Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Nghiên cứu về thâm hụt tài chính ,, tiết kiệm quốc gia và tăng trưởng kinh tế bền vững đối với các nền kinh tế mới nổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (835.14 KB, 24 trang )

GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
Nghiên cứu về thâm hụt tài chính ,, tiết kiệm quốc gia và tăng
trưởng kinh tế bền vững đối với các nền kinh tế mới nổi:
Cách tiếp cận bảng dữ liệu năng động GMM (GMM dynamic)
Antonino Buscemi
Đại học Rome Tor Vergata - ,, Khoa Kinh tế và Luật ,,
Rome, Italy. Email: antonino.buscemi @ uniroma2.it
Alem Hagos Yallwe
Đại học Rome Tor Vergata - ,, Khoa Kinh tế và Luật ,,
Rome, Italy. Email:
MỤC LỤC
TÓM TẮT
Các mô hình tăng trưởng tân cổ điển lập luận về tăng trưởng quốc gia bền vững cho
rằng công nghệ, tỷ lệ tiết kiệm ngoại sinh, tăng trưởng dân số và tiến bộ kỹ thuật
kích thích một mức tăng trưởng kinh tế cao hơn (Solow ,, 1956) Trái với lập luận
1
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
tân cổ điển, mô hình tăng trưởng nội sinh cho rằng ,, trong các lý thuyết tăng trưởng
nội sinh, khi chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tích lũy kiến
thức, nghiên cứu và phát triển, đầu tư công, phát triển nguồn nhân lực, pháp luật và
trật tự ,, điều này có thể tạo ra sự tăng trưởng cả trong ngắn hạn và dài hạn. Hơn
nữa, họ cho rằng tiến bộ kỹ thuật cũng là biến nội sinh đối với sự tăng trưởng kinh tế
cho sự phát triển (Barro ,, 1995).
Nghiên cứu này phân tích những tác động của thâm hụt ngân sách đối với tăng
trưởng kinh tế bền vững và cung cấp những bằng chứng thực nghiệm mới về tác
động của thâm hụt ngân sách đối với tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế bền vững dựa
trên giả định của mô hình tăng trưởng nội sinh . Chúng tôi ước lượngtính bằng cách
sử dụng hình thức rút gọn của phương pháp GMM đối với các bảng dữ liệu được thu
thập từ bảng dữ liệu năng động năm 1990-2009 cho ba quốc gia mới nổi bao gồm
Trung Quốc , Ấn Độ và Nam Phi trong thời kỳ 1990-2009
2


GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
1. Giới thiệu
2.
Phúc lợi của thế hệ kế tiếp được xác định bởi sự tăng trưởng kinh tế bền vững và
chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý. Một sự tăng trưởng kinh tế bền vững là yếu tố bước
đệm và quan trọng nhất để cải thiện tiêu chuẩn sống của người dân . Chính phủ, đặc
biệt là ở các nước đang đang phát triển xem tăng trưởng kinh tế là mục tiêu cơ bản
nền tảng và phấn đấu để thay đổi cuộc sống của người dân bằng cách sử dụng các
chính sách phát triển khác nhau . Một số quốc gia đạt được các mức tăng trưởng
kinh tế cao và trở thành các tấm gương để như các mô hình mà các quốc gia đang
phát triển khác làm theo nhằm đang cố gắng theo đuổi, và gia tăng sự thịnh vượng
cũng như vai trò của họ trong cộng đồng quốc gia.
Cách chính phủ tài trợ các chi phí của nó cũng là một vấn đề quan trọng đối với sự
tăng trưởng kinh tế. Nếu nền kinh tế tài trợ hầu hết dựa vào thuế, nó sẽ bóp méo sự
các khuyến khích đầu tư sản xuất và do đóhậu quả là nó có thể cản trở sự phát triển
kinh tế. Tài trợ cho tThâm hụt tài chính thông qua vay mượn cũng ảnh hưởng đến
quy mô của các công ty tư nhân và lãi suất trong nền kinh tế.
Mặc dù các nhà kinh tế đưa ra các kết luận khác nhau về hiệu ứng thâm hụt ngân
sách, tuy nhiên rất nhiều kếtnhiều kết quả quả thực nghiệm và thực tế lại không cho
thấy các bằng chứng về hậu quả tiêu cực do vấn đề thâm hụt ngân sách gây ra.đưa ra
những chứng cớ ngược lại.
Nghiên cứu được thực hiện bởi Fischer (1993) , Easterly và Rebelo (1993) ,,
Easterly và cộng sự (1994). , Bleaney và cộng sự ( 2001) đưa ra các tác động có hại
của thâm hụt ngân sách đối với tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu của nghiên cứu này là để cung cấp kết quả thực nghiệm mới đối với kỳ
vọng tác động của thâm hụt ngân sách đối với tăng trưởng kinh tế bền vững cho ba
nền kinh tế mới nổi là: Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi. Nghiên cứu sử dụng
phương pháp GMM, ước tính hình thức rút gọn của mô hình bằng cách sử dụng các
bảng năng động cho giai đoạn 1990-2009 . Nghiên cứu có bảy phần bao gồm cả
phần giới thiệu

Phần thứ hai thảo luận về mối tương quan của các biến số tài chính đối với tăng
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
trưởng kinh tế và các kiểu mô hình tăng trưởng khác nhau. Ngoài ra, phần thứ hai
còn phân tích các mô hình khác nhau về tác động của thâm hụt ngân sách đối với
tăng trưởng kinh tế
Phần thứ ba bao gồm các cuộc thảo luận về mối liên hệ giữa mô hình lý thuyết và
các phương pháp nghiên cứu được thực hiện trong bàinghiên cứu. Các dữ liệu được
sử dụng trong nghiên cứubài được mô tả trong phần bốnn . Phương pháp luận của
bài nghiên cứu được giải thích trong phần năm . Các kết quả thực nghiệm và kết
luận của nghiên cứu được trình bày lần lượt trong phần sáu và bảy.
3. Tổng quan nghiên cứu:
3.1. Chính sách tài chính, tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế
Nói chung các mô hình tăng trưởng có thể được phân thành hai dạng chính ,, tân cổ
điển ( Solow ,, 1956; Swan ,, 1956) và nội sinh ( Romer ,, 1986; Lucas ,, 1988). Hai
mô hình này có lập luận khá tương tự về tác động của chính sách tài khóachính đối
với mức tăng trưởng GDP những , lại khác nhau cơ bản về các lập luận liên quan
đến khác nhau cơ bản của hai mô hình là kết luận về tác động của chính sách tài
khóachính đối với tăng trưởng kinh tế.
Theo lý thuyết của mô hình tăng trưởng nội sinh, chính phủ đóng một vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy tích lũy kiến thức, nghiên cứu, phát triển, đầu tư công hiệu
quả, phát triển nguồn nhân lực, pháp luật và trật tự có thể tạo ra sự tăng trưởng cả
trong ngắn và dài hạn Về cơ bản, lý thuyết của mô hình tăng trưởng nội sinh có
hai cách tiếp cận khác nhau. Đầu tiên là những mô hình tăng trưởng nội sinh mà
chính phủ có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bằng cách thúc đẩy các hoạt
động tư nhân với thông qua các tác động ngoại vi tích cực.
Theo Barro (1990), Ttrong những mô hình tăng trưởng nội sinh này, cách thức chi
tiêu của chính phủ xác định tỷ lệ tăng trưởng dài hạn theo như lập luận của Barro
( 1990). Mô hình tăng trưởng nội sinh của Barro (1990 ) đã nghiên cứu rằng hiệu
quả của sự gia tăng trong chi tiêu chính phủ tài trợ bởi thuế không gây bóp méo
(non-distortionary taxation) sẽ làm tăng tốc độ tăng trưởng trong khi hiệu quả khá

mơ hồ nếu thuế bóp méo (distortionary taxation) được sử dụng. Ngoài ra, sự gia
tăng trong chi tiêu chính phủ không sinh lợi tài trợ bởi các loại thuế không bóp méo
(non-distortionary taxation) sẽ có tác dụng trung tính trên tăng trưởng nhưng nếu
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
thuế bóp méo (distortionary taxation) được sử dụng, , tác động này sẽ là tiêu cực.
Loại thứ hai của mô hình tăng trưởng nội sinh cho rằng chính phủ cung cấp các sản
phẩm, dịch vụ hiệu quả làm tăng sản phẩm biên của vốn tư nhân và do đó ảnh
hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Khác với các mô hình tăng trưởng nội sinh,
mô hình tăng trưởng tiêu chuẩn tân cổ điển cho rằng tăng trưởng sản lượng trong dài
hạn xác định bằng cách tăng cung ứng lao động , tích lũy vốn vật chất, con người, và
thay đổi công nghệ
Hơn nữa, nếu tiết kiệm và đầu tư tăng lên nhờ các chính sách tài khóachính hiệu
quả, tỷ lệ cân bằng vốn - sản lượng sẽ thay đổi và sau đó tốc độ tăng trưởng sẽ tăng
đưa mức tăng trưởng bình quân đầu người của nền kinh tế lên một mức cao hơn,
nhưng trong dài hạn sẽ quay lại mức ban đầu.
3.2. Ảnh hưởng của thâm hụt ngân sách
Tác động của chính sách tài khóachính đối với tăng trưởng kinh tế là một chủ đề gây
tranh cãi lâu dài trong các lý thuyết kinh tế, nghiên cứu thực nghiệm, và hoạch định
chính sách kinh tế
Chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu, tăng thuế
suất, tăng cơ sở chịu thuế hoặc thông qua việc in tiền. Những người duy lý sẽ Các
nhân tố kinh tế lý trí có thể lưu ýnhận thức rằng mức thâm hụt cao hơn hôm nay ngụ
ý một mức thuế cao hơn trong tương lai, và họ có thể gia tăng tiết kiệm của họ ngày
hôm nay để có phương tiện chi trả cho những khoản thuế cao hơn trong tương lai.
Tuy nhiên, một số nhân tố kinh tếmột số người dân có thể bị ảo giác tài chính hoặc
đơn giản là không quan tâm đến các loại thuế cao hơn trong tương lai. Bernhein
(1989) đưa ra một bản tóm tắt ngắn gọn về tác động của thâm hụt ngân sách được
thực hiện bởi mô hình tân cổ điển, Keynes và Ricardo. Theo lý thuyết tân cổ điển,
một cá nhân có kế hoạch tiêu dùng trong toàn bộ vòng đời của họ Bằng cách
chuyển thuế cho các thế hệ tương lai, thâm hụt ngân sách sẽ làm tăng tiêu dùng hiện

tại. Hơn nữa bằng cách giả định rằng các nguồn nhân lực là đầy đủ, sự gia tăng
trong tiêu dùng làm giảm tiết kiệm và lãi suất tăng lên để mang lại sự cân bằng trong
thị trường vốn. Lãi suất cao hơn dẫn đến một sự suy giảm trong đầu tư tư nhân.
Trong khi trường phái Keynes đưa ra lập luận dựa vào sự ưa thích của đám đông, có
hiệu lực bằng cách tham chiếuxem xét đến các hiệu ứng mở rộng của thâm hụt ngân
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
sách Trường phái Keynes tin rằng kết quả thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến sự gia
tăng sản xuất trong nước khiến cho các nhà đầu tư tư nhân lạc quan hơn về tương lai
của nền kinh tế dẫn đến mức đầu tư gia tăng nhiều hơn (hiệu ứng “đám đông”).
Lập luận của trường phái Keynes truyền thống có thể khác với các quan điểm tân cổ
điển vì hai lý do chính. Thứ nhất Nguồn lực nhân sự có thể bị thất nghiệp tức là
không đầy đ,ủnguồn nhân lực luôn tồn tại thất nghiệp tự nhiên. Thứ hai, các cá nhân
ưa thích tính thanh khoản , nó giả định sự tồn tại của một số lượng lớn thanh khoản
cá nhân bị hạn chế Giả định thứ hai đảm bảo rằng tổng tiêu dùng rất nhạy cảm với
những thay đổi trong thu nhập khả dụng. Vì vậy, nhiều lý thuyết trường phái Keynes
truyền thống cho rằng thâm hụt ngân sách phải không được lấn át đầu tư tư nhân
Theo mô hình tân cổ điển, ngay cả khi thâm hụt ngân sách có ảnh hưởng bất lợi trên
tiết kiệm quốc gia , nó cũng không làm giảm tốc độ tăng trưởng sản lượng một cách
lâu dài, bởi vì trong các mô hình, tăng trưởng kinh tế dài hạn sẽ được quyết định do
tiến bộ kỹ thuật, được giả định là ngoại sinh Tuy nhiên, tiết kiệm thấp hơn sẽ dẫn
đến tỷ lệ vốn/ lao động thấp hơn, và do năng suất cận biên giảm sẽ dẫn đến một mức
lãi suất thực tế cao hơn. Một tTỷ lệ vốn/ để lao động thấp hơn cũng sẽ dẫn đến giảm
năng suất lao động thấp hơn và do đó cuối cùng dẫn đến đến một tỷ lệ lương thực tế
thấp hơn.
Trái ngược với lập luận của mô hình tân cổ điển về những ảnh hưởng của thâm hụt
tài khóachính, mô hình tăng trưởng nội sinh giả định tiến bộ kỹ thuật như biến nội
sinh cho sự phát triển ( Barro và Sala -i-Martin ,, 1995). Những mô hình này dựa
trên định nghĩa mở rộng hơn về vốn, kết hợp ngoại tác tích cực của tích lũy vốn (ví
dụ , học thông quan làm việc vừa học vừa làm hoặc tiến bộ kỹ thuật do công nghệ
trong vốn mới ) Kết quả , trong nhiều mô hình tăng trưởng nội sinh ,, giả định về

giảm năng suất biên của vốn được thay thế bằng một giả định về năng suất cận biên
không đổi. Điều này cho phép thay đổi trong tốc độ tăng trưởng được thúc đẩy bởi
những thay đổi trong tiết kiệm quốc gia tồn tại trong dài hạn.
3.3. Xem xét các công trình thực nghiệm trước đó:
Tác động của chính sách tài chính đối với tăng trưởng kinh tế là một chủ đề gây
tranh cãi và lâu dài trong lý thuyết kinh tế ,, nghiên cứu thực nghiệm ,, và hoạch
định chính sách kinh tế Lý thuyết truyền thống cho rằng ,, giả định những yếu tố
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
khác không đổi, giảm tiết kiệm của chính phủ sẽ khiến lãi suất tăng, đầu tư giảm, và
tăng trưởng kinh tế chậm lại. Có một sốnhiều bằng chứng thực nghiệm từ các bảng
điều khiểndữ liệu bảng và hàng loạt dữ liệu thời gianchuỗi đã phân tích những tác
động của thâm hụt ngân sách lên tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm. Tác hại của thâm
hụt ngân sách đến tăng trưởng kinh tế đã được thể hiện thực nghiệm ghi nhận trong
một số nghiên cứu thực nghiệm ,, chẳng hạn như Rubin et al. ,, (2004), Gale và
Orszag (2002), Fischer (1993) ,, Easterly và Rebelo (1993) ,, Eastly và cộng sự ,,
(1994) ,, Bleaney et al. ,, (2001) và Borcherding et al. ,, ( 2004). Roy và Berg (2009)
đã tìm thấy kết quả đáng ngờ.
Fischer (1993 ) đã kết luận điều tra của mình bằng cách nói rằng, thâm hụt ngân
sách lớn và tăng trưởng kinh tế tương quan ngược chiều Vì lạm phát và thị trường
ngoại hối bị bóp méo, tạo nên do thâm hụt ngân sách ,, sẽ ảnh hưởng bất lợi đến nền
kinh tế. Gale và Orszag (2002) kết luận rằng, thâm hụt ngân sách vẫn còn có khả
năng làm chậm tăng trưởng kinh tế vì " dòng vốn vào đại diện cho một sự giảm
trong đầu tư nước ngoài ròng và do đó dẫn đến việc giảm vốn thuộc sở hữu của nhà
nước và làm giảm thu nhập quốc dân tương lai "
Borcherding và cộng sự ( 2004). Đã tìm thấy một hiệu ứng tăng trưởng âm xét quy
mô chính phủ của 20 nước OECD trong giai đoạn 1970-1997 Easterly và Rebelo
(1992) cũng tìm thấy một mối quan hệ ngược chiều phù hợp giữa tăng trưởng và
thâm hụt ngân sách trong bài báo của họ Hơn nữa, Rubin và cộng sự ( 2004) còn
bổ cung cấp các cuộc điều tra bổ sung thêm về tác động tiêu cực của tăng trưởng do
sự gia tăng thâm hụt ngân sách gây ra, như chính phủ tăng củng cố giá tài sản giảm,

giảm tài sản quốc gia ,, lo ngại lạm phát ,, giảm tính linh hoạt trong chính sách tài
chính khóa để đối phó với những cú sốc kinh tế vĩ mô ,, và sự suy giảm tin
tưởnglòng tin của các nhà đầu tư.
Ghosh và Hendrik (2009) lại tìm thấy kết quả ngược lại bằng cách sử dụng dữ liệu
chuỗi thời gian từ 1973-2004 của nền kinh tế Mỹ. Kết quả của họ chỉ ra rằng ,, giả
định các yếu tố khác không đổi, một sự gia tăng thâm hụt ngân sách làm chậm tăng
trưởng Tuy nhiên, thâm hụt tài khoản vãng lai "sinh đôigiống hệt" , trong đó cho
thấymà mô hình của chúng tôi cho thấy chúng ta có xu hướng thâm hụt ngân sách
và tăng trưởng kinh tế đi cùng với nhau Do đó, Nhìn chung, mối quan hệ tổng thể
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế là không rõ ràng
3.4. Xem lại các nghiên cứu thực nghiệm trước đây:
Tác động của thâm hụt ngân sách đến sự tăng trưởng kinh tế là vấn đề được bàn bạc
và tranh cãi rất nhiều trong lý thuyết kinh tế, trong nghiên cứu thực nghiệm và trong
việc hoạch định chính sách kinh tế. Lý thuyết truyền thống cho rằng, với giả định
các yếu tố khác không đổi, sự suy giảm trong ngân sách chính phủ sẽ đẩy lãi suất
tăng lên, đầu tư giảm và kinh tế tăng trưởng chậm lại. Có nhiều bằng chứng thực
nghiệm từ những dữ liệu đường và chuỗi thời gian phân tích tác động của thâm hụt
ngân sách đến sự tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm. Tác động tiêu cực của thâm hụt
ngân sách đối với kinh tế đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu như Rubin và cộng
sự (2004), Gale và Orszag (2002), Fischer (1993), Easterly và Rebelo (1993),
Easterly và cộng sự (1994), Bleaney và cộng sự (2001) và Borcherding và cộng sự
(2004). Ngoài ra còn có nghiên cứu của Roy và Berg (2009) tuy nhiên nó cho kết
quả không rõ ràng.
Với Fisher 1993, sau khi nghiên cứu ông đã kết luận rằng thâm hụt ngân sách và
tăng trưởng kinh tế có một mối tương quan nghịch bởi sự rối loạn của lạm phát và
thị trường ngoại hối xuất phát từ thâm hụt ngân sách sẽ tác động xấu đến nền kinh
tế. Gale và Orszag (2002) cho rằng thâm hụt ngân sách làm suy giảm kinh tế vì:
“dòng vốn chảy vào đại diện cho sự giảm xuống trong đầu tư ròng quốc gia dẫn đến
sụt giảm vốn của quốc gia và sụt giảm trong thu nhập tương lai của quốc gia.”

Borcherding và cộng sự (2004) nhận thấy mối liên hệ ngược chiều của tăng trưởng
và thâm hụt qua nghiên cứu 20 nước OECD giai đoạn từ 1970 – 1997. Easterly và
Rebelo (1992) cũng có kết luận tương tự. Bên cạnh đó, Rubin và cộng sự (2004) đã
phân tích thêm rằng, thâm hụt ngân sách sẽ làm giảm giá tài sản, giảm thu nhập
quốc gia, tăng lo ngại lạm phát, giảm sự linh hoạt của chính sách tài khóa đối phó
với các cú sốc vĩ mô và giảm niềm tin của nhà đầu tư.
Riêng Ghosh và Hendrik (2009) sau khi phân tích dữ liệu chuỗi thời gian từ 1973-
2004 cho nền kinh tế Mỹ và thấy rằng, với các yếu tố khác không đổi, sự tăng lên
trong thâm hụt làm chậm tăng trưởng. Tuy nhiên, thâm hụt tài khoản vãng lai kép
(mô hình của chúng tôi xem như thâm hụt ngân sách) lại thúc đẩy tăng trưởng. Do
đó, mối quan hệ giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế trong nghiên cứu
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
của họ là không rõ ràng.
4. Mô hình lý thuyết của thâm hụt ngân sách, tiết kiệm và tăng trưởng
kinh tế:
Như chúng tôi đã nói ở trên trong lý thuyết tăng trưởng nội sinh, chính sách tài khóa
có tác động đáng kể đến quy mô và tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu
người. Để kết nối giữa khung lý thuyết và phương pháp thực nghiệm của nghiên
cứu, chúng tôi sẽ xem xét thâm hụt ngân sách có tác động như thế nào đến tiết kiệm
trong nước và tăng trưởng kinh tế. Chúng tôi sử dụng mẫu hàm sản xuất đơn giản và
thuận tiện nhất là Cobb Douglas như Barro (1990); Barro và Sala-i-Martin (1992,
1995) đã đề cập trong nghiên cứu của họ.
Họ giả định rằng chính phủ cung cấp hàng hóa và dịch vụ (g) là đầu vào để chỉ ra
tác động cùng chiều của tiêu dùng chính phủ và tác động ngược chiều của đánh thuế
đến thu nhập quốc gia.
Hàm sản xuất, theo đầu người như sau:
y = Ak
1-α
g
α

Với α Є [0,1]
y là thu nhập bình quân đầu người,
A là năng suất,
k là vốn tư nhân bình quân đầu người,
g là sản phẩm và dịch vụ cung cấp bởi chính phủ.
Giờ có hai giả định để kết nối mô hình sản xuất với nghiên cứu của chúng tôi:
• Đầu tiên ngân sách chính phủ là cân bằng như kết quả của việc áp đặt thuế
không thay đổi với thuế suất (T) và thuế khoán (L) khi đó giới hạn ngân sách:
g + C = L + Tny (2)
Với n là số lượng nhà sản xuất và C là tiêu dùng chính phủ và được giả định là
không sinh lợi. Trên lý thuyết, thuế đánh trên thu nhập tác động đến đầu tư của tư
nhân, nhưng thuế khoán thì không (Barro, 1990).
Theo Barro (1990); Barro và Sala-i-Martin (1992) mô hình tỷ lệ tăng trưởng dài hạn
Ψ được thể hiện như sau:
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
Với λ và μ là tham số.
Phương trình (3) chứng tỏ rằng hàm tỷ lệ tăng trưởng là hàm giảm đối với thuế (T)
và tăng đối với tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ của chính phủ (g). Đồng thời, tiêu
dùng không sinh lợi (C) và thuế khoán (L) được giả định và không có vai trò gì.
• Thứ hai, nới lỏng giả định về ngân sách cân bằng để thâm hụt ngân sách tồn tại
và phân tích tác động của thâm hụt ngân sách đến sự tăng trưởng kinh tế.
Phương trình (4) được lấy từ phương trình (2) và thêm thâm hụt ngân sách vào
(theo nghiên cứu thực nghiệm của Kneller và cộng sự (1999) và Bleaney và
cộng sự (2000)) sẽ trở thành:
Với d là thâm hụt ngân sách.
Cả Amanja và Morrisey (2005) và Matthew (2009) đưa ra ước lượng tăng trưởng
trong nghiên cứu của họ sau nghiên cứu của Kneller và cộng sự (1999) và phương
trình được thể hiện như sau:
Với y
it

là tốc độ tăng trưởng thu nhập,
X là vec tơ của biến tài khóa,
z là vec tơ của biến phi tài khóa
và ε
it
là sai số.
Về lý thuyết, trong trường hợp giới hạn ngân sách được quy định đầy đủ và tất cả
các yếu tố được bao gồm, chúng ta có một ngân sách cân bằng và vector của biến tài
khóa bằng không.
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
Nhưng nếu một phần tử của X bị bỏ qua (ví dụ x
m
), cộng tuyến hoàn hảo (xem
Kneller và cộng sự, 1999) sẽ không tồn tại và kết quả là chi chính phủ sẽ không cân
bằng với thu chính phủ. Sau khi bỏ qua phần tử, phương trình (5) sẽ trở thành:
Cả Amanja và Morrisey (2005) và Matthew (2009) đã thử nghiệm giả thuyết (γj-γm)
= 0 thay vì giả thuyết thông thường là γj = 0. Theo đó, hệ số của biến tài khóa có
nghĩa là "ảnh hưởng của một sự thay đổi đơn vị trong các biến có liên quan được bù
đắp bởi một sự thay đổi đơn vị trong các yếu tố bỏ qua từ hồi quy" (xem Kneller và
cộng sự, 1999: 175).
5. Mô tả dữ liệu:
Dữ liệu được sử dụng cho phần hồi quy bắt đầu từ 1990 đến 2008, trong khi phần
mô tả chúng tôi đã sử dụng dữ liệu từ năm 1988 đến năm 2008. Dưới đây chúng tôi
sẽ mô tả các biến sử dụng trong nghiên cứu cùng cách xác định và nguồn của chúng.
Đa số các biến lấy từ cơ sở dữ liệu triển vọng kinh tế thế giới. Các biến được mô tả
như sau:
• GR: tỷ lệ tăng trưởng, đại diện cho tăng trưởng kinh tế, GDP bình quân
đầu người được tính bằng cách chia gdp cho dân số giữa năm. Nguồn từ
World Bank.
• FD: đại diện cho thâm hụt ngân sách, nó là chênh lệch giữa thu và chi của

chính phủ.
• TAX: Doanh thu thuế, tính theo phần trăm GDP, sử dụng để đánh giá ảnh
hưởng của thâm hụt tài khóa đối với sự tăng trưởng kinh tế cũng như tiết
kiệm trong nước. Nguồn từ World Bank economic outlook.
• FDEV: sự phát triển tài chính và tín dụng khu vực tư nhân, tính theo phần
trăm GDP
• TO: sự mở cửa thương mại [(Xuất khẩu + nhập khẩu) / GDP] được sử dụng để
đại diện cho sự mở cửa thương mại và được lấy từ World Bank.
• D: đại diện cho tổng nợ quốc gia và được lấy từ International Monetary
Fund và World Economic Outlook.
• INV: Tổng hình thành vốn cố định trong nước và được lấy từ World Bank.
• EXP: tiêu dùng chính phủ, được lấy từ International Monetary Fund và
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
World Economic Outlook.
• INF: lạm phát, là chỉ số giá tiêu dùng và được lấy từ World Bank.
• RIR: lãi suất thực, là lãi suất cho vay sau khi loại trừ lạm phát, lấy từ World
Bank.
• SAV: tiết kiệm trong nước, bao gồm tiết kiệm chính phủ, tiết kiệm doanh
nghiệp và tiết kiệm gia đình, tính theo phần trăm GDP và được lấy từ World
Bank.
6. Phương pháp:
Để phân tích tác động của thâm hụt ngân sách đến sự tăng trưởng, chúng tôi sử dụng
mô hình được mô tả dưới đây. Nó tương tự mô hình của Kneller và đồng
nghiệpcộng sự (1999). Trong đó có cả biến tài khóa và biến phi tài khóa. Thâm hụt
ngân sách, lạm phát, lãi suất và thuế là những biến chính. Những biến còn lại là
những biến điều khiển, bao gồm sự mở cửa thương mại, sự phát triển tài chính, đầu
tư trực tiếp nước ngoài, tiêu dùng chính phủ và tiết kiệm trong nước.
Với GR
t
đại diện cho tỷ lệ tăng trưởng của thu nhập bình quân đầu người, X

jt
là vec
tơ của biến tài khóa, Z
jt
là vec tơ của biến phi tài khóa và ε
jt
là sai số.
Với α1, α2, α3, α4, α5, α6, α7, α8, và α9 là hệ số ước lượng, πi biểu thị sự không
đồng nhất giữa các quốc gia, bao gồm tất cả các yếu tố không quan sát được có ảnh
hưởng đến sự tăng trưởng, ν
i
biểu thị ảnh hưởng thời gian cụ thể. Những ảnh hưởng
của biến tài khóa lên tiết kiệm trong nước được phân tích bằng cách sử dụng mô
hình dưới đây:
Với SAV
it
là tỷ lệ phần trăm tiết kiệm trong nước trên GDP. Chúng tôi ước lượng hệ
số sử dụng hình thức động của phương pháp GMM với dữ liệu từ 1990-2008 cho ba
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
quốc gia mới nổi bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi.
7. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
7.1. Phân tích mô tả và phân tích tương quan
Một kết quả khá bất ngờ là tất cả các quốc gia trong bảng bên dưới đều bị thâm hụt
trong hơn hai thập kỉ. Trong đó, Ấn Độ bị thâm hụt tài chính cao nhất so với Trung
Quốc và Nam Phi. Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của Trung Quốc cao hơn 2
nước còn lại. Tỉ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc là 6.97% trong giai đoạn 1988-
1992 và tăng lên 10.25 và 11.02 lần lượt trong giai đoạn 1993-1997 và 2003-2007.
Tuy nhiên tốc độ tăng tưởng trong giai đoạn 1998-2002 lại giảm 2.87 % so với giai
đoạn 5 năm trước đó. Sự suy giảm này có thể được giải thích bởi sự gia tăng thâm
hụt tài chính 60% so với giai đoạn trước đó. Mặc dù tăng trưởng của Ấn Độ trong 3

giai đoạn đầu không ấn tượng như Trung Quốc, nhưng ở giai đoạn cuối lại cho thấy
một sự gia tăng ấn tượng bằng 101% so với giai đoạn trước đó. Nam Phi có tăng
trưởng nhẹ từ 1993-2002. Nhưng giai đoạn 2003 - 2007 tăng trưởng bằng 6.89 lần
giai đoạn 1998 - 2002. Về mặt tiết kiệm trong nước, China có một sự gia tăng ổn
định ngoại trừ giai đoạn tăng trưởng giảm (1998 - 2002). Tương tự, Ấn Độ cũng có
một sự gia tăng ổn định trong tiết kiệm trong nước. Nam Phi thì giảm liên tục tiết
kiệm trong nước qua các giai đoạn.
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
Kết quả cho thấy biến tăng trưởng tương quan thuận với các biến FD, FDEV, INF,
SAV and TO. Việc tương qua thuận với FD và INF là không được mong đợi theo các
lý thuyết kinh tế. Bởi vì 2 biến này cản trở tăng trưởng kinh tế và chúng là các yêu
tố tăng trưởng kinh tế không bền vững. Còn các biến RIR, TAX, VÀ D có tương
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
quan nghịch với biến tăng trưởng. Biến phụ thuộc thứ hai là tiết kiệm cũng có tương
quan thuận và có ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, tiết kiệm có tương quan
nghịch và có ý nghĩa với các biến D, RIR, TAX.
7.2. Phân tích hồi quy
7.2.1. Tính chất của dữ liệu
Trước khi tiến hành hồi quy dữ liệu, chúng tôi cần kiểm tra tính dừng của các biến
bằng kiểm định nghiệm đơn vị bảng panal unit root test, xem phụ lục 7. Đối với
các biến không dừng ở sai phân bậc 1 và 2, chúng tôi tiến hành kiểm tra đồng liên
kết để đảm bảo rằng tồn tại mối quan hệ dài hạn. Chúng tôi sử dụng Levin, Lin và
Chu (LLC); Im, Pesaran và Shin (IPS); ADF-Fisher Chi-square và PP-Fisher Chi –
square cho bảng unit root test. Levin, Lin và Chu (2002) là một trong những unit
root test đầu tiên cho dữ liệu bảng và cho rằng các kiểm định nghiệm đơn vị riêng lẻ
individual unit root test có hiệu lực hạn chế so với với các giả thuyết đối, đặc biệt
đối với các mẫu nhỏ. Im, Pesaran và Shin (2003) sử dụng khung lý thuyết
likelihood đã đưa ra cách kiểm định unit root test mới linh hoạt và tính toán đơn
giảm hơn ( t-bar statistic), cho phép sử dụng các chuỗi dừng đồng thời và không
dừng.

GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
7.2.1.1. Kiểm định nghiệm đơn vị cho dữ liệu bảng
Bảng 7 dưới đây thể hiện kết quả unit root test bằng việc sử dụng Levin, Lin và Chu,
Im, Pesaran và Shin, ADF-Fihser Chi-square và PP-Fisher Chi-square. Kết quả chỉ
ra rằng các biến dừng ở ít nhất một phương pháp kiểm tra. Tất cả các biến đều có
tính dừng trong kiểm định nghiệm đơn vị riêng lẻ individual unit root test (i.e. Im,
Pesaran and Shin W-stat; ADF – Fisher Chi-square and PP-Fisher Chi-square) và
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
common unit root test (i.e. Levin, Lin and Chu) ngoại trừ FDEV và D không có tính
dừng trong kiểm định common unit root test. Khi một vài biến không có tính dừng
chúng tôi đã kiểm định chúng với sai phân bậc 1 và 2. Bởi vậy, tất cả các kết quả
được sử dụng cho bước kế tiếp đều là ước lượng. Tuy nhiên, để đảm bảo mối quan
hệ trong dài hạn giữa các biến, chúng tôi tiến hành kiểm định đồng liên kết trong
bảng 3.
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
7.2.1.2. Kiểm định tính đồng liên kết dạng bảng
Kiểm định tính đồng liên kết được tiến hành thông qua lý thuyết của Pedroni (1999,
2004), cho phép các hệ số chặn không đồng nhất (heterogeneous intercepts) và các
hệ số xu hướng (trend coefficient) qua mặt cắt ngang, bằng các phương pháp thống
kê giải thích kiểm tra giả thuyết H
0
không
không có tính đồng liên kết khác nhau. Có
hai giả thiết được đưa ra: Một là giả thuyết về tính đồng nhất hay còn gọi là kiểm
định trong chiều (winthin dimension) hoặc kiểm định thống kê bảng, hai là giả
thuyết không đồng nhất hay còn gọi là kiểm định giữa các chiều (between-
dimension) hoặc kiểm định thống kê nhóm.
Trường hợp giả thuyết đồng nhất, giả thuyết H
0

không không có tính đồng liên kết
cho kiểm định tính đồng liên dạng bảng sẽ là:
H
0
Ho: γi = 1 với mọi i
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
H
0
Ho: γi < 1 với mọi I
Trường hợp giả thuyết không đồng nhất, giả thuyết H
0
không không có tính đồng liên
kết cho kiểm định tính đồng liên kết dạng bảng sẽ là:
Ho: γi = 1 với mọi i
Ho: γi < 1 với mọi I
Vì các yêu cầu ngoại sinh không được áp dụng đối với các biến hồi quy độc lập
trong mô hình hồi quy đồng liên kết và chỉ tổng hợp các thông tin về sự tồn tại của
mối tương quan đồng liên kết, nên kiểm định tính đồng liên kết Pedroni có ưu thế
hơn so với các phương pháp khác.
Kết quả kiểm đinh tính đồng liên kết dạng bảng (panel cointegration test) cho thấy
tính đồng liên kết tồn tại giữa các biến giải thích và biến phụ thuộc. Như chúng ta
thấy trong bảng 3, với các giá trị chặn và các giả định xu hướng riêng trong tất cả
các trường hợp ngoại trừ thống kê Rho trong trường hợp của mô hình một và thống
kê V trong trường hợp của mô hình hai đều bác bỏ giả thuyết H
0không
không có đồng
liên kết ở mức ý nghĩa 5% và mức 10%. Điều này có nghĩa rằng các biến có mối
tương quan trong dài hạn và là cơ sở để tiếp tục các bước tiếp theo trong mô hình
hồi quy của bài nghiên cứu.
7.2.2. Kết quả hồi quy

Trong phần này chúng tôi tính các ước số bằng cách phân loại các biến giải thích
thành các biến tài chính khoá và phi tài khoáchính. Bảng 4 bao gồm các kết quả hồi
quy với các biến phụ thuộc gia tăng dần bằng phương pháp GMM năng động,
phương pháp ước lượng hiệu ứng cố định và ước lượng hiệu ứng ngẫu nhiên. Trong
bảng này tất cả các biến giải thích được sử dụng bao gồm cả độ trễ của biến phụ
thuộc. Trong bảng 5, chúng tôi đã sử dụng hồi quy tương tự cho tiết kiệm và xem
các biến tăng trưởng kinh tế như một trong những biến giải thích. Bảng 6 thể hiện
kết quả hồi quy không bao gồm các biến phi tài chính để đánh giá liệu các biến tài
chính có tự mình giải thích đáng kể các tác động của việc thâm hụt tài khóa đối với
sự tăng trưởng và tiết kiệm như lý thuyết về tiết kiệm và tăng trưởng đã nói hay
không.
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
*** Mức ý nghĩa 1%; ** Mức ý nghĩa 5%; * Mức ý nghĩa 10%; Biến phụ thuộc
trong mô hình hồi quy là tiết kiệm trong nước so với GDP. Khoảng thời gian nghiên
cứu được tính từ năm 1990 đến năm 2008. Tất cả các biến giải thích được sử dụng
trong các hồi quy là tỷ lệ phần trăm trêncủa GDP. Ước lượng tác động cố định sử
dụng tác động cố định chéo giữa các quốc gia và sửa chữa sự tự tương quan của các
sai số. Phương pháp xu thế tổng quát dạng bảng (panel GMM) được áp dụng cho
mẫu nghiên cứu để hạn chế số lượng các điều kiện thời điểm.
7.3. Thảo luận
Sự gia tăng thâm hụt ngân sách được xem là một trong những trở ngại chính đối với
tăng trưởng kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế. Fischer (1993), cũng cho rằng
thâm hụt ngân sách lớn chỉ đơn giản là một chỉ số cho thấy sự bất ổn kinh tế vĩ mô
nói chung và đó cũng là nguyên nhân chính gây tổn hại cho tăng trưởng kinh tế. Trái
với lý thuyết kinh tế chuẩn và nhiều nghiên cứu thực nghiệm, kết quả hồi quy của
chúng tôi đối với thâm hụt ngân sách cho thấy kết quả độc đáo. Như chúng ta thấy
trong bảng 4, 5 và 6, các hệ số về kết quả thâm hụt ngân sách có ý nghĩa và tương
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
quan dương đối với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm. Về cơ bản kết quả mô hình hồi
quy của chúng tôi cũng không phải là mô hình đầu tiên cho thấy mối tương quan

dương giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế.
Tương tự, kết quả hồi quy đối với lạm phát cũng lặp đi lặp lại những gì chúng ta đã
quan sát thấy trong trường hợp thâm hụt. Tuy nhiên, kết quả lại không có ý nghĩa,
ngoại trừ bảng 6 trong trường hợp tiết kiệm. Mặc dù rất nhiều nghiên cứu thực
nghiệm về lạm phát và tăng trưởng kinh tế cho thấy có mối tương quan âm giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế. Cả các đánh giá của Fischer (1991) và Sala-I Martin
(1991) cho thấy một liên kết không đáng kể giữa tăng trưởng và lạm phát. Trong
thực tế, mức độ lạm phát (thấp, trung bình và cao) có ý nghĩa quan trọng đối với
việc giảm tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Tuyên bố này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu
của Clark (1993). Ông đã nghiên cứu các quốc gia có lạm phát thấp và trung bình và
thấy rằng không có mối tương quan đồng nhất và có ý nghĩa giữa tăng trưởng và
lạm phát. Hơn nữa, Levine và Zervos (1993) kết luận rằng những thay đổi biên
trong tỷ lệ lạm phát trung bình có thể có mối tương quan âm với tốc độ tăng trưởng.
Hệ số của biến thuế trong kết quả hồi quy của chúng tôi là có ý nghĩa và tỷ lệ nghịch
với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm, điều này phù hợp với lý thuyết kinh tế. Một số
nghiên cứu thực nghiệm cũng xác nhận rằng thuế suất cận biên cao sẽ giảm tăng
trưởng kinh tế. Trong số đó, Padovano và Galli (2001, 2002) đảm bảo rằng những
tác động tiêu cực của tỷ lệ thuế suất cận biên cao có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng kinh tế.
*** Có ý nghĩa ở mức 1%; ** Có ý nghĩa ở mức 5%;; * Có ý nghĩa ở mức 10%;.
Các biến phụ thuộc trong các mô hình hồi quy là mức tăng trưởng GDP bình quân
đầu người thực tế hàng năm và tiết kiệm trong nước tính theo phần trăm của GDP.
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
Khoảng thời gian được theo dõi từ năm 1990 đến năm 2008. Các biến giải thích các
chính sách ngân sách được sử dụng trong mô hình hồi quy là phần trăm GDP.
Mở cửa thương mại được dự đoán sẽ có một kết quả tích cực và đáng kể cho cả tăng
trưởng và tiết kiệm. Mặc dù nhiều nghiên cứu không tìm thấy mối tương quan
dương và mạnh giữa việc mở cửa thương mại và tăng trưởng kinh tế, nhưng các lý
thuyết lại hỗ trợ cho quan điểm có mối tương quan dương và mạnh giữa mở cửa
thương mại và tăng trưởng kinh tế. Kết quả trong bảng 4 cho thấy nếu mở cửa

thương mại 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế tăng 0,09% và tiết kiệm quốc gia tăng
0,08%. Hệ số phát triển tài chính đối với việc tăng trưởng kinh tế cho thấy một mối
tương quan dương và có ý nghĩa ở mức 10%.
Kết quả này được hỗ trợ cùng với kết quả của Goldsmith (1969) và Mckinnon
(1973), La Porta et al., (1998) và Levine và cộng sự (2000). Tuy nhiên, phát triển tài
chính (financial development) với tiết kiệm đã cho thấy một mối tương quan âm và
có ý nghĩa. Trên thực tế trong một số nghiên cứu, phát triển tài chính có kết quả
không rõ ràng với tiết kiệm. Một số cho rằng sự tồn tại của hệ thống tài chính vững
mạnh và tiến bộ sẽ khuyến khích phát triển tín dụng và gia tăng mức độ tiêu dùng
mà kết quả là làm giảm lượng tiết kiệm. Nói cách khác, phát triển tài chính sẽ
khuyến khích tiết kiệm một phần thu nhập của họ và sẽ hưởng thêm phần lãi suất từ
phần tiết kiệm và từ đó khuyến khích tiết kiệm nhiều hơn.
Lãi suất thực tương quan âm và có ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm. Lãi
suất thực cao hơn sẽ làm tăng động cơ để tiết kiệm và tiêu dùng ít hơn. Điều này là
do tiêu dùng trong tương lai rẻ hơn tương đối so với mức tiêu dùng hiện tại (tức hiệu
ứng thay thế). Tuy nhiên, những người tiết kiệm sẽ có thêm thu nhập từ lợi nhuận
cao hơn, do đó có thể làm tăng chi tiêu của họ (ảnh hưởng thu nhập).
8. Kết luận và gợi ý chính sách
Phúc lợi của thế hệ kế tiếp được xác định bởi sự tăng trưởng kinh tế bền vững và
chính sách kinh tế vĩ mô tốt. Tăng trưởng kinh tế là một yếu tố quyết định quan
trọng đối với tiêu chuẩn sống trong xã hội khi nó đạt được với tỷ lệ lạm phát và thất
nghiệp thấp và ổn định.
Mục tiêu của nghiên cứu này là cho thấy làm thế nào mà thâm hụt ngân sách lại cản
trở việc tăng trưởng kinh tế bền vững ở các nước mới nổi. Từ đó sẽ cung cấp các
GVHD: PGS.TS. Sử Đình Thành Nhóm 9
kiến thức hữu ích để có thể hiểu và thực hiện các biện pháp phòng ngừa. Kết quả hồi
quy của chúng tôi đối với biến thâm hụt ngân sách cho thấy kết quả độc đáo. Như
các bạn có thể thấy trong bảng 3, 4 và 5, các hệ số về kết quả thâm hụt ngân sách có
ý nghĩa và tương quan dương đối với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm. Về cơ bản kết
quả hồi quy của chúng tôi không phải là kết quả đầu tiên cho thấy sự tương quan

dương giữa thâm hụt ngân sách và tăng trưởng kinh tế.
Biến tỷ lệ lãi suất thực tương quan âm và có ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế và tiết
kiệm, điều nãy cũng được hỗ trợ bởi các lập luận của lý thuyết kinh tế chuẩn. Trong
khi đó, kết quả hồi quy đối với lạm phát cũng lặp đi lặp lại những gì chúng ta đã
quan sát thấy trong các trường hợp hồi quy thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, kết quả
không có ý nghĩa, ngoại trừ bảng 5 đối với trường hợp tiết kiệm. Mặc dù nhiều
nghiên cứu thực nghiệm phát hiện rằng lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối
tương quan âm, đánh giá của Fischer (1991) và Sala-I Martin (1991) đã tìm thấy một
liên kết không có ý nghĩa giữa tăng trưởng và lạm phát.
Do đó chúng tôi có thể kết luận rằng, thâm hụt ngân sách sẽ ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế và tiết kiệm thông qua các phương tiện để giải quyết thâm hụt. Như
chúng ta đã thấy cả thuế và lãi suất đều thể hiện một mối tương quan âm và có ý
nghĩa với tăng trưởng kinh tế và tiết kiệm bất chấp kết quả của nợ và lạm phát.

×