Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm kinh nghiệm khi dạy về nội dung câu kể ở lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.9 KB, 24 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
A. Đặt vấn đề
I. Lời nói đầu:
Việc hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong môi trờng hoạt động của lứa
tuổi là một mục tiêu quan trọng của môn Tiếng Việt. Để thực hiện mục tiêu đó,
phân môn luyện từ và câu đã góp phần không nhỏ giúp học sinh ngày càng có
kĩ năng giao tiếp tự nhiên.
Nội dung phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 khá phong phú. Việc dạy cho
học sinh câu chia theo mục đích nói trên cơ sở kế thừa chơng trình 165 tuần
còn đợc mở rộng và đi sâu hơn về các loại câu. Trong đó các bài học về câu kể
có tới 12 tiết. Chơng trình mới giúp học sinh nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn
về câu kể với các kiểu câu ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?.
Khi học về các kiểu câu kể nói trên, không phải học sinh nào cũng dễ
dàng xác định hay nhận dạng, phân biệt ngay đợc các kiểu câu kể. Qua thực tế
giảng dạy và trực tiếp kiểm tra kết quả học tập của học sinh hàng ngày, tôi nhận
thấy nhiều học sinh còn nhầm lẫn khi xác định các kiểu câu kể trong một đoạn
văn. Làm thế nào để giúp học sinh tránh nhầm lẫn hoặc giảm đợc nhầm lẫn, khi
xác định các câu kể kiểu Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì? trong một đoạn văn
luôn là vấn đề khiến tôi băn khoăn trăn trở. Qua thời gian vừa dạy, vừa t duy và
tự rút kinh nghiệm, tôi xin mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm nhỏ nhằm
nâng cao chất lợng khi dạy học sinh lớp 4 phân biệt, xác định đúng các kiểu câu
kể Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
1
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
II. Thực trạng và hiệu quả dạy các kiểu câu kể ở lớp 4.
1. Thực trạng:
a, Đặc điểm tình hình dạy học ở tr ờng Tiểu học Thống Nhất.
* Giáo viên:


Năm học 2006 2007, trờng TH Thống Nhất triển khai thí điểm công
tác dạy phân ban. Bản thân tôi đợc Ban giám hiệu giao nhiệm vụ dạy 3 phân
môn: Tập đọc, tập làm văn và luyện từ và câu của khối 4 với tổng số 87 học
sinh/3lớp. Việc dạy phân ban giúp tôi có điều kiện nghiên cứu, chuyên sâu hơn
nội dung dạy học Tiếng Việt lớp 4. Trong các giờ dạy, tôi đã cố gắng đổi mới
PPDH, tổ chức đa dạng các hình thức dạy học nhằm ngày càng nâng cao hơn
chất lợng dạy học.
* Học sinh:
Nhìn chung, các em học sinh khối 4 đều ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập.
Nhiều học sinh luôn tự giác học tập, ít để giáo viên phải đôn đốc, nhắc nhở. Đối
với phân môn luyện tự và câu, mức độ tiếp thu bài và vận dung thực hành của
học sinh là tơng đối tốt, song với những kiến thức đòi hỏi khả năng t duy thì đa
số học sinh còn lúng túng. Việc xác định câu kể này thuộc kiểu Ai làm gì? Ai
thế nào? Ai là gì? là một dẫn chứng cho sự lúng túng đó của học sinh. Bên cạnh
đó, rải rác ở cả 3 lớp 4A, 4B, 4C vẫn còn những học sinh phải đôn đốc, nhắc
nhở rất nhiều, ý thức tự giác cha cao. Nguyên nhân là các em cha hiểu bài, cha
chăm học.
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
2
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
b, Sách giáo khoa, vở bài tập và tài liệu tham khảo:
100% học sinh khối 4 đều có đầy đủ SGK, vở bài tập môn Tiếng Việt.
Riêng tài liệu tham khảo, đối với phân môn luyện từ và câu các em cha có sự
đầu t nhiều. Phần lớn, các em thờng mua các tài liệu phục vụ cho phân môn Tập
làm văn.
Đối với giáo viên, ngoài SGK, vở bài tập, bài soạn còn có thêm một số tài
liệu khác nh: Thiết kế giảng dạy Tiến Việt 4, từ điển Tiếng Việt, các tài liệu
nâng cao của phân môn luyện từ và câu, hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt Các
tài liệu này góp phần hỗ trợ các nội dung dạy học và phơng pháp dạy học trong

quá trình giảng dạy.
2. Kết quả dạy và học phân môn luyện từ và các câu trong đó có nội dung
dạy câu kể.
* Kết quả giảng dạy của giáo viên:
Qua hai năm dạy học chơng trình mới đối với lớp 4 trong đó có phân môn
luyện từ và câu, bản thân tôi vừa nghiên cứu nội dung chơng trình, vừa tiến
hành dạy học trên lớp, tôi đã tự khắc phục dần những thiếu sót, tồn tại của các
tiết dạy trớc, rút kinh nghiệm, bổ sung sáng tạo hơn trong các tiết dạy sau. Bên
cạnh đó, tôi còn tham gia dự giờ thăm lớp và học hỏi kinh nghiệm của đồng
nghiệp, trao đổi về PPDH, hình thức tổ chức dạy học, tham gia học BDTX chu
kỳ III. Vì vậy, nhìn chung các tiết dạy đợc đánh giá từ mức độ khá trở lên.
* Về kết quả học tập của học sinh:
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
3
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Đối với môn Tiếng Việt nói chung, học sinh tham gia học tập một cách tích
cực. Nhiều em bộc lộ rõ khả năng tiếp thu bài nhanh. Cuối học kỳ I, kết quả
kiểm tra định kì đối với môn Tiếng Việt của toàn khối nh sau:
Loại giỏi Loại khá Loại trung bình Loại yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
10 11,5 41 47,1 34 39,1 2 2
Với các tiết học về câu kể của phân môn luyện từ và câu nói riêng, các
em đã có những phẩn ứng nhanh, nhạy trong các giờ học. Tuy nhiên, số học
sinh có những phát hiện nhanh cha nhiều. Để khảo sát chất lợng học học sinh
đối với việc xác định kiểu câu kể, tôi đã cho học sinh làm bài tập nhỏ sau đây:
Em hãy gạch 1 gạch dới chủ ngữ, hai gạch dới vị ngữ trong câu văn sau
và nói rõ câu văn thuộc kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế nào? hay câu Ai là gì?:
Bốn cánh khẽ rung rung nh đang còn phân vân.
Kết quả là:

Bài đạt điểm: 9,10 : 9 em = 10,3%
Bài đạt điểm 7, 8 : 33 em = 37,9%
Bài đạt điểm 5, 6 : 40 em = 46,1%
Bài có điểm dới 5: 5 = 5,7%.
Câu văn trên thuộc kiểu câu kể Ai thế nào? song lại có tới hơn 50% số
HS xác định đây là câu kể kiểu Ai làm gì? do nhầm lẫn từ rung rung chỉ hoạt
động của đôi cánh mà không quan tâm đến từ khẽ chỉ đặc điểm của sự vật
(bốn cánh).
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
4
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Với các bài tập yêu cầu HS viết đoạn văn trong đó có câu thuộc một
trong các kiểu câu kể đã học nhiều em chỉ chú trọng sao cho viết đúng đoạn văn
có đủ số lợng câu theo yêu cầu đề bài (5-7 câu). Nhiều khi các em còn quan
niệm cứ một dòng là đợc một câu nên thờng trao đổi với nhau tớ đợc 3 dòng
rồi còn tớ đợc 6 dòng rồi. Tất cả những quan sát và đánh giá trên đây cho
thấy việc xác định đúng các kiểu câu kể và phân biệt rõ các kiểu câu kể của học
sinh phần nào có sự mơ hồ, thiếu sự chắc chắn.
B. Giải quyết vấn đề
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
5
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
I. Các giải pháp thực hiện:
1. Tìm hiểu và nắm vững cấu trúc, nội dung dạy câu kể ở lớp 4:
Nội dung chơng trình phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 đợc sắp xếp xen
kẽ các bài mở rộng vốn từ với các bài học có nội dung lí thuyết. Qua các bài lí
thuyết, các em đợc cung cấp kiến thức từ dễ đến khó, bắt đầu từ các bài học về
tiếng, từ đến câu, bộ phận phụ của câu, Dấu câu và một số nghi thức giao tiếp đ-

ợc học xen kẽ trong chơng trình.
Nội dung về câu kể đợc học ở cuối kỳ I (3 tiết) ở tuần 16 và 17 đến đầu
kỳ II (9 tiết) tuần 19, 20, 21, 22, 24, 25, 26. Cụ thể nh sau:
Tuần 16: 1 tiết: Câu kể
Tuần 17: 2 tiết: Câu kể Ai làm gì?
Vị ngữ trong câu kể Ai làm gì?
Tuần 19: 1 tiết: Chủ ngữ trong câu kể Ai làm gì?
Tuần 20: 1 tiết: Luyện tập về câu kể Ai làm gì?
Tuần 21: 2 tiết: Câu kể Ai thế nào?
Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào?
Tuần 22: 1 tiết: Chủ ngữ trong câu kể Ai thế nào?
Tuần 24: 2 tiết: Câu kể Ai là gì?
Vị ngữ trong câu kể Ai là gì
Tuần 25: 1 tiết: chủ ngữ trong câu kể Ai là gì?
Tuần 26: 1 tiết: Luyện tập về câu kể Ai là gì?
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
6
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Những tiết luyện tập gồm tập hợp 3 4 bài tập. Còn lại các bài cung cấp
kiến thức mới đều có cấu trúc giống nhau: gồm 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện
tập.
Việc sắp xếp nội dung các bài học cũng đợc cấu trúc tơng tự nhau. Mỗi
kiểu câu kể đều học bài thứ nhất giới thiệu kiểu câu đó là gì? Bài thứ hai học về
bộ phận vị ngữ, bài thứ ba học về chủ ngữ, bài thứ 4 là bài luyện tập.
2. Tìm hiểu các tài liệu hớng dẫn giảng dạy về câu kể ở lớp 4:
Để có đợc sự thống nhất chung và đúng đắn nhất trong một tiết dạy về
câu kể, tôi thờng xem lại chơng trình học BDTX, nội dung học chuyên đề đối
với phân môn luyện từ và câu, tham khảo tiến trình bài soạn trong sách giáo
viên Tiếng Việt 4, thiết kế giảng dạy Tiếng Việt 4. Sau khi tham khảo thài liệu,

tôi soạn giáo án cho mỗi tiết dạy có sự chọn lọc, sắp xếp lại sao cho phù hợp với
đối tợng học sinh, điều kiện dạy học song vẫn đảm bảo đầy đủ nội dung và mục
tiêu tiết dạy.
Ngoài ra, tôi còn tham khảo, vận dung, kế thừa các phơng pháp dạy học
về câu kể của chơng trình cũ, đọc thêm tài liệu sách, báo có tin, bài nói, viết về
dạy luyện từ và câu ở lớp 4 nhằm góp phần giúp học sinh nâng cao chất lợng
xác định các kiểu câu kể.
3. Nắm vững tinh thần chung khi dạy luyện từ và câu ở lớp 4:
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 4 đợc dạy dới hai kiểu:
a, Kiểu bài lí thuyết: bào gồn 3 phần: nhận xét, ghi nhớ, luyện tập. Thông
thờng, giáo viên tổ chức cho học sinh giải quyết các bài tập ở phần nhận xét,
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
7
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
giáo viên gợi mở giúp học sinh rút ra ghi nhớ. Từ ghi nhớ, học sinh vận dung
bài làm bài tập ở phần luyện tập dới hình htức cá nhân hay nhóm.
b, Kiểu bài luyện tập và mở rộng vốn từ: Bao gồn tập hợp các bài tập.
Chủ yếu, giáo viên tổ chức cho học sinh các hoạt động dạy học theo cách thức
linh hoạt (trao đổi nhóm, thi đua giữa các nhóm, cá nhân) theo trình tự.
+ Hớng dẫn HS tìm hiểu yêu cầu bài tập.
+ Chữa mẫu cho học sinh một phần hoặc một bài.
+ Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động học tập.
+ Tổ chức đánh giá, nhận xét kết quả bài làm.
4. Tham khảo các tiết dạy trên băng và ý kiến đồng nghiệp:
Trong thời gian tham gia học chuyên đề thay SGK lớp 4 và lớp 5, tôi đã
đợc xem một số băng hình các tiết dạy luyện từ và câu. Thực tế không có các
băng dạy về câu kể song qua băng hình dạy các kiểu bài lí thuyết, ít nhiều bàn
thân tôi đã học tập đợc cách tổ chức dạy học, đặc biệt là cách tổ chức cho học
sinh khai thức ngữ liệu ở phần nhận xét. Trong quá trình giảng dạy, nếu có vẫn

đề gì còn băng khoăn áy náy, tôi thờng tham khảo ý kiến đồng nghiệp, xin ý
kiến chỉ đạo của phụ trách chuyên môn, học hỏi thêm kinh nghiệm tổ chức dạy
học của đồng nghiệp trong trờng. Qua đó, tôi đã tự rút ra những kinh nghiệm
thiết thực khi dạy luyện từ và câu nói chung và dạy cho học sinh xác định đúng,
phân biệt đợc các kiểu câu kể đã học nói riêng. Bằng những giải pháp trên, sau
đây tôi xin đợc trình bầy một só biện pháp giúp học sinh lớp 4 xác định đúng
các kiểu câu kể.
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
8
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
II. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 xác định đúng các
kiểu câu kể.
Khác với chơng trình cũ, chơng trình mới ngoài bài câu kể có tính khái
quát chung, học sinh còn đợc học kĩ càng về 3 kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế
nào? Ai là gì?.

những tiết đầu, khi mới học về kiểu câu kể Ai làm gì? đa số
học sinh đều xác định tơng đối đúng kiểu câu này. Nhng khi học tiếp sang kiểu
câu kể Ai thế nào? và Ai là gì? thì việc xác định các kiểu câu kể trong một đoạn
văn nhiều em bị nhầm lẫn. Chẳng hạn hai câu sau đây là hai câu kể kiểu Ai làm
gì? nhng đa số học sinh xác định đây là câu kể kiểu Ai thế nào?
Câu 1: Đàn voi bớc đi chậm rãi.
Câu 2: Ngời quản tợng ngồi vắt vẻo trên chú voi đi đầu.
Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này là ro các em thấy trong hai câu trên
đều có các từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất (từ chậm rãi, vắt vẻo) mà không tìm
hiểu để thấy hai từ này đều chỉ đặc điểm của hoạt động (đi, ngồi) chứ không chỉ
đặc điểm của sự vật. Để giúp học sinh tránh đợc sự nhậm lẫn trên, tôi xin đợc đ-
ợc ra một số biện pháp nh sau:
1. Giúp học sinh nắm vững khái niệm câu kể, cách dùng câu kể.

Thuộc ghi nhớ về khái nhiệm câu kể thì có nhiều học sinh rất thuộc song
hiểu và nắm vững khái miệm câu kể thì chỉ có những học sinh khá, giỏi đạt đợc.
Vì vậy, nhằm giúp học sinh nắm vững khái niệm câu kể, ngay bài học đầu tiên
về câu kể, giáo viên phải gây đợc ấn tợng cho học sinh bằng cách tổ chức cho
HS phân tích tốt ngữ liệu. Đoạn văn ngữ liệu (bài tập 1) trang 161 Tiếng
Việt 4 tập 1 có 3 câu kể và 1 câu hỏi. Từ sự phân tích đoạn ngữ liệu này và
đoạn ngữ liệu ở bài tập 3, giáo viên cho học sinh phát hiện và so sánh đặc điểm
của câu hỏi với các câu còn lại, gợi mở để học sinh phát hiện đặc điểm của kiểu
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
9
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
câu mới. Từ đó rút ra kết luận về câu kể và chốt lại nội dung so sánh giữa câu
hỏi và câu kể bằng bảng so sánh sau:
Câu hỏi Câu kể
- Dùng để hỏi những điềucha biết
-Dùng để kể, tả hoặc giới thiệu về sự vật
nói lên ý kiến, tâm t, tình cảm
của mỗi ngời.
- Cuối câu hỏi có dấu chấm hỏi (?) - Cuối câu kể có dấu chấm (.)
- Khi đọc, giọng bình thờng - Khi đọc, cần cao giọng ở cuối câu
- VD: Những kho báo ấy ở đâu?
VD: Bu-ra-ti nó là một chú bé ngời
gỗ
Từ sự so sánh đó, giáo viên khắc sâu ghi nhớ về khái niệm câu kể cho HS cả
về nội dung và dấu hiệu hình thức.
Nắm đợc khái niệm câu kể, GV giúp học sinh hiểu câu kể thờng dùng để
kể, tả, giới thiệu hoặc nói lên ý kiến, tâm t, tình cảm mỗi ngời. Để phân biệt đợc
các kiểu câu kể, trớc hết các em cần nắm đợc khái niệm câu kể, xác định đúng
câu kể. Vì vậy, giáo viên cũng có thể dựa vào nội dung đã học về câu hỏi để

giúp học sinh nắm đợc khái niệm câu kể nh trình bày trên đây.
2. Nắm vững yêu cầu bài tập và ngữ liệu đã cho:
Thông thờng, nhiều học sinh quan tâm đến ngữ liệu của bài tập là một
đoạn văn hay một văn bản mà quên đi yêu cầu bài tập. Làm thế nào để học sinh
chú ý nắm vững yêu cầu của bài? Để làm đợc điều đó, trong mỗi tiết dạy, tôi th-
ờng gọi 1 học sinh đọc to yêu cầu, cả lớp đọc thầm, GV ghi đề bài lên bảng có
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
10
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
thể gạch chân dới các từ ngữ quan trong. Sau khi cho học sinh đọc nội dung bài
tập, GV nhắc lại yêu cầu của bài một lần nữa.
VD: Bài 2 Phần nhận xét trang 24 Tiếng Việt 4 tập 2 yêu cầu:
tìm những từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất hoặc trạng thái của sự vật trong các
câu ở đoạn văn trên (tức đoạn văn ở BT1).
- Bớc đầu tôi cho 1 hoc sinh đọc to yêu cầu, cả lớp đọc thầm.
- Tiếp theo, cả lớp đọc thầm lại đoạn văn ở BT1, GV ghi đề bài lên bảng.
- Một học sinh nhắc lại yêu cầu đề bài, Gv gạch chân dới các từ từ ngữ
chỉ đặc điểm, tính chất hoặc trạng thái của sự vật.
- Với đối tợng học sinh tiếp thu bài còn chậm, tôi đa ra hai ví dụ và hệ
thống câu hỏi gợi mở để giúp các em nắm vững yêu cầu đề bài hơn. Chẳng hạn:
Xét hai câu sau: Câu 1: Cây cối xanh um
Câu 2: Đàn voi bớc đi chậm rãi.
- Hỏi: Câu nào có từ ngữ chỉ đặc điểm tính chất của sự vật? Đó là từ ngữ
nào? (câu 1 từ xanh um).
- Hỏi: Câu nào có từ ngữ chỉ đặc điểm của hoạt động? Đó là từ ngữ nào?
(Câu 2 từ chậm rãi.
Vậy, trong các từ ngữ chỉ đặc điểm, tính chất ở hai câu trên thì từ xanh
um đúng với yêu cầu đề bài. Có những bài tập cho ngữ liệu là một đoạn văn và
yêu cầu học sinh tìm các kiểu câu kể có trong đoạn văn đó.

Để thực hiện đợc yêu cầu của bài, học sinh phải nắm vững ngữ liệu. Vì
vậy, tôi thờng cho các em vừa đọc đoạn văn, vừa đánh số thứ tự trớc mỗi câu
bằng bút chì. Sau đó xét lần lợt từng câu xem câu đó thuộc kiểu câu kể nào?
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
11
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
VD: Bài 1a trang 24 Tiếng Việt 4 Tập 2:
Đọc đoạn văn sau và tìm các câu kể Ai thế nào? có trong đoạn văn:
(1) Rồi những ngời con cũng lớn lên và lần lợt lên đờng. (2) Căn nhà
trống vắng. (3) Những đêm không ngủ, mẹ lại nghĩ về họ. (4) Anh Khoa hồn
nhiên, xởi lởi. (5) Anh Đức lầm lì, ít nói. (6) Còn anh Tịnh thì đĩnh đạc, chu
đáo.
- Đoạn văn gồm 6 câu đợc đánh số thứ tự từ 1 đến 6. Sau khi xét từng câu, các
em sẽ nhận ra những câu kể Ai thế nào? trong đoạn văn trên là câu 1, 2, 4, 5, 6.
Tuy nhiên, với câu1, nhiều học sinh vẫn nhầm là câu kể Ai làm gì vì có vị ngữ
thứ hai chỉ hoạt động (lần lợt lên đờng). Kết quả khẳng định câu 1 là câu kể Ai
làm gì? là có căn cứ. Vì vậy, GV cần giải thích rõ để các em hiểu nh sau: Câu
văn này có hai vị ngữ, vị ngữ thứ nhất trả lời câu hỏi Ai thế nào? (lớn lên) và vị
ngữ thứ hai trả lời câu hỏi Ai làm gì (lần lợt lên đờng). Nhng vì vị ngữ chỉ đặc
điểm (lớn lên) đặt trớc nên toàn câu trả lời cho câu hỏi Ai thế nào?
Gặp những trờng hợp khó xác định đó là kiểu câu gì nh câu 1, GV cần
có những gợi mở giúp học sinh phát hiện và đi đến kết luận đầy đủ, đúng đắn.
Nh vậy các em cũng dễ dàng khắc sâu kiến thức và vận dung linh hoạt trong khi
làm bài.
3. Nắm vững ghi nhớ về mỗi kiểu câu kể.
Để xác định đúng kiểu câu kể, trớc tiên học sinh phải thuộc ghi nhớ, nhớ
đợc những điều kiện cần thiết làm cơ sở cho việc xác định đó là kiểu câu kể gì?
Vì vậy, trong mỗi tiết luyện từ và câu, sau khi tổ chức cho HS khai thác ngữ
liệu, khái quát các vấn đề, tôi thờng cho HS tự rút ra ghi nhớ theo cách hiệu của

các em. Sau đó đối chiếu ghi nhớ trong SGK để bổ sung cho đầy đủ. GV gọi 2-3
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
12
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
HS nêu lại ghi nhớ đồng thời HS khác nhẩm thuộc, gọi học sinh nào đã thuộc
ghi nhớ xung phong đọc trớc lớp. GV tuyên dơng, khen ngợi những HS này. Đối
với những HS khá, giỏi, GV yêu cầu các em tự lấy ví dụ minh hoạ nội dung ghi
nhớ.
Trong mỗi tiết học về các kiểu câu kể, tôi thờng mô phỏng nội dung cần
ghi nhớ theo sơ đồ sau:
Chủ ngữ Vị ngữ
(Trả lời câu hỏi Ai (cái gì? con gì?) (Trả lời câu hỏi làm gì?)
Sau khi học xong cả 3 kiểu câu kể Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?, tôi
yêu cầu học sinh dựa vào ghi nhớ và tự kẻ lại sơ đồ về mỗi loại câu, sau đó so
sánh những điểm giống và khác nhau giữa các kiểu câu kể. HS sẽ dễ dàng phát
hiện điểm giống nhau là: cả 3 kiểu câu kể đều có 2 bộ phận: chủ ngữ và vị ngữ;
bộ phận chủ ngữ đều trả lời cho câu hỏi Ai (con gì? Cái gì?), và điểm khác nhau
là vị ngữ trong câu Ai làm gì? trả lời cho câu hỏi làm gì? Vị ngữ trong câu Ai
thế nào trở lời cho câu hỏi thế nào? Vị ngữ trong câu hỏi Ai là gì? trả lời cho
câu hỏi là gì? Cuối cùng, GV chốt kết quả đúng bằng cách treo bảng phụ kể sơ
đồ sau:
Câu kể ai làm gì? Câu kể Ai thế nào? Câu kể Ai là gì?
Gồm 2 bộ phận Gồm 2 bộ phận Gồm 2 bộ phận
Chủ ngữ Vị ngữ Chủ ngữ Vị ngữ Chủ ngữ Vị ngữ
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
13
Câu kể Ai làm gì?
(gồm 2 bộ phận)

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
(trả lời Ai (trả lời (trả lời (trả lời (trả lời Ai? (trả lời
(con gì?, câu hỏi Ai (con gì? câu hỏi (con gì? câu hỏi
cài gì?) làm gì?) cái gì?) thế nào?) cái gì?) l
à
ai, là
cái gì?)
4. So sánh vị ngữ của 3 kiểu câu Ai làm gì? Ai thế nào? Ai là gì?
Từ việc nhận ra sự khác nhau của vị ngữ trong 3 kiểu câu kể nói trên, GV
tiếp tục giúp các em nhận thức sự khác nhau rõ rệt về vị ngữ trong 3 kiểu câu
kể. Tuy nhiên, trớc khi khắc sâu sự khác biệt này, một yêu cầu quan trong là
giúp HS biết xác định đúng chủ ngữ - vị ngữ, tôi thờng cho các em đặt câu hỏi
cho mỗi bộ phận hoặc xây dựng một hệ thống câu hỏi mở. Chẳng hạn, xác định
chủ ngữ - vị ngữ của câu kể Ai thế nào? sau đây:
Khi chạy trên mặt đất, nó giống con ngỗng cụ nhng nhanh nhẹn hơn
nhiều
Hỏi: Tìm từ ngữ trả lời câu hỏi Con gì giống con ngỗng cụ nhng nhanh
nhẹn hơn nhiều? (Nó tức con đại bàng đã nói ở các câu trên).
Hỏi: Vậy trả lời cho câu hỏi con gì? là bộ phận nào? (Bộ phận chủ ngữ)
- Tơng tự, giáo viên hỏi: từ ngữ nào trả lời cho câu hỏi: Nó nh thế nào?
(giống con ngỗng cụ nhng nhanh nhẹn hơn nhiều).
- Hỏi: Trả lời cho câu hỏi nh thế nào là bộ phận gì? ( Bộ phận vị ngữ )
Tiếp sau đó giáo viên hớng dẫn học sinh trình bày theo mẫu sau:
Khi chạy trên mặt đất, nó / giống con ngỗng cụ nhng nhanh nhẹn hơn
nhiều. CN VN
Làm mẫu một câu nh vậy, các câu khác , học sinh có thể làm đợc. Đối với
cụm từ khi chạy trên mặt đất, nếu giáo viên không đặt những câu hỏi nh trên
để học sinh xác định chủ ngữ - vị ngữ thì sẽ có nhiều học sinh nhầm cụm từ này
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định

14
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
là chủ ngữ vì các em cha học thành phần phụ trạng ngữ. Khi đó, GV lu ý học
sinh về dấu hiệu hình thức giữa chủ ngữ và vị ngữ không có dấu phầy ngăn
cách, cụm từ này là 1 bộ phận phụ của câu chúng ta sẽ học sau.
Khi học sinh đã có kĩ năng xác định chủ ngữ - vị ngữ trong câu, trong các
tiết học về vị ngữ của mỗi kiểu câu, GV tiếp tục khắc sâu ghi nhớ về bộ phận vị
ngữ bằng sơ đồ sau:
Chỉ (hay biểu thị)
Vị ngữ trong câu kể ( )
do
Với mỗi bài dạy về vị ngữ của các kiểu câu kể, tôi thờng viết nội dung ghi
nhớ theo kiểu sơ đồ trên. Sau khi học xong 3 kiểu câu kể, tôi chỉ cần vẽ sơ đồ
khái quát trên đây và yêu cầu học sinh nêu nội dung của mỗi vị ngữ ứng với
mỗi kiểu câu là HS dễ dàng nhớ và nêu đợc nội dung cần nhớ. cụ thể nh sau:
Chỉ hoạt động của ngời, vật.
Vị ngữ trong câu kể Ai làm gì?
do động từ, cụm động từ tạo thành.
Chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái
Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào? của sự vật
do động từ, tính từ, cụm động từ,
cụm tính từ tạo thành.
Chỉ nội dung dùng để giới thiệu,
Vị ngữ trong câu kể Ai là gì? nối với chủ ngữ bằng từ là
do danh từ, cụm danh từ tạo thành
Để khắc sâu hơn sự khác nhau giữa vị ngữ của 3 kiểu câu kể trên và cũng là sự
khác nhau của các kiểu câu kể, GV có thể chỉ rõ 2 căn cứ để phân biệt:
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
15

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
a, Thứ nhất: Dựa vào nội dung ý nghĩa (tức là nội dung biểu thị của vị ngữ trong
mỗi kiểu câu kể).
Câu Ai làm gì? chỉ hoạt động
Vị ngữ Câu Ai thế nào? chỉ đặc điểm, tính chất, trạng thái.
Câu Ai là gì? chỉ nội dung để giới thiệu, nối với CN băng từ là.
b, Thứ hai: Dựa vào từ loại:
Câu Ai làm gì? do động từ, cụm động từ tạo thành
Vị ngữ Câu Ai thế nào? do động từ, tính từ, cụm động từ, cụm tính từ tạo thành
.
Câu Ai là gì? do danh từ, cụm danh từ tạo thành

Nhìn vào sơ đồ trên, ta thấy giữa vị ngữ trong câu Ai làm gì? và câu Ai thế
nào? có điểm giống nhau là chúng đều do động từ, cụm động từ tạo thành. Vì
vậy, GV lu ý HS vị ngữ trong câu Ai làm gì? do động từ cụm động từ tạo thành
biểu thị hoạt động của sự vật, cọn vị ngữ trong câu Ai thế nào? do động từ, cụm
động từ tạo thành biểu thị trạng thái của sự vật.
Ví dụ: Xác định kiểu câu kể của câu sau đây:
Sóng thôi vỗ, sóng dồn dập vô bờ nh hồi chiều.
- Chủ ngữ là: sóng
- Vị ngữ là: thôi vỗ sóng dồn dập vô bờ nh hồi chiều.
Đây là câu kể Ai thế nào? song rất nhiều học sinh nhầm lẫn xác định đây là
câu kể kiểu Ai làm gì? vì các em cho rằng vị ngữ thôi vỗ sóng dồn dập vỗ bờ
nh hồi chiều là cụm động từ biểu thị hoạt động (vỗ sóng). Tuy nhiên, động từ
trung tâm của cụm trên là từ thôi (chỉ trạng thái của sự vật).
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
16
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Trong trờng hợp khó xác định kiểu câu kể nh câu văn trên, GV có thể đa

ra dẫn chứng để minh hoạ. Chẳng hạn: Hãy xác định kiểu câu kể của hai câu
sau:
Câu 1: Sóng thôi võ sóng dồn dập vô bờ nh hồi chiều.
Câu 2: Sóng vỗ sóng dồn dập vô bờ nh hồi chiều.
Bên cạnh việc đa ra hai câu kể trên đây, GV có thể giúp học sinh phân
tích để hiểu nghĩa thôi vỗ sóng đối lập với vỗ sóng. Từ đó, HS sẽ nhận định
một lần nữa câu 1 là câu kể kiểu Ai thế nào? câu 2 là câu kể kiểu Ai làm gì? và
không còn phân vân khi kết luận câu sóng thôi vỗ sóng vào bờ nh hồi chiều là
câu kể Ai thế nào?
- Trong 3 kiểu câu kể đợc học, dựa vào dấu hiệu hình thức học sinh dễ
nhận biết nhất là câu kể kiểu Ai là gì? vì trong câu này thờng có từ là nối
giữa chủ ngữ và vị ngữ. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần lu ý học sinh những câu
kể ai là gì? dùng để nhận định cũng có khi từ là không phải là chiếc cầu nối
giữa chủ ngữ và vị ngữ mà nó nằm trong bộ phận vị ngữ nh câu sau:
Cải hai ông // đều không phải là ngời Hà Nội.
CN VN
Đặc biệt, GV lu ý học sinh có những câu văn có từ là song không phải
là câu kể Ai là gì?. Chẳng hạn câu sau:
Tàu nào // có hàng cần bốc // là cần trục // vơn tới
CN1 VN1 CN2 VN2
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
17
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Các bộ phận chủ ngữ, vị ngữ của câu này không trả lời cho câu hỏi Ai? là
gì?. Từ là ở đây chỉ dùng để nối hai vế câu (giống nh từ thì). Nó đều tả một
sự việc có tính quy luật: hễ tàu cần hàng là cần trục có mặt.
5. Linh hoạt khi đặt câu hỏi và khẳng định kết quả trả lời của học sinh.
Trong việc khai thức ngữ liệu, đôi khi giáo viên cần chẻ nhỏ hoặc mềm
hoá các câu hỏi trong SGK , cũng có khi cần đặt những câu hỏi có tính khái

quát, tổng hợp. Bên cạnh đó, GV cần vận dụng các câu hỏi linh hoạt với từng
đối tợng học sinh khi khai thức ngữ liệu hoặc tổ chức luyện tập. Chẳng hạn, câu
hỏi 3 (phần nhận xét bài câu kể Ai làm gì? trang 6 Tiếng Việt 4
tập 2) yêu cầu học sinh nêu ý nghĩa của bộ phận chủ ngữ. GV có thể thay thế
bằng câu hỏi: chủ ngữ chỉ gì? (chỉ ngời hoặc con vật, cây cối ). Từ đó, GV
khái quát: Chủ ngữ của câu kể Ai làm gì? thờng chỉ ngời, con vật, cây cối
Hoặc ở bài Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào? có câu hỏi: Vị ngữ trong
các câu trên biểu thị nội dung gì? (trang 29 Tiếng Việt 4 tập 2). GV chuyển
thành câu hỏi: Vị ngữ trong các câu trên chỉ gì? (Sau khi HS trả lời GV gợi mở
để học sinh khái quát. Vị ngữ trong câu kể Ai thế nào? thờng chỉ (hay thờng
biểu thị) đặc điểm, tính chất, trạng thái của sự vật.
Mỗi khi đặt câu hỏi, HS trả lời, GV cha vội khẳng định ngay kết quả trả
lời đó là đúng hay sai mà có thể thử nghiệm kết của của 2 3 học sinh để các
em có thời gian ngẫm xem kết quả trả lời của mình nh vậy đã đúng cha? Thực
tế, nhiều HS khi trả lời câu hỏi mà không hiểu trả lời nh vậy là đúng hay sai do
các em không tập trung chú ý nghe giảng, khi GV gọi trả lời, đợc bạn khác
nhắc, các em liền trả lời theo ý của bạn. Vì vậy, tôi thờng kiểm trả việc nắm bài
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
18
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
của học sinh bằng cách đối chiếu kết quả. Ai đồng ý với ý kiến của ban A? Ai
đồng ý với ý kiến của bạn B?. Cũng có lúc hơn 90% số học sinh đồng ý với một
ý kiến sai do em HS trả lời câu hỏi đó là một HS giỏi, còn ý kiến đúng lại là của
một em HS có lực học trung bình. Điều đó cho thấy việc nắm kiến thức của các
em cha chắc chắn mà phần nào còn dựa vào cảm quan: Cứ bạn
nào học giỏi là luôn đa ra ý kiến đúng. Khi gặp trờng hợp này, tôi thờng dùng
các câu hỏi gợi mở để dần dần học sinh nhận thức đúng vấn đề, không khẳng
định kết quả đúng, sai trớc mà tự các em qua việc trả lời câu hỏi dẫn đến thay
đổi ý kiến và nhận thức đúng vấn đề hơn.

Ví dụ: Bài 1 phần luyện tập trang 37 Tiếng Việt 4 tập 2: Tìm
chủ ngữ của câu kể Ai thế nào? trong đoạn văn tả chú chuồn chuồn nớc của nhà
văn Nguyễn Thế Hội, trong đó có câu:
Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh nh thuỷ tinh
Kết quả bài làm của HS có nhiều ý kiến khác nhau nhng tập chung chủ
yếu 2 ý kiến sau:
1. Cái đầu // tròn và hai con mắt long lanh nh thuỷ tinh.
CN
2. Cái đầu // tròn và hai con mắt // long lanh nh thuỷ tinh.
CN 1 CN 2
Sau khi học sinh trình bày ý kiến xác định chủ ngữ câu trên, GV cha
khẳng định kết quả đúng.
- Hỏi: bạn nào đồng ý với ý kiến thứ nhất?
bạn nào đồng ý với ý kiến thứ hai?
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
19
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
- Qua thực tế dạy ở 3 lớp: 4A, 4B, 4C, thì có tới hơn 60% học sinh đồng ý
với cách xác định chủ ngữ nh ý kiến thứ nhất. Thấy đợc sự thiếu chính xác đó,
GV đa ra hệ thống câu hỏi:
+ Hỏi: Câu văn trên thông báo mấy ý? Đó là những ý gì? ( 2 ý: ý 1: cái
đầu tròn; ý 2: hai con mắt long lanh nh thuỷ tinh)
+ Hỏi: Trong câu trên, tác giả tả cái gì có hình tròn? Cái gì long lanh nh
thuỷ tinh? (Cái đầu tròn, hai con mắt long lanh nh thuỷ tinh).
+ Hỏi: Bộ phận trả lời cho câu hỏi Cái gì? gọi là chủ ngữ hay vị ngữ?
(chủ ngữ).
+ Hỏi: Vậy câu trên có mấy chủ ngữ? ( 2 chủ ngữ là: cái đầu và hai con
mắt).
Lúc đó GV mới kết luận: ý kiến thứ hai là đúng, ý kiến thứ nhất xác định

cha đầy đủ.
6. Luyện viết đoạn văn có câu kể.
Đây là công đoạn quan trọng giúp HS có kĩ năng thành thạo khi biết vận
dụng những hiểu biết để viết thành văn bản. Để giúp HS viết đúng đoạn văn có
kiẻu câu kể theo yêu cầu đề bài, GV thờng giúp HS nắm chắc yêu câu đề bài,
hình dung ra nội dung đoạn văn sẽ viết, sau đó lựa chọn viết câu mở đoạn, chon
cách kết đoạn thể hiện đợc suy nghĩ, cảm xúc của mình. Các câu còn lại vừa
phải đảm bảo yêu cầu đề bài, vừa mang tính lôgíc.
Ví dụ: Bài tập 3 trang 16 Tiếng Việt 4 tập 2:
Viết một đoạn khoẳng 5 câu kể về công việc trực nhật lớp của tổ em.
Trong đó dùng câu kể Ai làm gì?.
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
20
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Đầu tiên, GV cho HS đọc thầm, xác định yêu cầu đề bài, tự gạch dới từ
ngữ quan trọng của đề bài, gọi 1 HS đọc to yêu cầu đề bài.
Tiếp theo, GV cho HS suy nghĩ viết câu mở đoạn, lu ý HS cần mở đoạn
thờng có tính khái quát (chẳng hạn: Hàng tuần, cứ vào thứ 2 là tổ em làm công
việc quen thuộc, đó là trực nhật lớp).
Sau đó, GV đặt câu hỏi gợi mở để HS có hớng kết đoạn đúng. (Chẳng
hạnL sau khi trực nhật lớp xong, em thấy lớp học nh thế nào? hoặc vì sao em
thấy vui khi lớp học sạch sẽ?).
- Phần thân đoạn, GV đặt câu hỏi có dạng nh: Em đã làm những việc gì?.
Mỗi bạn trong tổ đã làm những việc gì?
Cuối cùng, GV gọi 2- 3 HS đọc kết quả bài làm, chỉ rõ câu kể Ai làm gì?
trong đoạn văn. GV và cả lớp nhận xét, bổ sung, khen ngợi HS có đoạn viết hay.
Với trình tự nh trên, nhiều HS đã viết đợc đoạn văn tuy cha thật làếuất
sắc nhng đúng với yêu cầu đề bài, có bố cục rõ ràng.
Ví dụ: Bài viết của em Nguyễn Thuận Đức, lớp 4B nh sau:

Tổ em hôm nay trực nhật lớp nên bạn nào cũng đến sớm hơn mọi ngày.
Vừa vào đến lớp, em đã vội cất cặp, lấy chổi quét lớp sạch sẽ. Em gom rác lại
hốt vào sọt, đem tận hố rác để đổ. Bạn Tài đi giặt giẻ lau bảng, múc nớc rửa
tay. Bạn Vân và Tới thì khẩn trơng kê lại bàn ghế cho ngay ngắn, sau đó chải
lại khăn bàn cô giáo cho thật đẹp. Thoáng chốc, lớp học đã sạch sẽ, ngăn nắp,
bảng lớp bóng nhẵn. Cả tổ em bạn nào cũng vui vì hôm nay đợc cô khen trực
nhật tốt.
Cũng tơng tự cách hớng dẫn trên đây, học sinh làm bài tập 2 - trang 37 SGK
Tiếng Việt 4 tập 2: Viết một đoạn văn khoảng 5 câu về một loại trái cây mà em
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
21
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
thích trong đoạn văn có dùng một số câu kể Ai thế nào? em Lê Thị Vân Anh lớp
4C đã viết:
Ai cũng bảo ăn mít rất nóng nhng riêng em thì chẳng những thấy mít không
hề nóng mà còn rất là ngon. Quả mít đầy gai, xù xì, cuống đầy nhựa sờ vào ai
cũng ngại ngại. Vậy mà khi bổ ra, mít thơm lừng, náo nức thúc dục mọi ngời
ăn. Múi mít vàng ruộ, xếp lần lợt bên nhau đẹp đến ngon lành. Mít mật ngọt
lịm. Mít dai dầy cùi, thơm và béo. Mới ăn mít hôm nay, đến mai em lại thèm đ-
ợc ăn mít nữa. đó là loại trái câu ngon tuyệt vời.
Và với cáh hớng dẫn trên, còn có nhiều bài viết khác của học sinh đẫ để lại
cho tôi ấn tợng sâu sắc. thâm tâm tôi thấy mừng vì khi dạy cho học sinh xác
định các kiểu câu kể còn giúp các em biết bố cục một đoạn văn có kỹ năng viết
đoạn văn giàu hình ảnh và giàu cảm xúc.

C. Kết luận
I. Kết quả nghiên cứu:
Giúp học sinh xác định đúng các kiểu câu kể trong một đoạn văn là một
việc làm đòi hỏi tính khéo lẽo, linh hoạt trong khi đặt câu hỏi, tổ chức hoạt

động học và sực chuẩn bị bài dạy công phu. Qua thực tế giảng dạy và tự rút
kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy, tôi nhận thấy ở các bài sau có kết quả cao hơn
các bài trớc. Để đánh giá thực chất kết quả học luyện từ và câu nói chung và nội
dung về câu kể nói riêng, tôi đã cho HS khối 4 làm bài kiểm tra. Kết quả là:
Giỏi (điểm 9, 10): 12 em = 13,8% - tăng 3 em = so với bài kiểm tra trớc
Khá (điểm 7, 8):42 em = 48,8%
TB (điểm 5, 6): 32 em = 36,7%
Yếu (điểm dới 5):01 em = 1,4% - giảm 4 em = so với bài kiểm tra trớc
Trong quá trình giảng dạy, tôi cũng phát hiện những học sinh có khả
năng vận dụng nhanh, biết tổng hợp và khái quát vấn đề nh em Đức, Hiền
Thanh lớp 4B; Vân Anh, Đức Duy lớp 4C; Hồng Duy lớp 4A. Những kết quả
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
22
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
đạt đợc trên đây thực sự vẫn còn là con số khiêm tốn. Vì vậy, tôi thấy rõ trách
nhiệm của bản thân đối với chất lợng của môn học trong các năm học tiếp theo
và còn phải cố gắng tích luỹ nhiều hơn những kinh nghiệm dạy học cho bản
thân.
II.
Kiến nghị, đề xuất:
Dạy luyện từ và câu trong đó có nội dung dạy về câu kể có vẻ nh khô
khan, song nếu chúng ta khai thác đầy đủ các khía cạnh về câu kể sẽ thấy dạy
và học câu kể có nhiều điều lí thú. Trong khuôn khổ báo cáo này, tôi mong
muốn đóng góp một số kinh nghiệm nhỏ khi dạy cho học sinh lớp 4 xác định
đúng các kiểu câu kể, phân biệt đợc các kiểu câu kể.
Qua khảo sát, nghiên cứu để viết báo cáo này, tôi đẫ tự rút kinh nghiệm
cho bản thân và xin đợc trao đổi với các đồng chí giáo viên một số kinh nghiệm
khi dạy về nội dung câu kể ở lớp 4 phân môn Luyện từ và câu nh sau:
1. Nắm vững nội dung kiến thức cần truyền đạt và đối tợng học sinh.

2. Chuẩn bị kĩ lỡng bài dạy trớc khi lên lớp.
3. Phối hợp nhịp nhàng các phơng pháp và hình thức tổ chức dạy học.
4. Nghiên cứu kĩ SGK và các tài liệu hớng dẫn giảng dạy.
5. Không ngừng học hỏi, trảo đổi với đồng nghiệp và tự tích luỹ kinh
nghiệm cho bản thân.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc hớng dẫn học sinh xác
định đúng các kiểu câu kể. Bản báo cáo này chắc chắn còn có những thiếu sót
và những chỗ cha phù hợp. Tôi rất mong đợc sự góp ý, bổ sung của các đồng
chí trong Hội đồng khoa học, các đồng chí giáo viên để báo cáo đi vào thực tế
giảng dạy có hiệu quả
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
23
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học 2006 - 2007
Thống Nhất, ngày 26 tháng 2 năm 2007

Ngời viết

Lu Thị Hơng
Lu Thị Hơng - Trờng Tiểu học Thống Nhất Yên
Định
24

×