Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Nhân lực công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.97 KB, 41 trang )

§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
GIỚI THIỆU CHUNG
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
(CNHHĐH), chính phủ và nhà nước đang nỗ lực trong việc gia nhập WTO,
theo đó nền kinh tế phải chuyển dịch theo hướng từ nông nghiệp sang công
nghiệp, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế xã hội, tổng sản
phẩm quốc dân…khi đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của đội ngũ
công nhân công nghiệp. Thực tế, họ đã và đang có vai trò đáng kể trong
tiến trình đổi mới đi vào chiều sâu, và để phù hợp hơn với những yêu cầu
của công cuộc CNHHĐH đất nước, đội ngũ công nhân công nghiệp cần
tiếp tục đổi mới .
Chính sách mở cửa đã khuyến khích các thành phần kinh tế tích cực
tham gia phát triển công nghiệp. Trong đó, khu vực thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, mà cơ bản là hình thức liên doanh (chiếm trên 60% số dự án và
70% vốn đầu tư) đã đóng góp vai trò to lớn trong tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam và giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đội ngũ công
nhân lao động trong các doanh nghiệp liên doanh là một trong những yếu tố
quyết định đối với sự phát triển các doanh nghiệp này, họ là lực lượng sản
xuất trực tiếp, có ý nghĩa quyết định tạo nên các giá trị sản xuất đóng góp
vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò
đáng kể, có ý nghĩa then chốt đóng góp vào tiến trình phát triển kinh tế- xã
hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đội ngũ này vẫn chưa được nghiên cứu
một cách toàn diện và sâu sắc, cũng như số công trình nghiên cứu liên quan
tới họ vẫn còn ở mức khiêm tốn.
Trên cơ sở đó, người nghiên cứu muốn khái quát từ các nghiên cứu
đã có trước đó về đội ngũ công nhân công nghiệp liên doanh và cập nhật
những vấn đề mới nhất đang diễn ra xung quanh lực lượng công nhân này,
để chúng ta có cái nhìn rõ nét hơn về họ như một nhóm xã hội trong xã hội
Việt Nam. Tuy vậy, do nhiều lý do khách quan mà nghiên cứu chưa thể
hoàn chỉnh bài viết của mình một cách đầy đủ theo đúng tâm huyết đặt ra.
NguyÔn Quèc Kh¸nh


§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
Bài viết tập trung vào phân tích thực trạng nguồn nhân lực công nghiệp
trong các doanh nghiệp liên doanh và một số vấn đề liên quan như các hình
thức đào tạo, cơ hội được đào tạo và thăng tiến của đội ngũ công nhân này. Cụ
thể được chia làm ba phần :
Phần một : Một số lý thuyết cơ bản. Nội dung phần một nhằm đưa ra
một số khái niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực công nghiệp trong
các doanh nghiệp liên doanh và một số khái niệm khác liên quan.
Phần hai : Thực trạng nhân lực công nghiệp trong các doanh nghiệp
liên doanh của Việt Nam. Nội dung là : Thứ nhất, khái quát về nhân lực
công nghiệp của Việt Nam theo hai tiêu chí số lượng và chất lượng. Thứ
hai, phân tích cụ thể, rõ nét về nguồn nhân lực công nghiệp của doanh
nghiệp liên doanh theo hai tiêu chí số lượng và chất lượng trong tiến trình
Việt Nam đang CNHHĐH mạnh mẽ và chuẩn bị gia nhập WTO. Thứ ba là
một số vấn đề liên quan tới đào tạo nguồn nhân lực này như hình thức, cơ
hội đào tạo và thăng tiến…
Phần ba : Kết luận và các vấn đề đặt ra. Nhằm đưa ra các kết luận và
khái quát lại các phân tích chủ yếu ở trên. Đồng thời đưa ra một số vấn đề
đã và đang đặt ra cho nguồn nhân lực công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh.
Để đề tài thực sự có chất lượng và có được tính thực tiễn nhất định,
người nghiên cứu mong muốn công trình của mình sẽ được hoàn thiện hơn
nữa. Theo đó sẽ có phần giải pháp để cải thiện chất lượng của đội ngũ công
nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên doanh trên cơ sở các thực
trạng đã phân tích, mặt khác hệ thống lý thuyết sẽ được làm cụ thể và đầy
đủ hơn. Rất mong những ai tâm huyết với đề tài này sẽ cùng hoàn thiện đề
tài với người nghiên cứu theo tinh thần nói trên.
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
PHẦN MỘT : MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN

I. KHÁI NIỆM NGUỒN NHÂN LỰC
Theo các lý thuyết kinh tế hiện đại, các nhà kinh tế khi nói tới nguồn
nhân lực hay nguồn lực con người (Human resources) thường xem xét dưới
2 giác độ : Năng lực xã hội và tính năng động xã hội của con người.
Ở góc độ thứ nhất, nguồng nhân lực được hiểu là nguồn cung cấp sức lao
động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo ra
mọi giá trị của cải vật chất và tinh thần cho xã hội (của cải vật chất, văn
hoá và dịch vụ). Ở góc độ này, về cơ bản , có thể hiểu nguồn nhân lực là
tổng thể các tiềm năng của con người (trước hết và cơ bản nhất là tiềm
năng lao động) của một quốc gia (một vùng lãnh thổ) có trong một thời kỳ
nhất định phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển.Tiềm năng đó bao
hàm tổng hoằnng lực về thể lực, trí lực, nhân cách của con người (lao
động) của một quốc gia (vùng lãnh thổ), đáp ứng với một cơ cấu nhất định
của con người do nền kinh tế-xã hội đòi hỏi.Thực chất đó là tiềm năng của
con người (lao động) về số lượng, chất lượng và cơ cấu. Toàn bộ tiềm năng
đó hình thành năng lực xã hội của con người. Tuy nhiên , nếu chỉ dừng lại
xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng thôi thì chưa đủ. Vấn đề quan
trọng là khai thác tiềm năng đó như thế nào và bằng biện pháp gì để biến
tiềm năng đó thành hiện thực. Từ đó, nguồn nhân lực phải được xem xét
dưới góc độ thứ hai : tính năng động xã hội của con người (lao động).
Nguồn nhân lực ở dạng tiềm năng là ở trạng thái tĩnh, mặc dù nguồn
nhân lực luôn được phát triển. Nguồn nhân lực phải được chuyển sang
trạng thái động, tức là được phân bố và sử dụng hợp lý và hiệu quả, phải
tìm cách biến nó thành vốn con người, vốn nhân lực- Human capital. Con
ngưòi với tiềm năng vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do tư duy phát
triển và cống hiến thì tiềm năng đó sẽ được khai thác và phát huy, trở thành
nguồn vốn vô cùng to lớn (vốn nhân lực). Khai thác tối đa tiềm năng con
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
người, đặc biệt là tiềm năng trí tuệ và tay nghề là một trong những chỉ báo

quan trọng phản ánh trình độ phát triển một quốc gia. Kinh ngiệm các
nước, ngay cả các nước phát triển cho thấy việc khai thác tiềm năng con
người nói chung còn rất hạn chế.
Tóm lại, nguồn nhân lực được hiểu là tổng hoà trong tổng thể
thống nhất hữu cơ giữa năng lực xã hội của con người (thể lực, trí lực,
nhân cách) và tính năng động xã hội của con người. Tính thống nhất đó
được thể hiện ở quá trình biến nguồn nhân lực dạng tiềm năng thành vốn
con người, có thể biểu diễn mối quan hệ này bằng mô hình sau :
II. KHÁI NIỆM NHÂN LỰC CÔNG NGHIỆP TRONG DOANH
NGHIỆP LIÊN DOANH
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của các loại hình
doanh nghiệp đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt
Nam là rất quan trọng, là cơ sở thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong xu
thế toàn cầu hoá chung này, vai trò của các donh nghiệp liên doanh đang
nổi lên như là một đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế nói chung và các thành
phần trong nó phát triển. Theo điều 2.7 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam ngày 12.11.1996, doanh nghiệp liên doanh “ là doanh nghiệp do hai
hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên
NguyÔn Quèc Kh¸nh
Năng lực xã hội của
con người
Tính năng động xã hội
của con người
Nguồn lực
con người
Vốn
con người
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước
ngoài;

hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác
với doanh nghiệp Việt Nam;
hoặc là doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên
cơ sở hợp đồng liên doanh”
Trong sự cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ bên trong cũng như bên
ngoài lãnh thổ, việc sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn lực đầu vào
có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp liên doanh. Theo các
lý thuyết kinh tế hiện đại cũng như kinh nghiệm của các doanh nghiệp
thành đạt hoạt động trong cùng loại hình này thì nguồn lực con người là
quan trọng nhất trong các nguồn lực đầu vào đó, đồng thời cũng là động
lực giúp các nguồn lực khác được phát huy và khai thác hiệu quả.
“Nhân lực của doanh nghiệp là toàn bộ những khả năng lao động mà
doanh nghiệp cần và huy động được cho việc thực hiện, hoàn thành những
nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp”.(1)
Mặc dù chưa có một khái niệm chính thức và hoàn chỉnh về nhân lực
công nhiệp trong doanh nghiệp liên doanh nhưng theo khái niệm nhân lực
doanh nghiệp trên có thể hiểu : nhân lực công nghiệp trong doanh
nghiệp liên doanh là toàn bộ những khả năng lao động mà doanh
nghiệp liên doanh hoạt động trong ngành công nghiệp cần và huy động
được cho việc thực hiện, hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt cũng
như lâu dài của doanh nghiệp.
Trong kinh tế thị trường không cần có biên chế, nhân lực của doanh nghiệp
là sức mạnh hợp thành các loại khả năng lao động của những người giao
kết, hợp đồng làm việc cho doanh nghiệp.
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
PHẦN HAI:
THỰC TRẠNG NHÂN LỰC CÔNG NGHIỆP TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP LIÊN DOANH CỦA VIỆT NAM
I. VÀI NÉT VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Nghị quyết các đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII,VIII và IX đều
khẳng định đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNHHĐH) là nhiệm
vụ trọng tâm, là chiến lược phát triển kinh tế nước ta. Cũng theo các nghị
quyết này, để thực hiện thành công CNHHĐH thì cần rất nhiều nguồn lực :
Nguồn nhân lực, nguồn lực tài chính, nguồn lực công nghệ, nguồn lực tài
nguyên và những khả năng lợi thế của đất nước. Trong đó khẳng định
nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất, là động lực của quá trình
CNHHĐH.
1. Tổng quan về quy mô nhân lực công nghiệp Việt Nam
Với quá trình CNHHĐH mạnh mẽ, khu vực công nghiệp (hay công nghiệp-
xây dựng) ngày càng thu hút nhiều lao động, đồng thời cũng tăng tỷ trọng
thu hút lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Biểu 1 : Cơ cấu lao động đủ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên
thời kỳ 1990-2004
Các tiêu chí 1990 1996 2000 2002 2004
1.Tổng số(nghìn)
Trong đó theo khu vực:
I. Nông, lâm,ngư nghiệp
II. Công nghiệp,xây dựng
III. Dịch vụ
33286
21889
4209,7
7169,3
33978
23431
3698
7593
36205
22670

4744
8791
39286
23835
5942
9509
42329,1
24511,5
7345,6
10472,0
2. Tỷ lệ %
Trong đó :
100 100 100 100 100
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
I. Nông, lâm, ngư nghiệp
II. Công nghiệp, xây dựng
III. Dịch vụ
65,8
12,65
21,55
68,96
10,88
20,16
62,62
13,1
24,28
60,67
15,12
24,21

57,91
17,35
24,74
Nguồn : Niên giám thống kê 1995. NXB Thống kê.HN- 1996. Số liệu thống
kê lao động- thương binh và xã hội ở Việt Nam 1996-2000. NXB Lao động-
xã hội. HN2001; Kết quả điều tra lao động-việc làm 1-7 các năm
2001,2002,2004. Ban chỉ đạo điều tra lao động-việc làm Trung ương. Hà
Nội
Qua biểu 1 cho thấy, trong thời kỳ 14 năm từ 1990 tới 2004 số lao
động tăng hơn 9 triệu, từ 33286 nghìn năm 1990 lên 42329,1 nghìn năm
2004, trung bình mỗi năm tăng gần 650 nghìn, nghĩa là tốc độ tăng trung
bình năm là 1,53%. Cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển dịch tích
cực, theo đó tỷ lệ lao động trong khu vực I ( nhóm ngành nông, lâm, ngư
nghiệp) giảm (0,56% mỗi năm), ngược lại tỷ lệ lao động trong khu vực II
(công nghiệp, xây dựng) và khu vực III (dịch vụ) đều tăng.
Ở đây ta chỉ đi sâu vào khu vực II, trong giai đoạn năm 1990-1996
tỷ lệ lao động giảm từ 12,65% xuống còn 10,88% tức là theo hướng bất lợi
cho sự phát triển kinh tế, tuy nhiên tới giai đoạn từ 1996-2004 xu hướng
chuyển dịch ngược lại, tích cực và đều đặn, từ 10,88% lên 17,35%. Có thể
giải thích sự đứt đoạn này với hai lý do chính, một là những năm đầu của
thập kỷ 90 thế kỷ trước cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động đang có sự thay
đổi theo quỹ đạo, theo sự chuyển đổi của nền kinh tế, từ kinh tế tập trung
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, theo đó những sự bất
hợp lý trước kia, như sự bao cấp, coi nặng vấn đề sở hữu nhà nước và cố
giữ về mặt hình thức…do đó cơ cấu lao động trong khu vực II giảm đi,
những bộ phận nào làm ăn không hiệu quả, năng suất lao động thấp, sống
dựa vào ngân sách nhà nước đã thực hiện chuyển đổi theo hướng giảm đi.
Tất nhiên quá trình này phù hợp với các chính sách, chế độ của nhà nước,
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44

như chính sách tinh giảm biên chế, chế độ đối với lao động dôi dư trong
quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước…Lý do thứ hai cũng
phải kể đến sự thay đổi về phương pháp điều tra lao động, làm cho nguồn
số liệu giữa hai giai đoạn, trước và sau năm 1996 có sự sai lệch nhất định,
song đây là lý do kỹ thuật không ảnh hưởng đến kết quả phân tích xu
hướng chuyển dịch.
Như vậy năm 1996 cơ cấu lao động của 3 khu vực I, II và III tương
ứng là 68,96; 10,88 và 20,16%, và đến năm 2004 đang là 57,91; 17,35 và
24,74%. Có ý kiến cho rằng “chuyển dịch cơ cấu lao động rất chậm” (xem :
Một số thách thức nổi bật về kinh tế. Thời báo kinh tế Việt Nam. Số 174
ngày 25/10/2004) khi so sánh với mục tiêu Đại hội IX đề ra cho năm 2005
là khu vực I: 56-57%, khu vực II: 20-21% và khu vực III: 22-23%. Như
vậy thì tỷ lệ lao động Khu vực II : công nghiệp và xây dựng cơ bản là thấp
hơn so với chỉ tiêu. Chúng ta không đi phân tích quá sâu các nguyên nhân
dẫn tới điều này, song có thể kể một vài lý do cơ bản, chẳng hạn như quá
trình cổ phần hoá mạnh mẽ các doanh nghiệp công nghiệp, xây dựng cơ
bản làm ăn kém hiệu quả; môi trường kinh doanh chưa thực sự khuyên
khích các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước mặc dù cơ sở hạ tầng có thể đã
đi trước; biến động kinh tế thế giới có nhiều bất lợi cho ngành công nghiệp,
xây dựng trong nước (giá nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến)…tất cả đã
làm cho khu vực này khó có thể thu hút được lực lượng lao động như
mong muốn.
Chúng ta có thể thấy sự phát triển khá nhanh của ngành công nghiệp
về số lượng doanh nghiệp công nghiệp cũng như về số lao động thu hút
được của ngành này một cách cụ thể hơn thông qua 2 ngành nghề sau :
Công nghiệp khai tác mỏ : Khai thác than cứng, than non, than bùn;
khai thác dầu thô, khí tự nhiên và các hoạt động dịch vụ; khai thác quặng
kim loại; khai thác đá và các mỏ khác
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44

Công nghiệp chế biến : Sản xuất thực phẩm và đồ uống; sản xuất các
sản phẩm thuốc lá, thuốc lào; dệt; may trang phục, thuộc và nhuộm da lông
thú; sơ chế da, sản xuất vali, túi xách, yên, đệm; …
(xem chi tiết qua “ Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm
2001-2002-2003 ”, tổng cục thống kê)
Bảng 2 : Số DN và số lao động trong ngành công nghiệp
Ngành nghề
Năm
CN khai thác mỏ CN chế biến
2000
(31/12)
Số DN 427 10399
Số LĐ 153294 1597431
2001 Số DN 634 12353
Số LĐ 128955 1799434
2001
(31/12)
Số DN 879 14794
Số LĐ 155470 2202943
Nguồn : “ Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2002-
2003 ”, tổng cục thống kê .
2.Tổng quan về chất lượng nhân lực công nghiệp Việt Nam
Một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng nhân lực
công nghiệp là năng suất lao động. Chúng ta dùng chỉ tiêu tương đối là
GDP trên số lao động, kết quả cụ thể cho bởi biểu 3 dưới đây :
Biểu 3 : Thực trạng thay đổi năng suất lao động thời kỳ 1990-2003
Các tiêu chí 1990 1996 2000 2002 2003
Năng suất LĐ chung
(Triệu/LĐ)
Trong đó theo khu vực :

I. Nông, lâm, ngư nghiệp
II. Công nghiệp, xây
dựng
III. Dịch vụ
3,967
1,919
7,894
7,915
6,293
2,286
18,122
12,361
7,559
2,811
20,429
12,858
7,974
3,480
19,712
13,437
8,212
2,877
19,126
13,781
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
Nguồn : Niên giám thống kê. Nxb Thống kê. HN, 2004. Kết quả điều tra lao
động-việc làm1/7/2003. Ban chỉ đạođiều tra lao động-việc làm Trung ương.Hà
Nội
Từ năm 1990-2003 năng suất lao độngcả nước đã tăng lên hơn 2 lần

(từ 3,967 lên 8,212), trung bình mỗi năm năng suất lao động chung tăng
103,98%. Nếu so sánh mức năng suất lao động theo mốc thời gian giữa các
khu vực ta thấy : năm 1990, năng suất lao động khu vực II và III tương
đương nhau (7,9%) và hơn 4 lần so với năng suất lao động của khu vực I;
nhưng tới năm 1996, năng suất lao động của kghu vực II đã tăng nhanh
hơn, lớn hơn năng suất lao động khu vực I gần 8 lần và hơn khu vực III gần
1,5 lần. Đó là những biểu hiện tích cực của chất lượng nhân lực công
nghiệp cũng như xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động, tuy nhiên cần lưu
ý rằng từ năm 1996 tới 2003 xu hướng này đã chậm lại, thậmchí có nhữnh
năm như năm 2000 và 2002 năng suất lao động của nhóm ngành công
nghiệp, xây dụng đã giảm đi ( năm 2000 là 20,429; năm 2002 là 19,712;
năm 2003 là 19,126 triệu đồng/lao động). Đây là một cảnh báo quan trọng
về chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế không cao. Chúng ta có thể
thấy, mặc dù trong những năm này tốc độ tăng GDP vẫn tăng, năm 2000 là
6,79%; năm 2002 là 7,08%; năm 2003 là 7,26% nhưng do tốc độ tăng lao
động cao hơn nên nhìn chung năng suất lao động có xu hướng giảm.
Như vậy có thể thấy, nguồn nhân lực công nghiệp của Việt Nam
đang được cải thiện cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên mức độ cải
thiện là chưa theo kịp so với đòi hỏi của quá trình CNHHĐH và chúng ta sẽ
phải tích cực hơn nhiều nếu muốn có một đội ngũ lao động phục vụ tốt
CNHHĐH.
II. THỰC TRẠNG NHÂN LỰC CÔNG NGHIỆP TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH VIỆT NAM
1. Doanh nghiệp liên doanh và quy mô nguồn nhân lực công nghiệp
trong các doanh nghiệp liên doanh.
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
Sau khi Việt Nam cho ra đời luật đầu tư nước ngoài (12/1987), đặc
biệt là sau khi luật này được sửa đổi bổ sung (12/11/1996) thì các nhà đầu
tư nước ngoài đã được vào Việt Nam làm ăn hợp pháp, điều này có ý nghĩa

quan trọng không chỉ cho phía nhà đầu tư (kiếm lợi nhuận) mà còn cho cả
quốc gia sở tại Việt Nam. Cũng từ đây một loại hình doanh nghiệp mới
được ra đời ở Việt Nam, đó chính là doanh nghiệp liên doanh- một hình
thức liên kết giữa Việt Nam với bên đối tác nước ngoài.
Có thể nói, với sự xuất hiện các doanh nghiệp liên doanh thuộc khu
vực có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng làm tăng tổng sản
phẩm trong nước, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước,
nâng cao trình độ quản lý kinh tế của các nhà quản lý trong các doanh
nghiệp, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động…thông qua việc
bổ sung nguồn vốn, trang thiết bị công nghệ mới cho sản xuất đã thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, đến cuối năm 2001 có 3150
dự án của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Khu vực có số lượng nhiều
hơn cả là khu vực công nghiệp nhẹ, chiếm 853 dự án, công nghiệp nặng
821 dự án, công nghiệp thực phẩm 174 dự án…Trong đó thì 1970 dự án
thuộc 100% vốn nước ngoài, 1031 dự án thuộc hình thức liên doanh, còn
lại 149 dự án là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Số dự án tập trung tại các
vùng kinh tế trọng điểm như TP Hồ Chí Minh là 335, Hà Nội là 209 và HảI
Phòng là 54. Ngoài ra số dự án nằm rải rác các nơi trong cả nước. Số lao
động cũng tăng lên theo thời gian. Tăng từ 375.312 lao động (2000) lên
439.108 (2001). Đặc biệt các ngành công nghiệp nhẹ chiếm nhiều hơn cả,
có 196.760 ngưòi năm 2000 lên 226.505 người vào năm 2001. Trong khi
đó, công gnhiệp nặng chỉ chiếm chưa đến 1/3 số lao động của công nghiệp
nhẹ. Cùng với đó, số lao động trong công nghiệp thực phẩm cũng tăng lên,
từ 17.244 năm 2000 lên 22.307 năm 2001. Trong đó khu vực liên doanh
chiếm lượng đáng kể :
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
Bảng 4 : Số lao động và dự án theo hình thức đầu tư
Hình thức đầu tư Số dự án Số lao động 2000 Số lao động 2001

100% vốn nước ngoài 1970 253.451 302.078
Liên doanh 1031 111.406 125.919
Hợp đồng hợp tác KD 149 10.455 11.111
Tổng số 3150 375.312 439.108
Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư, 4/2002
Nói chung trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của khu vực
liên doanh luôn dẫn đầu với 23%/năm, mặc dù tỷ lệ xuất khẩu chỉ tăng
20%, thấp hơn mức bình quân chung cả nước là 30,2%. Về danh nghĩa các
doanh nghiệp liên doanh làm hàng xuất khẩu, nhưng thực tế lại tiêu thụ
trong nước là chủ yếu. Đây là một hiện trạng về việc thực hiện cam kết
xuất khẩu của các doanh nghiệp liên doanh chưa triệt để. Nhưng thực tế,
vai trò tạo một thị trường để cạnh trạnh cũng là một nhân tố thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam. Tình trạng của các công ty phụ thuộc vào nhiều
yếu tố và mỗi công ty có những chiến lược khác nhau. Nhiều nghiên cứu
chỉ ra rằng, một số công ty nhỏ theo chiến lược “lương thấp chất lượng
thấp”, ở công ty khác lại theo chiến lược “lương cao chất lượng cao”. Các
chiến lược phụ thuộc vào loại hình sản xuất và thị trường để tạo ra lợi
nhuận tối đa cho công ty. Các doanh nghiệp liên doanh bị phụ thuộc một
phần vào nhà đầu tư nước ngoài cùng liên doanh xét về mặt quản lý, nhưng
vẫn có những mục tiêu và chiến lược khác để theo đuổi như trong ngành
may, cùng với việc ký các hợp đồng phụ là các chiến lược như đầu tư cho
sản xuất đầu vào. Khi đối phó với những bất lợi trong việc tìm kiếm thị
trường mới thì các công ty liên doanh thường độc lập hơn các công ty có
100% vốn nước ngoài.
Các thực tế này bắt nguồn từ các đặc điểm của doanh nghiệp liên
doanh. Trong hợp tác liên doanh, các nhà đầu tư nước ngoài thường quan
tâm đến vị trí đầu tư để giảm bớt chi phí ở phía mình. Do vậy họ thường
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
chọn trung tâm đô thị, bởi nơi đó có những điều kiện thuận lợi về kết cấu

cơ sở hạ tầng, thu hút lao động từ các vùng ngoại vi trung tâm, thành phố
với giá rẻ mạt, chính điều này tác động không nhỏ tới thị trường lao động
của Việt Nam. Với mục tiêu săn tìm lợi nhuận, khi đầu tư vào Việt Nam
các nhà đầu tư nước ngoài trước hết phải chọn những lĩnh vực có tỷ suất lợi
nhuận cao, thu hút vốn nhanh và có thị trường nội địa tiêu thụ sản phẩm
rộng lớn. Chính vì vậy các ngành dệt, may, da giày ngày càng được ưu tiên
cho đầu tư nhiều hơn. Hơn nữa, việc xác định đối tượng đầu tư và địa bàn
đầu tư của đối tác nước ngoài thường rất ít khi trùng hợp và đáp ứng được
yêu cầu bố trí cơ cấu đầu tư của nước chủ nhà. Những điều đó ảnh hưởng
tới người lao động.
Sự dịch chuyển cơ cấu đội ngũ công nhân theo các khu vực sở hữu
thay đổi theo thời gian do nhiều yếu tố tác động. Thời kỳ trước đổi mới,
phần lớn công nhân trực tiếp sản xuất tập trung trong khu vực kinh tế quốc
doanh. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, số doanh
nghiệp nhà nước đã giảm từ 12300 năm 1989 xuống còn 5364 năm 2002
(giảm 56,4%). Doanh nghiệp ngoài quốc doanh tính tới 31/12/2002 có
55236 doanh nghiệp, tăng bình quân 25,6%/năm.Số doanh nghiệp công
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày một tăng lên đáng kể, cụ thể có 439
doanh nghiệp năm 1995; 540 doanh nghiệp năm 1996; 666 doanh nghiệp
năm 1997; 881 doanh nghiệp năm 1998; 959 doanh nghiệp năm 1999 và
lên tới 2308 doanh nghiệp năm 2002 trong đó có 747 doanh nghiệp liên
doanh, tăng 76 doanh nghiệp so năm 2000. Cụ thể trong biểu 5 dưới đây :
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
Biểu 5 : Số doanh nghiệp trong các khu vực kinh tế
Khu vực kinh tế Số DN 2000 Số DN 2001 Số DN 2002
Khu vực DNNN 5759 5355 5364
Khu vực ngoài quốc doanh 35004 44314 55236
Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài

Trong đó :
100% vốn nước ngoài
DN liên doanh với nước ngoài
1525
854
671
2011
1294
717
2308
1561
747
Nguồn : Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2002-
2003 ”, tổng cục thống kê.
Cùng với sự thay đổi số doanh nghiệp thì số công nhân trong các khu
vực này cũng có những sự thay đổi. Nói chung theo đà phát triển kinh tế và xã hội
thì số lượng lao động thu hút của các khu vực trong thời gian gần đây đếu
có xu hướng tăng, tuy nhiên tốc độ tăng khác nhau. Tính đến thời điểm
31/12/2002, doanh nghiệp nhà nước là 2,2 triệu người, chiếm 48,5%, tăng
bình quân 4,1%/năm. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 1,7 triệu người,
tăng bình quân 28%/năm. Trong khi đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài là 691 nghìn người, chiếm 14,8%, tăng bình quân 30,2%/năm. Cụ thể
trong biểu 6 dưới đây :
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
Bảng 6 : Số lao động trong các khu vực kinh tế
Khu vực kinh tế Số LĐ 2000 Số LĐ 2001 Số LĐ 2002
Khu vực nhà nước 2088531 3933226 2260306
Khu vực ngoài quốc doanh 1040902 1329615 1706409
Khu vực có vốn đầu tư nước

ngoài
Trong đó :
100% vốn nước ngoài
DN liên doanh với nước ngoài
407565
285975
121590
489287
304283
125004
691088
536276
154812
Nguốn : Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2001-2002-
2003 ”, tổng cục thống kê.
2. Cơ cấu đội ngũ công nhân công nghiệp trong các doanh nghiệp liên
doanh
2.1 Cơ cấu số lượng
a. Theo tuổi và giới tính
Lao động làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh chủ yếu là lao
động trẻ. Đặc biệt trong các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế
biến : dệt, may, giày da, công nghiệp thực phẩm…là những ngành chủ yếu
đang thu hút nhiều vốn đầu tư của nước ngoài, hướng tới xuất khẩu, tính
chất công việc phù hợp với lao động nữ nên tỷ lệ công nhân nữ cao (hơn
80%) và đa số còn trẻ, tuổi trung bình chỉ 25. Đặc điểm lao động trẻ và là
nữ không phải là đặc điểm riêng của các doanh nghiệp liên doanh ở Hà Nội
hay TP. Hồ Chí Minh hoặc nơi nào khác của Việt Nam mà là tình trạng
chung của các nước châu Á, đặc biệt trong các khu chế xuất.
Trong nghiên cứu 84 doanh nghiệp thuộc các loại hình tại một số thành
phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng của Tổng Liên

đoàn lao động Việt Nam, 10/2000 chỉ ra số công nhân trong các doanh nghiệp
liên doanh thuộc nhóm tuổi từ 18-30 chiếm đa số (84,9%) (xem 1- tài liệu
tham khảo)
NguyÔn Quèc Kh¸nh
§Ò ¸n m«n häc Líp: Kinh tÕ lao ®éng K44
Tình hình lao động trẻ và đa số là nữ cũng diễn ra ở các nước khác
của châu Á. Theo nhận định của Tiểu ban Lao động Hoa Kỳ về những khu
chế xuất ở châu Á “Phụ nữ chiếm đa số lao động ở những nơi này và tập
trung ở các ngành dệt may, da giày; công nghiệp thực phẩm…những ngành
không đòi hỏi kỹ năng”. Ví dụ, ở Đài Loan tỷ lệ nữ là 75% (tuổi trung bình
27); ở Indonesia tỷ lệ nữ là 89% ( trong đó 78% dưới 25 tuổi). Những
ngành công nghiệp này thu hút nhiều lao động nữ, một mặt do không đòi
hỏi trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao, mặt khác lao động nữ trẻ luôn
chăm chỉ, chịu khó, học nghề nhanh và họ chấp nhận làm những công việc
khá tỉ mỉ trong dây chuyền sản xuất, có tính đơn điệu và nhàm chán. Quan
trọng là họ sẵn sàng chấp nhận mức lương thấp để có việc làm tạo thu nhập
cho bản thân và gia đình. Thực tế điều tra và tìm hiểu cũng cho thấy chỉ
những lao động nữ trẻ mới có thể chịu đựng được tình trạng căng thẳng về
thần kinh và mệt mỏi kéo dài do phải làm thêm giờ, thêm ca. Những lao
động từ 40 tuổi trở lên, chủ yếu ở vị trí quản lý, điều hành, tổ trưởng…ít
khi là người trực tiếp đứng máy (xem 2- tài liệu tham khảo)
b. Theo khu vực kinh tế
Trong bối cảnh hiện tại ở Việt Nam, số lượng công nhân làm việc
trong các doanh nghiệp quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng cao, tuy nhiên số
công nhân làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài mà đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh ngày càng
tăng lên nhanh chóng
NguyÔn Quèc Kh¸nh

×