Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Đề án Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nâng cao hiệu quả tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với hộ sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.54 KB, 32 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nước ta đã và
đang đi theo nền kinh tế thị trường. Để tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy nhanh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ văn minh, sản xuất nông nghiệp đạt những thành tựu to lớn,
chúng ta đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lượng thực, thực
phẩm không ngừng tăng cao. Từ một nước thiếu lương thực thì cho tới nay nước ta
đã trở thành một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu lương thực. Có
được những kết quả đó là sự đóng góp không nhỏ của kinh tế hộ gia đình - thể hiện
đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước phát triển kinh tế hộ sản xuất trong đó
trọng tâm là hộ nông dân sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Từ định hướng và chính sách về phát triển phát triển kinh tế hộ sản xuất đã
giúp cho Ngân hàng nói chung, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nói
riêng mở rộng và từng bước hoàn thiện cơ chế cho vay kinh tế hộ sản xuất. Trong
quá trình đầu tư vốn đã khẳng định được hiệu quả của đồng vốn cho vay và khả
năng quan lý, sử dụng vốn của các hộ gia đình cho sản xuất kinh doanh, mở rộng
thêm ngành nghề, tăng sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập cho gia đình và hoàn trả
lượng vốn cho Nhà nước. Tuy nhiên, những tồn tại về cơ chế chính sách, hành lang
pháp lý và những tác động của cơ chế thị trường vẫn còn thiếu, đòi hỏi các cấp các
ngành tiếp tục tháo gỡ khó khăn để đáp ứng đầy đủ kịp thời có hiệu quả nhu cầu về
vốn cho hộ sản xuất phát triển kinh tế.
Nhu cầu vốn đòi hỏi rất lớn từ nội lực các gia đình, từ ngân sách và từ nguồn
vốn tín dụng Ngân hàng. Do đó, phải mở rộng đầu tư vốn cho kinh tế hộ để tận
dụng, khai thác những tiềm năng sẵn có về đất đai, mặt nước, lao động, tài nguyên
làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, trên thực
tế việc mở rộng cho vay vốn đối với hộ sản xuất ngày càng khó khăn. Với chủ
trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo,
xây dựng nông thôn mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất ngày càng lớn, hoạt
động kinh doanh Ngân hàng trong lĩnh vực cho vay hộ sản xuất sẽ có nhiều rủi ro.
Bởi vậy mở rộng tín dụng phải đi kèm với việc nâng cao hiệu quả của vốn tín dụng


SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
1
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
đối với hộ, đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Có như vậy
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mới thực sự trở thành tác nhân thúc đẩy kinh
tế hộ nói riêng, nền kinh tế nói chung phát triển.
Nhận thức được những vấn đề trên và xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín
dụng cho vay vốn đến hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn, em quyết định nghiên cứu đề tài: “Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
nâng cao hiệu quả tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn đối với hộ sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn”
nhằm tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn vừa mang tính thời sự trong kinh doanh
tiền tệ tại Ngân hàng hiện nay.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
2
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT KINH DOANH
(SXKD)
I. KHÁI NIỆM HỘ SXKD
Nước ta là một nước nông nghiệp có truyền thống lâu đời với hơn 70% dân
số là nông dân, tuy nhiên trình độ sản xuất nông nghiệp còn ở mức thấp, quy mô
nhỏ lẻ, manh mún, thiếu tính tập trung và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp thấp.
Chính vì lẽ đó mà quy mô kinh tế hộ vẫn chiếm tỉ trọng cao và đóng vai trò quan
trọng trong nền kinh tế và là đối tượng phát triển chính trong công cuộc chuyển từ
nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế hàng hóa.
Khái niệm hộ SXKD luôn được chú trọng xây dựng một cách thống nhất hợp
lý, đảm bảo tính đúng đắn trong việc hiểu quan niệm về hộ gia đình và vai trò của
hộ gia đình trong nền kinh tế.
Hộ SXKD nói một cách đầy đủ là hộ gia đình tham gia hoạt động sản xuất
kinh doanh. Hộ gia đình nước ta chủ yếu sống và hoạt động trong lĩnh vực nông

nghiệp, nông thôn, do vậy hộ nông nghiệp là điển hình kinh tế trong cơ cấu các
thành phần kinh tế nước ta. Đặc biệt đối với huyện miền núi Lục Nam, hơn 70% số
hộ sống trên địa bàn nông thôn, hơn 80% số hộ hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp.
“Hộ gia đình” theo điều 116 - Khoản 1 - Bộ Luật dân sự được định nghĩa là:
một trong các chủ thể trong quan hệ dân sự, là những hộ gia đình mà thành viên có
tài sản chung để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt
động sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất
kinh doanh khác do pháp luật quy định… Tuy nhiên “hộ”, ”gia đình”, ”hộ gia đình”
là 3 khái niệm dễ gây nhầm lẫn trong việc hiểu, tưởng là trùng nhau nhưng trong
những hoàn cảnh và thời điểm khác nhau chúng rất khác nhau và được căn cứ vào 3
tiêu thức để phân biệt:
+ Quan hệ hôn nhân, huyết thống dân tộc
+ Cư trú chung
+ Có chung cơ sở kinh tế
Khái niệm “Hộ gia đình” để hiểu một cách đầy đủ nhất phải bao gồm cả 3 tiêu thức
trên
Từ sau nghị quyết 10 - Bộ Chính trị, hộ được xác định là một đơn vị kinh tế
tự chủ, là thành phần kinh tế cơ bản của nông thôn - các hộ được giao đất sử dụng
lâu dài, ổn định với 5 quyền năng: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
3
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
và thừa kế. Kết hợp với cơ sở kinh tế của hộ được quy định trong bộ luật dân sự
càng khẳng định tính chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ.
+ Về tài sản chung của hộ là tài sản mà các thành viên cùng tạo lập hoặc
được cho chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung,
quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ cũng là tài sản chung.
+ Về đại diện hộ sản xuất trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ
thì được quy định là chủ hộ. Cha mẹ hay một thành viên khác đã thành niên có thể

là chủ hộ,chủ hộ có thể ủy quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện
của hộ trong quan hệ dân sự. Giao dịch dân sự do đại diện của hộ SXKD xác lập,
thực hiện lợi ích chung của hộ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của cả hộ SXKD.
+ Hộ sản xuất phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh hộ sản xuất. Hộ chịu trách
nhiệm dân sự bằng tài sản chung của hộ. Nếu tài sản chung của hộ không đủ để thực
hiện nghĩa vụ dân sự chung của hộ thì các thành viên khác phải chịu trách nhiệm
liên đới bằng tài sản của riêng mình.
Tóm lại: Hộ SXKD được xác định là một đơn vị kinh tế tự chủ bao gồm
nhiều người có cùng quan hệ huyết thống, có tài sản chung được phép kinh
doanh trên một số lĩnh vực nhất định do nhà nước quy định.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT KINH DOANH
Kinh tế Việt Nam từ khi mở cửa - tiếp nhận nền kinh tế thị trường, tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm trong hơn 10 năm đổi mới đạt mức cao, bình quân hơn 8%.
Cơ cấu nước ta cũng có những thay đổi đáng kể; trước đổi mới chủ yếu là kinh tế
quốc doanh và kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể và các thành phần kinh tế khác
không đáng kể, nhưng sau gần 20 năm đổi mới, kinh tế cá thể nhận được sự quan
tâm không nhỏ và dần chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, hộ sản xuất là hướng đầu tư chủ yếu, cần
thiết thực hiện mục tiêu xây dựng nền sản xuất hàng hóa có quy mô lớn và thực
hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Đứng trên phương diện nghiên cứu hộ là một chủ thể kinh tế, chịu sự tác động
của các hoạt động tín dụng ta có thể đưa ra các đặc điểm sau của hộ;
1. Hộ SXKD về cơ bản là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản
xuất, vừa là một đơn vị tiêu dùng
Thời gian nước ta bắt đầu đi vào đổi mới chưa lâu, với một cơ cấu nền kinh tế
mới với nhiều thành phần kinh tế, kinh tế hộ vẫn là mục tiêu phát triển chính, chủ
yếu trong các chiến lược, định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
4

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
Mặt khác, hộ SXKD ở nước ta chủ yếu vẫn còn ở quy mô nhỏ, sử dụng lao động
trong gia đình là chính, vốn tự có đầu tư cho hoạt động SXKD ở mức hạn chế, hầu
như là không có, do vậy sản xuất chủ yếu mang tính tự cấp, tự túc, tỷ trọng hàng
hóa sản xuất ra thường không lớn có được phần lớn là tiêu dựng không hết, mục
đích sản xuất chủ yếu bắt đầu từ nhu cầu tiêu dùng.
2. Hộ là chủ thể sản xuất - kinh doanh với số lượng đông
Cả nước ta có hơn 14 triệu hộ gia đình sống tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng
thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, giao lưu kinh tế,…như đồng bằng sông
Hồng, đồng bằng sông Cửu Long.
Cho đến nay nông nghiệp vẫn là đối tượng sản xuất chính của các hộ gia đình:
Trong hơn 14 triệu hộ thì số hộ nông nghiệp là 11 triệu hộ. Số lượng hộ nông
nghiệp đông đảo như vậy nhưng trình độ sản xuất thấp, quy mô nhỏ lẻ, manh mún
là chủ yếu. Do vậy phát triển kinh tế hộ là bước đầu tiên đi lên sản xuất hàng hóa.
Mặt khác trong hơn 14 triệu hộ thì gần 12 triệu hộ sinh sống ở địa bàn nông
thôn, một trở ngại lớn cho mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào
năm 2020 - do vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một
bước đi quan trọng, tức là đưa được kĩ thuật, công nghiệp vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của từng hộ dân.
3. Hộ SXKD được hình thành theo những đặc điểm tự nhiên rất đa dạng
Tùy thuộc vào hình thức sinh hoạt ở mỗi vùng và địa phương mà hộ hình thành
kiểu cách sản xuất. tổ chức riêng trong phạm vi hộ gia đình. Các thành viên trong
hộ SXKD chủ yếu có quan hệ than thuộc với nhau, ít lao động thuê ngoài tùy thuộc
vào mùa vụ trong sản xuất.
Trong sản xuất kinh doanh, chủ hộ là đại diện cũng như là lao động trực tiếp,
chịu trách nhiệm và tự giác trong hoạt động - chủ hộ theo tâm lý chung của nông
thôn hay ngay cả khu vực thành thị nước ta thông thường là người cha hay là con
trai lớn đã thành niên, có năng lực.
Do những đặc điểm hình thành mà việc sản xuất kinh doanh của hộ khá ổn định,
vốn luân chuyển chậm hơn so với các thành phần kinh tế khác, chủ yếu là theo vụ

mùa nhất định trong năm, ngay cả trong sản xuất hay kinh doanh dịch vụ phục vụ
nông nghiệp.
4. Quan hệ giữa tiêu dùng và sản xuất của kinh tế hộ SXKD biểu hiện ở trình
độ phát triển của hộ từ tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hóa. Trình độ này
quyết định quan hệ giữa hộ và thị trường
Hiện nay, trình độ sản xuất của chủ hộ chủ yếu ở mức thấp, sản xuất thủ công là
chính, máy móc còn ít, giản đơn, tổ chức sản xuất mang tính chất tự phát, quy mô
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
5
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
nhỏ, không được đào tạo bài bản. Đồng thời hộ vẫn chủ yếu hoạt động SXKD có
tính chất truyền thống, thái độ lao động thường bị chi phối bời tình cảm đạo đức gia
đình và nếp sống sinh hoạt theo phong tục tập quán của làng quê. Trình độ ứng
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cũng như khả năng sử dụng một cách
hiệu quả các nguồn nội lực đều còn nhiều hạn chế và chưa hợp lí.
5. Hộ SXKD có đối tượng sản xuất hết sức phức tạp và đa dạng, quá trình sản
xuất kinh doanh mang tính thời vụ và ngoài hoạt động nông nghiệp còn có thể
tham gia vào các hoạt động phi nông nghiệp dưới nhiều mức độ khác nhau
Đối tượng sản xuất của hộ chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, tính đa dạng,
phức tạp về chủng loại thời gian sống của mỗi loại cây, con đã quyết định tính đa
dạng phức tạp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ. Đồng thời chính đặc
điểm này cũng giải thích cho tính thời vụ của kinh tế hộ SXKD - cùng một lúc có
thể sản xuất kinh doanh nhiều loại cây trồng, vật nuôi khác nhau có tính hỗ trợ cho
nhau và có thể thực hiện các ngành nghề phi nông nghiệp khác lúc nông nhàn với
quy mô khác nhau.
Kinh tế hộ SXKD có sự gắn bó chặt chẽ với những đặc tính của sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
6. Kinh tế hộ SXKD hiện nay chủ yếu chịu sự chi phối của Bộ Luật Dân sự( trừ
những trường hợp có yêu cầu đăng kí kinh doanh) khiến việc quản lý chưa
thực sự đồng nhất

Bên cạnh đó, sự trùng hợp giữa hai vị trí là đơn vị kinh tế và là tế bào xã hội
khiến cho hoạt động của hộ còn chịu nhiều sự chi phối của các yếu tố xã hội như
giới tính,tuổi tác của chủ hộ hay phong tục tập quán, thói quen,… của từng địa
phương khác nhau.
7. Về tính pháp lý và khả năng tài chính của hộ
Đối tượng là hộ gia đình, do vậy mọi thành viên trong hộ gia đình đều liên
đới trách nhiệm trong quan hệ giao dịch tín dụng. Về mặt thủ tục pháp lý trong giao
dịch với ngân hàng, chỉ cần người đại diện hộ đứng tên giao dịch với ngân hàng trên
cơ sở ủy quyền cho các thành viên trong hộ.
Tài sản của hộ là bao gồm cả tài sản riêng của các thành viên góp vào sử
dụng chung. Xét từ góc độ này thì năng lực tài chính của hộ bao gồm tài sản chung
và tài sản riêng của các thành viên. Vốn tự có của chủ hộ chủ yếu là khả năng lao
động của hộ, tức là kinh nghiệm cùng khả năng tổ chức và trực tiếp tham gia lao
động của những thành viên trong hộ.
Từ những đặc điểm trên đây ta thấy kinh tế hộ là thành phần kinh tế khá linh
động, là cơ sở ban đầu cho việc thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế nước ta.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
6
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
III. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ HỘ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
Từ khi nghị quyết 10 của Bộ chính trị được ban hành, hộ nông dân được thừa
nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ - khằng định vị trí quan trọng của kinh tế hộ đối
với nền kinh tế, tạo động lực mạnh mẽ, năng động trong phát triển kinh tế nông
thôn, nhờ đó người nông dân đã gắn bó ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm
canh, tăng vụ, khai phá thêm hàng ngàn ha đất mới, đa dạng hóa các đối tượng với
sự phân phối, kết hợp chặt chẽ. Bằng việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã
khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, phát hiện và xây dựng những ngành nghề
mới, mạnh dạn hơn trong việc vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để
có hiệu quả kinh tế cao nhất.
Kinh tế hộ đã khẳng định sự tồn tại khách quan của mình trong nền kinh tế với

vai trò là cầu nối quan trọng giữa hai nền kinh tế là nền kinh tế tự nhiên và nền kinh
tế hàng hóa:
1. Kinh tế hộ góp phần tích cực vào công cuộc chuyển từ nền kinh tế tự
nhiên sang nền kinh tế hàng hóa
Lịch sử phát triển nền kinh tế đã xác định cụ thể các giai đoạn phát triển sản
xuất hàng hóa. Nền nông nghiệp nói riêng hoàn toàn bắt đầu là nền kinh tế tự nhiên
với mục đích sản xuất hàng hóa trao đổi đểu do những nhu cầu cá nhân mỗi hộ gia
đình. Hộ gia đình sản xuất với quy mô nhỏ, sử dụng chủ yếu những nguồn lực chủ
sẵn có cho sản xuất, sản xuất chỉ để đảm bảo thỏa mãn những nhu cầu sống tối
thiểu. Đây là giai đoạn khởi điểm của nền kinh tế sản xuất hàng hóa với sự chuyển
biến dần từ nền kinh tế tự nhiên lên nền kinh tế hàng hóa nhỏ.
Tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ lên nền kinh tế
hàng hóa với quy mô lớn, với sự linh động ngày càng cao trong hoạt động mua bán
trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Mỗi giai đoạn phát triển, kinh tế hộ đều là nhân tố thiết yếu, chiếm vị trí quan
trọng, đặc biệt ở giai đoạn lịch sử ban đầu , kinh tế hộ là mục đích và đối tượng phát
triển chính mà nếu chưa hoàn thành tốt thì khó có thể đạt được mục tiêu phát triển
sản xuất hàng hóa với quy mô lớn, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nền kinh tế còn
ở trình độ phát triển thấp.
2. Kinh tế hộ góp phần dẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn - mục tiêu chiến lược của nước ta
Theo đề án công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn thời kỳ 2000-2020, mục tiêu phấn đấu GDP là 800 - 1000
USD/người, cơ cấu GDP nội bộ nông nghiệp trồng trọt - chăn nuôi - dịch vụ - công
nghiệp là 22% - 25% -25% - 28%, đồng thời giảm thiểu tỷ lệ lao động xã hội trong
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
7
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
nông nghiệp đến 2020 chỉ còn 20%, công suất máy đạt 2 mã lực /ha so với mức 0/8
mã lực/ha như hiện nay.

Để hoàn thành mục tiêu đề ra, hướng đi chủ yếu là tổ chức và chuyển dịch quan
hệ sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế hộ nông dân, xây dựng và
phát triển những mô hình kinh tế trang trại một cách hiệu quả. Hộ SXKD là đơn vị
kinh tế trực tiếp nhận và áp dụng những tiến bộ khoa học vào sản xuất (công nghệ
gen, tự động hóa, hóa học hóa,…) thúc đẩy tích cực tiến trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà thực chất đưa công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào
từng hộ SXKD.
3.Kinh tế hộ đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn
Thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao và ổn định trong nền kinh tế trong nhiều
năm tới, một trong những giải pháp quan trọng là phải chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng
Từ khi thực hiện chỉ thị 100 của Ban bí thư TW Đảng khóa V và Nghị quyết
10 của Bộ chính trị, nông nghiệp nông thôn đã ngày càng tiến lên một sức mạnh
mới với sự cải thiện rõ rệt về mọi mặt như: tổng sản lượng lương thực tăng cao
trong những năm qua, nước ta xuất phát từ một nước thiếu lương thực nay đã trở
thành quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới, giảm thiểu số hộ đói - nghèo, khôi phục
và phát triển nhiều làng nghề (hiện cả nước có khoảng 1000 làng nghề),…đạt được
kết quả tích cực này, mỗi địa phương đã xây dựng được cho mình những mô hình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hợp lý theo định hướng chung
của cả nước.
Tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hộ nông thôn đã có sự
tập trung đa dạng hóa các đối tượng sản xuất, phối kết hợp một cách hợp lý; giúp
gia tăng thu nhập, tạo khả năng tiếp thu công nghệ mới vào sản xuất phù hợp với
điều kiện từng địa phương: làng gốm ở Bát Tràng, làng nghề tre trúc Xuân Lai (Bắc
Ninh)… Bằng sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước, các hộ SXKD luôn chủ động và
tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo những mô hình hợp lý, mang lại hiệu quả
kinh tế cao, tác động tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
nông thôn.
a. Kinh tế hộ nâng cao hiệu quả sử dụng lao động nông thôn, giải

quyết tích cực vấn đề việc làm cho toàn xã hội
Việc làm luôn là vấn đề cấp bách với toàn xã hội nói chung và đối với nông thôn
Việt Nam nói riêng. Với hơn 70% dân số sống ở nông thôn, dự nhà nước có nhiều
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
8
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
biện pháp hỗ trợ tạo việc làm, vấn đề dư thừa lao động ở nông thôn, đặc biệt trong
thời điểm nông nhàn vẫn cần được quan tâm giải quyết.
Từ khi được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, hộ đã tập trung sản xuất, mở rộng quy mô, tận dụng triệt để lao
động sẵn có trong gia đình và địa phương, giải quyết tích cực vấn đề việc làm cho
lao động nông thôn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống. Năng suất lao động cũng
được sử dụng một cách hiệu quả hơn, giúp tăng trưởng kinh tế cao hơn và thực hiện
tốt quá trình chuyển dịch lao động sang những lĩnh vực phi nông nghiệp, hỗ trợ cho
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thụn.
b. Kinh tế hộ góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn
Nông nghiệp và nông thôn là lĩnh vực mang nặng tính truyền thống, thói quen
hay những tập quán tồn tại từ lâu đời ảnh hưởng không nhỏ tới tác phong lao động
của người dân, kìm hãm tốc độ phát triển kinh tế nông thôn.
Với chủ trương mới, một luồng sinh khí mới được thổi vào nông nghiệp, nông
thôn. Việc tạo sự tự chủ trong sản xuất kinh doanh đã góp phần cải thiện tác phong
làm việc của lao động nông thôn, hạn chế hẳn những vấn đề xã hội xấu đã tồn tại từ
lâu trong nông thôn. Người dân tập trung sản xuất, sinh hoạt lành mạnh, nâng cao
chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí và sức khỏe.
Kinh tế hộ đã khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế tạo đà
cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, sôi động với việc sử dụng hiệu quả hơn đất đai
lao động, tiền bạc, công nghệ và lợi thế sinh thái vùng - đưa nông nghiệp, nông thôn
nói riêng và toàn ngành kinh tế nói chung đạt được những mục tiêu, chiến lược đề
ra một cách vững chắc.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49

9
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
Phần II: TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ SXKD
I. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG (TDNH)
1. Khái niệm
Thuật ngữ “tín dụng” (credit) xuất phát từ chữ Latinh “credo” có nghĩa là “tin
tưởng tín nhiệm”. Không phải ngẫu nhiên mà từ này được sử dụng để biểu hiện cho
quan hệ vay mượn - một mối quan hệ nhạy cảm, khá tế nhị mà có thể nói sự tin
tưởng và tín nhiệm nhau là một yếu tố quyết định.
Thuật ngữ “Tín dụng” cũng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy theo từng
bối cảnh quan hệ tài chính khác nhau. TDNH là một sự thống nhất khái niệm chức
năng giữa tín dụng và ngân hàng.
Có thể nói ngân hàng là nơi biểu hiện tập trung nhất mọi hoạt động kinh tế của
đất nước, những thông tin có liên quan đến hoạt động ngân hàng luôn là mối quan
tâm hàng đầu của các thành phần kinh tế. Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế,
hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ, trong đó hoạt động nợ cho khách hàng trên cơ sở tín
nhiệm là hoạt động chủ yếu.
Tín dụng xét trên cơ sở chức năng hoạt động của ngân hàng sẽ được hiểu là: một
giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên vay (NH và các định chế tài chính
khác) và bên đi vay (cá nhân, tập thể và các chủ thể khác), trong đó cho vay chuyển
giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận về
thời gian, phương thức thanh toán, tài sản đảm bảo,… và bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi hết hạn thanh toán
Như vậy TDNH là một giao dịch về tài sản dựa trên cơ sở hoàn trả với những
đặc trưng cơ bản sau:
+ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, do vậy, hoạt động Tín dụng của ngân hàng
phải có cơ sở để tin rằng người đi vay có thể trả đủ và đúng hạn. Vấn đề thông tin là
cơ sở ban đầu nhưng để quyết định việc mở một quan hệ tín dụng, khả năng hoàn
trả luôn được tính đến với những nguyên tắc hoàn trả nhất định.
+ Giá trị hoàn trả trong quan hệ tín dụng phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, tức

người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Với đặc trưng này cả ngân hàng
và khách hàng đều quan tâm đến lãi suất tiền vay. Ngân hàng luôn muốn mức lãi
suất đủ để đáp ứng cho những chi phí trong hoạt động kinh doanh của mình, mặt
khác khách hàng thì luôn mong đợi lãi suất thấp nhằm gia tăng tối đa lợi nhuận
trong hoạt động sản xuất kinh doanh hay đảm bảo tốt hơn khả năng trả nợ đúng hạn.
Hệ thống lãi suất luôn là vấn đề tạo nên tính cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
10
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
Theo tốc độ phát triển kinh tế, nhu cầu của khách hàng trong lĩnh vực tín dụng
ngày càng đa dạng, không chỉ bằng tiền mà xuất hiện thêm hinh thức mới là cho
thuê bất động sản, làm đa dạng hóa các hình thức dịch vụ của ngân hàng đáp ứng
mọi nhu cầu của khách hàng.
Do bản chất quan hệ tín dụng là một quan hệ phức tạp và nhạy cảm, nên những
vấn đề phát sinh xung quanh nó nhiều và đòi hỏi sự khắt khe trong quản lý để đảm
bảo quan hệ tín dụng thực sự diễn ra có hiệu quả cho cả ngân hàng và khách hàng
tránh tối đa những rủi ro có thể phát sinh.
Một quan hệ tín dụng được gọi là hoàn hảo nếu các đặc trưng cơ bản trên được thỏa
mãn tức là người đi vay sử dụng hiệu quả vốn vay và hoàn trả đầy đủ cả vốn gốc lẫn
lãi đúng thời hạn.
2. Phân loại
Phân loại TDNH là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một số tiêu
thức nhất định. Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp giảm thiểu rủi ro,
mang lại hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng
Dưới đây là một số tiêu thức phân loại chính và hiệu quả tác động của mỗi tiêu
thức:
2.1. Phân loại theo thành phần kinh tế
Bước vào quá trình đổi mới, nền kinh tế nước ta phát triển theo cơ chế thị trường
với sự đa dạng của các thành phần kinh tế. Bằng cách phân loại khách hàng tín dụng
theo thành phần kinh tế sẽ xác định được xác định một cách chính xác đối tượng

chính tham gia vào hoạt động TDNH và ảnh hưởng của TDNH tới hoạt động của
đối tượng đó cũng như hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Từ đó ngân
hàng sẽ có hướng đầu tư hợp lý vào các đối tượng khách hàng, đảm bảo sự phân bổ
vốn tín dụng cân đối, đa dạng hóa các đối tượng khách hàng.
2.2. Phân loại theo mục đích cho vay
Theo tiêu thức phân loại này TDNH được chia thành các loại sau:
+ Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu,…
Phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Cho vay công nghiệp thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ
+ Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
các vật dụng đắt tiền, trang trải các chi phí thông thường của đời sống,…
Cách phân loại này, hoạt động tín dụng của ngân hàng bám sát những mục tiêu
phát triển kinh tế của địa phương cũng như của cả nước, có tác động đến quá trình
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
11
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn góp phần xây dựng cơ cấu kinh
tế hợp lý phù hợp với cơ chế thị trường.
2.3. Phân loại theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này TDNH được chia ra làm 3 loại :
+ Cho vay ngắn hạn: được xác định tính đến 12 tháng và phù hợp với những
kế hoạch, mô hình sản xuất nhỏ có chu kì ngắn.
+ Cho vay trung hạn: được quy định trên 12 tháng đến 5 năm, chủ yếu được
sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hay thay đổi công nghệ, thiết bị,
mở rộng SXKD… trong nông nghiệp, đối tượng đầu tư chủ yếu là máy cày, bơm
nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như café, điều…
+ Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa
có thể lên tới 20-30 năm…

Tín dụng dài hạn về cơ bản là đáp ứng các nghiệp vụ dài hạn. Trong nông
nghiệp, TDNH dài hạn thường đầu tư cho những dự án trồng rừng, trồng cây lâu
năm…
2.4. Phân loại theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, TDNH được chia thành 2 loại:
+ Cho vay không đảm bảo (cho vay tín chấp) : Là loại cho vay không có tài
sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh của người thứ 3. Đối với những hộ hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo quy định rõ ràng của nhà nước về mục
đích sản xuất thì không cần bảo đảm bằng tài sản khi vay vốn TDNH: hộ sản xuất
nông nghiệp được vay đến 10 triệu đồng, hộ phát triển kinh tế trang trại hay sản
xuất hàng hóa được vay đến 30 triệu đồng không cần tài sản đảm bảo, và đến 50
triệu đồng đối với hộ vay vốn sản xuất giống thủy hải sản…
+ Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp, cầm cố hay phải có sự bảo lãnh của người thứ 3. Bảo đảm tiền vay là cần thiết
và là căn cứ để NH có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ
nhất trong trường hợp món vay nhiều rủi ro, thiếu chắc chắn.
Ngoài các tiêu thức phân loại trên, TDNH còn được phân loại theo các tiêu
thức khác như theo phương pháp hoàn trả, theo xuất sứ tín dụng,…
Với từng phương thức phân loại khác nhau, các nhà phân tích sẽ nắm bắt
được kết cấu của từng loại tín dụng, của từng loại khách hàng một cách chính xác
nhất, giúp họ đánh giá, xem xét liệu mỗi kết cấu tín dụng đã phù hợp với Ngõn
hàng, phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế chung chưa, để từ đó đưa ra các giải
pháp thích hợp mang lại hiệu quả cao nhất cho mỗi loại tín dụng được mở.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
12
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ
SXKD
Đối với các hộ SXKD hiện nay, vốn vẫn luôn là vấn đề gây khó khăn nhất cho
hoạt động SXKD của hộ - tình trạng thiếu vốn là phổ biến và nghiêm trọng, làm

chậm tiến trình thực hiện các nhiệm vụ kinh tế.
Giải quyết vấn đề vốn cho hoạt động SXKD, với đồng vốn tự có không đáng kể,
hộ phải tham gia các hình thức tài chính tiêu cực ở nông thôn như cho vay nặng lãi,
hụi, bán lúa non,… gây ảnh hưởng tâm lý, xã hội xấu, đồng thời cũng không mang
lại hiệu quả cao cho hoạt động SXKD. Nhờ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà
nước, TDNH dần chiếm vai trò chủ đạo trong hoạt động đầu tư vốn cho hộ SXKD.
Có thể nói sau hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng thực hiện thành công trong
cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, TDNH trở thành người bạn đồng hành tin cậy của
hộ.
Dưới đây là một số vai trò cụ thể của TDNH đối với kinh tế hộ SXKD:
1. TDNH đáp ứng nhu cầu vốn của hộ SXKD
Dự đã đạt được khá nhiều những kết quả khả quan, kinh tế hộ vẫn gặp phải
rất nhiều khó khăn về vốn sản xuất. Do đặc điểm sản xuất của hộ nông dân mang
tính hợp, nhiều đối tượng sản xuất với chu kì sản xuất đan xen nhau nên nhu cầu
vay tối đa để sản xuất một loại sản phẩm nông nghiệp tại một thời điểm của hộ
thường không cao nhưng nhu cầu vốn lại yêu cầu rải rác suốt chu kì sản xuất, đồng
thời đa số hộ khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hóa để bán thì chưa có thu
nhập . Vốn TDNH là hình thức đầu tư vốn linh động, phù hợp với mọi nhu cầu vốn
SXKD của hộ, giúp hộ tận dụng tối đa những tiềm lực kinh tế sẵn có.
2. TDNH giúp vấn đề việc làm được giải quyết một cách tích cực
Hiện nay, hơn 70% dân số nước ta sống ở nông thôn và sản xuất nông
nghiệp. Các hộ SXKD đều ở quy mô nhỏ, lẻ kết hợp với tính thời vụ sản xuất nông
nghiệp thì vấn đề thếu việc làm trong thời gian nông nhàn, hay ngay cả trong mùa
vụ là thường xuyên. Như vậy, bằng việc hỗ trợ vốn TDNH tích cực cho hộ SXKD,
giúp hộ mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hóa các đối tượng sản xuất, mang lại
hiệu quả cao trong vấn đề tọa việc làm liên tục cho hộ, nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống cho hộ
3. TDNH giúp phát triển các làng nghề truyền thống, ngành nghề mới
Nước ta là một nước có nhiều ngành nghề truyền thống, với tay nghề, trình
độ kỹ thuật cao, không chỉ khảng định được vị trí của mình trong nước mà cả trên

trường quốc tế như: làng lụa Vạn Phúc (Hà Tây), làng gốm Bát Tràng…trong điều
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
13
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
kiện hiện nay, việc tập trung phát triển hợp lý các làng nghề truyền thống sẽ mang
lại hiệu quả cao cho nền kinh tế qua xuất khẩu và thu hút du lịch.
TDNH là một trong những giải pháp về vốn.
Đa số các cơ sở sản xuất nghề truyền thống đều nằm sâu trong làng, đi lại
khó khăn, nhiều món vay nhỏ, lẻ, khiến việc tham gia đầu tư TDNH gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, với sự nhiệt tình trong hoạt động của mình, TDNH đã góp phần
tích cực vào sự khôi phục và phát triển của các làng nghề truyền thống cùng các
làng nghề mới.
Phát huy được các làng nghề cũng chính là phát huy được các nội lực của
kinh tế hộ và TDNH đã, đang và sẽ là công cụ tài trợ hiệu quả cho hoạt động kinh tế
nông thôn.
4. Thúc đẩy quá trình tập trung vốn và ổn định sản xuất
Bước sang cơ chế thị trường với sự chuyên môn hóa ngày càng cao, tập trung
vốn là điều kiện cần thiết để sản xuất kinh doanh thực sự mang lại hiệu quả. Trước
đây, kinh tế hộ chủ yếu sản xuất theo hướng tự phát, tự cấp, xuất phát từ nhu cầu
của cá nhân mình trước, hiệu quả kinh tế mang lại không cao. Với sự tham gia của
TDNH ta có thể nhìn từ hai phương diện để thấy được tác động tích cực của TDNH
đối với quá trình tập trung vốn và ổn định sản xuất.
Về phía Ngân hàng luôn quan tâm và thực hiện tốt mối quan hệ giữa tiết
kiệm và đầu tư, bằng đồng vốn huy động được, Ngân hàng luôn mong muốn sử
dụng nó trong quan hệ tín dụng một cách có hiệu quả, do vậy, khi thực hiện quan hệ
tín dụng đối với hộ, ngân hàng luôn trú trọng một cách sâu sát đến kế hoạch sản
xuất kinh doanh của hộ, tránh những việc sử dụng lãng phí vốn vay, không tập
trung vào mục đích sản xuất.
Còn về người vay, vay vốn Ngân hàng với những ràng buộc nhất định đòi hỏi hộ
phải biết tập trung vốn như thế nào để sản xuất mang lại lợi nhuận cao nhất nhằm

hoàn thành tốt quan hệ tín dụng cũng như quy mô sản xuất sẽ ngày càng được mở
rộng.
5. TDNH giúp giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội
TDNH ngoài những vai trò to lớn về mặt kinh tế còn đóng góp một vị trí không nhỏ
trong các vấn đề chính trị, xã hội.
Trước đây, khi TDNH chưa thực sự nằm trong suy nghĩ của người dân bởi sự
xa lạ của hoạt động của NH và những thủ tục vay mượn phức tạp; cán bộ tín dụng
thì ngại tiếp xúc với đối tượng vay là kinh tế do khó quản lý, giám sát và chưa có
quy định cụ thể,…do vậy để thỏa mãn nhu cầu vốn cho SXKD, người dân phải tìm
đến những hình thức như: hụi, vay nặng lãi, bán lúa non, ; không những không
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
14
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
mang lại hiệu quả mà còn gây tâm lý, thói quen xấu. Bằng những đổi mới và cách đi
đúng đắn, TDNH đã dần tạo được chỗ đứng trong suy nghĩ của người dân, đẩy lùi
các hình thức tài chính tiêu cực trong nông thôn, giúp hộ yên tâm sản xuất.
Bên cạnh đó, việc cho vay mở rộng sản xuất đã góp phần giải quyết tốt vấn
đề việc làm cho người lao động, khôi phục truyền thống tốt đẹp của từng địa
phương, hạn chế tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan…
TDNH cũng góp phần thực hiện thành công các chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chính sách xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ
dân trí,…tạo lòng tin ngày càng lớn đối với hộ nông dân.
6. TDNH đưa tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào từng hộ SXKD
Bằng việc không ngừng đầu tư vốn cho hộ SXKD mở rộng sản xuất, phát
triển thêm nhiều loại đối tượng sản xuất, TDNH đã góp phần thúc đẩy hộ SXKD
tiếp cận nhiều hơn với với tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới, hộ sản xuất đã
đưa máy móc, thiết bị vào sản xuất nhiều hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn;
đồng thời áp dụng vào việc những giống cây, con mới, quy trình sản xuất mới…
năng xuất lao động và cây trồng cũng tăng thêm đáng kể.
Mặt khác đối với những mục tiêu phát triển kinh tế cụ thể cho từng địa

phương, TDNH có thể thay việc chuyển giao vốn vay bằng tiền, bằng máy móc,
thiết bị, giống cây, con hay thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc để phục vụ trực tiếp cho
quá trình SXKD của hộ.
Như vậy, TDNH đã đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh tế hộ, giúp mở rộng quy mô
SXKD , phát triển thêm nhiều ngành nghề trong nông thôn; TDNH cũng giúp khai
thác tốt mọi tiềm năng sẵn có của hộ về lao động, tài nguyên, hay các nguồn lực
khác, giúp cải thiện đời sống của họ, tăng sản phảm cho xã hội, đồng thời thực hiện
một cách nhanh nhất những mục tiêu phát triển kinh tế chung của địa phương và cả
nước.
TDNH cũng giúp hộ sản xuất kinh doanh tiếp cận nhanh hơn những tiến bộ
khoa học, tham gia vào loại hình dịch vụ tài chính tiện ích nhất, tiếp cận gần hơn
với cơ chế thị trường, tạo chỗ đứng và những bước xây dựng nền kinh tế sản xuất
hàng hóa với quy mô lớn.
TDNH hạn chế các hình thức cho vay vốn tiêu cực trong nông thôn cũng như
các tệ nạn xã hội, giúp giải quyết việc làm, xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý thực
hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn.
TDNH đã khẳng định một cách chắc chắn vai trò quan trọng của mình đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
15
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
III. YÊU CẦU CỦA HỘ SXKD ĐỐI VỚI TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Nước ta là một nước nông nghiệp truyền thống, cho đến nay sản xuất nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế - kinh nghiệm sản xuất nông
nghiệp là vốn tự có ở tất cả các hộ nông nghiệp nước ta, tuy nhiên hộ chưa thực sự
biết tận dụng hết khả năng của mình trong sản xuất và trong tiếp thu tiến bộ khoa
học, cũng như chưa biết cách tiếp cận với TDNH – một hình thức cho vay tài chính
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động SXKD của hộ. Do vậy TDNH đối với hộ
SXKD trước hết phải thực sự gần gũi với hộ, làm cho hộ thực sự hiểu được sự hỗ
trợ tích cực của vốn TDNH, thấy được những mặt lợi khi tham gia một quan hệ

TDNH để có thể đa dạng hóa vốn SXKD của mình.
Tín dụng là một hình thức vay mượn tài chính đặt trong sự kiểm soát, quản
lý chung của nhà nước, do vậy, nó cũng phải tuân theo những qui chế nhất định về
thủ tục vay vốn. mặt khác, đối với đối tượng vay vốn là hộ SXKD, một chủ thể
kinh tế cơ bản, quan trọng của nền kinh tế nhưng còn ở mức độ phát triển thấp như
nước ta thì để phát huy cao nhất hiệu quả của TDNH, không thể không xem xét
những yêu cầu đặt ra của hộ đối với vốn TDNH.
Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn cũng như hộ SXKD có những đặc
thù riêng có của nó đòi hỏi sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ NH:
+ Về thủ tục vay vốn:
Hộ nông nghiệp nước ta chủ yếu đi lên từ sản xuất tự nhiên, cách nghĩ, cách
làm còn mang tính tự phát, đơn giản, do vậy, khi thiếu vốn sản xuất, hộ thường vay
mượn ở những nơi tạo tâm lý thuận tiện nhất cho hộ (hàng xúm) với sự đơn giản
tuyệt đối về thủ tục vay mượn dự lãi xuất vay cao, lợi nhuận mang lại cho hộ không
đáng kể. Để TDNH thực sự là nguồn cung ứng vố hiệu quả cho hộ, yêu cầu trước
hết là những bước thủ tục vay vốn NH đặt ra: liệu đã phù hợp với giá trị mỗi món
vay khác nhau, với mỗi kế hoạch sản xuất của hộ thì mưc tiền vay là bao nhiâu.
+ Về thời hạn vay vốn:
Với mỗi đối tượng sản xuất cây, con khác nhau lại có một chu kỳ sinh trưởng, phát
triển khác nhau. Mặt khác hộ lại thường phối kết hợp nhiều loại cay con dẫn tới sự
đa dạng về chu kỳ sống tương ứng là sự đa dạng về thời gian thu hoạch – mà thông
thường chỉ khi thu hoạch hộ mới có khả năng trả nợ NH. Do vậy xác định một thời
hạn vay vốn hợp lý là yêu cầu quan trọng đối hộ nông, đảm bảo sự hỗ trợ tích cực
của vốn TDNH Đối với hộ SXKD.
Thời hạn cho vay cũng phải đảm bảo tính thời vụ cao của sản xuất nông nghiệp,
tránh trường hợp lúc thừa vốn, lúc lại thiếu vốn.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
16
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
Ngoài ra, TDNH cho kinh tế hộ cũng phải đảm bảo khuyến khích hộ vay vốn trung,

dài hạn với sự phối kết hợp các đối tượng cây, con một cách hợp lý; có sự xen kẽ
các hợp đồng tín dụng theo từng đối tượng sản xuất, lấy ngắn nuôi dài, đảm bảo
hiệu quả sử dụng vốn tốt hơn, hộ thường bị áp lực trả nợ NH đè nặng.
+ Về mức lãi suất vay vốn
Tham gia sản suất nông nghiệp, hộ gặp khá nhiều rủi ro. Rủi ro phát sinh từ ngay
trong quá trình SXKD của hộ hay khi đã đưa nông sản ra thị trường. Điều này ảnh
hưởng không nhỏ tới thu nhập của hộ. Mặt khác, với mỗi đối tượng sản xuất khác
nhau lại mang lại mức thu nhập khác nhau và có mức rủi ro khác nhau. Do vậy,
trong cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn mức lãi suất phù hợp với đặc điểm
sản xuất của hộ cũng là vấn đề hộ đặc biệt quan tâm.
+ Về xử lý rủi ro
Như trên ta đã nhắc đến vấn đề rủi ro trong hoạt động SXKD của hộ. Khi hộ gặp
phải vấn đề này, bên cạnh những lý do chủ quan, không thể bỏ qua những nguyên
nhân khách quan – điều này đòi hỏi sự đánh giá, xử lý khách quan, hợp lý của Ngân
hàng.
+ Về hình thức cấp phát vốn:
Hộ SXKD có nhiều quy mô sản xuất với trình độ sản xuất khác nhau như: hộ
nghèo, hộ trung bình, hộ khá, hộ giầu; việc cung ứng vốn TDNH không thể đánh
đồng tất cả các hộ là một, cũng không thể lúc nào cũng cho hộ vay bằng tiền mặt.
Hộ thiếu vốn sản xuất, Ngân hàng phải là người cung ứng vốn sáng suốt, xác định
loại vốn nào là cần thiết với hộ để đồng vốn được sử dụng tốt nhất.
+ Về bảo đảm tiền vay:
Cho đến nay dự đã được sửa đổi nhiều để phù hợp hơn với điều kiện vay vốn của hộ
thì vẫn nằm trong mối quan tâm của hộ khi tham gia vay vốn TDNH. Vốn tự có của
hộ hầu như là không đáng kể, chủ yếu là quyền sử dụng đất nhưng vẫn còn gặp
nhiều khó khăn trong vấn đề hoàn tất thủ tục pháp lý, do vậy, TDNH phải hiểu rõ
hoàn cảnh của hộ để có biện pháp linh động trong đáp ứng nhu cầu vốn của hộ
SXKD.
Về cơ bản, TDNH phải thực sự thấu hiểu và đặt mình trong từng loại hình SXKD
của hộ để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn của hộ.

SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
17
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
PHẦN III: HIỆU QUẢ CỦA TDNH ĐỐI VỚI HỘ SXKD
I. QUAN ĐIỂM VỀ HIỆU QUẢ CỦA TDNH ĐỐI VỚI HỘ SXKD
Như ở trên ta đã nói, quan hệ TDNH thực chất là quan hệ cho vay giữa một
bên là ngân hàng, một bên là hộ SXKD nói riêng; và để có được một mối quan hệ
tín dụng hoàn hảo, về cơ bản cả bên cho vay và bên đi vay đều thỏa mãn được mục
đích của mình khi bắt đầu một quan hệ tín dụng.
TDNH là một quan hệ khá phức tạp và có nhiều vấn đề phát sinh. Do vậy
việc đánh giá hiệu quả của TDNH đối với các đối tượng vay vốn nói trung và đối
tượng hộ SXKD, trước hết ta cần phải chú ý đến các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động của các đối tượng tham gia quan hệ tín dụng:
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hộ SXKD trong quan hệ TDNH
1.1. Khả năng sử dụng vay vốn của hộ SXKD
Hộ SXKD là đơn vị lập phương án SXKD, dự án xin vay và sau khi được
Ngân hàng chấp nhận cho vay thì hộ SXKD chính là đơn vị trực tiếp sử dụng vốn
vay vào các mục đính TDNH của mình. Do vậy, khả năng sử dụng vốn vay đúng
mục đính của hộ là vấn đề quyết định ảnh hưởng đến hiệu quả của TDNH.
Sự phối kết hợp của các thành viên, lao động trong hộ ra sao, đã hợp lý với quy mô
và nội dung SXKD hay chưa?
Phương án SXKD được xây dựng đã chặt chẽ hay chưa? Chi phí phát sinh, yêu cầu
của thị trường về sản phẩm, kế hoạch sản xuất,… phải được tính toán cụ thể đầy đủ
thì khả năng trả nợ NH mới cao, hiệu quả của quan hệ TDNH mới tốt.
1.2. Rủi ro trong hoạt động SXKD của hộ
Hoạt động SXKD của hộ chủ yếu nằm trong lĩnh vực nông nghiệp, có sự gắn
bó chặt chẽ với điều kiện tự nhiên (khí hậu, thời tiết,…) trong khi giá cả biến động
bất thường với một nghịch lý là nỗi lo về giá cả đến với nông dân cả khi được mùa
và mất mùa.
Rủi ro - những biến cố phát sinh ngời ý muốn, đem lại hậu quả xấu - có thể

coi là không hề xa lạ đối với hộ SXKD, do vậy để mở ra một quan hệ tín dụng với
NH, thực hiện tốt một phương án SXKD, hộ phải thực sự chú ý đến vấn đề rủi ro có
thể phát sinh để đảm bảo SXKD có lãi và khả năng thanh toán nợ.
1.3. Những quy định, chính sách hỗ trợ hộ SXKD vay vốn
Từ khi hộ gia đình được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt động SXKD
của hộ đã được các cấp lãnh đạo chú trọng với việc ban hành hàng loạt các văn bản
pháp quy quy định quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các hộ SXKD trong các quan
hệ kinh tế, đặc biệt là trong quan hệ tín dụng với các NHTM, tạo điều kiện thuận lợi
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
18
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
cho các hộ SXKD được tiếp cận gần hơn với vốn TDNH, đáp ứng nhu cầu về vốn
cho hoạt động sản xuất kinh doanh như: Nghị định số 41/2010/NĐ – CP ngày
12/04/2010 về một số chính sách TDNH phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
văn bản số của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam về việc thực hiện một số
chính sách TDNH phục vụ việc phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm triển khai
cụ thể các chủ trương lớn của Chính phủ và NHNN; Văn bản số 13/2010/TT-
NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng;
Văn bản 14/2010/TT-NHNN hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị định số
41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn; Thông tư số 20/2010/TT-NHNN hướng dẫn
thực hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ tổ chức tín
dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn…
1.4.Tài sản đảm bảo
Hộ SXKD cho đến nay, vốn tự có chủ yếu không đáng kể, do vậy một quan
hệ tín dụng để diễn ra thường gặp nhiều khó khăn. Là một tổ chức tài chính, các
NHTM thực hiện hoạt động kinh doanh của mình trên cơ sở phải mang lại lợi nhuận
do vậy không thể thực hiện một quan hệ tín dụng với khách hàng đơn thuần chỉ dựa
vào lịng tin, tư cách của khách hàng hay một kế hoạch sản xuất kinh doanh hoàn
thiện,…Tài sản đảm bảo là một yếu tố khách quan tồn tại trong một quan hệ tín

dụng để minh chứng cho khả năng thu hồi vốn vay cả gốc và lãi của NH là có thể,
và khách hàng cũng có ý thức hơn trong sử dụng vốn vay.
Với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng đất lâu
dài, hộ SXKD đã chủ động hơn trong vay vốn kết hợp với những hỗ trợ của Đảng
và Nhà nước, của ngành về cơ chế cho vay không cần tài sản đảm bảo theo mục tiêu
phát triển kinh tế đát nước.
2.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động TDNH
2.1.Trình độ của cán bộ tín dụng
Tiếp xúc trực tiếp với khách hàng trong mối quan hệ tín dụng chính là cán bộ
tín dụng (CBTD), do vậy, muốn nâng cao được hiệu quả của TDNH việc đầu tư cho
chất lượng cho cán bộ tín dụng là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Đặc biệt trong cho
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn - một lĩnh vực đặt ra nhiều khó khăn cả bên cho
vay và bên đi vay – sự am hiểu, kiến thức về sản xuất và kinh doanh nông nghiệp
của CBTD là rất cần thiết; có hiểu, có biết thì mới đảm bảo cho vay đúng và có ý
nghĩa trong việc cải thiện đời sống cho hộ nông dân.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
19
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
2.2.Thông tin tín dụng
Là vấn đề nhận được sự quan tâm, chú ý cao trong công tác quản trị. Hoạt
động TDNH muốn đạt được hiệu quả cao, an toàn, cần phải có hệ thống thông tin
hữu hiệu, chính xác, linh hoạt, kịp thời. Thực hiện cho vay hộ nông dân có đối
tượng sản xuất và điều kiện sản xuất chịu nhiều rủi ro, bất trắc do những ảnh hưởng
của ngoại cảnh – việc nắm bắt đầy đủ, chính xác thông tin SXKD của hộ sẽ giúp
Ngõn hàng có những phản ứng hợp lý.
2.3.Chính sách tín dụng
Phản ánh định hướng cơ bản cho hoạt động tín dụng, nó có ý nghĩa quyết
định đến sự thành công hay thất bại của Ngõn hàng. Ngõn hàng phải luôn có chính
sách tín dụng phù hợp với đường lối phát triển kinh tế chung, cho vay hộ nông dân
không thể chỉ chăm chăm đến lợi nhuận thu về mà phải đặt vào định hướng đầu tư

của chính sách tín dụng của ngành và Nhà nước.
2.4. Quy trình tín dụng
Là khái niệm dựng để chỉ một quy trình bắt đầu từ khâu chuẩn bị cho vay,
phát tiền vay, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay, đến khi thu hồi được nợ - tất cả
các công đoạn của quá trình phải được thực hiện một cách nghiêm túc đúng qui
định đã đề ra, nhằm đảm bảo quan hệ tín dụng được thực hiện hoàn hảo.
Bên cạnh những nhân tố trên, ảnh hưởng đến hiệu quả của TDNH còn có
Công tác tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng; công tác kiểm tra, kiểm soát
nội bộ,… Tất cả cần được chú ý và phối kết hợp thực hiện một cách thống nhất đảm
bảo mọi quan hệ tín dụng phát sinh đều được thực hiện, kiểm soát và hoàn thành
tốt, hạn chế tối đa những rủi ro co thể xảy ra.
Hộ SXKD vừa nằm trong các mối quan hệ kinh tế, vừa chịu ảnh hưởng của
các mối quan hệ xã hội, do vậy, các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả SXKD của hộ
ảnh hưởng đến quan hệ TDNH là rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi không chỉ sự
quan tâm chú ý của hộ mà còn cả NH để có thể có được những qui định, điều kiện
chính sách cho hộ vay một cách hợp lý, tăng khả năng tiếp cận của hộ với tiến bộ
khoa học, với các yếu tố của cơ chế thị trường ;…
3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả TDNH đối với hộ SXKD
Nâng cao hiệu quả của TDNH đối vối hộ SXKD thực chất là nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn của hộ nói chung, vốn TDNH nói riêng; đồng thời là làm tròn chức
năng hỗ trợ vốn của Ngõn hàng cho hộ SXKD.
+ Đối với hộ SXKD:
Vốn TDNH không phải là hình thức cấp phát vốn miễn phí, từ thiện cho hộ
dự đối với những đối tượng hộ nhất định nằm trong chính sách tác động của Nhà
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
20
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
nước thì cũng chỉ ở mức lãi suất vay vốn thấp hơn, hay tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho họ tiếp xúc với vốn TDNH – nhiệm vụ của hộ vẫn phải hoàn trả vốn và lãi cho
Ngân hàng sau một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, trước tiên, việc nâng cao

hiệu quả của TDNH đối với hộ SXKD đảm bảo cho hộ có khả năng hoàn thành tốt
hơn nhiệm vụ của mình với bên cho vay vốn là Ngõn hàng. Hoàn thành tốt một
quan hệ tín dụng tức là đã khẳng định hiệu quả hoạt động của vốn TDNH đối với
hoạt động SXKD của hộ.
Tuy nhiên, mục tiêu của hộ trong sử dụng vốn TDNH không phải là để trả nợ
Ngõn hàng dự đó là nhiệm vụ tất yếu của hộ. Vốn TDNH cũng như các nguồn vốn
hỗ trợ khác đều nhằm mục đích cải thiện cuộc sống cho hộ SXKD, nâng cao thu
nhập, mở rộng dần qui mô sản xuất, tiến gần hơn tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế
hàng hóa có qui mô ngày càng lớn. Nói một cách đơn giản, nâng cao hiệu quả của
vốn TDNH đối với hộ SXKD tức là nâng cao khả năng sinh lời từ một đồng vốn
TDNH, mang lại hiệu quả kinh tế ngày càng cao cho hộ SXKD.
Mặt khác, hộ SXKD với đấy đủ lợi thế về lao động, tư liệu sản xuất, kinh
nghiệm sản xuất,… nhưng lại gặp khó khăn lớn trong vấn đề tìm vốn dể phục vụ
cho nhu cầu sản xuất. Vốn TDNH là một giải pháp; việc tham gia của vốn TDNH
vào hoạt động sản xuất của hộ không chỉ giải quyết nhu cầu vốn cho hộ mà hơn hết
giúp hộ có thể đa những lợi thế sẵn có của mình vào sản xuất, mang lại thu nhập cao
hơn cho hộ. Việc nâng cao hiệu quả của vốn TDNH đối vối kinh tế hộ tương ứng là
giúp hộ khai thác ngày càng tốt hơn các tiềm năng, lợi thế sẵn có, biết lợi dụng tốt
những tài sản có sẵn trong tay. Sản xuất nông nghiệp cũng phụ thuộc nhiều vào điều
kiện tự nhiên, do vậy, rủi ro cao – việc nâng cao hiệu quả của TDNH đối với hộ
SXKD cũng giúp hộ có hướng đề phòng với rủi ro một cách chủ động nhất, tránh để
rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động SXKD của mình.
Nâng cao hiệu quả của TDNH đối với hộ là nâng cao khả năng sử dụng vốn
của hộ SXKD, tức là khẳng định khả năng hoạt động của kinh tế hộ trong nền kinh
tế - là bước đầu tiên để xây dựng một nền kinh tế sản xuất hàng hóa với quy mô lớn.
Đầu tư vốn TDNH cho kinh tế hộ rất đa dạng về hình thức đầu tư, không chỉ
đầu tư bằng tiền mặt mà có thể bằng sự chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
hoạt động sản xuất của hộ, đặc biệt trong định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn của nước ta, việc nâng cao hiệu quả của TDNH là hoạt
động thiết thực để đưa khoa học kỹ thuật vào nụng nghiệp, nông thôn.

+ Đối với Ngân hàng :
Các NHTM trước hết là một đơn vị kinh tế, hoạt động kinh doanh tiền tệ,
nên giống như các đơn vị kinh tế khác, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của Ngân
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
21
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
hàng . Công tác nghiên cứu tìm giải pháp nâng cao hiệu quả TDNH – hoạt động
mang lại lợi nhuận chính cho NH – đối với hộ SXKD là biện pháp tích cực, có ý
nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hoàn hảo quan hệ tín dụng, thu hồi cả vốn lẫn
lãi.
Hoạt động tín dụng của NH có vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn
cho hộ SXKD, giúp duy trì và phát triển hoạt động SXKD của hộ. Đồng thời, lĩnh
vực nông nghiêp, nông thĩn là lĩnh vực nhận được rất nhiều sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước, của ngành; do vậy, nâng cao hiệu quả của TDNH đối với hộ SXKD là
nâng cao chức năng hỗ trợ vốn cho hộ SXKD và đảm bảo thực hiện tốt những
nhiệm vụ được giao, hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương đối với
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
II. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA TDNH ĐỐI VỚI KINH TẾ
HỘ SXKD
Như trên, ta đã thấy vai trò quan trọng của việc nâng cao hiệu quả TDNH đối
với kinh tế hộ, do vậy, xây dựng nhưng phương thức, biện pháp cụ thể và có biện
pháp hỗ trợ cho việc đo lường hiệu quả của một quan hệ tín dụng là cần thiết.
1. Chỉ tiêu định tính.
Trong mỗi quan hệ tín dụng, cảm giác ban đầu về nhau đóng vai trò rất quan
trọng. Với khách hàng là hộ SXKD, thời gian để hộ bắt đầu có mối quan hệ tín dụng
với Ngân hàng chưa đủ dài, tâm lý của hộ nói chung còn e ngại và chủ yếu tim đến
Ngân hàng là do sự giới thiệu của bạn bè nhiều hơn là do nắm bắt được những
thông tin trực tiếp từ phía Ngân hàng. Tâm lý trên đó khiến việc trình bày nhu cầu
vay vốn, kế hoạch sản xuất với Ngân hàng sẽ gặp khó khăn, cán bộ tín dụng có thể
không hiêu hết nhu cầu của hộ, hộ hoặc là sẽ không thoả mãn hoàn toàn nhu cầu

vốn, hoặc là sẽ tìm cách vay vốn khác dễ tiếp xúc hơn.
Những nhận định mang tính cảm giác ban đầu dự không có tính chất quyết
định trong việc đo lường hiệu quả của TDNH nhưng cũng đóng góp một vị trí quan
trọng, phần nào đánh giá chính xác hiệu quả TDNH nhưng cũng đóng góp một vị trí
quan trọng, phần nào đánh giá chính xác hiệu quả TDNH đối với hộ SXKD nói
riêng.
2. Các chỉ tiêu định lượng
Đánh giá hiệu quả của TDNH đối với hộ SXKD cần phải có sự phân tích từ
cả hai phía: hộ SXKD và Ngân hàng, bởi xét trên một khía cạnh nào đó, hộ có sử
dụng vốn tín dụng hiệu quả thì Ngân hàng mới có kết quả hoạt động tốt .
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
22
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
Dưới đây là các chỉ tiêu chủ yếu được các nhà phân tích sử dụng trong việc
đánh giá hiệu quả TDNH đối với kinh tế hộ.
2.1. Tỷ lệ dư nợ của kinh tế hộ
Dư nợ là một khái niệm quan trọng trong biểu hiện khả năng sử dụng vốn
của mỗi Ngân hàng. Hộ SXKD là đối tượng khách hàng của Ngân hàng, do vậy, có
thể nói dư nợ của Ngân hàng dành cho kinh tế hộ càng cao thì quy mô, hiệu quả
hoạt động của Ngân hàng cho kinh tế hộ càng lớn. Để tính tỷ lệ dư nợ kinh tế hộ ta
sử dụng công thức :
Tỷ lệ dư nợ Dư nợ kinh tế hộ
= (x100%)
kinh tế hộ Tổng dư nợ
Bằng cách tính này, ta sẽ cơ bản thấy được TDNH tham gia vào hoạt động
SXKD của hộ ở quy mô nào, có liên tục tăng cao qua các năm hay không – có tăng
thì mới khả năng hoạt động hiệu quả của TDNH đối với kinh tế hộ.
2.2. Tỷ lệ nợ quá hạn (NQH) của kinh tế hộ
Mỗi một nhóm vay đều có hạn trả vốn gốc và lãi xác định trong tương lai,
khách hàng không thực hiện nhiệm vụ hoàn trả đúng ngày mà chưa được gia hạn nợ

được coi là NQH.
Để tính tỷ lệ NQH kinh tế hộ, ta có thể sử dụng công thức:
Tỷ lệ NQH NQH kinh tế hộ
= (x100%)
kinh tế hộ Dư nợ kinh tế hộ
Trong phân loại kết cấu của tổng dư nợ, tỷ lệ giữa NQH và các khoản nợ
trong hạn luôn được chú ý. Bằng cách này, mỗi món vay của hộ sẽ được đánh giá
tốt hơn và chủ động hơn và tỷ lệ trên càng nhỏ thì hiệu quả của TDNH càng cao.
Để đánh giá chính xác và sát hơn, dư nợ quá hạn sẽ được NH phân theo các
tiêu chí khác, chi tiết hơn.
Đối với hộ sản xuất nông nghiệp với những đặc trưng rủi ro riêng, còn có thể
phân chia tỷ lệ NQH theo cách dưới đây để có biện pháp sử lý, đánh giá đúng hiệu
quả hoạt động của TDNH:
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
23
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
Tỷ lệ NQH NQH do thiên tai (sâu, bệnh)
= (x100%)
do thiên tai (sâu, bệnh) NQH kinh tế hộ (Tổng NQH)
Dự được tính toán theo phương thức nào, mục tiêu cuối cùng là để có biện
pháp giảm thiểu tỷ lệ NQH, và có một phương án dự phòng hợp lý, tránh ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của hộ và Ngân hàng.
2.3. Tỷ lệ hộ có quan hệ vay vốn với Ngân hàng.
Kinh tế hộ là thành phần kinh tế cơ bản, chiếm số lượng đông với nhu cầu
vốn cho SXKD rất lớn. do vậy, tính toán chỉ tiêu này sẽ giúp người phân tích nhận
định được vị trí, chỗ đứng của TDNH trong hộ gia đình ra sao, đã thực sự trở nên
thân thiết với hộ hay chưa?
Tỷ lệ hộ có quan hệ Số hộ có quan hệ tín dụng với NH
= (x100%)
TD với NH Tổng số hộ

Tỷ lệ trên càng lớn chứng tỏ số hộ có nhu cầu vay vốn ngày càng tăng, tức là
TDNH ngày càng khẳng định vai trò, hiệu quả hoạt động của nó trong hộ.
2.4. Doanh số cho vay bình quân một hộ
Hộ gia đình nước ta chủ yếu sản xuất với quy mô nhỏ, nhiều nhu cầu vay
vốn nhưng số tiền mỗi món vay lại không cao, do vậy, cách tính này có thể xác định
được vai trò tác động của TDNH đối với kinh tế ở mức độ nào:
Doanh số cho vay Doanh số cho vay kinh tế hộ
= (x100%)
bình quân một hộ Số hộ có quan hệ vay vốn với NH
Doanh số cho vay bình quân một hộ càng cao thì hiệu quả của TDNH cho
kinh tế hộ càng lớn, TDNH khi đó đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển nền
kinh tế sản xuất hàng hóa với qui mô ngày càng cao.
2.5. Các chỉ tiêu khác
Hộ SXKD tham gia quan hệ TDNH sẽ có hai nguồn vốn cơ bản phục vụ cho
hoạt động của hộ: vốn tự có và vốn TDNH. Xác định hiệu quả của TDNH đối với
hộ SXKD, ta có thể đánh giá bằng các cách dưới đây:
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
24
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS&KTTN
Lãi (Doanh thu) thu từ hoạt động SXKD
Tỷ suất lợi nhuận =
Vốn TDNH (Lãi)
Chỉ tiêu này sẽ cho thấy với một đồng vốn TDNH thì hộ thu được bao nhiêu
đồng lãi, kết quả càng cao của đồng vốn tín dụng càng cao. Bằng cách này, họ sẽ
xác định rõ ràng hiệu suất hoạt động của đồng vốn vay Ngân hàng của mình để có
kế hoạch thực hiện hiệu quả cao hơn.
Đặc biệt đối với những hộ vay vốn dài hạn phục vụ nhu cầu SXKD, để tính
toán chính xác một cách hiệu quả kinh tế đem lại cho hộ từ đồng vốn TDNH, cần
thiết phải sử dụng những cách tính khác, phù hợp hơn:
+ NPV (tổng lợi nhuận thuần): được tính theo từng thời kỳ nhất định, thường

là từng năm, cho thấy lợi nhuận thực mà hộ thu được trong thời điểm hiện tại từ
đồng vốn TDNH hộ sử dụng qua các năm.
+ IRR (tỷ suất thu hồi nội bộ của phương án đầu tư): là chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá hiệu quả đầu tư hay lựa chọn phương án đầu tư. IRR là tỷ suất tính toán
mà ứng với nó thu nhập ròng của phương án đầu tư vừa đúng vằng vốn đầu tư ban
đầu, nó cho thấy, cách tính này khắc phục được anhw hưởng của lãi suất; IRR càng
cao thì hiệu quả của phương án càng cao trong sử dụng vốn TDNH.
Mỗi chỉ tiêu tùy theo mục đích nghiên cứu, phân tích mà sẽ được đánh giá
một cách tổng hợp để có thể có phản ứng chính xác nhất đối với hoạt động TDNH,
từ đó có được hướng điều chỉnh phù hợp đối với hoạt động tín dụng, mang lại kết
quả tích cực cho chất lượng TDNH nâng cao thu nhập cho cả hộ SXKD và Ngân
hàng.
SVTH: Đặng Ngọc Châm Lớp: KTNN&PTNT 49
25

×