Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Phát triển công nghiệp nông thôn ở Quảng Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (688.98 KB, 114 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Phát triển toàn diện nông thôn hiện nay đang được nhiều nước, trong
đó có Việt Nam quan tâm sâu sắc. Khu vực phi nông nghiệp ở nông thôn,
trong đó có công nghiệp nông thôn có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong khu
vực nông thôn mà còn có ý nghĩa cả với khu vực đô thị và toàn bộ nền kinh tế
nói chung.
Đối với nước ta, là một nước nông nghiệp thì việc thực hiện công
nghiệp hóa là một tất yếu khách quan. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông thôn và phát triển toàn diện kinh tế
nông thôn có một vai trò đặc biệt quan trọng. Đảng ta khẳng định: “ Sự phát
triển nông nghiệp (bao gồm cả lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp) và kinh tế
nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai trò cực kỳ quan
trọng cả trước mắt và lâu dài, làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa” [12, tr.46]. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
được coi là vấn đề cốt lõi của toàn bộ quá trình công nghiệp hóa nước ta trong
giai đoạn hiện nay; đối với việc thực hiện quá trình này thì phát triển công
nghiệp nông thôn đóng vai trò quan trọng và là một nội dung cơ bản. Văn
kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng, khóa IX khẳng
định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỉ trọng giá trị
sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỉ trọng
sản phẩm và lao động nông nghiệp” [14, tr. 93,94].
Nhìn lại quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, trực tiếp là việc phát triển công nghiệp nông thôn trong
thời gian qua, bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển công nghiệp
nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế. Công nghiệp nông thôn phát triển chậm,
1
qui mô nhỏ, còn mang tính tự phát… chưa thúc đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Trong Văn kiện Hội nghị lần thứ VII,


Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã nêu: “Công nghiệp, dịch vụ và
ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và lao động ở nông thôn…nông thôn phát triển thiếu qui hoạch, kết cấu hạ
tầng kinh tế- xã hội còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm”[16, tr.122].
Mặt khác, quá trình phát triển công nghiệp nông thôn trong thời gian qua
cũng bộc lộ nhiều vấn đề như phát triển công nghiệp nông thôn ra sao? Ngành
nào? Lĩnh vực nào? Chủ trương, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước
như thế nào để hỗ trợ sự phát triển của công nghiệp nông thôn…, cần được
nghiên cứu, triển khai một cách cụ thể tùy thuộc vào đặc điểm, điều kiện cụ
thể của từng giai đoạn và mỗi địa phương.
Sau khi tách tỉnh, Quảng Nam có những thay đổi mạnh mẽ về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, trong đó có liên quan đến phát triển công nghiệp nông
thôn. Với những chủ trương, chính sách phù hợp, công nghiệp nông thôn mà
cụ thể là các ngành nghề phi nông nghiệp trong tỉnh đã có những thành tựu
đáng khích lệ: góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, nhiều sản phẩm hàng hóa từ công
nghiệp nông thôn của địa phương đã có mặt tại nhiều thị trường trong nước và
nước ngoài…
Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của công nghiệp
nông thôn ở Quảng Nam cũng còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế yếu kém như:
phát triển công nghiệp nông thôn diễn ra không đều, công nghiệp chế biến các
loại hàng hóa, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản chưa đủ
mạnh, chất lượng thấp, thiếu vốn, thị trường tiêu thụ chưa ổn định và gặp nhiều
khó khăn, nguồn nhân lực trình độ thấp, giá trị gia tăng không cao…
Chính vì những hạn chế trên mà trong thời gian qua công nghiệp nông
thôn của tỉnh Quảng Nam vẫn trong tình trạng chậm phát triển, chất lượng sản
phẩm chưa cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường hạn chế, tỉ trọng của công
2
nghiệp nông thôn trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn vẫn còn
thấp, ít thay đổi, tình trạng ô nhiễm môi trường từ sản xuất và công nghệ lạc

hậu ngày càng nghiêm trọng,…
Nhằm phát triển công nghiệp nông thôn ở Quảng Nam để góp phần
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, một trong
những vấn đề cần phải làm là đánh giá đúng, đầy đủ thực trạng công nghiệp
nông thôn tại địa phương, rút ra những nhận xét, tìm ra những nguyên nhân
làm cơ sở định hướng và đề xuất các giải pháp phù hợp phát triển công nghiệp
nông thôn của tỉnh trong thời gian tới.
Xuất phát từ những lý do đó, tôi chọn vấn đề “Phát triển công nghiệp
nông thôn ở Quảng Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Kinh tế phát triển.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu và viết về công
nghiệp nông thôn. Trong đó phải kể đến một số công trình khoa học sau:
+ Công nghiệp nông thôn Việt Nam- thực trạng và giải pháp phát triển
(2004), TS. Nguyễn Văn Phúc, Nxb CTQG, Hà Nội.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn ở các tỉnh Duyên hải Nam Trung
bộ- thực trạng và giải pháp (2008), đề tài cấp bộ của TS. Trần Thị Bích Hạnh.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Hồng theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta (1999), Luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Kinh tế chính trị của Vũ Thị Thoa.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn ở đồng bằng sông Cửu Long
(1999), luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế chính trị của Phạm Châu Long.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn ở ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh (2000), luận án tiến sĩ của Hà Văn Ánh chuyên ngành Kinh tế chính trị.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn ở huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng
Nai theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa(2000), Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Văn Tám chuyên ngành Kinh tế chính trị.
3
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề ở nông thôn thúc đẩy tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (số 10/ 2002), Lê Điền, Tạp chí Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn.
+ Chế biến nông, lâm sản với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn (số 5,/2002), Quốc Toàn, Tạp chí Con số và Sự kiện.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn trước tiến trình hội nhập (số
11/2002), TS. Lưu Văn Nghiêm, Tạp chí Kinh tế và Dự báo.
+ Cần có chính sách đồng bộ của Nhà nước cho phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn (số 90/ 2003), Nguyễn Anh Ngà, Tạp chí
Nông thôn mới.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn- khâu mấu chốt trong chiến lược
phát triển nhanh và bền vững nông nghiệp, nông thôn (số 17/2003), Nguyễn
Đình Bích, Tạp chí Cộng sản.
+ Thực trạng và những giải pháp cơ bản phát triển công nghiệp nông
thôn Việt Nam (số 11/2004), GS,TS. Nguyễn Đình Phan, Tạp chí Kinh tế và
phát triển.
+ Nhân tố ảnh hưởng đến công nghiệp nông thôn Trung Quốc và Việt
Nam từ cách nhìn của các nhà nghiên cứu phương Tây (số 2/2005), Tạp chí
Khoa học- Công nghệ- Môi trường.
+ Phát triển cụm công nghiệp làng nghề trong quá trình hội nhập (số
02/2005), GS.TS. Nguyễn Đình Phan, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam.
+ Tác động của cụm công nghiệp làng nghề đối với đổi mới công nghệ
của các cơ sở sản xuất trong cụm (02/2005) TS. Nguyễn Văn Phúc. Tạp chí
Khu công nghiệp Việt Nam.
+ Chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp nông thôn của Đảng
và Nhà nước- thành tựu và những vấn đề đặt ra (10/2005), TS. Vũ Thị Thoa,
Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam-
một số vấn đề đặt ra và hướng giải quyết (số 11/2007), Trần Đắc Hiến, Tạp
4
chí Triết học.
+ Phát triển công nghiệp nông thôn thời hội nhập, Nguyễn Quang

Minh (số 28+29/2007), Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương.
+ Công nghiệp nông thôn với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn (9/2007), ThS. Phan Ánh Hè, Tạp chí Thông tin và Dự báo
Kinh tế- xã hội.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
trong tình hình mới (số 786/ 2008), GS, TS. Hồ Văn Vĩnh, Tạp chí Cộng sản.
+ Điện Bàn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phấn đấu thành huyện công
nghiệp vào năm 2010 (8/2008), Thân Văn Lào, Tạp chí Cộng sản.
+ Đào tạo nhân lực chế biến nông lâm thủy sản (15/11/2008), Xuân
Kỳ, Báo Nhân dân.
+ Giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các làng nghề (19/12/2008), Hoàng
Hiển- Hoàng Hùng, Báo Nhân dân.
Các công trình trên đã khái quát được sự cần thiết phải phát triển công
nghiệp nông thôn; vai trò của công nghiệp nông thôn; các nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển công nghiệp nông thôn, quan điểm, chủ trương của Đảng,
Nhà nước, các giải pháp để phát triển công nghiệp nông thôn nhưng trên
phạm vi cả nước hoặc của một vùng, tuy vậy cho đến nay với Quảng Nam
chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về phát triển công nghiệp
nông thôn dưới góc độ kinh tế học phát triển.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp nông
thôn ở Quảng Nam thời gian qua, tác giả luận văn đề xuất phương hướng và
các giải pháp chủ yếu để phát triển công nghiệp nông thôn ở tỉnh Quảng Nam
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về công nghiệp nông thôn, nội
5
dung phát triển công nghiệp nông thôn và các tiêu chí đánh giá.
- Đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp nông thôn ở tỉnh Quảng

Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất một số phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát triển
công nghiệp nông thôn ở tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các hoạt động sản xuất công nghiệp ở nông thôn
đang hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận.
Luận văn dựa trên các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước và của địa phương về phát triển công nghiệp nông thôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Ngoài phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử,
tác giả luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp,
chuyên gia, kế thừa có chọn lọc những kết quả khoa học trong các công trình
nghiên cứu đã được công bố.
6. Những đóng góp của luận văn:
Tìm ra những điều kiện mang tính đặc thù trong phát triển công
nghiệp nông thôn ở tỉnh Quảng Nam.
Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình phát triển
công nghiệp nông thôn ở tỉnh Quảng Nam trong những năm tới.
Những đóng góp trên của luận văn có thể được sử dụng như một tài
liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, những
cán bộ làm công tác quản lý và chỉ đạo thực tiễn cùng những ai quan tâm đến
vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục gồm 3 chương, 9 tiết.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

NÔNG THÔN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò công nghiệp nông thôn và các
nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp nông thôn.
1.1.1. Khái niệm công nghiệp nông thôn
Hiện nay, phát triển công nghiệp nông thôn đã trở thành mối quan tâm
chung của các nước đang phát triển trên thế giới và cả ở nước ta. Nhưng do
được tiếp cận ở nhiều giác độ khác nhau nên có nhiều cách hiểu khác nhau về
công nghiệp nông thôn, theo đó mỗi nước có cách thức phát triển công nghiệp
nông thôn riêng cho mình, vì vậy kết quả thu được giữa các nước cũng rất
khác nhau.
Với cách tiếp cận từ giác độ kinh tế lãnh thổ thì công nghiệp nông
thôn được xem như một bộ phận của kinh tế lãnh thổ, công nghiệp nông thôn
là công nghiệp được phân bố ở nông thôn [26, tr.15]. Cách tiếp cận này
thường được các cán bộ thực tiễn ở các địa phương và cán bộ quản lý kinh tế
theo lãnh thổ sử dụng. Bởi vì nó phù hợp với lợi ích của các cơ quan quản lý
nhà nước trên các vùng lãnh thổ. Nhưng nếu chỉ tiếp cận theo quan điểm này
là không bảo đảm tính toàn diện, tính hệ thống và không chú ý đúng mức tới
các quan hệ kinh tế- kỹ thuật của khu vực kinh tế này, nhưng rõ ràng đây là
một cách đặt vấn đề không thể bỏ qua vì trong mọi trường hợp, các cơ quan
quản lý lãnh thổ có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng và ảnh hưởng to lớn tới sự
phát triển của công nghiệp nông thôn trên vùng lãnh thổ do họ quản lý, tới sự
thành bại, tới khả năng triển khai bất kỳ dự án hay chương trình phát triển
công nghiệp nông thôn nào.
Với cách tiếp cận từ giác độ kinh tế ngành thì công nghiệp nông thôn
được xem như một bộ phận của toàn bộ công nghiệp, có đặc điểm là phân bố
ở nông thôn, gắn bó với các đơn vị sản xuất kinh doanh khác trong ngành bởi
7
những quan hệ kinh tế- kỹ thuật, việc phát triển nó phải được đặt trong
chương trình phát triển công nghiệp nói chung, là một nội dung của công
nghiệp hóa. Theo cách tiếp cận này, phát triển công nghiệp nông thôn được

xem như một nội dung của phân bố địa lý công nghiệp và phát triển công
nghiệp toàn quốc cũng như từng khu vực theo những bước đi khác nhau, theo
phương thức tuần tự từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ phân tán đến tập
trung [26, tr.16].
Với cách tiếp cận từ khía cạnh kinh tế- xã hội, công nghiệp nông thôn
được xem là toàn bộ những hoạt động sản xuất có tính công nghiệp ở nông
thôn, là những biện pháp góp phần phát triển kinh tế- xã hội nông thôn và giải
quyết những nhiệm vụ kinh tế- xã hội ở nông thôn nói chung và mỗi vùng
nông thôn cụ thể nói riêng [26, tr.19].
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều quan niệm khác nhau về công nghiệp
nông thôn như sau:
Theo GS. Nguyễn Điền “công nghiệp nông thôn là một hệ thống các
hoạt động kinh tế công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, bên cạnh các hoạt
động kinh tế nông nghiệp”[8].
Theo TS. Nguyễn Văn Phúc “công nghiệp nông thôn là một bộ phận
của công nghiệp, có những trình độ phát triển khác nhau, phân bố ở nông thôn
và gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn bao gồm
những đơn vị sản xuất công nghiệp và có tính chất công nghiệp chuyên
nghiệp hoặc không chuyên nghiệp với nhiều hình thức tổ chức, nhiều hình
thức pháp lý, sản xuất của chúng đang tách ra khỏi nông nghiệp, tiếp tục phát
triển, phục vụ nông nghiệp và gắn bó với nông nghiệp ở trình độ cao hơn”
[26, tr.23].
Theo GS,TS. Nguyễn Đình Phan, “công nghiệp nông thôn là một bộ
phận của công nghiệp cả nước, được phân bố ở nông thôn và có quan hệ mật
thiết với sự phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn, bao gồm các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các hộ kinh tế gia đình, các doanh nghiệp thuộc các
8
thành phần kinh tế khác nhau, sản xuất kinh doanh trên cơ sở khai thác các
nguồn lực ở địa phương, phục vụ thị trường địa phương, trong nước và nước
ngoài” [24, tr.6].

Dưới góc độ pháp lý và quản lý nhà nước, theo Nghị định
134/2004/NĐ-CP ngày 9 tháng 6 năm 2004 của Chính phủ thì cơ sở sản xuất
công nghiệp nông thôn là các tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư, sản xuất công
nghiệp tại huyện, thị xã, thị trấn và xã bao gồm: Doanh nghiệp nhỏ và vừa
thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước; Doanh nghiệp nhỏ và
vừa thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; Hợp tác xã thành lập, hoạt
động theo Luật Hợp tác xã; Hộ kinh doanh cá thể theo Nghị định số
02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh
doanh. Hoạt động trong các lĩnh vực: Công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ
sản; Sản xuất sản phẩm sử dụng nguyên liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động; Sản
xuất sản phẩm mới, hàng thay thế hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu sử dụng
chủ yếu nguyên liệu trong nước; Sản xuất sản phẩm, phụ tùng, lắp ráp và sửa
chữa máy cơ khí nông nghiệp; Thủy điện nhỏ, điện sử dụng năng lượng mới
hoặc năng lượng tái tạo có công suất lắp đặt dưới 10.000 kW để cung cấp
điện cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa; Sản xuất, gia công chi tiết, bán thành
phẩm và dịch vụ cho các cơ sở sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh; Đầu tư vốn xây
dựng kết cấu hạ tầng cho cụm, điểm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và
làng nghề [4, tr.1].
Như vậy, từ những quan niệm khác nhau về công nghiệp nông thôn và
từ thực tiễn nước ta, theo chúng tôi khái niệm về công nghiệp nông thôn có
thể được hiểu như sau: Công nghiệp nông thôn là một bộ phận của công
nghiệp cả nước được phân bố ở nông thôn, bao gồm các cơ sở sản xuất công
nghiệp với quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu thuộc nhiều thành phần kinh tế có
nhiều hình thức tổ chức và trình độ phát triển khác nhau, hoạt động gắn bó
chặt chẽ với sự phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn do địa phương quản lý
về mặt nhà nước.
9
Khái niệm này đã thể hiện đầy đủ các cách tiếp cận từ các giác độ. Nó
xác định được quan hệ kinh tế- kỹ thuật, quan hệ kinh tế- xã hội và quan hệ
sản xuất của công nghiệp nông thôn. Đồng thời đã chỉ ra được hình thức tổ

chức, quy mô, trình độ, mục tiêu của sự phát triển công nghiệp nông thôn.
Như vậy theo khái niệm này chỉ những cơ sở công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp ở nông thôn có những tiêu chí sau đây mới thuộc khái niệm công
nghiệp nông thôn:
- Tạo nhiều việc làm mới, đẩy mạnh phát triển phân công lao động xã
hội, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống dân cư ở nông thôn.
- Thu hút lao động từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch
vụ ngay trên địa bàn nông thôn.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ
thuần nông sang cơ cấu nông- công nghiệp và dịch vụ.
- Tạo điều kiện thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển văn minh, hiện đại.
- Phát triển phù hợp với chương trình kế hoạch phát triển kinh tế- xã
hội ở địa bàn nông thôn và do chính quyền cấp huyện, xã quản lý về mặt nhà
nước.
Các cơ sở công nghiệp nằm trong khu chế xuất, khu công nghiệp lớn
hoặc ngoài khu công nghiệp do thành phố hay trung ương quản lý tuy ở trên
địa bàn nông thôn nhưng không thuộc vào khái niệm công nghiệp nông thôn.
Với khái niệm công nghiệp nông thôn nêu trên có thể thấy cơ cấu của
công nghiệp nông thôn như sau:
- Về ngành nghề, công nghiệp nông thôn bao gồm các ngành chính:
+ Chế biến nông, lâm, thủy sản tại nông thôn.
+ Khai thác sản xuất vật liệu xây dựng ở quy mô nhỏ và vừa.
+ Cơ khí chế tạo, sửa chữa nông cụ, hóa chất.
+ Sản xuất tư liệu tiêu dùng, gia dụng, mỹ nghệ.
- Về cơ cấu loại hình tổ chức sản xuất: có các hình thức tổ chức chủ
yếu sau:
10
+ Hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
+ Các tổ hợp, hợp tác xã chuyên sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
+ Các công ty, doanh nghiệp tư nhân.

1.1.2. Đặc điểm của công nghiệp nông thôn.
Nhìn nhận một cách khái quát, công nghiệp nông thôn có các đặc điểm
chủ yếu sau:
Thứ nhất, công nghiệp nông thôn bao gồm nhiều loại hình, nhiều
ngành nghề, nhiều quy mô trình độ phát triển khác nhau.
Công nghiệp nông thôn bao gồm các cơ sở sản xuất thuộc mọi thành
phần kinh tế, nhưng nhiều nhất là tư nhân và tập thể. Các doanh nghiệp nhà
nước quy mô vừa và nhỏ tuy một thời đã tồn tại khá nhiều ở nông thôn nước
ta, nhưng trong thời gian qua đã giảm sút về số lượng và thay đổi về chức
năng, nhiệm vụ và phương thức sản xuất kinh doanh, hiện đang được sắp xếp
lại, được chuyển đổi hình thức sở hữu. Các cơ sở thuộc công nghiệp nông
thôn bao gồm cả những đơn vị sản xuất kinh doanh độc lập, tự mình khai thác
các yếu tố đầu vào, tự tổ chức quá trình sản xuất và đảm bảo tiêu thụ sản
phẩm (đầu ra) của mình, và cả những đơn vị chỉ làm gia công cho các đơn vị
sản xuất kinh doanh lớn, thực hiện một số khâu công việc, một số giai đoạn
công nghệ nhất định trong toàn bộ quá trình gia công, chế biến sản phẩm.
Thứ hai, công nghiệp nông thôn gắn bó rất chặt chẽ với nông thôn và
nông nghiệp.
- Có sự đan xen, gắn bó giữa lao động của công nghiệp nông thôn với
lao động nông nghiệp, nhiều lao động vừa làm nông nghiệp, vừa làm ngành
nghề và có sự luân chuyển lao động giữa hai khu vực: lao động nông nghiệp
chuyển sang làm ngành nghề, đồng thời lao động ngành nghề quay trở lại làm
nông nghiệp. Hầu hết các hộ ở nông thôn tiến hành các hoạt động nông
nghiệp lẫn các hoạt động phi nông nghiệp.
- Có sự gắn bó giữa công nghiệp với nông nghiệp và nông thôn trong
việc xây dựng, hoàn thiện và phát triển cơ sở hạ tầng ở địa phương. Cả hai
11
khu vực kinh tế này đều sử dụng chung cơ sở hạ tầng ở nông thôn, mặc dù
mỗi bộ phận có một số yêu cầu riêng biệt nhất định và mức độ khai thác, sử
dụng cơ sở hạ tầng nông thôn có khác nhau.

- Thị trường của công nghiệp nông thôn và nông nghiệp có quan hệ
mật thiết với nhau, trong nhiều trường hợp có sự đồng nhất ở một mức độ
nhất định. Sự gắn bó này không chỉ tồn tại trên thị trường địa phương mà cả
trên thị trường toàn quốc. Mối quan hệ này thể hiện những nội dung có tính
bản chất giữa công nghiệp và nông nghiệp.
- Công nghiệp nông thôn gắn bó mật thiết với nông nghiệp và nông
thôn trên các mặt kinh tế- xã hội. Đặc biệt, công nghiệp nông thôn phải tham
gia giải quyết những vấn đề xã hội (hỗ trợ các đối tượng chính sách, tạo việc
làm và thu hút lao động địa phương,…). Sự phát triển của công nghiệp nông
thôn đồng thời cũng đòi hỏi mỗi địa phương phải có sự điều chỉnh đời sống
xã hội một cách thích hợp, ví dụ như mối quan hệ giữa việc cung cấp mặt
bằng sản xuất cho công nghiệp nông thôn với việc tổ chức khu dân cư, hệ
thống giao thông nội bộ,…
Thứ ba, sản phẩm của công nghiệp nông thôn đa dạng, phong phú
nhưng quy mô nhỏ, phân tán, chất lượng chưa cao nhưng phù hợp với điều
kiện của nông thôn, thu nhập của nông dân.
Trong lịch sử, công nghiệp nông thôn đã từng đi vào chế tạo công cụ
phục vụ sản xuất nông nghiệp và các phương tiện phục vụ sinh hoạt trong gia
đình; đã từng đi vào chế biến lương thực, thực phẩm; đã từng đi vào sản xuất
vật liệu xây dựng cũng như các mặt hàng thủ công mỹ nghệ… Ngày nay, sự
phát triển đó càng được đẩy mạnh và hiện đại hóa. Sản phẩm của công nghiệp
nông thôn không chỉ phục vụ nhu cầu tiêu dùng của dân cư trong vùng mà
còn được đem tiêu thụ sang các vùng khác trong nước và ngoài nước. Sản
phẩm của nó vì thế mà đa dạng và phong phú cả về mẫu mã, chủng loại, chất
lượng, đặc biệt là giá cả tương đối thấp.
Tùy theo sự phát triển của kết cấu hạ tầng mà các cơ sở công nghiệp
12
nông thôn có thể ra đời và phát triển tập trung ở thị trấn, thị tứ hoặc ở các làng
tạo thành nhiều cụm công nghiệp tổng hợp hay các làng nghề ngay trên các
địa bàn nông thôn hoặc được phân bố rải rác trên khắp các địa bàn nông thôn.

Mặt khác, các cơ sở công nghiệp nông thôn thường có quy mô vừa và nhỏ,
công nghệ lạc hậu nên sản phẩm thường nhỏ, đơn lẻ, ít có quy mô lớn.
1.1.3. Vai trò của công nghiệp nông thôn.
Thứ nhất, công nghiệp nông thôn tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn.
Cơ cấu kinh tế nông thôn là một tổng thể các mối quan hệ kinh tế
trong nông thôn, chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau theo những tỉ lệ nhất
định về lượng và liên quan chặt chẽ với nhau về chất, chúng tác động qua lại
lẫn nhau trong không gian và thời gian nhất định tạo thành một hệ thống kinh
tế nông thôn. Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu vùng,
cơ cấu thành phần kinh tế. Cho nên xét đến vai trò của công nghiệp nông thôn
trong sự tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cần thiết phải xét nó
trong từng nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn.
Về cơ cấu ngành: Qua sự phát triển công nghiệp nông thôn có nhiều
ngành nghề mới xuất hiện ở nông thôn cũng như nhiều ngành nghề truyền
thống được khôi phục phát triển. Khi xuất hiện nhiều ngành nghề mới, phục
vụ sản xuất lẫn đời sống, nghĩa là công nghiệp nông thôn càng phát triển thì
việc đáp ứng dịch vụ càng phát triển theo. Đối với sản xuất nông nghiệp thì
công nghiệp nông thôn có vai trò rất lớn trong việc tác động ở đầu vào và đầu
ra. Khi công nghiệp nông thôn phát triển thì việc đáp ứng các nông cụ, phân
bón… cho nông nghiệp ngày càng nhiều. Từ đó nông nghiệp có thể mở rộng
diện tích gieo trồng, thâm canh tăng vụ hay mở rộng phạm vi chăn nuôi. Công
nghiệp nông thôn phát triển đã từng bước cơ khí hóa cho hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Công nghiệp nông thôn phát triển đã tăng khả năng cung cấp
máy móc, công cụ phục vụ thu hoạch, bảo quản, sơ chế, chế biến, vận chuyển
nông sản làm cho hoạt động sản xuất nông nghiệp đạt được hiệu quả cao hơn.
13
Nhờ có phát triển công nghiệp nông thôn mà cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng
có sự thay đổi, xu hướng giảm dần cây con kém hiệu quả, tăng các cây, con
có giá trị cao, nhất là các nông sản làm nguyên liệu cho công nghiệp nông

thôn. Công nghiệp nông thôn phát triển sẽ kéo theo hoạt động dịch vụ phát
triển, dẫn đến việc phục vụ nông nghiệp có hiệu quả hơn. Như vậy, tùy theo
mức độ tác động của công nghiệp nông thôn, cơ cấu kinh tế nông thôn đa
dạng, phong phú.
Về cơ cấu vùng: Phát triển công nghiệp nông thôn là một giải pháp
quan trọng cho sự phân công lao động phù hợp để sử dụng có hiệu quả tiềm
năng và lợi thế riêng từng vùng. Ở từng vùng có thế mạnh khác nhau về đất
đai, lao động, nguồn vốn và kết cấu hạ tầng. Cho nên có phát triển công
nghiệp nông thôn mới có thể thu hút được nguồn lao động dôi thừa ở nông
thôn cũng như tiềm năng lao động có tay nghề khác ngoài sản xuất nông
nghiệp bị lãng quên. Từ việc phát triển công nghiệp nông thôn sẽ góp phần
phân bố lại lao động hợp lý ở những vùng đất hẹp người đông; từ việc phát
triển công nghiệp nông thôn sẽ làm cho nông dân mạnh dạn chuyển đổi cơ
cấu cây trồng vật nuôi phù hợp có hiệu quả. Như vậy, từ việc phát triển công
nghiệp nông thôn đã làm thay đổi cơ cấu lãnh thổ tạo điều kiện khai thác các
tiềm năng lợi thế của từng vùng, từ đó có cơ sở phân bố lại cơ cấu lãnh thổ
một cách hợp lý hơn.
Về cơ cấu các thành phần kinh tế: do phát triển công nghiệp nông
thôn, ở nông thôn không chỉ dừng lại ở các hộ nông dân cá thể, các hợp tác xã
nông nghiệp mà còn có các công ty, doanh nghiệp công nghiệp thuộc nhiều
thành phần kinh tế hoạt động, thậm chí các nhà đầu tư nước ngoài còn đầu tư
vào công nghiệp nông thôn. Sự đan xen giữa các thành phần kinh tế trong
hoạt động công nghiệp nông thôn đã làm cho kinh tế nông thôn sống động, đa
dạng hơn. Từ đó các thành phần kinh tế không chỉ có trong lĩnh vực công
nghiệp nông thôn mà lại lan tỏa ra ở hoạt động dịch vụ, nông nghiệp. Sự sống
động đa dạng của nhiều thành phần kinh tế đã góp phần chuyển dịch cơ cấu
14
kinh tế nông thôn và là điều kiện để công nghiệp nông thôn phát triển.
Thứ hai, phát triển công nghiệp nông thôn sẽ có tác động tích cực đến
việc phân bổ lại lao động, giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập, tăng sức

mua cho thị trường nông thôn.
Nhờ phát triển công nghiệp nông thôn làm cho nhiều ngành nghề được
hình thành và phát triển ở nông thôn, dẫn đến nhiều lao động, nhiều hộ, nhiều
cụm dân cư đã chuyển sang nghề mới, làm cho sự phân công lại lao động diễn
ra ở nông thôn ngày càng mạnh mẽ. Sự phân công lao động đó đã góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn một cách toàn diện hơn. Từ việc có
nhiều cơ sở công nghiệp nông thôn mới hình thành đã thu hút được nhiều lao
động tại chỗ, góp phần giải quyết việc làm- một vấn đề nan giải ở nông thôn
là thiếu việc làm nhưng thừa lao động. Do sự phát triển công nghiệp nông
thôn đã tạo chỗ đứng vững chắc của những thợ thủ công, những lao động có
tay nghề cao mà trước đây họ phải lao động nông nghiệp, các hộ nông nghiệp
cũng có thu nhập tăng thêm nhờ lao động ngành nghề thêm trong lúc nông
nhàn. Bản thân các hộ lao động thuần nông cũng tăng thêm thu nhập, do sự
chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành nghề khác làm cho
lượng người lao động trong nông nghiệp ít hơn dẫn đến bình quân ruộng đất
đầu người cao hơn trước; vì do sự tác động của công nghiệp nông thôn ở đầu
vào và đầu ra làm cho khả năng thâm canh tăng năng suất ngày càng cao hơn;
vì do yêu cầu sử dụng nguyên liệu là nông sản tại chỗ của các công nghiệp
nông thôn làm cho xu hướng chọn lựa cây con có hiệu quả giá trị cao để sản
xuất phổ biến. Từ việc có thu nhập ổn định và thường xuyên tăng lên ở nhiều
hộ dân cư nông thôn, làm cho sức mua ở thị trường hàng tiêu dùng nông thôn
tăng lên. Mặt khác do có nhu cầu sử dụng các máy móc công cụ nông nghiệp
của các hộ sản xuất nông nghiệp và nhu cầu sử dụng nguyên liệu là nông sản
của các cơ sở công nghiệp nông thôn ngày càng nhiều, dẫn đến sức mua ở thị
trường tư liệu sản xuất của nông thôn cũng tăng lên đáng kể.
Thứ ba, phát triển công nghiệp nông thôn làm tăng giá trị sử dụng và
15
tăng giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Mỗi sản phẩm tùy theo tính chất tự nhiên của nó có ít hay nhiều giá trị
sử dụng. Về cơ bản tác động của sự phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ

là yếu tố quan trọng nhất làm tăng giá trị sử dụng cho các sản phẩm. Công
nghiệp nông thôn với những đặc thù riêng về kỹ thuật công nghệ đã đóng vai
trò quan trọng trong việc gia tăng giá trị sử dụng và giá trị cho các sản phẩm
nông nghiệp và sản phẩm khác trong nông thôn.
Điều quan trọng là phát triển công nghiệp nông thôn với công nghệ
không đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, không đòi hỏi quy mô
lớn cũng đã có tác động làm tăng giá trị sử dụng cho sản phẩm như những
tiến bộ khoa học công nghệ khác yêu cầu phương tiện kỹ thuật hiện đại và tác
động với quy mô sản phẩm lớn. Có thể thấy rõ nhất là tác động của các ngành
nghề truyền thống trong ngành nghề chế biến nông sản. Ở nông thôn và trong
nông nghiệp có một số sản phẩm trồng trọt như sen, nhãn, vải… thu hoạch
theo mùa vụ, số lượng không lớn, không thể bảo quản theo cách thông thường
mà có thể để sử dụng lâu hoặc vận chuyển đi xa được. Nếu không có tác động
của công nghiệp nông thôn là các ngành chế biến nông sản thủ công thì các sản
phẩm đó chỉ có thể dùng làm thực phẩm tươi sống, sử dụng trong một thời gian
ngắn. Nhưng nghề chế biến nông sản truyền thống ở một số làng nghề truyền
thống với công nghệ phân loại, sơ chế, sao tẩm đã làm cho các sản phẩm quả
này không chỉ là thực phẩm tươi hàng ngày mà còn là các vị thuốc chữa bệnh,
còn là thực phẩm cao cấp có thể bảo quản lâu, vận chuyển đi xa được.
Thứ tư, công nghiệp nông thôn khai thác tiềm năng tại chỗ để trước
hết phục vụ phát triển kinh tế- xã hội nông thôn.
Tiềm năng tại chỗ của nông thôn gồm: lao động, đất đai và các sản
phẩm của nông- lâm- ngư nghiệp.
Đất đai ở nông thôn ngoài đất thổ cư, đất canh tác còn có nhiều loại
đất không thể canh tác được, có thể bị bỏ phí. Phát triển công nghiệp nông
thôn với những ngành nghề phù hợp như khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng
16
là cách thức tốt nhất để tận dụng có hiệu quả hơn tiềm năng loại đất này.
Phát triển công nghiệp nông thôn góp phần thu hút và sử dụng hiệu
quả các nguyên liệu của nông nghiệp, nông thôn. Hầu như mọi loại nguyên

liệu ở nông thôn từ gỗ, tre, mây, cói và các phế phẩm khác như bẹ ngô, xơ
dừa… cho đến những loại phế phẩm khác của công nghiệp như vỏ hộp, sắt
vụn được thu gom đều có thể được gia công chế biến tạo ra sản phẩm mới.
Với số lượng ít, người ta chế tạo sản phẩm quy mô nhỏ; với chất lượng không
đồng đều người ta phân loại để sản xuất ra sản phẩm với chất lượng tương
ứng. Hơn nữa do hiệu quả sản xuất cao, đáp ứng nhu cầu xã hội, do nhu cầu
giải quyết việc làm ở nông thôn, nhiều ngành nghề công nghiệp nông thôn
không chỉ thu hút nguyên liệu tại chỗ mà còn thu hút nguyên liệu từ những
nơi khác đến như nghề chế biến nông sản, sản xuất các đồ gỗ, mộc gia
dụng…
Những ưu thế trên của công nghiệp nông thôn trong việc tận dụng các
nguyên liệu được khai thác ở nông thôn không những công nghiệp thành thị,
công nghiệp tập trung không đạt hiệu quả bằng mà nó còn phù hợp với khả
năng phát triển của kinh tế nông nghiệp và nông thôn ở trình độ thuần nông,
mức độ hiện đại hóa, tập trung hóa thấp. Tuy vậy cũng phải nhấn mạnh rằng,
thực hiện vai trò đó, công nghiệp nông thôn phải không ngừng hoàn thiện
mình để hỗ trợ cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn nhanh chóng phát triển và
đạt hiệu quả ở mức cao hơn.
Thứ năm, phát triển công nghiệp nông thôn có yêu cầu rất lớn đối với
việc phát triển kết cấu hạ tầng, cho nên phát triển công nghiệp nông thôn đã
góp phần nâng cao kết cấu hạ tầng ở nông thôn, phục vụ tốt cho kinh tế xã hội
nông thôn, làm xuất hiện nhiều trung tâm kinh tế ở nông thôn và đẩy mạnh
được quá trình đô thị hóa ở nông thôn.
Thứ sáu, phát triển công nghiệp nông thôn góp phần giải quyết các
vấn đề văn hóa, xã hội ở nông thôn.
Phát triển công nghiệp nông thôn thu hút con người vào lao động,
17
sáng tạo, say mê học tập, rèn luyện nâng cao trình độ nghề nghiệp, cải tiến
mẫu mã, cải tiến công cụ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy, họ không
còn thời gian nhàn rỗi, do đó hạn chế tối đa những tiêu cực tệ nạn xã hội

thường do thiếu việc làm gây ra như cờ bạc, trộm cắp…
Phát triển công nghiệp nông thôn tác động tích cực tới bộ mặt văn hóa
trên địa bàn nông thôn. Ở hầu hết các làng nghề đều có sinh hoạt nhớ đến công
lao của những ông tổ nghề đã dạy dỗ, truyền nghề cho dân. Những người cùng
nghề hình thành nên các hội nghề nghiệp nhằm hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong
việc giữ gìn những vốn quý nghề nghiệp và đổi mới nó cho phù hợp với yêu
cầu hiện nay. Đó cũng là những nếp văn hóa cần có trong sản xuất.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp nông thôn.
Sự phát triển công nghiệp nông thôn thường bị tác động của nhiều
nhân tố, trong đó đáng chú ý là các nhân tố sau:
1.1.3.1. Thị trường và trình độ phát triển của thị trường.
Thị trường là nhân tố quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công
nghiệp nông thôn.
- Thị trường đầu vào của công nghiệp nông thôn: phần lớn các cơ sở
công nghiệp nông thôn mua sắm máy móc trang thiết bị từ thị trường sản
phẩm công nghiệp đô thị vì khả năng cung ứng máy móc trang thiết bị cho
công nghiệp nông thôn ở thị trường nông thôn còn hạn chế. Phần lớn các
nguyên vật liệu thường được mua tại địa phương hoặc một số địa phương
khác trong nước, nó chưa cần thiết hoặc chưa đủ sức để tự nhập nguyên vật
liệu ngoài nước. Một số cơ sở công nghiệp nông thôn nhận gia công cho các
cơ sở công nghiệp lớn ở đô thị hay trung tâm công nghiệp lớn sẽ mua nguyên
vật liệu hoặc bán thành phẩm từ các cơ sở công nghiệp đó. Các cơ sở công
nghiệp nông thôn nào cần thiết phải sử dụng nguyên vật liệu nhập cũng phải
thông qua một đầu mối khác, chứ tự mình chưa đủ khả năng thực hiện được.
- Thị trường đầu ra của công nghiệp nông thôn: Do trình độ, điều kiện
sản xuất thấp kém so với các cơ sở công nghiệp đô thị, nên sản phẩm làm ra
18
chất lượng còn hạn chế, giá thành còn cao. Vì thế, sản phẩm làm ra thường
được tiêu thụ tại địa bàn sản xuất, chỉ có một số sản phẩm nào có khả năng
cạnh tranh mới tiêu thụ được ở các địa phương khác hay xuất khẩu. Các cơ sở

công nghiệp nông thôn nhận gia công thì sản phẩm hoặc bán sản phẩm làm ra
đều được cơ sở đặt gia công tiêu thụ. Một số cơ sở công nghiệp nông thôn
được các cơ sở dịch vụ thương mại hợp đồng đặt hàng thì các cơ sở đó sẽ
nhận bao tiêu sản phẩm.
Do đặc điểm phần lớn sản phẩm của công nghiệp nông thôn được tiêu
thụ trực tiếp tại địa phương nông thôn nên nó chịu tác động mạnh thị trường ở
nông thôn. Nếu sức mua ở thị trường nông thôn không cao, thị trường nông
thôn không được mở rộng thì bản thân công nghiệp nông thôn không thể phát
triển được, nếu có phát triển thì chỉ những cơ sở công nghiệp nông thôn có
sản phẩm chất lượng cao, mới đủ sức cạnh tranh với sản phẩm của công
nghiệp đô thị. Mở rộng ra, nếu thị trường trong nước kém phát triển thì các cơ
sở sản xuất lớn cũng khó phát triển, dễ thu hẹp sản xuất dẫn đến các cơ sở
công nghiệp nông thôn nhận gia công cũng không phát triển được.
1.1.3.2. Trình độ phát triển nông nghiệp.
Công nghiệp nông thôn hoạt động gắn bó chặt chẽ với kinh tế- xã hội
nông thôn, trong đó nó gắn rất chặt với trình độ phát triển nông nghiệp. Vì
vậy, sự phát triển của công nghiệp nông thôn chịu tác động mạnh của trình độ
phát triển nông nghiệp. Sự tác động đó được thể hiện ở chỗ:
- Khi nông nghiệp phát triển dẫn đến thu nhập của các hộ nông dân
tăng theo, cho nên các cơ sở công nghiệp nông thôn sản xuất hàng tiêu dùng
có cơ hội phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nông dân. Do ảnh
hưởng lan tỏa dây chuyền, các hộ dân cư ở nông thôn cũng có nhu cầu tiêu
dùng tăng lên, tạo cơ sở tiêu thụ sản phẩm hàng tiêu dùng của công nghiệp
nông thôn ngày càng phát triển.
- Khi trình độ phát triển của nông nghiệp được nâng cao thì nhu cầu sử
dụng máy móc nông cụ, phân bón… tăng lên, dẫn đến các cơ sở công nghiệp
19
nông thôn sản xuất máy móc nông cụ, phân bón, thức ăn gia súc… có thị
trường tiêu thụ. Các cơ sở công nghiệp nông thôn sửa chữa nông cụ ngày
càng hoạt động nhiều hơn.

- Khi trình độ phát triển của nông nghiệp tăng lên thì cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp sẽ thay đổi theo hướng tăng tỉ lệ chăn nuôi, tăng tỉ lệ cây
trồng là nguyên liệu, dẫn đến các cơ sở công nghiệp nông thôn chế biến hoạt
động đa dạng và phong phú hơn.
- Trình độ phát triển của nông nghiệp còn ảnh hưởng đến sự phát triển
công nghiệp nông thôn ở chỗ: tùy theo loại hình tổ chức sản xuất trong nông
nghiệp như thế nào dẫn đến công nghiệp nông thôn sẽ phát triển sản phẩm
nào cho phù hợp, nếu kinh tế hộ là chính thì công nghiệp nông thôn sản xuất
máy nhỏ, công cụ cầm tay là chính vì máy lớn không thể tiêu thụ được do quy
mô sản xuất của từng hộ còn thấp.
1.1.3.3. Vốn đầu tư cho công nghiệp nông thôn.
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào cũng cần có vốn, hoạt động của
công nghiệp nông thôn cũng vậy. Vấn đề ở chỗ tùy theo tính chất quy mô
hoạt động của từng loại hình kinh tế mà cần vốn nhiều hay ít, tỉ lệ vốn cố
định, vốn lưu động ra sao. Vốn đầu tư của công nghiệp nông thôn thường là
từ các nguồn:
- Vốn của các thợ thủ công đã được tích lũy từ nhiều năm nay đứng ra
tổ chức cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn, thông thường nguồn vốn này
rất hạn chế cho nên chúng chỉ hoạt động với quy mô hộ gia đình hay cơ sở
nhỏ.
- Vốn của các hộ nông dân do tích lũy trong quá trình sản xuất hoặc từ
sang nhượng ruộng đất đầu tư vào hoạt động công nghiệp nông thôn, nguồn
vốn này cũng rất hạn chế, thông thường họ hay đầu tư vào các ngành dịch vụ
thương mại còn đầu tư vào công nghiệp nông thôn rất ít hay chỉ ở quy mô
nhỏ.
- Vốn của các nhà kinh doanh ở đô thị đầu tư vào công nghiệp nông
20
thôn thường là lớn và thường đầu tư vào những ngành công nghiệp nông thôn
có lợi nhuận cao.
- Vốn của nhà nước đầu tư ở các doanh nghiệp nhà nước phần lớn ở

quy mô vừa và nhỏ.
- Vốn vay ngân hàng cũng rất hạn chế, vì khả năng thế chấp hay khả
năng trả nợ đúng hạn của các cơ sở công nghiệp nông thôn không cao.
- Vốn vay mượn người thân trong và ngoài nước, bạn bè, không phổ
biến và tùy điều kiện cụ thể khác nhau số lượng vốn nhiều hay ít.
- Vốn tập trung của nhiều người thông qua hợp tác xã, công ty thường
là đáp ứng đủ yêu cầu vốn tùy ngành nghề.
- Các nguồn vốn khác.
Thực tế ở nông thôn nguồn vốn không đa dạng, phong phú như ở đô
thị, lượng vốn đầu tư ở nông thôn cũng không nhiều, cho nên các cơ sở công
nghiệp nông thôn thường chỉ hoạt động ở quy mô vừa và nhỏ, khó có thể trở
thành quy mô lớn nếu không có những điều kiện khác cộng thêm.
1.1.3.4. Chất lượng nguồn nhân lực.
Bất kỳ một ngành, một lĩnh vực nào của nền kinh tế muốn phát triển
nhanh đều phải dựa trên nền tảng của một nguồn nhân lực dồi dào và đảm bảo
về chất lượng. Nhất là khi cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang phát
triển như vũ bão, việc sử dụng máy móc, thiết bị đòi hỏi người lao động phải
được đào tạo một cách bài bản và có một trình độ khá cao. Trong nền kinh tế
thị trường, khi mà cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt thì ngay cả đội ngũ
cán bộ quản lý các cơ sở sản xuất cũng đòi hỏi chẳng những giỏi về quản trị
kinh doanh mà còn phải thông thạo về tin học, ngoại ngữ, về quản trị xuất
nhập khẩu. Đối với công nghiệp nông thôn cũng không đi ngoài quy luật đó,
để phát triển công nghiệp nông thôn đòi hỏi phải có một đội ngũ kỹ sư và
người lao động có tay nghề cao để vận hành các máy móc, thiết bị đã được
trang bị, nếu không thì hoặc là không sử dụng hiệu quả các máy móc thiết bị
hiện có hoặc là không đưa máy móc thiết bị tiên tiến vào sử dụng được.
21
1.1.3.5. Trình độ công nghệ của công nghiệp nông thôn.
Yếu tố công nghệ rất quan trọng cho sự phát triển của các cơ sở kinh
doanh. Thông thường các cơ sở kinh tế nào có dây chuyền công nghệ cao

thường có sức mạnh trong cạnh tranh và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường.
Hiện nay, trình độ công nghệ và kỹ thuật trong công nghiệp nông thôn
rất thấp do khả năng vốn và khả năng tiếp nhận công nghệ của các cơ sở công
nghiệp nông thôn không cao, cho nên công nghiệp nông thôn khó có thể cạnh
tranh với công nghiệp đô thị. Thực tế cho thấy có những làng nghề hay cơ sở
sản xuất công nghiệp nông thôn được hình thành từ rất sớm, nhưng không thể
nào phát triển được vì chậm sử dụng những tiến bộ kỹ thuật hay trình độ công
nghệ mới. Cho nên, để phát triển công nghiệp nông thôn phải nhanh chóng sử
dụng công nghệ kỹ thuật, những công nghệ mới phù hợp theo mức độ khả
năng. Có thể sử dụng từng phần những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới hay
rút ngắn khoảng cách hoặc theo kịp trình độ kỹ thuật của các cơ sở công
nghiệp đô thị. Do đó, tiến bộ kỹ thuật và trình độ công nghệ là một nhân tố
đẩy mạnh sự phát triển công nghiệp nông thôn nhất là phát triển theo chiều
sâu.
1.1.3.6. Yếu tố văn hóa, truyền thống.
Văn hóa, truyền thống là nhân tố tác động đến sự phát triển công
nghiệp nông thôn. Nơi nào có trình độ học vấn cao, nơi ấy dễ dàng sử dụng
các tiến bộ kỹ thuật và ngược lại. Cơ sở nào có kiến thức kinh doanh tốt
thường dễ dàng chấp nhận các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, từ đó dẫn đến
hệ quả là sẽ phát triển công nghiệp nông thôn nhanh hơn. Nơi nào có nhiều
tay nghề cao, nhiều người nhận thức được tiềm năng nguồn lực địa phương
thì nơi đó dễ dàng phát triển công nghiệp nông thôn và ngược lại. Nơi nào có
đời sống văn hóa cao thường có nhu cầu đòi hỏi nhiều phương tiện công cụ
hoạt động văn hóa, dẫn đến các cơ sở sản xuất công nghiệp nông thôn có thị
trường tiêu thụ các sản phẩm là công cụ, phương tiện hoạt động văn hóa.
22
Tập quán, thói quen trong sản xuất kinh doanh của mỗi vùng có ảnh
hưởng to lớn tới sự hình thành và phát triển của công nghiệp nông thôn. Nơi
nào có truyền thống sản xuất tiểu thủ công nghiệp, không những việc du nhập

nghề mới dễ dàng hơn mà những tính toán về đầu tư, khả năng nắm bắt cơ hội
kinh doanh, sự nhạy cảm đối với sự biến động của thị trường cũng cao hơn.
Vì vậy, sự phát triển của công nghiệp nông thôn ở những vùng này thường ít
gặp rủi ro hơn các vùng khác.
Truyền thống cũng là nhân tố tác động đến sự phát triển công nghiệp
nông thôn. Nơi nào có truyền thống phát triển ngành nghề nào đó thì nơi đó
dễ dàng phát triển công nghiệp nông thôn. Chẳng hạn như nhiều làng nghề ở
đồng bằng sông Hồng có lịch sử phát triển từ 300 đến 1000 năm nên đã ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển công nghiệp nông thôn của vùng. Nơi nào có
truyền thống tương trợ lẫn nhau, hiếu học yêu nghề, đấu tranh thoát khỏi sự
nghèo khổ… thường dễ dàng phát triển kinh tế trong đó có phát triển công
nghiệp nông thôn, nơi nào còn giữ lệ giấu nghề chỉ truyền nghề cho con trai
thì nơi ấy ngành nghề sẽ bị mai một và khó phát triển công nghiệp nông thôn.
1.1.3.7. Môi trường thể chế cho công nghiệp nông thôn.
Thể chế ở đây được hiểu là tổng hợp các luật, chính sách, quy tắc của
cộng đồng và hệ thống tổ chức thực hiện các luật, các chính sách đó. Thể chế
ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển công nghiệp nông thôn, sự tác động đó
được thể hiện ở các mặt sau:
- Luật: Một luật mới ra đời sẽ có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế
nói chung và phát triển công nghiệp nông thôn nói riêng. Chẳng hạn luật đất
đai, luật đầu tư như thế nào sẽ tác động đến sự chuyển dịch lao động nông
nghiệp sang các ngành nghề khác, sẽ tác động đến sự đầu tư của nhiều thành
phần kinh tế vào các cơ sở công nghiệp nông thôn… Cụ thể như luật đầu tư
quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 1- 2 năm đối với các doanh nghiệp
chế biến nông sản mới thành lập, giảm 50% thuế suất đối với các doanh
nghiệp đang hoạt động có sử dụng nguyên liệu nông sản đã kích thích các cơ
23
sở công nghiệp nông thôn thuộc lĩnh vực chế biến nông sản phát triển.
- Chính sách: Chính sách có ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp
nông thôn, chẳng hạn chính sách cơ cấu ảnh hưởng đến sự phát triển ngành

nghề gì, thành phần nào, vùng nào, từ đó sẽ dẫn đến thu hẹp hay mở rộng các
cơ sở công nghiệp nông thôn. Chính sách thị trường, chính sách cho vay lãi
suất thấp, chính sách thuế, chính sách về đào tạo lao động, chính sách về khoa
học công nghệ, chính sách về môi trường… đều ảnh hưởng đến sự phát triển
của công nghiệp nông thôn. Ví dụ, chính sách hạ mức thuế cho các hộ nông
dân kinh doanh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn so với thành thị và miễn
thuế cho các hộ ở trên các vùng xa xôi hẻo lánh, đã tạo điều kiện tốt hơn cho
sự phát triển công nghiệp nông thôn.
- Các quy tắc cộng đồng: tùy theo từng địa phương, ngoài luật, chính
sách còn có các quy tắc riêng mà tất cả thành viên cộng đồng đó phải tuân
theo hay ít ra cũng bị ảnh hưởng. Chẳng hạn, lệ không truyền nghề cho con
gái sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển công nghiệp nông thôn.
- Hệ thống tổ chức thực hiện luật, chính sách, các quy tắc bao gồm hệ
thống quản lý nhà nước, các tổ chức tư vấn, các tổ chức nghề nghiệp có tác
động mạnh đến sự phát triển của công nghiệp nông thôn. Các cơ quan quản lý
nhà nước có năng lực điều hành quản lý kinh tế, quan tâm đến sự phát triển
công nghiệp nông thôn sẽ tạo điều kiện tốt cho công nghiệp nông thôn phát
triển và ngược lại. Các tổ chức tư vấn dịch vụ có năng lực tư vấn đúng, chính
xác sẽ giúp cho công nghiệp nông thôn dễ dàng phát triển đúng hướng. Các tổ
chức nghề nghiệp có sự giúp đỡ cụ thể cho từng ngành nghề sẽ tạo điều kiện
về ngành nghề đó phát triển mạnh hơn.
1.1.3.8. Hệ thống kết cấu hạ tầng.
Hệ thống kết cấu hạ tầng mà chủ yếu là đường giao thông, cầu cống,
điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, các sân bay, bến cảng, kho,…, đều tác
động trực tiếp đến sự phát triển bất kỳ một ngành nào, lĩnh vực nào và đặc
biệt nó tác động rất rõ nét đến sự phát triển công nghiệp nông thôn. Vì bản
24
thân công nghiệp nông thôn hoạt động chủ yếu ở khu vực nông thôn, là khu
vực mà kết cấu hạ tầng còn nhiều mặt yếu kém, làm ảnh hưởng đến việc tăng
chi phí vận chuyển, bảo quản; giảm chất lượng hàng hóa nông sản, gặp khó

khăn trong thông tin thị trường, bảo vệ môi trường sinh thái. Nhất là vào mùa
mưa bão, chẳng những làm cho việc đi lại, thông tin liên lạc có thể bị gián
đoạn, mà còn có thể làm hư hỏng nguyên liệu, hàng hóa, làm tăng chi phí sản
xuất. Thực tế cho thấy, nơi nào có hệ thống giao thông, hệ thống thông tin
liên lạc, hệ thống điện,… phát triển thì nơi đó hoạt động công nghiệp nông
thôn phát triển và ngược lại.
1.1.3.9. Yếu tố quốc tế.
Ngày nay, toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã thực sự trở thành
xu thế khách quan và có tác động trực tiếp đến tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế- xã hội của mỗi nước, đặc biệt khi nước ta gia nhập WTO thì sự
tác động đó càng sâu sắc hơn. Quá trình đó, một mặt tạo ra những cơ hội lớn
để nước ta phát triển nhanh hơn, toàn diện hơn, sớm thoát khỏi tình trạng kém
phát triển. Nhưng mặt khác, nó cũng đặt ra những thách thức mới, gay gắt đối
với toàn bộ nền kinh tế nước ta. Trong sự tác động đó, khu vực kinh tế nông
thôn, đặc biệt là công nghiệp nông thôn- vốn đang nhỏ bé, lạc hậu, chậm phát
triển cả về quy mô, công nghệ và hiệu quả sẽ bị tác động mạnh hơn cả. Hội
nhập kinh tế quốc tế làm tăng nguồn lực cho phát triển công nghiệp nông thôn
như tăng nguồn vốn, nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ, phát triển kết
cấu hạ tầng. Hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là gia nhập WTO làm cho thị
trường sản phẩm công nghiệp nông thôn không ngừng được mở rộng cả về
quy mô và không gian, thúc đẩy công nghiệp nông thôn phát triển, nhất là các
ngành chế biến nông, lâm, thủy sản, thủ công mỹ nghệ. Hội nhập kinh tế quốc
tế là cơ hội để các doanh nghiệp công nghiệp nông thôn thay đổi cách thức
quản lý, cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo hướng mở rộng liên
doanh, liên kết, góp phần nâng cao trình độ tổ chức quản lý và sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp công nghiệp nông thôn. Gia nhập WTO, thực
25

×