Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Tìm hiểu thực trạng và đề xuất một số giải phát phát triển làng nghề mộc Phương Độ xã Xuân Phương – huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.33 KB, 51 trang )

Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1.Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây được sự quan tâm rất từ phía nhà nước và chính
quyền địa phương trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa, tiến kịp sự phát triển của đất nước. Một
trong những tiêu chí xây dựng nông thôn mới là chuyển dịch cơ cấu lao động
nông thôn theo hướng tăng tỉ lệ lao động phi nông nghiệp trong đó yếu tố
quan trọng để tạo ra sự chuyển dịch ấy là phát triển các làng nghề tiểu thủ
công nghiệp làng nghề truyền thống
Sự phát triển làng nghề đã góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn,
giải quyết một lượng lớn lao động ở nông thôn, tăng thu nhập và giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc. Nhận thức được sự quan trọng của làng nghề trong quá
trình phát triển đất nước, Đảng và chính phủ Việt Nam đã ban hành hàng loạt
chính sách để hỗ trợ khu vực kinh tế này. Gần đây nhất, nghị quyết 26 -
NQ/TW tại hội nghị 7 năm 2008 của ban chấp hành trung ương khóa X của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về (nông nghiệp, nông dân và nông thôn) đã một
lần nữa khẳng định việc phát triển bền vững các ngành nghề ở nông thôn có
vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên những cơ sơ sản sản xuất trong lĩnh vực này ở Việt Nam vẫn
bộc lộ một số yếu kém: khả năng tiếp cận thông tin và kĩ năng thị trường còn
hạn chế tổ chức sản xuất còn phân tán nhỏ lẻ máy móc thiết bị cũ kĩ lạc hậu
tay nghề lao động chưa được tinh xảo cơ sở hạ tầng chưa hoàn chỉnh, đặc biệt
môi trường nhiều làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến
sức khỏe cộng đồng dân cư và sự phát triển bền vững.
1
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là làm thế nào để định hướng cho các làng
nghề ở đây phát triển theo hướng bền vững ?
Xuất phát từ đó tôi đưa ra đề tài nghiên cứu: " Tìm hiểu thực trạng và
đề xuất một số giải phát phát triển làng nghề mộc Phương Độ xã Xuân
Phương – huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên "


1.2. Mục tiêu của đề tài
* Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề xã Xuân Phương
* Góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động sản xuất của làng nghề mộc
Phương Độ.
* Bổ sung thông tin nghiên cứu thực tế vấn đề phát triển làng nghề tại
Việt Nam
1.3. Mục đích của đề tài
Thông qua tìm hiểu thực trạng phát triển làng nghề tại xã Xuân
Phương - huyện Phú Bình - tỉnh Thái Nguyên, nghiên cứu này góp phần đề
xuất chính sách hướng tới sự phát triển bền vững của làng nghề Việt Nam.
Bên cạnh đó, bằng việc nghiên cứu trên thực địa, giúp sinh viên nâng cao khả
năng ứng dụng các kiến thức và lý thuyết đã được trang bị trong quá trình học
tập và nghiên cứu thực tế.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
* Giúp sinh viên có kiến thức áp dụng các kiến thức và kĩ năng học vào
nghiên cứu thực tế
* Góp phần cải thiện hiệu quả hoạt động sản xuất của làng nghề mộc
Phương Độ.
* Bổ sung nghiên cứu thực tế về vấn đề phát triển làng nghề Việt Nam.


2
Phần 2
TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ VIỆT NAM
2.1.Quá trình phát triển làng nghề truyền thống ở việt nam
Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn
năm trước đây, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn
Việt Nam, việc hình thành các làng nghề bắt đầu từ những nghề ban đầu được
cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là mùa vụ chính.
Bởi lẽ trước đây kinh tế của người Việt cổ chủ yếu sống dựa vào việc

trồng lúa nước mà nghề làm lúa không phải lúc nào cũng có việc. Thông
thường chỉ những ngày đầu vụ, hay những ngày cuối vụ thì người nông dân
mới có việc làm nhiều, vất vả như: cày bừa, cấy, làm cỏ (đầu vụ) cho đến gặt
lúa, phơi khô còn những ngày còn lại thì nhà nông rất nhàn hạ, rất ít việc để
làm. Từ đó nhiều người đã bắt đầu tìm kiếm thêm công việc phụ để làm nhằm
mục đích ban đầu là cải thiện bữa ăn và những nhu cầu thiết yếu hằng ngày về
sau là tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Theo thời gian, nhiều nghề phụ ban đầu đã thể hiện vai trò to lớn của
nó, mang lại lợi ích thiết thân cho cư dân. Như việc làm ra các đồ dùng bằng
mây, tre, lụa phục vụ sinh hoạt hay đồ sắt, đồ đồng phục vụ sản xuất. Nghề
phụ từ chỗ chỉ phục vụ nhu cầu riêng đã trở thành hàng hóa để trao đổi, đã
mang lại lợi ích kinh tế to lớn cho người dân vốn trước đây chỉ trông chờ vào
các vụ lúa. Từ chỗ một vài nhà trong làng làm, nhiều gia đình khác cũng học
làm theo, nghề từ đó mà lan rộng ra phát triển trong cả làng, hay nhiều làng
gần nhau.
Và cũng chính nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem
lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì
phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù
3
hợp với làng thì dần dần bị mai một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng
nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó, như làng Gốm, làng làm
chiếu, làng làm lụa, làng làm đồ đồng.
Trong suốt quá trình phát triển lịch sử của Việt Nam, làng xã nói chung
và làng nghề nói riêng luôn là những thể chế then chốt trong sản xuất nông
nghiệp và đời sống cư dân nông thôn. Làng xã Việt Nam được phát triển từ
rất lâu đời.
Bởi vậy có thể thấy rằng đa số các làng nghề truyền thống ở Việt Nam
được hình thành và phát triển trải qua hàng trăm năm, đồng hành với sự phát
triển kinh tế xã hội, văn hóa và nông nghiệp của dân tộc. Ví dụ: làng đúc đồng
Đại Bái ở Bắc Ninh đã tồn tại và phát triển hơn 900 năm, làng nghề gốm Bát

Tràng, Hà Nội đã tồn tại và phát triển được gần 500 năm (Đặng Kim Chi và
cộng sự 2005).
2.2. Khái niệm làng nghề
2.2.1. Làng
* Làng hành chính trong xã hội phong kiến
- Theo nhiều tài liệu lịch sử để lại, hệ thống hành chính của các triều
đại phong kiến nước ta gồm:
+ Chính quyền trung ương, gọi là triều đình, đứng đầu là vua (chúa) và
dưới vua là tể tướng.
+ Chính quyền địa phương có tỉnh (hoặc châu). Đứng đầu tỉnh là tuần phủ.
+ Dưới tỉnh có phủ và huyện. Đứng đầu phủ là tri phủ, đứng đầu huyện
là quan tri huyện.
+ Dưới huyện có các làng đứng đầu làng là lý trưởng làm chức quản lí
các hoạt động trong làng (quản lí đinh, điền, thu thuế, trật tự an ninh). Đặc
trưng của các làng là đình làng.
+ Tuỳ thuộc vào quy mô của làng mà dưới làng chia ra một số thôn xóm.
4
* Làng hành chính trong xã hội hiện nay:
- Từ năm 1945, khi nước ta giành được độc lập, theo hiến pháp 1946,
1959, 1980 và đặc biệt là hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ chính quyền 4
cấp: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Dưới xã tổ chức thành các thôn (xóm bản
hoặc phường) và khái niệm làng để chỉ địa danh của cụm dân cư gồm nhiều
thôn, xóm, bản hợp thành như xã Xuân Phương có 2 làng Phương Độ (9 xóm)
Xuân La (4 xóm).
Từ những điểm trên có thể rút ra làng là một phạm trù lịch sử và văn
hoá có sự thay đổi từ thời đại này sang thời đại khác. Do vậy khi thống kê có
liên quan đến khái niệm làng phải hết sức chú ý nếu không sẽ gây ra sự tranh
luận về số liệu.
2.2.2. Nghề
Cùng với trồng trọt chăn nuôi hầu hết dân cư sống ở vùng nông thôn

đều có hoạt động thêm một số nghề thủ công với mục đích ban đầu là sản
xuất ra một số hàng gia dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống của
hộ gia đình mang tính chất tự cung tự cấp trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên
liệu sẵn có. Nhưng qua thời gian dài phát triển do có sự khác nhau về tay
nghề và kinh nghiệm tích luỹ được ở từng địa phương là khác nhau và các sản
phẩm làm ra bắt đầu được đưa ra thị trường trao đổi như những loại hàng hoá
và ở hầu hết các địa phương đều có làm thêm một vài nghề phụ. Tuy nhiên
vấn đề ở đây là những hoạt động ngành nghề nào được gọi là nghề.
Theo quan điểm chung các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghệp ở
địa phương nào đó được gọi là nghề khi nào phải tạo ra được một khối lượng
sản phẩm chiếm lĩnh thị trường thường xuyên và những người sản xuất hoặc
hộ sản xuất đó lấy nghề đang làm là nguồn thu nhập chủ yếu thì mới được
xem là nghề (Thông tư 116/2006/TT - BNN).
5
2.2.1.3. Làng nghề
Năm 2006, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban
hành Thông tư số 116/2006/TT - BNN ngày 18 tháng 12 năm 2006 quy
định nội dung và các tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề,
làng nghề truyền thống. Theo đó:
- Làng nghề: là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng,
buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị
trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều
loại sản phẩm khác nhau.
*Nghề được coi là nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí sau:
- Nghề truyền thống: là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra
những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển
đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.
- Nghề gắn liền với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên
tuổi của làng nghề.
- Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời

điểm đề nghị công nhận.
- Làng nghề truyền thống (cổ truyền).
Làng nghề truyền thống là làng có nghề được hình thành từ lâu đời.
làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề
truyền thống. Tuy nhiên đối với những làng chưa đủ tiêu chí của làng
nghề nhưng có ít nhất một nghề truyền thống thì vẫn được gọi là làng
nghề truyền thống.
* Làng nghề mới
- Trong một địa phương có một số tương đối các hộ cùng sản xuất
một nghề (từ 35 - 40% số hộ trở lên tham gia hoạt động nghành nghề)
6
- Thu nhập sản xuất nghề mang lại chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng
thu nhập của làng (có thể sinh sống bằng thu nhập từ nghề, thu nhập từ nghề
chiếm trên 50% tổng thu nhập của các hộ).
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời
điểm đề nghị công nhận.
- Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của nhà nước.
2.3. Hiện trạng và phân loại làng nghề
( Nguồn: Hiệp hội làng nghề Việt Nam, 2009)
Hình 2.1: Phân bố làng nghề Việt Nam theo khu vực
- Cuối năm 2010, Việt Nam có khoảng 2.100 làng nghề, trong đó có
300 làng nghề truyền thống, tạo việc làm cho mười ba triệu lao động với thu
nhập cao hơn nhiều so với làm nông nghiệp (theo nhandan.com.vn).
- Hiện nay có nhiều cách phân loại làng nghề, bao gồm:
+ Phân loại theo tuổi đời làng nghề (làng nghề truyền thống và làng
nghề mới)
+ Phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm.
+ Phân loại theo quy mô sản xuất và quy trình công nghệ.
+ Phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm.
+ Phân loại theo mức độ sử dụng nguyên liệu.

7
+ Phân loại theo thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Dựa trên các tiêu trí phân loại trên, làng nghề được chia làm 6 nhóm
chính (Bộ TNMT 2008).
Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề mộc, sành sứ,
chạm khắc đá, thêu ren, dệt lụa…đây là nhóm nghề chiếm tỷ trọng lớn về
số lượng, có truyền thống lâu đời, sản phẩm có giá trị cao, mang đậm nét
văn hóa và đặc trưng của địa phương, dân tộc. Công việc sản xuất đòi hỏi
tay nghề cao, tỷ mỷ và sáng tạo.
Làng nghề tái chế phế liệu: chủ yếu là các ngành nghề mới hình
thành, số lượng ít nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và loại hình tái
chế (nhựa, sắt, giấy) đa số nằm ở phía bắc.
Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá: hình thành từ
hàng trăm năm nay, tập trung ở những vùng có khả năng cung cấp
nguyên liệu cơ bản cho hoạt động xây dựng như (đá, cát, sỏi)
Làng nghề thuộc da, dệt nhuộm: các làng nghề này thường có lịch sử
lâu đời, có sản phẩm mang tính lịch sử, văn hóa, bản sắc địa phương như
(lụa tơ tằm, thổ cẩm) tại các làng nghề này lao động thường là lao động
chính.
Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ: có số
lượng làng nghề lớn, phân bố khá đều trên cả nước, phần nhiều sử dụng
lao động nông nhàn, không yêu cầu trình độ cao, hình thức sản xuất thủ
công và ít khi thay đổi quy trình sản xuất so với thời điểm khi hình thành
nghề như (nấu rượu, bánh trưng, bún) nguyên liệu chủ yếu là gạo, đậu,
sắn, ngô…phế phẩm thường được dùng làm thức ăn chăn nuôi ở quy mô
hộ gia đình.
Các nhóm nghành nghề khác: bao gồm các ngành nghề chế tạo nông cụ
lao động thô sơ như: cày bừa, cuốc xẻng, liềm, đan lưới, vó, làm lưỡi câu…
Những nhóm nghề này xuất hiện từ lâu, sản phẩm làm ra phục vụ trực tiếp
cho nhu cầu của người dân tại địa phương. Lao động phần lớn là thủ công.

8
2.4. Một số làng nghề ở việt nam
*Làng nghề truyền thống thủ công mỹ nghệ Đồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh)
Có 2.600 hộ với 10.200 nhân khẩu trong đó có 1.520 hộ và 4.540 lao
động làm nghề, ngoài ra còn thu hút 1.500 lao động từ các địa phương khác
tới làm thuê. Sản phẩm chủ yếu của làng nghề là những mặt hàng mỹ nghệ
cao cấp có tính thẩm mỹ cao như: Tủ, Sập, Đồng Hồ. Hoành Phi, Câu
Đối….các sản phẩm của làng nghề đã có mặt trên khắp thị trường trong nước
và quốc tế, mỗi năm đem lai thu nhập hàng trăm tỷ đồng.
Đồng Kỵ có khoảng hơn 160 công ty, chưa kể xí nghiệp, HTX với trên 500
giám đốc, phó giám đốc. Có gia đình cả bố và con đều là giám đốc
()
* Làng nghề gốm sứ Bát Tràng ( Gia Lâm - Hà Nội):
Bát Tràng ngày nay trải dài gần 3km ven sông Hồng với 2 thôn, 11
xóm. Hiện có 1.600 hộ dân, trong đó 70% số hộ trực tiếp sản xuất và 30% làm
dịch vụ. Xã có hơn 1.100 lò gốm, mỗi năm sản xuất 100 - 120 tỷ đồng hàng
hóa, đã xuất hiện hàng chục Công ty TNHH, doanh thu hàng chục tỷ, có nhiều
lô hàng xuất khẩu, đặc biệt được đặt trước từ Hàn Quốc, Nhật Bản. Khách
trong, ngoài nước tấp nập đến thăm quan, mua hàng. Trong các cửa hàng, có
đủ các mẫu gốm sứ từ cổ truyền đến hiện đại của các nước Pháp, Italy, Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Toàn xã đã có trên 100 gia đình sắm máy vi tính,
nối mạng internet, mở trang thông tin giới thiệu sản phẩm, giao dịch buôn bán
với bên ngoài. Hàng gốm sứ Bát Tràng đang chiếm lĩnh thị trường, được
khách nước ngoài ngưỡng mộ. Phát triển nghề gốm sứ, không chỉ Bát Tràng
giàu, mà nơi đây cũng đã tạo việc làm cho 4.000 - 5.000 lao động từ các địa
phương khác đến, với mức thu nhập 2.5.000.000 - 3.000.000 đ/tháng.
()
9
2.5. Một số làng nghề ở huyện phú bình
- Làng nghề mộc Phú Lâm - Kha Sơn - Phú Bình - Thái Nguyên

Là một làng nghề mới được hình thành nhưng do nắm bắt được cơ hội
phát triển làng nghề mộc Phú Lâm xã Kha Sơn huyện Phú Bình tỉnh Thái
Nguyên đang từng bước khẳng định được tên tuổi thương hiệu của mình
không chỉ đối với người dân địa phương mà còn được nhiều địa phương khác
biết tới như thành phố Thái Nguyên, Hà Nội, Bắc Ninh… Làng nghề thuộc xã
Kha Sơn bên cạnh quốc lộ 37. Các sản phẩm của làng nghề ngày càng đa
dạng hóa cho phù hợp với nhu cầu của thị trường trước đây từ những sản
phẩm đơn giản nay đã chuyển sang những sản phẩm có tính mỹ thuật cao, có
sự đầu tư tâm huyết và ứng dụng khoa học kĩ thuật vào mỗi sản phẩm như
giường tủ, bàn ghế… đến nay làng nghề Phú Lâm đã mang lại việc làm ổn
định và thường xuyên cho 46 hộ gia đình với khoảng 225 lao động với thu
nhập bình quân 2.000.000đồng/người/tháng.
Làng nghề cũng được các cấp chính quyền quan tâm bằng việc năm
2009 UBND huyện có hướng dẫn lập sơ đồ làng nghề sau đó sở công thương
tỉnh Thái Nguyên đã trình UBND tỉnh phê duyệt hồ sơ công nhận làng nghề
cho: Làng nghề mộc mỹ nghệ Phú Lâm xã Kha Sơn, huyện Phú Bình, tỉnh
Thái Nguyên. Nghề mộc ở đây hình thành và phát triển trong những năm qua
mang lại việc làm và thu nhập ổn định cho ngươi dân cũng như giúp chính
quyền địa phương có hướng đi mới trong việc quy hoạch chính sách phát triển
kinh tế của địa phương.
2.6. Vai trò của làng nghề trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
2.6.1. Giữ gìn bản sắc văn hoá độc đáo của từng địa phương
Giá trị văn hoá của làng nghề truyền thống thể hiện qua sản phẩm, cơ
cấu của làng, lối sống phong tục tập quán của cộng đồng. Những sản phẩm
hàng hoá mang tính nghệ thuật, nó là sản phẩm văn hoá vật thể chứa đựng giá
trị phi vật thể mỗi sản phẩm ở làng nghề đều có gắn với các hình ảnh quen
10
thuộc của hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Những giá trị văn hoá
chứa đựng trong làng nghề truyền thống đã tạo nên những nét riêng độc đáo
đa dạng nhưng cũng mang bản sắc chung của văn hoá dân tộc Việt Nam.

2.6.2. Góp phần giải quyết việc làm
- Cả nước có khoảng 2.100 làng có nghề, 13 triệu lao động với thu nhập
khoảng 0,7 - 3 triệu đồng/người/tháng. Các làng nghề đóng vai trò quan trọng
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho nông dân lúc nông
nhàn ()
- Khôi phục và phát triển làng nghề đã thu hút nhân lực, tạo thêm
nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy quá trình phân công lao
động ở nông thôn
- Khôi phục và phát triển LNTT đã thực sự tăng thu nhập cho người
lao động, cải thiện đời sống dân cư nông thôn.
- Sự phát triển của các LNTT đã thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn, góp phần tăng trưởng (GDP), tạo ra khối lượng hàng hoá
đa dạng phong phú, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu.
- Phát triển làng nghề giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động,
thể hiện được chủ chương lớn của đảng, nhà nước ta là xoá đói giảm nghèo,
tạo cơ hội làm giàu trên chính mảnh đất quê hương.
- Làng nghề ngoài việc tạo việc làm tại chỗ còn cung cấp việc làm cho
một số người làm dịch vụ cung cấp nguyên liệu, và một số lao động ở địa
phương khác
- Như vậy làng nghề thủ công truyền thống đã góp phần giải quyết việc
làm cho người lao động một cách hiệu quả.
2.6.3. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá
- Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hoá hiện đại hoá nông ngiệp nông
thôn là tạo ra một cơ cấu kinh tế mới phù hợp và hiện đại ở nông thôn. Trong
quá trình vận động và phát triển các làng nghề đã có vai trò tích cực trong
việc tăng trưởng tỷ trọng của công nghiệp tiểu thủ công ngiệp và du lịch, dịch
vụ, thu hẹp tỷ trọng của nông ngiệp. Sự phát triển lan toả của làng nghề đã mở
11
rộng quy mô và địa bàn sản xuất thu hút nhiều lao động đồng thời nó còn

đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi tập quán sản xuất
- Việc phát triển làng nghề góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông thôn, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho
người dân trên địa bàn mà chủ yếu là nông thôn.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng dần lao động
trong lĩnh vực phi nông nghiệp
- Phát triển nghề truyền thống đã góp phần bảo tồn truyền thống văn
hoá dân tộc.
2.6.4. Góp phần tạo ra nguồn sản phẩm phong phú cho xã hội
Bảng 2.1. Đóng góp GDP của làng nghề
TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2009 Năm 2010
1 Doanh thu Triệu đồng 7.425 22.312
2 Giá trị xuất khẩu Nghìn USD 120 195
3 Số hộ tham gia làm nghề Hộ 58 93
4 Số lao động tham gia làm nghề Người 206 330
5 Thu nhập bình quân lao động
tham gia làm nghề
Đồng/người/
tháng
1.800.000 2.600.000
6 Nộp ngân sách nhà nước Triệu đồng 243.6 390.6
(Nguồn: UBND xã Xuân Phương)
- Hoạt động của các làng nghề đã tạo ra một khối lượng hàng hoá đa
dạng và phong phú, phục vụ cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đóng góp
cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho từng địa phương nói riêng. Là
nhân tố quan trọng thúc đẩy phát triển hàng hoá ở nông thôn.
- Không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu
(195.000 USD . UBND xã Xuân Phương năm 2010)
2.7. Chủ trương chính sách phát triển làng nghề
12

* Các văn bản quản lý nhà nước cho các làng nghề
Nghị định 66/2006/ND - CP về phát triển ngành nghề nông thôn.
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1, Phạm vi áp dụng
Nghị định này quy định một số nội dung và chính sách phát triển ngành
nghề nông thôn.
Điêu 2, Đối tượng áp dụng
1, Tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trực tiếp đầu tư phát
triển sản xuất dịnh vụ ngành nghề nông thôn tại địa bàn nông thôn (sau đây
được gọi chung là cơ sở ngành nghề nông thôn) bao gồm:
a) Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập, hoạt động theo luật doanh nghiệp.
b) Hợp tác xã thành lập hoạt động theo luật hợp tác xã.
c) Hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo quy định của pháp luật về đăng
ký kinh doanh.
2, Các làng nghề cụm cơ sở ngành nghề nông thôn.
Điều 3, Các hoạt động ngành nghề nông thôn
Các hạt động ngành nghề nông thôn tại địa bàn nông thôn quy định
trong nghị định này bao gồm:
1, Chế biến bảo quản nông lâm thủy sản.
2, Sản xuất vật liệu xây dựng đồ gỗ mây tre đan gốm sứ thủy tinh dệt
may cơ khí nhỏ.
3, Xử lí chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn.
4, Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
6, Gây trồng và kinh doanh sinh vật cảnh.
6, Xây dựng vận tải trong nội bộ xã liên xã và các dịch vụ khác phục vụ
sản xuất đời sống cư dân nông thôn.
13
7, Tổ chức đào tạo nghề truyền nghề tư vấn sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực ngành nghề nông thôn.
Điều 4, Công nhận nghề làng nghề quản lý chất lượng sản phẩm ngành nghề.

1, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quy định nội dung và tiêu chuẩn
công nhận nghề truyền thống làng nghề, làng nghề truyền thống.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức thực hiện việc đăng ký và giám sát
chất lượng sản phẩm ngành nghề nông thôn trên địa bàn theo quy định của
pháp luật về quản lí chất lượng sản phẩm.
Điều 5, Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn
1, Nhà nước xây dựng quy định tổng thể và định hướng phát triển ngành nghề
nông thôn dài hạn của cả nước và từng vùng kinh tế đảm bảo phát triển bền
vững thực hiện công ngiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn xây dựng quy hoạch tổng thể
phát triển ngành nghề nông thôn của cả nước. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây
dựng quy hoạch phát triển nghành nghề nông thôn trên địa bàn. Việc phê
duyệt quy hoạch thực hiện theo quy định hiện hành về quy hoạch.
2, Nội dung quy hoạch phát triển nghành nghề nông thôn phải phù hợp quy
họach tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng vùng phù hợp
quy định của pháp luật về quy hoạch nhằm khai thác phát huy nghành nghề
lợi thế của từng vùng và địa phương.
* Chính sách của nhà nước.
CHÍNH SÁCH KHUYẾN KHÍCH
Điều 6. Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề
1, Chương trình bảo tồn, phát triển làng nghề bao gồm:
a) Bảo tồn phát triển làng nghề truyền thống
b) Phát triển làng nghề gắn với du lịch
c) Phát triển làng nghề mới
14
2, Nhà nước có chương trình và kinh phí từ ngân sách hỗ trợ chương
trình bảo tồn phát triển làng nghề quy định tại khoản 1 điều này.
3, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều kiện cụ thể của địa phương có
cơ chế hỗ trợ các dự án bảo tồn phát triển làng nghề trên địa bàn ngoài kinh
phí hỗ trợ quy định tại khoản 2 điều này.

Điều 7. Mặt bằng sản xuất
1, Ủy ban nhân dân các cấp căn cứ quy hoạch kế hoạch sử dụng đất và
quy hoạch tổng thể định hướng phát triển nghành nghề nông thôn đã được phê
duyệt lập quy hoạch xây dựng làng nghề cụm cơ sở ngành nghề phù hợp yêu
cầu phát triển sản xuất bảo vệ môi trường gắn sản xuất với tiêu thụ, trình cấp
có thẩm quyền phê duyệt.
2, Khuyến khích các tổ chức cá nhân và cơ sở ngành nghề nông thôn
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng làng quê, cụm cơ sở ngành nghề nông thôn
nhà nước hỗ trợ đầu tư hạ tầng làng nghề và ngoài hàng rào các các cụm cơ sở
ngành nghề nông thôn theo quy định tại khoản 1 điều 8 nghị định này.
3, Các cơ sở ngành nghề nông thôn có dự án đầu tư có hiệu quả được:
a) Tạo điều kiện thuận lợi về giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê
đất tại các cụm cơ sở ngành nghề nông thôn và được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
b) Đối với dự án đầu tư đòi hỏi nghiêm ngặt về xử lý ô nhiễm môi trường
bảo đảm yêu cầu nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới được ưu tiên giao đất có thu
tiền sử dụng đất hoặc thuê đất tại các khu cụm công nghiệp tập trung.
c) Các cơ sở ngành nghề nông thôn di dời ra khỏi khu dân cư đến địa
điểm được quy hoạch được ưu đãi về quyền sử dụng đất tiền thuê đất, thuế sử
dụng đất và hỗ trợ kinh phí để di dời.
Điều 8, Về đầu tư tín dụng
1, Ngân sách địa phương hỗ trợ một phần kinh phí đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng và sử lý môi trường cho các làng nghề cụm cơ sở ngành nghề nông
15
thôn. Đối với các tỉnh khó khăn về nguồn thu ngân sách, ngân sách trung
ương hỗ trợ một phần trong dự toán hàng năm.
2, Đối với các dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả được:
a) Hưởng ưu đãi đầu tư theo luật đầu tư
b) Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư theo quy định hiện hành
c) Vay vốn từ quỹ hỗ trợ giải quyết việc làm theo quy định hiện hành

d) Thực hiện theo quy định của nhà nước về tín dụng đầu tư phát triển,
tín dụng xuất khẩu
e) Qũy bảo lãnh tín dụng doanh ngiệp nhỏ và vừa bảo lãnh vay vốn tại
cá nhân, tổ chức tín dụng.
Điều 9, Xúc tiến thương mại
1, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ cho các cơ
sở nghành nghề nông thôn hoạt động xúc tiến thương mại theo quy định hiện
hành của chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
2, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa
phương để hỗ trợ các cơ sở ngành nghề nông thôn xây dựng thương hiệu, chỉ
dẫn địa lí, xuất sứ hàng hóa, có chính sách bảo hộ sở hữu thương hiệu.
Điều 10, Khoa học công nghệ
1, Cơ sở nghành nghề nông thôn khi thực hiện các hoạt động triển khai
ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ, sản xuất sản
phẩm mới và thực hiện các dịch vụ khoa học công nghệ hay tiếp nhận tiến bộ
khoa học kĩ thuật từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thì được hưởng
các ưu đãi theo chính sách và cơ chế tài chính khuyến khích cá nhân, doanh
nghiệp đầu tư vào hoạt động khoa học công nghệ.
2, Cơ sở ngành nghề nông thôn thực hiện đề tài nghiên cứu độc lập
hoặc phối hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học để tạo ra công nghệ mới,
hoàn thiện sản phẩm nghiên cứu có khả năng thương mại hóa thuộc lĩnh vực
16
nghành nghề nông thôn thì được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ nguồn
kinh phí sự nghiệp khoa học công nghệ.
3, Ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí khuyến nông, khuyến ngư,
khuyến công hỗ trợ cơ sở nghành nghề nông thôn về các nội dung: thông tin,
tuyên truyền, xây dựng mô hình, chuyển giao khoa học công nghệ, bồi dưỡng
tập huấn và đào tạo, tư vấn và dịch vụ.
Điều 11, Đào tạo nhân lực
1, Các dự án đầu tư cơ sở dạy nghề nông thôn được hưởng các chính

sách về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước theo quy định để đào tạo
nguồn nhân lực đối với các ngành nghề cần phát triển theo quy hoạch phát
triển ngành nghề nông thôn.
2, Ngân sách địa phương hỗ trợ một phần chi phí lớp học cho các cơ sở
ngành nghề nông thôn trực tiếp mở lớp truyền nghề.
3, Các nghệ nhân ngành nghề nông thôn tổ chức truyền nghề được thu tiền
học phí của học viên theo nguyên tắc thỏa thuận được trả thù lao theo quy định
của cơ sở đào tạo khi tham gia giảng dạy tại các cơ sở đào tạo, được hưởng các ưu
đãi về thuế trong hoạt động truyền nghề theo quy định hiện hành.
4, Lao động nông thôn khi tham gia học nghề được hổ trợ kinh phí đào
tạo theo chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, được
vay vốn từ chương trình quốc gia giải quyết việc làm.
2.8. Những tồn tại trong quá trình phát triển làng nghề tác động đến môi trường
- Theo báo cáo tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường
tại các khu kinh tế, khu công nghiệp và làng nghề của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội từ cuối năm 2010 đến đầu năm 2011 cho thấy chất thải từ các làng
nghề đa phần không nhiều nhưng việc thải bỏ không đúng cách và tùy tiện
(thường không được xử lý) dẫn đến mất mỹ quan, văn hóa và gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng.
17
Các làng nghề chủ yếu tập trung tại vùng nông thôn, tập trung đến 80%
dân số cả nước. Nhận thức của người dân nơi đây còn hạn chế nhiều mặt, đặc
biệt là vấn đề bảo vệ môi trường, sản xuất xen lẫn sinh hoạt, công nghệ sản
xuất hầu hết thủ công lạc hậu. Kết quả khảo sát 52 làng nghề, theo đề án kiểm
soát ô nhiễm môi trường làng nghề năm 2006 của Cục bảo vệ môi trường cho
thấy 46% làng nghề bị ô nhiễm nặng, 27% bị ô nhiễm vừa, 27% ô nhiễm nhẹ.
Chất lượng môi trường tại hầu hết khu vực sản xuất trong các làng nghề đều
không đạt chuẩn.
Ô nhiễm tại các làng nghề ảnh hưởng rất lớn tới những người trực tiếp
tham gia sản xuất và những người sống tại làng nghề đó. Các nguy cơ mà

người lao động tiếp xúc khá cao: 95% người lao động có nguy cơ tiếp xúc với
khói bụi, 85,9% tiếp xúc với nhiệt, 59,6% tiếp xúc với hóa chất.
Làng da trống Lâm Yên (Đại Lộc, Quảng Nam), hằng năm bán ra thị
trường từ 1.500 đến 2.000 sản phẩm các loại, tuy là nghề phụ nhưng đã mang
lại cho người dân làm nghề nơi đây khoản thu nhập thường xuyên, ổn định.
Đổi lại, hằng ngày, người dân nơi đây đang phải sống và hít thở bầu không
khí hôi thối, khó chịu của khoảng 20kg da thừa, lông, mỡ thải ra (chiếm 5%
tổng khối lượng da dùng cho sản xuất trống hằng ngày).
Hay ở làng rèn Cầu Vực (Hương Thủy, Thừa Thiên Huế) lượng chất
thải rắn thải ra hằng ngày khoảng 260 kg gây mất mỹ quan làng xã. Tại các
làng nghề sử dụng nhiên liệu bột và các nguyên vật liệu hóa chất trong dây
chuyền công nghề sản xuất tạo khí thải, khói thải và bụi. Điển hình như tại
làng nghề tái chế Đa Hội (Bắc Ninh) đã thải ra môi trường gần 2.500 tấn bụi,
81 tấn khi CO
2
, gần 3000 tấn khí SO
2
và 2.359 tấn NO
2
mỗi lần.
Làng nghề bún Phú Đô, cứ trong 10.200 tấn sản phẩm mỗi năm đã thải
các chất ô nhiễm 76,9 tấn COD, 53,14 tấn BOD gây ô nhiễm môi trường nước
nghiêm trọng. Những con số khiến ai nghe qua không khỏi giật mình.
18
Những vấn đề nổi cộm trên không chỉ làm ô nhiễm nghiêm trọng không
khí, nguồn nước, mất mỹ quan làm suy thoái môi trường nghiêm trọng mà
còn tác động xấu tới sức khỏe người dân của làng nghề và cộng đồng dân cư
lân cận, đe dọa tới sự phát triển bền vững các làng nghề Việt Nam.
Bên cạnh những hệ lụy đó, ô nhiễm môi trường làng nghề còn ảnh
hưởng đến các vấn đề kinh tế - xã hội như làm tăng chi phí khám chữa bệnh,

giảm năng suất lao động, mất ngày công lao động do nghỉ ốm đau… ảnh
hưởng tới năng suất sản xuất nông nghiệp, giảm sức thu hút du lịch, giảm
lượng khách du lịch dẫn đến thiệt hại về kinh tế.
().
- Trong quá trình xây dựng và phát triển làng nghề chưa có sự đầu tư về
hệ thống sử lý chất thải làng nghề bởi vậy môi trường tại làng nghề đang bị ô
nhiễm bụi gỗ, sơn và việc ngâm gỗ…
- Chưa có ban nghành nào của xã đảm nhận công việc quản lý môi
trường tại làng nghề nhằm kiểm soát ô nhiễm môi trường.
- Ý thức của người dân làng nghề về bảo vệ môi trường chưa cao.

19
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1.Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng là các hộ gia đình làm nghề mộc tại xã Xuân Phương huyện
Phú Bình tỉnh Thái Nguyên
3.2. Địa điểm và thời gian thực hiện
Xã Xuân Phương, huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên được lựa chọn để
thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá hiện trạng sản xuất kinh doanh của làng
nghề để đưa ra những giải pháp giúp định hướng cho làng nghề phát triển
theo hướng bền vững, giảm thiểu tác hại đến môi trường.
Nghiên cứu này được thực hiện trong thời gian 3 tháng từ ngày
25/1/2011 đến ngày 26/4/2011.
3.3. Nội dung nghiên cứu
* Tìm hiểu vị trí địa lý và tình hình kinh tế xã hội xã Xuân Phương,
huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên
* Phân tích hiệu quả các hoạt động trong lĩnh vực làng nghề của xã với
các nội dung sau:
- Diễn biến thay đổi quy mô sản xuất của các hộ, trong giai đoạn 2008 - 2010

Cơ cấu các sản phẩm chính, tốc độ phát triển các sản phẩm trong giai
đoạn này.
- Thực trạng lao động trong các cơ sở làm nghề
- Vấn đề tiếp cận nguồn vốn tín dụng
- Vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm
* Tác động của làng nghề Phương Độ đến điều kiện môi trường tự
nhiên và xã hội của địa phương
20
* Phân tích điểm mạnh yếu, cơ hội và thách thức đối với làng nghề mộc
Phương Độ
* Đưa ra những định hướng phát triển làng nghề trong thời gian tới
* Tìm hiểu các vấn đề tồn tại của xã cản trở việc thực hiện các phương
hướng này.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Tiến hành thu thập các tài liệu báo cáo, nghiên cứu khoa học, văn
bản chính sách và các số liệu liên quan đến hiện trạng phát triển chung của
của làng nghề Việt Nam tại các thư viện quốc gia, bộ tài nguyên môi trường,
bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và trên mạng internet.
Bước 2: Tiến hành thu thập điều tra thực địa.
• Trao đổi cán bộ phòng lao động thương binh xã hội và cán bộ UBND
xã Xuân Phương xin thu thập các tài liệu, báo cáo, chính sách và số liệu
thống kê có liên quan đến hiện trạng làng nghề mộc Phương Độ
• Tiến hành thu thập thông tin bằng cách tiếp cận trao đổi với 30 hộ dân
là những người sản xuất đồ gỗ tại địa phương (xem bảng 4.3).
Phương pháp chính được sử dụng ở đây là điều tra bằng phiếu điều tra
nông hộ, phân tích điểm mạnh yếu cơ hội và thách thức của làng nghề và
quan sát thực địa
Bước 3: Sử dụng phần mềm Microsoft Word để tiến hành tổng hợp, phân tích
số liệu và viết báo cáo

21
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
4.1.1. Vị trí địa lý
Xã Xuân Phương là một xã trung du nằm ở trung tâm huyện Phú Bình,
có diện tích tự nhiên 737,5 ha, diện tích đất canh tác 603,5 ha, xã nằm cách
trung tâm huyện lị Phú Bình 1,5 km về phía Tây Bắc (Nguồn: địa chính xã
Xuân Phương)
Phía đông giáp xã Úc Kỳ
Phía tây giáp thị trấn Hương Sơn
Phía bắc giáp xã Nga My
Phía nam giáp xã Tân Kim
4.1.2. Điều kiện tự nhiên
Xã Xuân Phương nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, với mùa hè
nóng ẩm và mùa đông lạnh, địa phương có đủ 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông.
Lượng mưa phân bố không đều trong năm, mưa chủ yếu tập trung vào
mùa hè chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Hàng năm có hai mùa gió chính:
+ Gió mùa đông bắc (từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau) gây
lạnh và khô.
+ Gió mùa đông nam (từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau) gây
ẩm và mưa.
4.1.3. Tình hình sử dụng đất
Tình hình đất đai của cả nước nói chung cũng như của Xuân Phương
nói riêng chưa thực sự có hiệu quả như mong muốn.
Quỹ đất ngày càng thu hẹp trong khi đó dân số lại không ngừng gia
tăng bởi vậy cần phải có những biện pháp sử dụng đất đai phù hợp và đúng
khoa học, mỗi một vùng đất có tính chất khác nhau cần có những mục đích sử
dụng đất khác nhau để định hướng sản xuất kinh doanh ở vùng đó. Để biết
được tình hình sản sử dụng đất của xã Xuân Phương ta xem bảng 4.1:

22
Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất của xã Xuân Phương năm 2010
Chỉ tiêu Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
Tổng diện tích đất 737,5 100
1. Diện tích đất nông nghiệp 603,5 81,9
2. Đất thổ cư 85,7 11,3
3. Đất chuyên dùng làm ngành nghề 10 1,4
4. Các loại đất khác 39,7 5,4
(Nguồn: UBND xã Xuân Phương, năm 2010)
Xã Xuân Phương là một xã trung du nằm ở trung tâm huyện Phú Bình, có
diện tích tự nhiên 737,5 ha, diện tích đất canh tác 603,5 ha chiếm 81,9 % diện tích
đất thổ cư 85,7 ha chiếm 11,3 %, diện tích đất chuyên dùng làm ngành nghề 10 ha
chiếm 1,4 %, diện tích các loại đất khác 39,7ha chiếm 5,4 %.
4.2. Tình hình nhân khẩu, lao động và giáo dục
*Tình hình nhân khẩu và lao động
Bảng 4.2: Cơ cấu lao động theo nghành nghề ở xã Xuân Phương
TT Nghành Số hộ Số lao động
1 Nông nghiệp 1.570 3.523
2 Tiểu thủ công nghiệp 144 307
3 Thương mại - Dịch vụ 224 321
4 Tổng 1938 4.151
(Nguồn: UBND xã Xuân Phương, năm 2010)
Có 1938 hộ với 8023 nhân khẩu được phân bổ ở 14 xóm. Với số người
trong độ tuổi lao động chiếm 70% đây là một thuận lợi cho địa phương về vấn
đề lao động, đồng thời cũng là một gánh nặng về vấn đề giải quyết việc làm
ảnh hưởng đến trật tự xã hội trên địa bàn.
23
*Về giáo dục:
Xã có 3 trường, Trung học cơ sở, Tiểu học, Mầm non, trong đó có 2
trường Tiểu học và trường Mầm non đạt chuẩn Quốc gia mức độ I. Hoàn

thành phổ cập Trung học cơ sở.
*Trình độ dân trí:
Xã Xuân Phương đã hoàn thành phổ cập cấp 2, trình độ dân trí không
ngừng được nâng cao nhờ sự quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền tại
địa phương và nhận thức đúng đắn của người dân về giáo dục nhiều quỹ
khuyến học của các dòng họ được thành lập, hằng năm số học sinh đỗ vào các
trường cao đẳng đại học được tăng lên. Điều đó làm nâng cao trình độ dân trí
cũng như chất lượng lao động của địa phương (UBND xã Xuân Phương)
* Ý nghĩa: Từ những số liệu trên cho ta thấy xã Xuân Phương có nguồn lao động
lớn, chất lượng lao động không ngừng được nâng cao tạo điều kiện thúc đẩy quá
trình chuyển dịch nhanh nền kinh tế ở địa phương, theo hướng hiện đại hóa nông
thôn, đồng thời lực lượng lao động lớn cũng là một ghánh nặng đối với địa
phương trong vấn đề giải quyết việc làm, gây mất trật tự an ninh xã hội.
4.3. Tình hình phát triển kinh tế của xã xuân phương
Bảng 4.3: Bảng cơ cấu kinh tế của xã trong 3 năm 2008 – 2010
Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010
Giá trị
sản xuất
(Triệu
đồng)

cấu
(%)
Giá trị
sản xuất
(Triệu
đồng)

cấu
(%)

Giá trị
sản xuất
(Triệu
đồng)

cấu
(%)
Tiểu thủ công nghiệp 7.580 39.6 11.579 44.5 20.000 47.2
Nông nghiệp 3.450 18.04 3.865 14.9 4.378 10.3
Dịch vụ 8.085 42.36 10.560 40.6 18.000 42.5
Tổng 19.115 100 26.004 100 42.378 100
(Nguồn: UBND xã Xuân Phương)
Thành tựu đạt được:
24
Tốc độ tăng trưởng kinh tế phấn đấu tăng 12%.
Sản lượng lương thực có hạt = 3348 tấn.
Sản lượng lợn thịt hơi xuất chuồng = 575 tấn, lợn sữa 250 tấn
Giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp = 20 tỷ đồng, dịch vụ thương mại =
18 tỷ đồng.
Thu nhập bình quân đầu người = 11.000.000 đ
Thu ngân sách 1.900.000.000 đ
Giảm tỷ xuất sinh thô = 0,24
0/
00
Giảm tỷ lệ hộ nghèo = 3,4%.
Giải quyết việc làm mới = 200 lao động. (nguồn UBND xã Xuân Phương)
* Đầu tư xây dựng cơ bản, giải phóng mặt bằng
Triển khai thu hồi đất phục vụ các dự án công trình nước sinh hoạt, chợ
cầu Mây, đền thờ liệt sỹ và 2 khu tái định cư dự án đường 120 các dự án phần
lớn đã hoàn thành còn lại đang chờ nhà đầu tư giải phóng mặt bằng những

công trình này góp phần thay đổi bộ mặt của địa phương tạo tiền đề thuận lợi
cho các nhà đầu tư sau này vào địa bàn xã.
Hiện tại xã Xuân Phương đang tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn tạo điều kiện cho phát triển nông thôn theo hướng hiện đại hóa
như: bê tông hóa kênh mương, đường liên xã, giao thông nội đồng…
Các dự án đầu tư của nhà nước góp phần thay đổi bộ mặt của địa
phương như: xây trương cấp 1, 2 đạt trường chuẩn quốc gia, đền liệt sĩ.
4.4. Thực trạng sản xuất làng nghề mộc mỹ nghệ xã xuân phương
4.4.1. Lịch sử phát triển làng nghề mộc Phương Độ
Hình thành và phát triển qua hơn 20 năm nay làng nghề Phương Độ xã
xuân Phương huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên đang từng bước khẳng định
được tên tuổi thương hiệu của mình không chỉ đối với người dân địa phương
mà còn được nhiều địa phương khác biết tới như thành phố Thái Nguyên, Hà
25

×