vấn đề hoặc những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến
nông hỗ trợ phát triển các hoạt động sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để
không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân và gia đình họ.
2.1.2. Vai trò của công tác khuyến nông
2.1.2.1. Vai trò trong sự nghiệp phát triển nông thôn
Hình 2.1. Vai trò của khuyến nông trong sự nghiệp phát triển nông thôn
Phát
triển
nông
thôn
Khuyến
nông
Giao
thông
Giáo
dục
Chính
sách
Tài
chính
Công
nghệ
Thị
trường
Tín
dụng
Trong điều kiện nước ta hiện nay, trên 80% dân số sống ở các vùng
nông thôn với 70% lao động xã hội để sản xuất ra những nông sản thiết yếu
cung cấp cho toàn bộ xã hội như lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến,… và sản xuất nông nghiệp chiếm 37 - 40% giá trị sản
phẩm xã hội.
Mặc dù nông nghiệp và nông thôn có vai trò quan trọng trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước nhưng hiện nay ở nhiều vùng nông
thôn, mức sống và trình độ dân trí còn rất thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình
độ sản xuất lạc hậu. Đây là những thách thức rất lớn và khuyến nông được
coi là một trong những con đường góp phần giải quyết những thách thức đó.
Thông qua các hoạt động khuyến nông, nông dân và những người bên
ngoài cộng đồng có cơ hội trao đổi thông tin, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm lẫn
nhau để phát triển sản xuất và nâng cao đời sống kinh tế xã hội. Đặc biệt khuyến
nông còn tạo ra cơ hội cho nông dân trong cộng đồng cùng chia sẻ, học hỏi kinh
nghiệm, truyền bá thông tin kiến thức và giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Ngày nay, công tác khuyến nông khuyến lâm trở nên không thể thiếu
được ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương và từng hộ nông dân. Toàn bộ những
cố gắng phát triển kinh tế xã hội sẽ bị hạn chế nếu thiếu một nền sản xuất
nông nghiệp tăng trưởng bền vững. Vì vậy công tác khuyến nông cần phải
được tăng cường củng cố và phát triển.
2.1.2.2. Vai trò trong chuyển giao công nghệ
Hình 2.2: Mối quan hệ giữa việc nghiên cứu với nông dân
Cán Bộ Khuyến
nông
Nhà nghiên cứu,
viện nghiên cứu,
Trường Đại học
Nông dân
Những TBKHKT, công nghệ mới thường là kết quả nghiên cứu của
các cơ quan khoa học như các nhà nghiên cứu, viện nghiên cứu, các trường
Đại học,… Những tiến bộ này được nông dân lựa chọn, áp dụng vào trong
sản xuất để nâng cao năng xuất lao động. Trên thực tế, giữa nghiên cứu và áp
dụng thường trải qua một khâu trung gian để chuyển tải các tiến bộ khoa học
kỹ thuật cho nông dân. Ngược lại, những kinh nghiệm sản xuất, những nhu
cầu, những nhận xét đánh giá về kỹ thuật mới của nông dân cũng được phản
hồi đến các nhà nghiên cứu để có những nghiên cứu phù hợp với thực tế. Và
khuyến nông chính là chiếc cầu nối đó.
2.1.2.3. Vai trò đối với nhà nước
- Khuyến nông khuyến lâm là một trong những tổ chức giúp nhà nước
thực hiện các chính sách, chiến lược về phát triển nông lâm nghiệp, nông
thôn và nông dân.
- Vận động nông dân tiếp thu và thực hiện các chính sách về nông lâm
nghiệp.
- Trực tiếp hoặc góp phần cung cấp thông tin về những nhu cầu,
nguyện vọng của nông dân đến các cơ quan Nhà nước, trên cơ sở đó Nhà
nước hoạch định, cải tiến đề ra được chính sách phù hợp.
2.1.3. Vai trò của cán bộ khuyến nông
Theo quan điểm khuyến nông mới, thì người cán bộ khuyến nông ít bị
ràng buộc bởi những chỉ tiêu kế hoạch cụ thể của từng chương trình khuyến
nông (bao nhiêu hộ trồng, nuôi, đạt năng suất bao nhiêu…). Điều quan trọng
hơn là từ các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình khuyến nông thì người
cán bộ khuyến nông phải chủ động, nỗ lực cố gắng động viên, tổ chức người
dân tham gia tích cực vào hoạt động khuyến nông. Muốn vậy, người cán bộ
khuyến nông phải thường xuyên hỗ trợ và động viên nông dân phát triển
những tiềm năng và sáng kiến của họ để chủ động giải quyết những vấn đề
trong cuộc sống.
Mỗi cán bộ khuyến nông có những vai trò quan trọng sau đối với
nông dân:
1. Người đào tạo
2. Người tổ chức
3. Người lãnh đạo
4. Người quản lý
5. Người cố vấn
6. Người bạn
7. Người tạo điều kiện
8. Người môi giới
9. Người cung cấp
10. Người thông tin
11. Người hành động
12. Người trọng tài
Điều này, cho chúng ta thấy vai trò rất đa dạng của người cán bộ
khuyến nông trong sự nghiệp phát triển nông thôn. Vì thế, người cán bộ
khuyến nông phải hiểu được tầm quan trọng của mình và luôn sẵn sàng đánh
giá các tình huống, phân tích các vấn đề để nhập vai một cách đúng đắn và
linh hoạt. Người cán bộ khuyến nông được đào tạo để thực hiện nhiệm vụ,
được trang bị đầy đủ các kiến thức và kỹ năng để giúp đỡ nông dân; Truyền
đạt thông tin, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đem lại hiệu
quả kinh tế cho nông dân. Tuy nhiên, khi làm nhiệm vụ khuyến nông, người
cán bộ khuyến nông phải dựa vào đường lối, chính sách hiện hành của Đảng
và Nhà nước về nông nghiệp và phát triển nông thôn.
2.1.4. Chức năng của khuyến nông
- Đào tạo, tập huấn nông dân: tổ chức các khóa tập huấn, xây dựng mô
hình, tham quan, hội thảo đầu bờ cho nông dân.
- Thúc đẩy, tạo điều kiện cho người nông dân đề xuất các ý tưởng,
sáng kiến và thực hiện thành công các ý tưởng sáng kiến của họ.
- Trao đổi, truyền bá thông tin: bao gồm việc xử lý, lựa chọn các thông
tin cần thiết, phù hợp từ các nguồn khác nhau để phổ biến cho nông dân giúp
họ cùng nhau chia sẻ và học tập.
- Giúp nông dân giải quyết các vấn đề khó khăn tại địa phương: tạo
điều kiện giúp họ có thể phát hiện, nhận biết và có thể phân tích được các
vấn đề khó khăn trong sản xuất, đời sống và bàn bạc cùng nông dân tìm biện
pháp giải quyết.
- Giám sát và đánh giá hoạt động khuyến nông: Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra đánh giá và dân hưởng lợi.
- Phối hợp với nông dân tổ chức các thử nghiệm phát triển kỹ thuật
mới, hoặc thử nghiệm kiểm tra tính phù hợp của kết quả nghiên cứu trên hiện
trường, từ đó làm cơ sở cho việc khuyến khích lan rộng.
- Hỗ trợ nông dân về kinh nghiệm quản lý kinh tế hộ gia đình, phát
triển sản xuất quy mô trang trại.
- Tìm kiếm và cung cấp cho nông dân các thông tin về giá cả, thị
trường tiêu thụ sản phẩm.
2.2. Nội dung hoạt động của Khuyến nông
Theo Nghị định 02 của Chính Phủ về khuyến nông, khuyến ngư, nội
dung hoạt động khuyến nông, khuyến ngư gồm :
Điều 4: Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo
1. Đối tượng
a) Người sản xuất theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 1 Nghị định
này chưa tham gia chương trình đào tạo dạy nghề do Nhà nước hỗ trợ
b) Người hoạt động khuyến nông theo quy định tại điểm c khoản 2
Điều 1 Nghị định này.
2. Nội dung
Bồi dưỡng, tập huấn cho người sản xuất về chính sách, pháp luật; tập
huấn, truyền nghề cho nông dân về kỹ năng sản xuất, tổ chức, quản lý sản
xuất kinh doanh trong các lĩnh vực khuyến nông theo quy định tại khoản 1
Điều 1 Nghị định này; tập huấn cho người hoạt động khuyến nông nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
3. Hình thức
a) Thông qua mô hình trình diễn
b) Tổ chức các lớp học ngắn hạn gắn lý thuyết với thực hành
c) Thông qua các phương tiện truyền thông: báo, đài, tờ rơi, tài liệu
( sách, đĩa CD - DVD)
d) Qua chương trình đào tạo từ xa trên kênh truyền thanh, truyền hình,
xây dựng kênh truyền hình dành riêng cho nông nghiệp, nông dân, nông
thôn; ưu tiên là đào tạo nông dân trên truyền hình.
đ) Qua trang thông tin điện tử khuyến nông trên internet
e) Tổ chức khảo sát, học tập trong và ngoài nước
4. Tổ chức triển khai
a) Việc đào tạo nông dân và đào tạo người hoạt động khuyến nông do
các tổ chức khuyến nông quy định tại điểm b khoản 2 Điều 1 Nghị định này
đảm trách.
b) Giảng viên nòng cốt là các chuyên gia, cán bộ khuyến nông có trình
độ đại học trở lên, các nông dân giỏi, các cá nhân điển hình tiên tiến, có
nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh, có đóng góp, cống hiến cho
xã hội, cộng đồng, đã qua đào tạo về kỹ năng khuyến nông.
Điều 5: Thông tin tuyên truyền
1. Phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thông qua hệ thống truyền thông đại chúng và các tổ chức chính trị xã
hội.
2. Phổ biến tiến bộ khoa học và công nghệ, các điển hình tiên tiến
trong sản xuất, kinh doanh thông qua hệ thống truyền thông đại chúng, tạp
chí khuyến nông, tài liệu khuyến nông, hội nghị, hội thảo, hội thi, hội chợ,
triển lãm, diễn đàn và các hình thức thông tin tuyên truyền khác, xuất bản và
phát hành ấn phẩm khuyến nông.
3. Xây dựng và quản lý dữ liệu thông tin của hệ thống thông tin
khuyến nông.
Điều 6: Trình diễn và nhân rộng mô hình
1. Xây dựng các mô hình trình diễn về tiến bộ khoa học và công nghệ
phù hợp với từng địa phương, nhu cầu của người sản xuất và định hướng của
ngành, các mô hình thực hành sản xuất tốt gắn với tiêu thụ sản phẩm.
2. Xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp.
3. Xây dựng mô hình tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh nông
nghiệp hiệu quả và bền vững.
4. Chuyển giao kết quả khoa học và công nghệ từ các mô hình trình
diễn, điển hình sản xuất tiên tiến ra diện rộng.
Điều 7: Tư vấn và dịch vụ khuyến nông
1. Tư vấn và dịch vụ trong các lĩnh vực quy định tại khoản 1 Điều 1
Nghị định này về:
a) Chính sách và pháp luật liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn
b) Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, tổ chức, quản lý để nâng
cao năng suất, chất lương, an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành, nâng
cao sức cạnh tranh của sản phẩm.
c) Khởi nghiệp cho chủ trang trại, doanh nghiệp vừa và nhỏ về lập dự
án đầu tư, tìm kiếm mặt bằng sản xuất, huy động vốn, tuyển dụng và đào tạo
lao động, lựa chọn công nghệ, tìm kiếm thị trường.
d) Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng bảo hiểm sản xuất kinh doanh.
đ) Cung ứng vật tư nông nghiệp
2. Tư vấn và dịch vụ khác liên quan đến phát triển nông nghiệp nông thôn.
Điều 8: Hợp tác quốc tế về khuyến nông
1. Tham gia thực hiện hoạt động khuyến nông trong các chương trình
hợp tác quốc tế
2. Trao đổi kinh nghiệm khuyến nông với các tổ chức, cá nhân nước
ngoài và tổ chức quốc tế theo quy định của Pháp luật Việt Nam
3. Nâng cao năng lực, trình độ ngoại ngữ cho người làm công tác
khuyến nông thông qua các chương trình hợp tác quốc tế và chương trình học
tập khảo sát trong và ngoài nước.
2.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.3.1.1. Nước pháp
Thế kỷ 15 - 16: một số công trình khoa học nông nghiệp ra đời như:
“ngôi nhà nông thôn” của Enstienne và Liebault nghiên cứu về kinh tế nông
thôn và khoa học nông nghiệp. Tác phẩm diễn trường nông nghiệp của Oliver
de Serres đề cập tới nhiều vấn đề trong nông nghiệp như cải tiến giống cây
trồng vật nuôi.
Thế kỷ 18, cụm từ Phổ cập nông nghiệp (Vulgazigation Agricole),
hoặc chuyển giao kỹ thuật đến người nông dân (Transfert des Technologies
Agrcoles au Payan) được sử dụng phổ biến.
Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) đến nay.
Trung tâm CETA (Centre d’Etuder Techniques Agricoles) nghiên cứu kỹ
thuật nông nghiệp đầu tiên được tổ chức do sáng kiến của nông dân vùng
Pari hoạt động với nguyên tắc:
- Người nông dân có trách nhiệm và chủ động trong công việc
- Sáng kiến từ cơ sở
- Hoạt động nhóm rất quan trọng
2.3.1.2.Nước Anh
Thuật ngữ University Extension hay Extension of University lần đầu tiên
được sử dụng ở Anh vào những năm 1840.
Những năm 1866 thuật ngữ “Extension” và “Agricultural Extension”
được sử dụng ở Anh. Jemes Stuart thành viên của Trường Đại học Cambridge
giảng bài cho Hiệp hội phụ nữ và Câu lạc bộ những người làm việc ở miền Bắc
nước Anh. Và Jemes Stuart thường được coi là “người cha đẻ của phổ cập đại
học”. Năm 1876, Trường Đại học Luân Đôn và năm 1878 Trường Đại học
Oxford cũng dạy theo chương trình đào tạo này, và từ năm 1880 hoạt động này
trở thành một phong trào.
2.3.1.3. Nước Mỹ
Năm 1845 tại Ohio, N.S.Townshned chủ nhiệm khoa Nông học đề
xuất việc tổ chức những câu lạc bộ nông dân tại các quận, huyện và sinh hoạt
định kỳ. Đây là tiền thân của khuyến nông Mỹ.
Năm 1891 Bang New York dành 10.000 USD cho khuyến nông đại học.
Năm 1892 Trường đại học Chicago, trường Wicosin bắt đầu tổ chức
chương trình khuyến nông đại học.
Năm 1907, có 42 trường đại học trong 39 Bang đã thực hiện công tác
Khuyến nông
Năm 1910, có 35 trường Đại học đã có Bộ môn khuyến nông
Năm 1914 tổ chức khuyến nông được hình thành chính thức ở Mỹ, có
1861 hội nông dân với 3.050.150 hội viên
Thuật ngữ Extension Education đã được sử dụng để chứng tỏ rằng đối
tượng giáo dục của trường đại học không nên chỉ hạn chế ở những sinh viên
do nhà trường quản lý, mà nên mở rộng tới những người đang sống ở khắp
nơi trên đất nước.
Cho tới nay Mỹ là nước có nền nông nghiệp rất phát triển với chỉ 6% dân
số sống bằng sản xuất nông nghiệp nhưng năng suất và sản lượng nông nghiệp
của Mỹ vẫn đạt mức cao. Điển hình là sản lượng đậu tương năm 1985 là 55
triệu tấn, tới năm 2001 sản lượng đậu tương của Mỹ đã tăng lên 70 triệu tấn cho
đến nay Mỹ là nước xuất khẩu đậu tương lớn nhất thế giới, hàng năm xuất khẩu
16,9 triệu tấn chiếm 54% tổng khối lượng xuất khẩu đậu tương thế giới.
2.3.1.4. Nước Trung Quốc
Trung Quốc là một nước đông dân nhất trên thế giới với hơn 1,3 tỷ
người nhưng nền nông nghiệp Trung Quốc không những đủ cung cấp nhu
cầu trong nước mà còn là một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn nhất
thế giới. Theo Jinguguan: “Hiện nay và trong tương lai, khuyến nông vẫn
đóng vai trò quan trọng đối với nền nông nghiệp của Trung Quốc”.
Qua nhiều năm vận dụng những chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nông nghiệp Trung Quốc trải qua rất nhiều bước thăng trầm.Trước những
năm 90 của thế kỷ XX, nông nghiệp Trung Quốc chỉ bằng mục tiêu tăng sản
lượng và số lượng, các loại vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân
bón, thuốc trừ sâu, cung cấp ồ ạt ra thị trường. Thanh niên nông thôn ra
đường phố kiếm việc làm vì thu nhập từ nông nghiệp quá ít do chất lượng
nông sản thấp.
Từ năm 1995 trở đi, Trung Quốc áp dụng chính sách hỗ trợ nông
nghiệp sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Các chương trình khuyến nông
chuyển giao giống cây trồng, lúa lai chất lượng cao, sản xuất đỗ tương xuất
khẩu kết hợp cải tạo đất; dự án sản xuất giống vật nuôi, nâng cao sản lượng
sữa được tập trung góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho
nông dân. Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư xây dựng, góp phần đẩy
mạnh tiêu thụ nông sản thông qua chương trình khuyến nông quốc gia, giống
mới cung cấp cho nông dân gần như cho không, hàng loạt các hoạt động
tập huấn, mô hình trình diễn được tổ chức giúp người nông dân nắm bắt
được những kỹ thuật mới. Nhờ những chính sách đúng đắn của Nhà nước
và hoạt động hiệu quả của khuyến nông, nông nghiệp Trung Quốc đã đạt
được kết quả không ngờ sau vài năm thực hiện.
Từng bước Khuyến nông trên khắp các vùng miền của Trung Quốc đã
giúp nông dân hiểu được vai trò, trách nhiệm của họ dưới sự phát triển chung
của nông nghiệp. Các Khuyến nông viên giúp nông dân nâng cao trình độ
canh tác, giúp họ hiểu được phải làm gì, làm khi nào và làm như thế nào?
Cùng họ nghiên cứu ngay trên mảnh ruộng của mình để chính họ trở thành
những chủ nhân - chuyên gia kỹ thuật viên.
Hai mươi năm gần đây Nhà nước Trung Quốc đã đầu tư đồng bộ cả về
hệ thống tổ chức, cơ sở thiết bị nghiên cứu cho khuyến nông, nhờ vậy điều
kiện sống của khuyến nông viên được nâng cao.
Cuối năm 1997, trên toàn đất nước Trung Quốc đã có hơn 48.500 tổ
chức khuyến nông với hơn 317.000 khuyến nông viên (từ Trung ương tới
tỉnh, huyện, xã, làng bản); khuyến nông viên phối hợp hoạt động cũng
khoảng 400.000 tổ chức nông dân là kỹ thuật viên. Hiện nay khuyến nông
Trung Quốc đã là một hệ thống hoàn thiện trên quy mô cả nước sau nhiều
năm không ngừng củng cố (Phạm Kim Oanh, 2006).
2.3.1.5. Nước Thái Lan
Ngày 20/10/1967 Chính phủ Thái Lan mới có quyết định thành lập tổ
chức khuyến nông. Tuy ra đời muộn hơn so với một số nước khác nhưng
Chính Thái Lan đặc biệt quan tâm đến công tác khuyến nông. Hàng năm
Chính phủ Thái Lan chi từ 120 – 150 triệu USD thậm chí đến 200 triệu
USD/năm để đầu tư cho hoạt động khuyến nông. Cho tới nay Thái Lan đã có
một hệ thống khuyến nông khá mạnh, có thể nói khuyến nông Thái Lan có
mặt tới tận làng, xã. Nhờ sự quan tâm đầu tư của Chính phủ cho nông
nghiệp, nông thôn hiện nay Thái Lan là nước có nền nông nghiệp rất phát
triển, là nước đứng đầu về xuất khẩu nông sản đặc biệt là lúa gạo.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến phát triển nông
nghiệp và nông thôn, trong đó công tác khuyến nông rất được trú trọng. Năm
1993 trên thế giới có 200 nước và vùng lãnh thổ có tổ chức khuyến nông,
mỗi một nước có một hệ thống tổ chức khuyến nông khác nhau nhưng đều
nhằm một mục đích chung là phát triển nông nghiệp, nông thôn.
2.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Khuyến nông Việt Nam được hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của nền sản xuất nông nghiệp. Các vua Hùng cách đây hơn 2000 năm đã
trực tiếp dạy dân cách làm nông nghiệp: gieo hạt, cấy lúa, mở các cuộc thi để
các Hoàng tử, Công chúa có cơ hội trổ tài, chế biến các món ăn từ các nông sản
tại chỗ. Công chúa Thiều Hoa là người đầu tiên dạy dân chăn tằm dệt lụa.
Để tỏ rõ sự quan tâm tới nông nghiệp, Vua Lê Đại Hành (979 - 1008) là
ông vua đầu tiên đích thân đi cày ruộng tịnh điền ở Đọi Sơn, Bàn Hải thuộc
vùng Duy Tiên, Nam Hà ngày nay.
Các vua Lý (1009 -1056) rất coi trọng nghề nông và đã ra nhiều chính
sách chăm lo phát triển nông nghiệp.
Triều vua Lê Thái Tông (1492). Triều đình đặt chức Hà Đê Sứ và
Khuyến nông sứ đến cấp phủ huyện và từ năm 1492 mỗi xã có một xã trưởng
phụ trách nông nghiệp và đê điều. Triều đình ban bố chiếu khuyến nông,
chiếu lập đồn điền, và lần đầu tiên sử dụng từ “khuyến nông” trong bộ luật
Hồng Đức.
Thời vua Quang Trung (1788 - 1792): Từ năm 1789 sau khi thắng giặc
ngoại xâm, Quang Trung ban bố ngay “chiếu khuyến nông” nhằm phục hồi
dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang, sau 3 năm những đất đai hoang
hóa đã được phục hồi, sản xuất phát triển.
Đến thời kỳ nhà Nguyễn (1807 - 1884) đã định ra chức đinh điền sứ.
Nguyễn Công Trứ được giao chức vụ này. Ông đã có công khai khẩn đất hoang
để lập ra hai huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình).
Như vậy trong thời kỳ phong kiến ở nước ta các vị vua không những
quan tâm tới việc đánh đuổi giặc ngoại xâm xâm lược bảo vệ tổ quốc mà còn
chú trọng tới việc phát triển sản xuất nông nghiệp, củng cố đê điều để xây
dựng đất nước, tạo cho nhân dân một cuộc sông ấm no.
Thời kỳ pháp thuộc (1884 - 1945) phát triển nông nghiệp và khuyến nông
chủ yếu phục vụ chính sách thuộc địa phong kiến của thực dân pháp. Người Pháp
tổ chức các Sở canh nông ở Bắc Kỳ, các Ty khuyến nông ở các tỉnh.
Từ sau cách mạng tháng 8/1945 - 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt
quan tâm tới nông nghiệp, người kêu gọi quốc dân “tăng gia sản xuất! tăng
gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa! đó là những việc cấp bách của
chúng ta lúc này”. Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn dân bắt tay
vào khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất.
Từ năm 1958 - 1975 nông nghiệp Miền Bắc Việt Nam phát triển trong
sự tác động mạnh mẽ của mô hình HTX nông nghiệp. Từ đổi công (1956),
đến HTX bậc thấp năm 1960, đến HTX cấp cao (1968), đến HTX toàn xã
năm 1974. Thành lập các đoàn cán bộ nông nghiệp ở Trung ương, cấp tỉnh,
huyện chỉ đạo sản xuất ở cơ sở. Giai đoạn 1976 - 1988 nông nghiệp Việt
Nam thống nhất thành một mối hai miền cùng tăng gia phát triển sản xuất.
Song diễn biến tình hình có nhiều phức tạp, do sự tác động của quan hệ sản
xuất tập thể và mô hình quản lý tập chung, kế hoạch hóa tập chung. Nhiều
thiếu sót đã nảy sinh trong quản lý kinh tế và quản lý nông nghiệp, đã làm
cho nông nghiệp phát triển chậm lại đời sống nông thôn nảy sinh nhiều
vướng mắc, nông dân không yên tâm sản xuất và sinh sống.
Trước thực trạng suy thoái kinh tế những năm cuối thập kỷ 70 và đầu
năm 80 nói chung và nông nghiệp nói riêng, ngày 13/01/1981 chỉ thị
100CT/TW của ban Bí thư Trung ương Đảng về “cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong HTX nông nghiệp”
được ban hành (gọi tắt là khoán 100). Khoán 100 mặc dù chưa phải là mô
hình mới về tổ chức và quản lý nông nghiệp, mà mới chỉ là cải tiến hình thức
khoán, từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội sang khoán hộ. Đây
cũng được coi là đột phá đầu tiên vào cơ chế quản lý tập chung, quan liêu,
sản xuất tập thể. Vì vậy, coi là “Chìa khóa vàng” để mở ra thời kỳ mới của
sản xuất nông nghiệp Việt Nam.
Tới tháng 12/1986, đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối đổi mới trong lãnh đạo và quản lý kinh tế. Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VI (5/4/1988) về
“Đổi mới quản lý trong nông nghiệp” nhằm giải phóng sản xuất trong
nông thôn đến từng hộ nông dân, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế
tự chủ ở nông thôn (gọi tắt là khoán 10).
Ngày 02/3/1993 Chính phủ ra nghị định 13CP về công tác khuyến
nông. Bắt đầu hình thành hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến địa
phương. Năm 1993 Cục khuyến nông Khuyến lâm được thành lập: vừa quản
lý nhà nước vừa làm công tác khuyến nông. Năm 2001 Trung tâm Khuyến
nông Trung ương ra đời (trực thuộc cục khuyến nông). Tới năm 2003 Trung
tâm khuyến nông Quốc gia được thành lập.
Ngày 26/4/2005 Chính phủ đã ban hành nghị định 56/2005/CP thay thế
cho Nghị định 13CP. Trong nghị định này quy định rõ hơn về hệ thống tổ chức
khuyến nông. Bổ sung thêm nội dung tư vấn, dịch vụ khuyến nông và hợp tác
quốc tế về khuyến nông; mở rộng đối tượng tham gia đóng góp và hưởng thụ
khuyến nông nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hoá công tác khuyến nông.
Tới ngày 08/01/2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2010/NĐ-
CP về khuyến nông để sửa đổi, bổ sung một số nội dung thay thế cho nghị
định 56CP/2005/CP. Cụ thể các nội dung, công tác tổ chức khuyến nông,
chính sách đối với khuyến nông, nhất là đối với đội ngũ CBKN cơ sở.
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Cán bộ khuyến nông tại Trạm khuyến nông huyện và một số hộ nông
dân trên địa bàn huyện.
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung xác định thực trạng về năng lực hoạt động của đội ngũ CBKN
trên địa bàn huyện Quảng Uyên trong chuyển giao các TBKHKT; Phát triển kinh
tế nông nghiệp nông thôn; cầu nối giữa nông dân với các cơ quan nhà nước, các
viện, trường, cơ sở nghiên cứu trong giai đoạn 2008 - 2010.
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Trạm khuyến nông huyện Quảng Uyên.
- 03 xã: Phúc Sen, Đoài khôn, Độc Lập.
3.2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ ngày 20/02 đến ngày 20/05 năm 2011
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Quảng Uyên
tỉnh Cao Bằng.
3.3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
3.3.2. Tìm hiểu thực trạng hoạt động của Trạm khuyến nông huyện
Quảng Uyên.
3.3.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của trạm khuyến nông
huyện Quảng Uyên.
3.3.2.2. Hệ thống tổ chức khuyến nông của trạm khuyến nông huyện
Quảng Uyên.
3.3.2.3. Thực trạng về nguồn nhân lực và trình độ chuyên môn của đội
ngũ CBKN huyện Quảng Uyên
3.3.3. Các hoạt động khuyến nông mà Trạm khuyến nông huyện
Quảng Uyên đã thực hiện trong 3 năm (2008 – 2010).
3.3.4. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực hoạt động
cho cán bộ khuyến nông tại Trạm khuyến nông huyện Quảng Uyên.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp chọn mẫu
Căn cứ vào nội dung đề tài và đối tượng điều tra tiến hành chọn mẫu
như sau:
- Phỏng vấn cán bộ khuyến nông của trạm khuyến nông, cán bộ
khuyến nông 3 xã đã chọn trên toàn huyện Quảng Uyên theo phiếu điều tra
(n = 9 cán bộ khuyến nông)
- Trong huyện chọn ngẫu nhiên 3 xã, mỗi xã chọn ngẫu nhiên 2 xóm
và mỗi xóm chọn ngẫu nhiên 15 hộ nông dân đại diện cho các thôn để tiến
hành phỏng vấn theo phiếu điều tra (n = 90 hộ).
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu
- Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:
+ Phỏng vấn chính thức: Căn cứ vào mục tiêu, nội dung nghiên cứu để
lập phiếu điều tra, chọn mẫu điều tra. Đối tượng phỏng vấn ở đây là các cán bộ
khuyến nông xã, cán bộ khuyến nông viên thôn bản và người dân trong huyện
Quảng Uyên.
+ Phỏng vấn bán chính thức: Căn cứ vào mục tiêu, nội dung của đề tài
để lập bảng kiểm các nội dung chính cần điều tra, chọn mẫu điều tra. Đối
tượng phỏng vấn ở đây là các cán bộ lãnh đạo Phòng NN & PTNT, Trạm
khuyến nông huyện và cán bộ khuyến nông ở các xã.
- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập số liệu thông qua các
văn bản báo cáo của Phòng NN & PTNT huyện, Trạm khuyến nông huyện, báo
cáo tổng kết của các cán bộ khuyến nông xã, khuyến nông viên thôn bản qua
các năm; các tạp chí sách báo, các nghị định, quy định liên quan đến các cán bộ
khuyến nông; các báo cáo, văn bản liên quan tới điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã
hội huyện Quảng Uyên.
3.4.3. Phương pháp xử lý số liệu
Trên cơ sở số liệu đã thu thập được tiến hành tổng hợp và phân tích:
- Số liệu thu thập được trong các phiếu điều tra được tổng hợp và
phân tích theo từng nội dung.
- Xử lý thông tin định tính: Các số liệu thu thập được biểu thị thông qua
phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Xử lý thông tin định lượng: Các số liệu thu thập được từ các tài liệu
thống kê, báo cáo, phỏng vấn được thể hiện qua hình vẽ, bảng biểu.
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội của huyện Quảng Uyên -
tỉnh Cao Bằng
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Quảng Uyên là huyện miền núi, nằm ở phía Đông của tỉnh Cao
Bằng, có diện tích tự nhiên 38.587,84 ha, chiếm 5,72% diện tích tỉnh Cao
Bằng. Huyện gồm 16 xã và 1 thị trấn, nằm trong tọa độ địa lý từ 105
0
16
’
đến
105
0
38
’
kinh độ đông; 22
0
38
’
đến 23
0
05
’
vĩ độ bắc, vị trí hành chính của
huyện như sau:
- Phía Đông giáp huyện Hạ Lang;
- Phía Tây giáp huyện Hòa An;
- Phía Nam giáp huyện Phục Hòa;
- Phía Bắc giáp huyện Trà Lĩnh và huyện Trùng Khánh.
4.1.1.2. Địa hình
Huyện Quảng Uyên có địa hình phức tạp, phổ biến là đồi, núi đá, xen
kẽ giữa đồi núi là các thung lũng nhỏ hẹp, có độ cao thấp dần theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam, độ cao trung bình so với mặt nước biển trên 500m.
Địa hình của huyện chia thành 3 dạng rõ rệt:
- Địa hình núi đá vôi, chia cắt mạnh.
- Địa hình đồi, núi thấp, bậc thềm.
- Địa hình thung lũng dốc tụ.
Địa hình Quảng Uyên ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành
đất, cụ thể là các quá trình rửa trôi và tích lũy. Quá trình rửa trôi diễn ra
mạnh vào mùa mưa ở vùng núi đá chia cắt, dốc nhiều và ở vùng đồi núi thấp
và bậc thềm tạo thành những thung lũng tương đối bằng phẳng, thích nghi
với các loại cây lương thực và cây ngắn ngày vùng nhiệt đới và vùng á nhiệt
đới.
4.1.1.3. Khí hậu
Khí hậu của huyện mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa, chia thành 2
mùa rõ rệt: Mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, có gó lốc, mưa đá và lũ quét cục
bộ, từ tháng 5 đến tháng 9 trong năm, nhiệt độ trung bình từ 25 - 27
0
c; mùa
đông lạnh, khô hanh, gió mùa đông bắc, từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau,
nhiệt độ trung bình từ 15 - 20
0
c. Do địa hình chia cắt mạnh nên hình thành
các tiểu vùng khí hậu khác nhau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng
1.600 mm, lượng mưa thấp nhất vào tháng 1, đôi khi có mưa đá. Gió mùa
đông bắc xuất hiện từ tháng 5, kết thúc vào tháng 9. Độ ẩm trung bình
khoảng 81%, lượng nước bốc hơi trung bình 856 mm, đôi khi có sương muối
xuất hiện từ tháng 11 đến tháng 12 năm sau.
4.1.1.4. Thủy văn
Mạng lưới sông suối của huyện phân bố khá đồng đều, có 1 con sông
chính là sông Vi Vọng, có lưu lượng nước tương đối lớn. Ngoài còn có hệ
thống các suối nhỏ và khe, rạch cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của
người dân. Tuy nhiên, lưu lượng nước phân bố không đều và thường bị cạn
vào mùa khô nên ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp và nhu cầu
sử dụng nước của nhân dân.
4.1.1.5. Tình hình sử dụng đất của huyện năm 2010
Theo số liệu thống kê, tổng diện tích đất tự nhiên của huyện Quảng
Uyên là 38.587,84 ha và được thống kê theo các mục đích sử dụng khác nhau
thể hiện qua bảng 4.1 gồm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất đô thị,
đất khu dân cư nông thôn và đất chưa sử dụng.
* Đất nông nghiệp: