Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

luận văn thạc sĩ thực trạng lao động trẻ em ở địa bàn phường nghĩa tân - quận cầu giấy – hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.46 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT
=====***=====
NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH
THỰC TRẠNG TRẺ EM LAO ĐỘNG Ở ĐỊA BÀN
QUẬN CẦU GIẤY – HÀ NỘI VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGÀNH: Công tác xã hội
Mã số: 609
Hà Nội, 5-2011
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT
=====***=====
NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH
THỰC TRẠNG TRẺ EM LAO ĐỘNG Ở ĐỊA BÀN
QUẬN CẦU GIẤY – HÀ NỘI VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGÀNH: Công tác xã hội
Mã số: 609
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Xuân Hải
GV Chu Thị Kim Ngân
Hà Nội, 5-2011
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài “THỰC TRẠNG
LAO ĐỘNG TRẺ EM Ở ĐỊA BÀN PHƯỜNG NGHĨA TÂN - QUẬN
CẦU GIẤY – HÀ NỘI” ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình, động viên kịp thời và chia sẻ của gia đình, thầy cô,
bạn bè.


Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội, Khoa Giáo dục đặc biệt và thầy cô đã tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho tôi hoàn thành nghiên cứu của mình.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tiến sỹ Nguyễn
Xuân Hải – Trưởng Khoa Giáo dục đặc biệt; giảng viên Chu Thị Kim
Ngân - Tổ bộ môn Công tác xã hội - Khoa Giáo dục đặc biệt đã luôn theo
sát, chỉ bảo tận tình và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề
tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất UBND phường Nghĩa
Tân, Viện nghiên cứu phát triển xã hội đã giúp đỡ tôi hết sức nhiệt tình
trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
Vì thời gian và lượng kiến thức còn hạn chế nên trong đề tài còn
nhiều điểm thiếu sót, rất mong sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn
để đề tài được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2011
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng Hạnh
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTXH: Công tác xã hội
ILO: International Labour Organization
LĐ-TB&XH: Lao động - Thương Binh và Xã hội
SC: Save the Children Alliance
UBND: Uỷ ban nhân dân
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lao động trẻ em là một hiện tượng tồn tại từ lâu ở tất cả các xã hội,
ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống và sự phát triển của trẻ em. Tuy nhiên,

phải đến đầu những năm 80 của thế kỉ thứ XX vấn đề lao động trẻ em mới
được coi là vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu và thu hút được sự quan tâm
của cộng đồng quốc tế. Ở nước ta hiện nay, vấn đề tự do hoá thị trường, sức
lao động gồm cả lao động trí óc và lao động chân tay, lao động trẻ em đã
mang lại lợi nhuận cho chủ sử dụng lao động. Trong một nền kinh tế như
nền kinh tế của Việt Nam hiện nay với tỷ lệ hành nghề tự do đáng kể, sự
phân chia về giới, tuổi người lao động có nghĩa mọi sức lao động sẵn có
đều được sử dụng. Chưa có một con số thống kê đầy đủ tỉ lệ lao động trẻ
em trong cả nước, nhưng theo thống kê của các cuộc điều tra mức sống dân
cư Việt Nam 1992 – 1993 và 1997 – 1998, trẻ em thường tham gia các hoạt
động kinh tế từ nhỏ, trong đó, nhóm trẻ từ 15 – 17 tuổi tham gia nhiều nhất
với tỉ lệ 62,3% tổng số trẻ em tham gia hoạt động kinh tế. Phần lớn trẻ em
tham gia các hoạt động kinh tế gia đình, nhưng tỉ lệ trẻ em làm thuê kiếm
sống ngày càng tăng lên. Đáng chú ý, có khoảng 15% trong số trẻ em làm
thuê phải làm các công việc nặng nhọc và độc hại như sản xuất gốm, sành
sứ và vật liệu xây dựng
1
. Hiện trạng lao động trẻ em rất cần sự quan tâm
của nhà nước và toàn xã hội.
Công ước số 138 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã quy định:
tuổi tối thiểu được làm việc trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được
dưới 15 tuổi. Còn ở nước ta, Bộ luật Lao động cũng đã nói rõ: Cấm nhận trẻ
em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc

(những trường hợp ngoại lệ có quy định
riêng). Như vậy xét trên phương diện pháp lý, trẻ em dưới 16 tuổi mới chỉ
được phép làm việc với tư cách là rèn luyện trong quá trình phát triển thể
chất, nhân cách và tinh thần; chưa được phép tham gia lao động với ý nghĩa
là một thành tố của lực lượng sản xuất xã hội và đem lại nguồn thu nhập
chính đối với gia đình. Theo các số liệu điều tra dân số định kỳ các năm

1979, 1989, 1999 và điều tra chọn mẫu giữa các kỳ cho thấy, số trẻ em 13-
14 tuổi tham gia lao động (hoạt động kinh tế) ở thành thị khoảng 18%, ở
nông thôn khoảng 38%, như vậy có thể nói, một bộ phận trẻ em nước ta
1
Bộ lao động thương binh xã hội, UNICEF, Xây dựng môi trường bảo vệ trẻ em Việt Nam: đánh giá
pháp luật và chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam, Hà Nội,
Văn hóa thông tin, 2009, tr. 63.
5
chưa được hưởng đúng quyền bảo vệ và chăm sóc trẻ em do pháp luật quy
định.
Vấn đề là những trẻ em lao động đều xuất phát từ hoàn cảnh gia đình
khó khăn, bắt buộc các em phải lao động giúp đỡ bố mẹ, tăng thêm thu nhập
cho gia đình. Trong đó, đáng lưu ý nhất là các em từ nông thôn lên thành
phố tìm việc làm. Trẻ em lao động ở thành thị sẽ phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn về đời sống sinh hoạt bình thường, đặc biệt việc sử dụng lao động
trẻ em hiện nay đang biến tướng dưới nhiều hình thức, các em dễ bị lợi dụng
và lạm dụng sức lao động, thậm chí còn đối mặt với nguy cơ bị đánh đập,
đối xử tàn tệ. Bên cạnh đó, sống xa gia đình, thiếu sự yêu thương chăm sóc
của cha mẹ, không được giáo dục trong trường học sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
quá trình nhận thức, cũng như sự hình thành nhân cách của các em. Trong
khi nhận thức về lao động trẻ em của nhiều người còn chưa đúng, thái độ và
cách đối xử của những người dân với lao động trẻ em thường có ý đề phòng,
tránh xa, càng làm sâu thêm sự mặc cảm trong tâm hồn trẻ.
Những vấn đề mà trẻ em lao động ở thành thị có thể gặp phải cần được
xã hội quan tâm nhiều hơn nữa và đồng thời có những biện pháp hỗ trợ phù
hợp để giúp các em tránh gặp phải những rủi ro trong quá trình lao động ảnh
hưởng tiêu cực tới sức khỏe thể chất cũng như tâm lý, tình cảm. Vì thế bản
thân tôi lựa chọn đề tài: ”Thực trạng trẻ em lao động địa bàn Phường
Nghĩa Tân – Quận Cầu Giấy – Hà Nội” nhằm nghiên cứu vấn đề này, tìm
hiều rõ thực trạng đang xảy ra thông qua khảo sát tại một địa bàn cụ thể. Từ

đó, tìm ra những hướng giải pháp cho vấn đề, tạo cơ hội cho nhóm trẻ này
có sự phát triển tốt hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu thực trạng lao động trẻ em trên địa bàn phường
Nghĩa Tân – Quận Cầu Giấy nhằm bổ sung thêm thông tin về trẻ em làm
việc và lao động trẻ em; từ đó đưa ra một số đề xuất dưới góc độ công tác xã
hội nhằm hạn chế tình trạng lao động trẻ em.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về lao động trẻ em.
- Điều tra thực trạng, phân tích và đánh giá thực trạng lao động trẻ em
trên địa bàn phường Nghĩa Tân – Quận Cầu Giấy.
6
- Đề xuất các giải pháp nhằm hướng tới hạn chế tình trạng lao động trẻ
em và góp phần thay đổi hành vi và nâng cao nhận thức của cộng đồng với
vấn đề lao động trẻ em.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: :
Lao động trẻ em ở phường Nghĩa Tân – Quận Cầu Giấy
4.2. Đối tượng nghiên cứu:
Thực trạng lao động trẻ em ở Nghĩa Tân – Quận Cầu Giấy
5. Giả thuyết khoa học
Trẻ em lao động phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ nhưng chưa
nhận được những biện pháp hỗ trợ phù hợp.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Khu vực phường Nghĩa Tân (phố Nghĩa
Tân và phố Tô Hiệu).
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu: Lao động của những trẻ em đang làm
trong các quán ăn, cửa hàng và bán hàng rong.
- Giới hạn khách thể điều tra: 20 lao động trẻ em trên địa bàn.
7. Phương pháp nghiên cứu

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Tổng hợp, phân tích các văn bản pháp luật, quy định, tài liệu… có
liên quan đến lao động trẻ em làm cơ sở lý luận trong quá trình nghiên cứu
và để so sánh, đối chiếu, vận dụng vào thực tiễn; giúp tìm hiểu vấn đề còn
tồn tại, nhu cầu được đặt ra.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên
cứu định lượng trong điều tra tình hình các lao động trẻ em.
+ Phương pháp nghiên cứu định lượng: thực hiện phương pháp khảo
sát bằng bảng hỏi
+ Phương pháp nghiên cứu định tính: thực hiện phỏng vấn sâu và
quan sát tham dự. Cụ thể: phỏng vấn sâu những đối tượng: trẻ em, chủ sử
dụng lao động, những người làm công tác quản lý ở cấp cơ sở - phường
7
Nghĩa Tân. Quan sát tham dự: quan sát được công việc của trẻ, môi trường
làm việc của trẻ, hành vi, thái độ của trẻ và của chủ, để kiểm chứng được
thông tin từ phỏng vấn có chính xác hay không.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
- Phương pháp xử lý số liệu thống kê: dùng phần mềm SPSS.
- Mục đích: khai thác có hiệu quả các số liệu sau khi thực hiện bảng
hỏi; rút ra được những nhận xét, kết luận khoa học khách quan đối với vấn
đề nghiên cứu.
8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Trên thế giới
Lao động trẻ em đã trở thành chủ đề được thế giới quan tâm trong
nhiều năm qua, đặc biệt là đối với các chính phủ. Trên thế giới có rất nhiều
những nghiên cứu đã được xây dựng, thực hiện; các dự án được phát triển
và chương trình hành động, các chiến dịch đã được phát động nhằm trao đổi

thông tin và giải quyết tình trạng lao động trẻ em.
Hội nghị quốc tế Ôx-lô (tháng 6/1999) về lao động trẻ em thể hiện sự
quan tâm quốc tế ngày càng tăng về lao động trẻ em. Hội nghị dựa trên cơ
sở các văn kiện quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt là Công ước về
Quyền trẻ em; Công ước 138 của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về tuổi tối
thiểu năm 1973; Công ước số 29 về lao động cưỡng bức năm 1930 và trong
khuôn khổ Kế hoạch hành động của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm
1990. Hội nghị này là sự tiếp nối Hội nghị Am-xec-dam về lao động trẻ em
năm 1997. Các đại biểu tại hội nghị Ôx-lô công nhận tầm quan trọng của
nhiều hội nghị quốc tế và khu vực liên quan tới vấn đề lao động trẻ em. Đặc
biệt đã đề cập đến:
- Tuyên bố và chương trình hành động của Hội nghị quốc tế Viên về
quyền con người năm 1993.
- Chương trình hành động của hội nghị Cai-rô về Dân số và phát triển
năm 1994.
- Tuyên bố và chương trình hành động của Hội nghị cấp cao thế giới
Cô-pen-ha-ghen về phát triển xã hội năm 1995.
- Tuyên bố và chương trình hành động của Hội nghị thế giới Stốc-
khôm chống bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại năm 1996.
- Kết luận của hội nghị Am-xéc-dam về lao động trẻ em.
- Tuyên bố của Hội nghị cấp cao lần thứ 9 Hiệp hội các nước hợp tác
khu vực Nam Á tại Ma-lê tháng 5 năm 1997.
- Tuyên bố Takagen về xóa bỏ lao động trẻ em tháng 5 năm 1997.
- Khuyến nghị của hội nghị cấp cao các nước Tổ chức thống nhất châu
Phi ở Ha-ra-nê tháng 6 năm 1997.
9
Mục đích chính của Hội nghị Ôx-lô là xóa bỏ một cách có hiệu quả
lao động trẻ em. Mục tiêu là bảo vệ trẻ em khỏi sự bóc lột về kinh tế và
khỏi làm bất kì công việc nào có thể độc hại hoặc gây ảnh hưởng tới sự
giáo dục hoặc có hại đối với sức khỏe, sự phát triển thể lực, trí lực, đạo

đức, tinh thần hay hội của trẻ em.
Năm 2008, theo báo cáo của Tổ chức Cứu trợ trẻ em cho biết trên thế
giới hiện có 218 triệu trẻ em phải lao động, trong đó 126 triệu em làm
việc trong những điều kiện nguy hiểm và 8,5 triệu em lao động như nô lệ.
Tổ chức Cứu trợ trẻ em nhấn mạnh sự cần thiết để trẻ em được lao động
trong những điều kiện xứng đáng, bảo đảm an ninh và vệ sinh, hưởng
lương phù hợp và có thể kết hợp lao động với học hành. Tuy nhiên, nạn
bóc lột trẻ em đang diễn ra phổ biến và trầm trọng. Theo bà Pepa Horno,
một chuyên gia của Tổ chức Cứu trợ trẻ em, hiện có 8,5 triệu trẻ em đang
phải làm những công việc bất hợp pháp, nặng nhọc và nguy hiểm đối với
tuổi thơ. Một trong những hình thức nô dịch trẻ em là việc buôn bán trẻ
em, hay bóc lột tình dục từ các thương vụ du lịch "sex" với sự tham gia
của 1,8 triệu trẻ vị thành niên. Bản báo cáo của Tổ chức Cứu trợ trẻ em
còn cho biết hiện nay 300.000 trẻ em dưới 15 tuổi bị bắt đi lính và dính
vào các cuộc xung đột vũ trang. Điều tồi tệ nhất là các em bị buộc phải
chứng kiến hoặc tiến hành các vụ thảm sát ngay tại làng quê mình để
không còn đường trở về nhà hoặc tái hoà nhập xã hội. Ngoài ra, 1 triệu trẻ
em phải làm việc tại các mỏ để khai thác vàng hoặc kim cương.
Tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em đang diễn ra phổ biến ở nhiều
nước trên thế giới. Theo báo cáo của Bộ Lao động Nam Phi công bố ngày
11/6, hiện nước này có hơn 4,8 triệu lao động trẻ em từ 5 đến 17 tuổi.
Mặc dù tại Nam Phi, việc sử dụng trẻ em làm những công việc nguy hiểm
và độc hại như pha trộn hoặc phun thuốc trừ sâu, điều khiển các loại máy
móc dễ xảy ra tai nạn, máy móc có động cơ lớn và nặng hoặc làm việc
trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đều bị cấm.
Trẻ em thường làm việc trong điều kiện hà khắc như phải vào trong
các hầm sâu dưới lòng đất để khuân vác những thứ nhiều khi còn nặng
hơn cả trọng lượng cơ thể của các em. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
công bố các số liệu cho thấy, thế giới có 246 triệu trẻ em làm những nghề
nguy hiểm đến tính mạng, 73 triệu lao động trẻ em chưa tới 10 tuổi. Ở

các nước phát triển có 2,5 triệu trẻ em phải làm việc trong khi 127 triệu
10
trẻ em dưới 14 tuổi làm việc tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
22.000 trẻ em chết mỗi năm do các tai nạn lao động. Ở Ấn Độ, Nêpal,
nhiều trẻ em phải kiếm sống bằng nghề đập đá. Ở khu vực cận sa mạc
Saraha châu Phi với tỷ lệ 1/4 số trẻ em ở khu vực này bị bóc lột sức lao
động. Khoảng 60% số lao động trẻ em trên thế giới làm việc trong nông
nghiệp và không có cơ hội được học hành.
Trước thực trạng lao động trẻ em, đặc biệt là những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ hiện nay, ngày 8/5, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã
kêu gọi cộng đồng thế giới hành động mạnh mẽ hơn nữa để tiếp tục giảm
và tiến tới loại trừ tình trạng lao động trẻ em trên toàn cầu vào năm 2016.
1.1.2.Tại Việt Nam
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, tình trạng lao động trẻ em xuất
hiện từ khá lâu trong lịch sử. Gần đây vấn đề này càng trở nên bức xúc khi
số lượng lao động trẻ em không ngừng tăng lên, bên cạnh đó là một số biểu
hiện của mặt trái của nền kinh tế thị trường, đặt ra và tiềm ẩn nhiều vấn đề
xã hội nan giải, đòi hỏi phải giải quyết kịp thời.
- Gần 60% trẻ em trong diện điều tra phải làm việc sau giờ đi học,
gần 40% làm việc cả trước và sau giờ đi học và hầu hết trẻ em phải làm việc
quanh năm. Đó là một vài kết quả từ cuộc khảo sát tình trạng trẻ em lao
động sớm, do Sở LĐTBXH Hà Nội thực hiện tại một số quận, huyện giai
đoạn 2009-2010.
Kết quả khảo sát được công bố
mới đây cho thấy kết quả đáng báo
động, khi có gần 85% trẻ em tham
gia lao động cho biết phải làm
những công việc nặng nhọc, độc hại
khi đang đi học, đặc biệt trong đó
có 18,3% đang học tiểu học,

54,57% đang học THCS và 27%
đang học THPT. Kết quả trên cho
thấy, số học sinh từ 6-14 tuổi chiếm
phần lớn trong số trẻ em phải lao
động sớm hiện nay.
Hình 1.1. Trẻ đánh giày tại
thành phố Hà Nội
11
Về nguyên nhân khiến trẻ bỏ học để lao động được lý giải một phần do
cha mẹ khi hầu hết các gia đình vì hoàn cảnh nghèo khó nên bắt các con
phải lao động để đóng góp vào chi tiêu cho gia đình. Bằng chứng là có tới
2/3 trẻ em (62%) trong số được điều tra cho biết tiền kiếm được từ lao động
được sử dụng góp vào chi tiêu chung của gia đình, khoảng 19% sử dụng tiền
vào chi tiêu riêng hoặc tiết kiệm riêng và chỉ có 8% sử dụng tiền lương để
mua sắm đồ dùng học tập. Đáng lưu tâm là có khoảng 4% trẻ em không
nhận trực tiếp lương từ chủ sử dụng lao động vì “họ đưa thẳng cho bố mẹ
chúng em”.
Những con số kể trên cho thấy, phần lớn trẻ em phải tham gia lao động
chịu áp lực rất lớn từ phía cha mẹ và gia đình. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn
Hải Hữu- Cục trưởng Cục Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em (Bộ LĐTBXH) thì
các ông bố, bà mẹ vẫn chưa ý thức được việc bắt con lao động kiếm tiền
sớm là sai phạm, mà nếu có biết đó là sai thì cũng chưa có luật nào quy định
bắt phạt bố mẹ vì tội bắt con phải lao động.
- Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2016 xóa bỏ lao động trẻ em,
nhưng để thực hiện được mục tiêu này không dễ. Bởi vậy, từ nay đến khi
xóa bỏ được tình trạng trẻ em phải tham gia vào các hoạt động kinh tế quá
sớm, một đề xuất đáng chú ý là: Chính quyền, các tổ chức chính trị, xã hội
địa phương chủ động tham gia vào quá trình đàm phán, thỏa thuận tiền
lương, tiền công giữa chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
và người lao động bởi nếu thực hiện được thì các em sẽ được hưởng sự công

bằng từ sức lao động của mình.
1.2. Một số khái niệm có liên quan
1.2.1. Khái niệm trẻ em
Trẻ em là thành viên trong xã hội nhưng khác với người lớn, trẻ
đang phát triển và cần có được điều kiện tối ưu để phát triển. Điều kiện
này thay đổi theo mỗi hoàn cảnh, có mặt mạnh mặt yếu, mặt mạnh sẽ
giảm bớt thiệt hại do mặt yếu gây ra. Thí dụ: Con nhà nghèo không được
cha mẹ thương yêu quan tâm, mồ côi nhưng được cha mẹ nuôi hết lòng
chăm sóc, khuyết tật nhưng được nhà nước, cộng đồng và gia đình kết
hợp tốt nên cuộc sống được an ủi thoải mái.
Trong “Công ước Quyền trẻ em” có nêu:
12
Điều 1:
Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18
tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn.
Điều 31:
1. Các Quốc gia thành viên công nhận quyền của trẻ em được nghỉ ngơi
và tiêu khiển, được tham gia vui chơi vào các hoạt động giải trí phù hợp
với lứa tuổi, được tự do tham gia các sinh hoạt văn hoá và nghệ thuật.
2. Các Quốc gia thành viên phải tôn trọng và thúc đẩy quyền của trẻ em
được tham gia đầy đủ vào sinh hoạt văn hoá và nghệ thuật, và khuyến
khích việc dành những cơ hội bình đẳng và thích hợp cho các hoạt động
văn hóa, nghệ thuật, giải trí và tiêu khiển.
Điều 32:
1. Các Quốc gia thành viên công nhận quyền của trẻ em được bảo vệ
không bị bóc lột về kinh tế và làm bất kỳ công việc gì có thể nguy hiểm
hoặc ảnh hưởng đến việc học hành của trẻ em, hoặc có hại đối với sức
khoẻ hay sự phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức hay xã hội
của trẻ em.

2. Các Quốc gia thành viên phải thi hành những biện pháp lập pháp, hành
chính, xã hội và giáo dục nhằm đảm bảo việc thực hiện điều này. Để đạt
mục tiêu này và lưu ý đến các điều khoản thích hợp của các văn kiện
quốc tế khác, các Quốc gia thành viên phải:
a) Quy định một hay nhiều hạn tuổi tối thiểu được phép thu nhận vào làm
công;
b) Có quy định thích hợp về giờ giấc và điều kiện lao động;
c) Quy định những hình phạt thích hợp hay các hình thức phạt khác để
đảm bảo việc thực hiện điều khoản này.
1.2.2. Khái niệm lao động
- Trong kinh tế học, lao động được hiểu là một yếu tố sản xuất do con
người tạo ra và là một dịch vụ hay một hàng hóa.
13
- Theo quan điểm của C. Mác, lao động là hoạt động có mục đích, có ý
thức của con người, là cơ sở thực tiễn tạo ra mọi vấn đề và phương hướng giải
quyết những vấn đề nói trên
2
.
1.2.3. Khái niệm việc làm
- Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm
3
.
1.2.4. Khái niệm lao động trẻ em
- Theo ILO, lao động trẻ em (Child labour) là thuật ngữ chỉ tình trạng
trẻ em, những người dưới 18 tuổi phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia làm
các công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự
phát triển thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ, hoặc phải làm
quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết
để vui chơi, học tập

4
.
1.2.5. Phân biệt “lao động trẻ em”; “trẻ em tham gia các hoạt động
kinh tế” và “trẻ em tham gia làm việc”
Trên thực tế, vì nhiều lí do khác nhau mà người ta vô tình hoặc cố
tình không hiểu rõ khái niệm “lao động trẻ em ”. Hai khái niệm gây ra nhiều
tranh cãi là “trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế” và “trẻ em tham gia làm
việc”.
- “Trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế” là thuật ngữ được sử dụng
phổ biến trong các báo cáo thống kê, các cuộc điều tra xã hội học về việc
làm và lao động nói chung hoặc lao động trẻ em nói riêng ỏ nhiều quốc gia
trên thế giới, có thể hiểu đơn giản là các hoạt động sinh lợi do trẻ em thực
hiện cho dù công việc đó có là hợp pháp hay là bất hợp pháp, thời gian lao
động ngắn hay dài, có hợp đồng lao động hay không. Nội hàm của khái
niệm này không bao gồm các hoạt động không sinh lời như làm việc giúp
gia đình.
- “Trẻ em tham gia làm việc” là thuật ngữ hay dùng trong các hội thảo,
hội nghị quốc tế và khu vực về vấn đề lao động trẻ em. Một cách chung
nhất, đây là một khái niệm để chỉ rằng trẻ em có thể làm các công việc này
và đối lập với khái niệm lao động trẻ em.
2
C. MÁC: Tư bản, Tập I, Phần I, Tiến bộ, Matxcơva và Sự thật, Hà Nội, 1984, tr. 231
3
Điều 13, Bộ luật Lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
4
ILO, Ngăn ngừa, cấm và xóa bỏ lao động trẻ em, 2004
14
- Như vậy khái niệm lao động trẻ em hoàn toàn khác biệt với hai khái
niệm trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế và trẻ em tham gia làm việc tại
một số điểm cơ bản:

+ Về phạm vi: khái niệm lao động trẻ em là rộng nhất so với hai khái
niệm còn lại.
+ Về tính chất: khái niệm trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế rộng
hơn.
+ Về chủ thể: khái niệm lao động trẻ em sẽ được xác định căn cứ vào
những độ tuổi của trẻ khi tham gia lao động.
- Thuật ngữ về lao động trẻ em được xuất hiện tại điều 40 của Luật Bảo
vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em của Việt Nam. Luật này xếp lao động trẻ
em vào 2 trong số 11 dạng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, bao gồm: trẻ mồ
côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em
là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm
việc nặng nhọc, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình;
trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ nghiện ma túy; trẻ em vi
phạm pháp luật.
1.3. Một số vấn đề chung về lao động trẻ em
1.3.1 Quan điểm về lao động trẻ em
Từ bao đời nay ở Việt Nam, trẻ em tham gia làm việc hay lao động và
lao động trẻ em không phải là hiện tượng mới lạ. Trẻ em có những đóng
góp quan trọng trong lao động gia đình. Ở nông thôn, do tính thời vụ của
sản xuất nông nghiệp và điều kiện kinh tế lao động của các hộ gia đình,
nên trẻ em ngay từ khi còn bé thường ngày cũng tham gia phụ việc cho
người lớn trong các công việc cùng gia đình như chăn trâu, cắt cỏ, làm
công việc chăn nuôi gia súc, gia cầm, làm ruộng, làm vườn…ngoài việc
trông em, lo cơm nước.
Trẻ em còn có thể trở thành lao động chính trong những gia đình
có nghề phụ. Nhiều làng nghề, vùng nghề của Việt Nam phát triển thu hút
nhiều đối tượng lao động, trong đó có trẻ em.
Trong nhận thức của người lớn, trẻ em tham gia làm việc hay lao
động cùng cha mẹ trong gia đình là hoàn toàn cần thiết và đây là nghĩa
vụ. Lao động không chỉ nhằm tăng thu nhập cho gia đình, cho bản thân

mà còn được coi là quá trình xã hội hoá để giúp các em trưởng thành,
15
vững vàng, có thêm kỹ năng và kiến thức nghề nghiệp, phát triển trí lực,
thể lực và nhân cách chuẩn bị cho cuộc sống ngày mai.
Chúng ta thường quan niệm khác nhau về trẻ em lao động, thậm
chí có những quan niệm trái ngược nhau. Cụ thể hiện nay có những quan
niệm phổ biến như sau:
 Trẻ em cần (có nghĩa vụ) phải lao động để sống còn/là điều bình
thường. Nhất là khi các em không có điều kiện học lên (hoặc
không thể tiếp tục học/học dốt) thì đương nhiên phải đi làm.
 Luật pháp (của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam) quy định
trẻ em từ 15 tuổi đã có quyền ký kết hợp đồng lao động. Vì chưa có
sẵn tài nguyên nhân lực lao động.
 Trẻ lao động chứng tỏ khả năng tháo vát, trưởng thành sớm.
 Trẻ em phải lao động là đáng thương, là bị lạm dụng.
1.3.2 Phân biệt những công việc có thể và không thể chấp nhận được
với trẻ em
5
Bảng 1.1. Phân biệt những công việc có thể và không thể chấp nhận
được với trẻ em
TT Tiêu chí Có thể chấp nhận được
nếu
Không thể chấp nhận
được nếu
1 Tính chất
công việc
Phù hợp với độ tuổi và
khả năng thể chất,tinh
thần của trẻ
Quá nặng nhọc hoặc

phức tạp so với khả
năng thể chất và tinh
thần của trẻ
Lương thiện, hợp pháp,
có ích cho bản thân, gia
đình và xã hội
Không lương thiện hoặc
bất hợp pháp, xâm
pahmj an ninh, trật tự
hoặc đạo đức xã hội
2 Điều kiện
và môi
trường làm
việc
Được người lớn kèm cặp,
giúp đỡ trong quá trình
làm việc
Bị người lớn giám sát,
kìm kẹp hoặc khống chế
trong quá trình làm việc
Thời gian làm việc ngắn,
không ảnh hưởng đến
thời gian học tập, nghỉ
ngơi, vui chơi, giải trí
Trong thời gian làm việc
dài nên thiếu hoặc có
thời gian học tập, nghỉ
ngơi, vui chơi, giải trí
Điều kiện làm việc an
toàn, môi trường làm việc

Điều kiện làm việc nguy
hiểm, môi trường làm
5
Vấn đề lao động trẻ em - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội - 2000
16
không độc hại, ô nhiễm việc độc hại, ô nhiễm
Môi trường xã hội ở nơi
làm việc lành mạnh,
không ảnh hưởng đến sự
phát triển về tinh thần,
đạo đức, xã hội
Môi trường xã hội ở nơi
làm việc không lành
mạnh, đễ bị lạm dụng
thể xác, tình cảm hoặc
tha hóa về đạo đức, tinh
thần
Được bù đắp thích đáng
về vật chất và tinh thần
Không được động viên
và trả công thích đáng
3 Tâm lý,

hoàn cảnh
& mức độ
trường
thành của
Làm việc trên cơ sở tự
nguyện, nhằm rèn luyện
bản thân và giúp đỡ gia

đình
Làm việc do bị người
khác hoặc hoàn cảnh bắt
buộc, nhằm kiếm sống
cho mình hoặc gia đình
Tham gia làm việc ở độ
tuổi thích hợp theo quy
định của pháp luật
Phải làm việc quá sớm,
ở độ tuổi quá nhỏ, thấp
hơn tuổi lao động tối
thiểu trong pháp luật
1.3.3 Phân loại lao động trẻ em
Theo tổ chức Lao động quốc tế, hiện nay tồn tại bảy dạng lao
động trẻ em chính bao gồm:
- Lao động kiếm sống trên đường phố
- Lao động cưỡng bức, cầm cố hoặc gán nợ
- Lao động trong công nghiệp và đồn điền
- Lao động quá mức và bất bình đẳng của trẻ em gái
- Lao động quá mức trong khuôn khổ gia đình
- Đi ở
- Bóc lột tình dục
Ở Việt Nam, dự theo tính chất, trẻ em lao động có thể phân thành
ba loại chính sau:
- Trẻ em làm các công việc (bao gồm cả các công việc kinh doanh)
trong khuôn khổ gia đình một cách tự nguyện hoặc theo sự phân
công của cha mẹ
- Trẻ em lang thang tự kiếm sống, có thể chịu hoặc không chịu sự
chỉ huy của người lớn, ví dụ như trẻ đánh giày, bán báo, bới rác, ăn
xin… ở đô thị

- Trẻ làm thuê cho các chủ sử dụng lao động
17
Xét về điều kiện lao động, những công việc mà trẻ em hiện làm ở
Việt Nam có thể chia thành những nhóm chính như sau:
- Nhóm1: Gồm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm cho sức
khoẻ, tính mạng của trẻ: ví dụ như đào đãi khoáng sản tại các
mỏ ở các khu vực miền núi, làm thợ hoặc phụ nghề xây dựng,
sản xuất vật liệu xây dựng
- Nhóm 2: gồm các công việc và điều kiện làm việc có thể ảnh
hưởng xấu tới sự phất triển đến nhân cách, thậm chí có thể bị
xâm hại về tình dục , ví dụ : phục vụ trong các nhà hàng , mát
xa
- Nhóm 3: Cùng các công việc thường không nguy hiểm, độc hại
nhưng có thời gian làm việc dài ảnh hưởng đến việc học tập, ví
dụ như: làm việc ở các làng nghề truyền thống (mộc, thêu, đan
lát, dệt, làm các mặt hàng thủ công); các công việc ở các lĩnh
vực nông sản, thực phẩm
- Nhóm 4: Gồm các công việc nhẹ nhàng, phù hợp với sự phát
triển thể chất, trí tuệ của trẻ, có sự hướng dẫn, giám sát của
người lớn; ví dụ như tập luyện và biểu diễn các môn năng khiếu
(thể thao, nghệ thuật ); học nghề ở các cơ sở đào tạo nghề
chính thức; làm các công việc vặt trong gia đình.
1.3.3 Nguyên nhân của lao động trẻ em
Lao động trẻ em bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó có những nguyên nhân chính gồm:
- Nghèo đói, thất nghiệp, thiếu các nguồn trợ cấp xã hội
- Giáo dục khó tiếp cận, không phù hợp
- Tác động của công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự cấu trúc lại nền kinh
tế
- Thiên tai, xung đột vũ trang, bệnh dịch

- Sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính
- Chính sách pháp luật thiếu, không phù hợp, kém hiệu quả
- Tính chất kinh tế dễ phục tùng, dễ bóc lột của lao động trẻ em
- Quan niệm truyền thống lạc hậu
- Quy mô, tính chất và quan hệ gia đình
1.3.4 Hậu qủa của lao động trẻ em
Lao động trẻ em không chỉ để lại những hậu quả đối với bản thân
trẻ mà còn gây ra những hậu quả tiêu cực không nhỏ đối với gia đình,
18
cộng đồng và toàn xã hội. Lao động trẻ em tồn tại song hành với tình
trạng đói nghèo và kém phát triển:
* Đối với trẻ:
- Thường bị thất học hoặc phải bỏ học sớm nên không có cơ hội
phát triển, thu nhập thấp
- Có thể bị tai nạn lao động, suy dinh dưỡng, còi cọc, già trước
tuổi
- Dễ bị khủng hoảng tinh thần, mất niềm tin vào cuộc sống
- Dễ bị tha hóa về đạo đức, lối sống hay sa vào các tệ nạn xã hội
hoặc phạm pháp
* Đối với gia đình
- Tương lai con cái mờ mịt, gia đình không phát triển
- Kinh tế gia đình không vững chắc, có thể phải chịu nhiều rủi ro
- Dễ khủng hoảng hoặc tan vỡ nếu con cái sa vào các tệ nạn xã
hội
* Đối với cộng đồng
- Đời sống vật chất thấp kém, nghèo đói và tệ nạn xã hội phổ biến
- Các giá trị đạo đức tinh thần chung phai nhạt, sức mạnh và sự
đoàn kết giảm sút.
* Đối với xã hội
- Lực lượng lao động què quặt, không đáp ứng được các yêu cầu

ngày càng cao của nền kinh tế, đầu tư giảm sút
- Gánh nặng về việc làm, đào tạo nghề và giải quyết các vấn đề
xã hội.
1.3.5 Quan điểm và hướng tiếp cận của ILO về giải quyết vấn đề Lao
động trẻ em
Trước thực trạng lao động trẻ em phổ biến khắp các châu lục, tổ
chức ILO đưa ra các quan điểm và hướng tiếp cận nhằm từng bước
đẩy lùi và tiến đến xóa bỏ lao động trẻ em:
- Quy định độ tuổi tối thiểu được tham gia lao động hay làm việc
- Cấm sử dụng trẻ em làm việc ban đêm
- Quy định tiêu chuẩn và kiểm tra sức khỏe đối với một số công việc
- Quy định các điều kiện sử dụng trẻ em làm việc dưới lòng đất
- Xóa bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ
Kết luận chương 1.
19
Trẻ em là tương lai của đất nước, lực lượng lao động chính trong
tương lai, bất kì quốc gia nào cũng hướng tới các chương trình giáo dục và
tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để trẻ em được học tập, phát triển một cách
toàn diện. Trong các văn bản luật pháp quốc tế cũng như của Việt Nam đề
thể hiện rõ trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức chính trị xã hội phải
đảm bảo quyền lợi của trẻ em. Trong khi đó tình trạng lao động trẻ em ngày
càng gia tăng và diễn biến một cách phức tạp, được cả thế giới và Việt Nam
quan tâm, nghiên cứu và tìm cách giải quyết trong nhiều năm qua. Hiểu
được rõ các khái niệm về “trẻ em”, “quyền trẻ em”, “lao động”, “việc làm”,
“lao động trẻ em”; “trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế” và “trẻ em tham
gia làm việc” chúng ta sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về tình trạng lao động
trẻ em và những nguy cơ sẽ gặp phải đối với trẻ em. Từ đó, có thể tìm ra
phương pháp giải quyết tốt nhất nhằm chấm dứt tình trạng lao động trẻ em.
20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN

PHƯỜNG NGHĨA TÂN, QUẬN CẦU GIẤY – HÀ NỘI
2.1. Một số nét khái quát về địa bàn nghiên cứu
Phường Nghĩa Tân là một trong tám phường nằm trên địa bàn Quận
Cầu Giấy, thành phố Hà Nội - vùng đất được cả nước biết đến từ xa xưa về
truyền thống văn hóa, hiếu học, về nếp sống văn minh, thanh lịch mang đậm
đà bản sắc Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến. Đây là nơi đông dân
cư, các hoạt động buôn bán diễn ra sầm uất, thu hút nhiều lao động từ các
tỉnh lẻ, vùng ven đô… trong đó có trẻ em. Trẻ em với công việc ở trong các
quán cơm, quán cafe, giúp việc gia đình, trẻ em đánh giầy, bán hàng dạo
trên phố… là hình ảnh quen thuộc mà chúng ta bắt gặp. Vấn đề lao động trẻ
em ở Phường Nghĩa Tân khá phổ biến và hầu như không có sự can thiệp
giải quyết từ phía chính quyền, cơ quan chức năng, cơ quản lý.
2.2. Thực trạng lao động trẻ em trên địa bàn nghiên cứu
2.2.1. Một số đặc điểm của lao động trẻ em
2.2.1.1. Về nhân khẩu học
* Độ tuổi
Theo kết quả khảo sát cho thấy trẻ em lao động từ độ tuổi rất nhỏ, lứa
tuổi nhỏ nhất trong nhóm đối tượng được khảo sát là 5 tuổi. Mặc dù nhóm
trẻ em này chiểm tỷ lệ thấp nhất (chỉ có 3,3%) nhưng thể hiện nguy cơ trẻ bị
ảnh hưởng tiêu cực rất lớn khi lao động ở độ tuổi nhỏ như thế này.
Bảng 2.1. Tỷ lệ lao động trẻ em theo lứa tuổi
Độ tuổi Số lượng Tỷ lệ (%)
5-10 2 3,3
10-13 5 8,3
13-15 10 16,7
15-18 43 71,7
Tổng số 60 100
21
Sơ đồ 2.1. Biểu đồ thể hiện Tỷ lệ lao động trẻ em phân theo lứa tuổi
( Nguồn UBND Phường Nghĩa Tân 2009)

Qua sơ đồ trên có thể thấy rằng lao động trẻ em từ 15-18 tuổi chiếm tỷ
lệ cao nhất, lên đến 71,7%. Đây là nhóm mà theo quy định của luật Lao
động, nằm trong độ tuổi hợp pháp được tham gia lao động. Tuy nhiên, đây
cũng là nhóm tuổi dễ bị bóc lột sức lao động nhất do các em có sức khỏe để
lao động nhưng lại chưa trưởng thành thực sự. Vì vậy, các em chỉ được trả
công quá ít so với công sức mình bỏ ra, thấp hơn nhiều so với lao động
trưởng thành làm cùng một công việc.
• Giới tính
Xét về cơ cấu giới tính, trẻ em lao động trên địa bàn phường Nghĩa
Tân có cả trẻ nam và trẻ nữ, song tỷ lệ khác nhau:
Bảng 2.2. Tỷ lệ lao động trẻ em phân theo giới tính
Giới tính Số lượng Tỷ lệ (%)
Nam 37 61,7
Nữ 23 38,3
Tổng số 60 100
22
Sơ đồ 2.2: Biểu thể hiện cơ cấu giới tính lao động trẻ em tại phường
Nghĩa Tân năm 2009
( Nguồn UBND Phường Nghĩa Tân 2009)
Qua biểu đồ ta nhận thấy tỉ lệ lao động trẻ em là nam giới
gấp 1,6 lần so với nữ giới. Nguyên nhân là do nam giới có sức đề kháng
cao hơn so với nam giới nên tham gia lao động nhiều hơn nữ, được trọng
dụng trong các công việc nặng nhọc hơn nữ giới.
*Trình độ học vấn
Bảng 2.3. Trình độ học vấn lao động trẻ em
Khảo sát về trình độ học vấn của trẻ cho thấy, mặc dù nhóm trẻ
trong độ tuổi 15 đến 18 chiếm số lượng cao nhất song không có trẻ nào
có trình độ trung học phổ thông. Số trẻ được phổ cập trung học cơ sở chỉ
chiếm một phần rất nhỏ là 3,1%; trong khi đó số trẻ chưa phổ cập tiểu
học lại chiếm một tỉ lệ khá cao 13%. Điều này càng khẳng định rằng lao

động trẻ em đang có nguy cơ tụt hậu so với xã hội, khi trẻ không còn đủ
sức khỏe thì nguy cơ của thất nghiệp và đói nghèo là rất cao. Nguyên
nhân của tình trạng này là do trẻ không có đủ điều kiện về thời gian, kinh
phí để phục vụ nhu cầu học tập của mình.
Trình độ
học vấn
Chưa phổ
cập tiểu học
Phổ cập
tiểu học
Trung
học cơ
sở
Phổ cập
trung học
cơ sở
Trung học
phổ thông
Số lượng trẻ 8 43 7 2 0
Tỷ lệ 13% 72% 11.9% 3.1% 0.0%
23
Sơ đồ 2.3: Biểu thể hiện trình độ học vấn của lao động trẻ em
tại phường Nghĩa Tân năm 2009
( Nguồn UBND Phường Nghĩa Tân 2009)
Như vậy, lao động trẻ em tại địa bàn phường Nghĩa Tân nhìn chung
có trình độ học vấn còn thấp so với mặt bằng chung của cả nước.
2.2.1.2. Đặc điểm về hoàn cảnh gia đình
Kết quả nghiên cứu cho thấy rất ít trẻ sống trong môi trường gia đình
hòa thuận, kinh tế đủ ăn lại phải bán sức lao động kiếm sống, kiếm tiền. Lao
động trẻ em trên địa bàn phường đa số thuộc các gia đình nghèo, số khác là

gia đình đông con, mồ côi Qua tổng hợp mẫu điều tra cho thấy các đặc
điểm về hoàn cảnh gia đình các trẻ:
• 67% thuộc các gia đình nghèo.
• 30,2% sinh ra và lớn lên trong gia đình đông con (4 con trở lên).
• 12% cha mẹ ly dị.
• 5,2% mồ côi cả cha lẫn mẹ.
• 5,2% mồ côi cha.
• 4,1% mồ côi mẹ.
• 2,3% cha mẹ ly thân.
24
2.2.2. Tình hình lao động trẻ em
2.2.2.1. Các hình thức lao động trẻ em
Trẻ em làm việc cho gia đình của mình tham gia lao động giúp đỡ
gia đình từ nhỏ. Hoạt động lao động của trẻ em để giúp đỡ gia đình ngoài
giờ đi học được coi là việc làm rất cần thiết nhằm giáo dục ý thức lao động,
kỉ luật lao động, tình yêu lao động, yêu người lao động, yêu thành quả lao
động… Đồng thời còn là điều kiện để rèn luyện bồi dưỡng sự phát triển thể
lực của trẻ em. Ở những gia đình có nghề truyền thống, hầu như trẻ em
trong các gia đình này đều tham gia lao động từ nhỏ, các em được học nghề,
truyền nghề ngay từ khi còn nhỏ tuổi và lớn lên chúng có thể tiếp nối nghề
nghiệp của cha ông.
Phần lớn trẻ em được người lớn trong gia đình quan tâm dạy dỗ kèm
cặp để phát huy mặt tích cực của lao động theo phương châm “tuổi nhỏ làm
việc nhỏ, tùy theo sức của mình”. Tuy nhiên, nhiều gia đình nước ta nhiều
gia đình còn nghèo, vì sự tồn tại của gia đình và trẻ em mà nhiều em phải
làm việc quá nhiều thời gian, phải bỏ học để giúp đỡ bố mẹ lo cuộc sống.
Có những em vì quá ham việc để kiếm tiền mà không thích đi học, bố mẹ
các em cũng không giảng giải, tạo điều kiện và khuyến khích các em đi học.
Có những gia đình không thấy được việc đi học của trẻ là cần thiết, không
thể thiếu trong việc phát triển trong tương lai của con mình mà chỉ lao thu

lợi trước mắt.Trẻ em làm việc cho gia đình mình thì xã pháp luật khó kiểm
soát được và tác dụng điều chỉnh của pháp luật là rất hạn chế.
2.2.2.1.1. Trẻ em làm thuê
Tình trạng trẻ em làm thuê ở địa bàn phường Nghĩa Tân đang có xu
hướng tăng lên nhưng chưa trở thành vấn đề lớn. Có thể chia ra 2 khu vực:
Trẻ phải tham gia lao động nặng nhọc trong các cơ sở sản xuất như
gò, hàn, sửa chữa máy móc. Trẻ còn phải phục vụ trong các hàng cơm,
quán ăn, quán cà phê với thời lượng công việc tối đa lên tới 14h/ ngày.
Nhưng mức lương của các em được hưởng không bằng 1/3 công sức
mình bỏ ra. Qua phỏng vấn, 3 trẻ đã thừa nhận mức lương được hưởng
một tháng là 600.000đ. Tuy nhiên, trẻ lại không dám phàn nàn về sự
ngược đãi đó, trái lại trẻ thấy bằng lòng và chấp nhận công việc với mức
thù lao không đủ chi cho cuộc sống hàng ngày ấy.
25

×