Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Nét văn hóa trong hát quan họ và tục kết bạn, kết chạ trong lễ hội xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 87 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội, Ban Chủ nhiệm khoa Giáo dục chính trị, tổ bộ môn Triết học đã tạo
điều kiện cho em được làm khóa luận.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo, TS. Nguyễn Thị Thường
đã trực tiếp hướng dẫn em một cách tận tình và chu đáo và có chỉ dẫn quý
báu cho em trong suốt quá trình làm khóa luận.
Em cũng gửi lời cảm ơn đến các cán bộ trong Trung tâm thông tin - thư
viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thư viện tỉnh Bắc Ninh, các chú, các
bác ở Sở VHTT tỉnh Bắc Ninh và ở Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Ninh đã tạo
điều kiện cho em có được nguồn tài liệu quý báu để thực hiện khóa luận.
Hà Nội, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Trần Thị Thắm
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ai về kinh Bắc quê em
Mà nghe quan họ mà xem làng nghề
Quê em có nếp có nề
Có câu quan họ có nghề cửi canh
Đó là câu thơ nói về quê hương Kinh Bắc -Bắc Ninh, nơi mà ở đâu
trong khắp các làng quê của vùng đất này cũng đầy ắp những kỉ niệm lịch
sử được kết tinh trong những di sản văn hoá tiêu biểu. Trong đó phải kể đến
những sáng tạo văn hóa quan họ với những phong tục, lề lối in đậm tinh
thần nhân văn cao đẹp. Thông qua, những làn điệu và lời ca tài hoa, mượt
mà, duyên dáng, tinh tế đã cho thấy một đời sống tinh thần vô cùng phong
phú, rộng mở, một khả năng sáng tạo thưởng thức văn hóa nghệ thuật ở
trình độ cao từ thời xa xưa của dân tộc Việt Nam. Vì thế, quan họ đã trở
thành một di sản văn hóa đầy tự hào của người dân Kinh Bắc, là một biểu
hiện rực rỡ của truyền thống văn hóa văn minh và nghệ thuật Việt Nam.
Cùng với nghệ thuật Ca trù, Dân ca quan họ là một trong hai bộ môn âm


nhạc truyền thống của vùng Đồng bằng Bắc Bộ đã được UNESCO công
nhận là “kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”.
Quan họ là một hình thức sinh hoạt văn hóa, diễn xướng dân gian độc
đáo hấp dẫn có giá trị nhân văn, giá trị nghệ thuật to lớn và có sức sống lâu
bền trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Quan họ đã ra đời và phát triển đến
đỉnh cao tại các làng quê xứ Kinh Bắc xưa và nay thuộc hai tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang.
Quan họ là hoạt động không thể thiếu trong các dịp lễ hội. Lễ hội
được coi là môi trường hoạt động của các sinh hoạt văn hóa Quan họ. Trong
các lễ hội đó, những hoạt động sống động và tiêu biểu nhất chính là ca hát
quan họ và tục kết bạn, kết chạ giữa các làng quan họ.
Tuy nhiên, hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, việc hội nhập khu vực và quốc tế, phát triển kinh tế thị trường đã tạo
nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với việc bảo tồn và phát huy các giá
trị và không gian Văn hóa Quan họ.
Nhận thức được tầm quan trọng của văn hóa quan họ, cũng như việc
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Quan họ, em đã chọn đề tài “Nét văn
hóa trong hát quan họ và tục kết bạn, kết chạ trong lễ hội xứ Kinh Bắc -
Bắc Ninh” làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trước cách mạng tháng Tám, dân ca quan họ chưa nhận được sự quan
tâm đúng mực của các nhà khoa học. Những công trình sưu tầm, nghiên cứu
thời kỳ này chủ yếu là các bài báo, bút ký xuất hiện rải rác. Đáng chú ý hơn
là luận án tiến sĩ “Hát đối đáp nam nữ thanh niên”của Nguyễn Văn Huyên tại
Đai học Sorbone, năm 1934 đã miêu tả những cuộc hội hè, những bài hát có
kèm theo âm nhạc, phân tích nhịp điệu và các nhóm từ ngữ nêu lên quy luật
phối hợp các yếu tố của lời hát và phân tích cơ chế ứng tác thơ ca. Bên cạnh
việc miêu tả lễ hội các tác giả còn rút ra những nhận định về mối quan hệ
giữa các tổ chức xã hội và ngày hội đối đáp.
Năm 1962, nhóm tác giả Lưu Hữu Phước, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn

Viêm , Tú Ngọc cho ra mắt cuốn sách “Dân ca quan họ Bắc Ninh” . Đây là
cuốn sách có quy mô lớn, mở ra chiều hướng cho các khám phá, nghiên cứu
tiếp theo về dân ca Quan họ; tìm hiểu quê hương lề lối sinh hoạt quan họ và
giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
Năm 1972, Ty văn hóa Hà Bắc xuất bản cuốn “Một số vấn đề về dân
ca Quan họ” tài liệu này có thể giúp người đọc có cái nhìn tổng quát về dân
ca quan họ với nhiều phương diện khác nhau.
Tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc và quá trình phát triển của dân ca
Quan họ, nhóm tác giả Đặng Văn Lung, Hồng Thao, Trần Linh Quý cho ra
mắt công chúng cuốn sách “Quan họ - nguồn gốc và quá trình phát triển”
xuất bản năm 1978. Cùng lấy tên đề tài này, tác giả Đặng Văn Lung đã
hoàn thành luận án phó tiến sĩ văn học.
Năm 2005, Viện âm nhạc cho xuất bản cuốn “300 bài dân ca Quan họ
Bắc Ninh” của cố nhạc sĩ Hồng Thao. Đây là công trình gồm 174 làn điệu
Quan họ khác nhau và hơn 100 dị bản chọn lọc, tổng cộng là 300 bài dân ca
Quan họ, trong đó có đủ giọng cổ (lề lối), giọng vặt và giọng giã bạn, được
nhạc sĩ Hồng Thao sưu tầm, kí âm, sắp xếp hệ thống, chú giải một cách hết
sức kỹ lưỡng trong hơn 20 năm.
Năm 2006 vừa qua là năm được đánh giá là năm của Quan họ với
nhiều hoạt động lớn nhằm tôn vinh và bảo tồn, phát huy dân ca Quan họ.
Viện văn hóa thông tin kết hợp với Sở văn hóa thông tin Bắc Ninh tổ chức
Hội thảo khoa học quốc tế “Bảo tồn và phát huy dân ca trong xã hội đương
đại (qua trường hợp Quan họ Bắc Ninh ở Việt Nam). Sau cuộc hội thảo lớn
là tập kỷ yếu “Không gian văn hóa Quan họ Bắc Ninh - Bảo tồn và phát
huy” ra đời, tập hợp hơn 50 tham luận của nhiều tác giả trong và ngoài
nước. Hội thảo đã nêu bật được nội dung, lề lối sinh hoạt dân ca Quan họ,
nghệ thuật âm nhạc Quan họ, đặc biệt nhấn mạnh sự tồn tại của Quan họ
trong xã hội hiện đại và phương hướng bảo tồn, phát huy các giá trị của dân
ca Quan họ trong trong xã hội ngày nay
Cùng thời gian này, cuốn sách “Vùng văn hóa quan họ Bắc Ninh” đã

ra mắt công chúng. Đây là kết quả của chương trình hợp tác giữa bộ văn
hóa thông tin và Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh xây dựng bộ hồ sơ đệ trình
UNESCO công nhận Quan họ Bắc Ninh là kiệt tác di sản truyền miệng và
phi vật thể của nhân loại.
Cùng với những công trình nghiên cứu về dân ca Quan họ trên nhiều
lĩnh vực như Âm nhạc, Văn học, Văn hóa…các nhà khoa học đã quan tâm
nghiên cứu và công bố kết quả trong nhiều công trình khảo cứu như: “Địa
chí Hà Bắc”, “Lễ hội xứ Bắc”, “Lễ hội Bắc Ninh”. Đáng chú ý là hội thảo
khoa học: Hội Lim truyền thống và hiện đại ngay trên quê hương Bắc Ninh
với 29 báo cáo của các nhà nghiên cứu, quản lý ở các cơ quan trung ương
và địa phương.
Tuy nhiên trong những tài liệu kể trên, chưa có đề tài nào nghiên cứu
cụ thể, chuyên biệt về nét văn hóa trong hát quan họ và tục kết bạn, kết chạ
ở lễ hội Bắc Ninh, cũng như chưa có cách tiếp cận và đánh giá dưới góc độ
triết học về giá trị của văn hóa quan họ và ý nghĩa của nó trong đời sống
tinh thần của người Việt hiện nay.
Dựa trên những công trình trên, nhất là dựa theo các tài liệu của
trung tâm Văn hóa – Thông tin tỉnh Bắc Ninh, em đã nghiên cứu và tổng
hợp để hoàn thành khóa luận này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các lễ hội Quan họ và sinh hoạt văn hóa Quan họ
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Từ nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển quan họ
Bắc Ninh
- Không gian: Xứ Kinh Bắc xưa, chủ yếu là tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1.Mục đích
Đề tài này nhằm tìm hiểu nét văn hóa trong hát Quan họ và tục kết
bạn, kết chạ ở lễ hội xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh. Qua đó thấy được ý nghĩa

của những giá trị văn hóa quan họ đối với đời sống tinh thần của người Việt
hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
Đề tài nghiên cứu nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển quan họ Bắc
Ninh.
- Làm rõ nét văn hóa trong hát Quan họ và tục kết bạn, kết chạ.
- Tổng kết, đánh giá ý nghĩa của giá trị văn hóa Quan họ trong đời
sống tinh thần của người Việt hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp Logic - Lịch sử
- Phương pháp xã hội học
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
6. Đóng góp về khoa học của đề tài
Quan họ Bắc Ninh năm 2009 đã được công nhân là Di sản phi vật thể
đại diện của nhân loại nên thực hiện đề tài này tác giả có nguyện vọng góp
một tiếng nói mang tính khoa học hòa chung với các công trình nghiên cứu
trước đây về văn hóa Bắc Ninh - Kinh Bắc, nhằm làm sâu sắc hơn và góp
phần quảng bá rộng rãi hơn các giá trị văn hóa Quan họ, làm phong phú
thêm cho loại văn hóa phi vật thể này.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần nội dung với 2 chương 6 tiết.
Chương 1: Nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển của hát quan
họ và tục kết bạn, kết chạ trong lễ hội xứ Kinh Bắc, Bắc Ninh.
Chương 2: Sinh hoạt văn hóa Quan họ và ý nghĩa của nó đối với đời
sống tinh thần của người Việt hiện nay.
NỘI DUNG
Chương 1

NGUỒN GỐC, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
CỦA HÁT QUAN HỌ VÀ TỤC KẾT BẠN, KẾT CHẠ
TRONG LỄ HỘI XỨ KINH BẮC - BẮC NINH
1.1. Vài nét về quê hương quan họ
1.1.1. Kinh Bắc - quê hương Quan họ
Qua các thời kỳ lịch sử, quê hương quan họ có nhiều tên gọi và địa
bàn rộng hẹp khác nhau nhưng quê hương ấy vẫn là một vùng đất rộng nằm
ở phía Bắc sông Hồng và trong vùng văn hóa, văn minh châu thổ sông
Hồng, sông Thái Bình.
Bắc Ninh một tỉnh ở miền trung du Bắc Bộ, xưa là nơi phát tích của
dân tộc Việt Nam. Khoảng từ thế kỷ X đến thế kỷ III trước thiên chúa, vào
thời kỳ Hùng Vương, Bắc Ninh thuộc bộ Vũ ninh xứ Văn Lang. Theo sách
Đại nam nhất thống chí thì đời Hán (202 trước Thiên chúa đến 220 sau
thiên chúa) ở Trung Quốc, Bắc Ninh thuộc huyện Giao chỉ với hai huyện
Luy Lâu và Long uyên (Gia Lâm); đời Trần (1225-1400) Bắc Ninh gọi là
Bắc Giang lộ sau đổi thành Kinh bắc lộ.
Mãi đến nhà Minh (1368 - 1644) ở Trung Quốc, sách sử mới ghi rõ
địa dư của Bắc Ninh: năm thứ 5, niên hiệu Vĩnh –lạc (1407)Bắc Ninh gồm
phủ Bắc Giang; châu Gia Lâm, Vũ Ninh, Bắc Giang; châu Gia Lâm có 3
huyện An Định, Tế Giang, Thiện Tài; châu Vũ Ninh gồm năm huyện Tiên
Du, Vũ Ninh, Đông Ngàn, Từ Sơn, Yên Phong; châu Bắc Giang gồm 3
huyện: Tân Phúc, Thiện Thệ và Yên Việt.
Theo Đại việt sử ký toàn thư, từ năm 1428 đến năm 1433, vua Lê
Thái Tổ chia nước thành năm đạo và Bắc Ninh thuộc Bắc đạo; năm Quang
thuận thứ 7 (1466) Lê Thánh Tông chia nước thành 13 đạo, gọi Bắc Ninh là
đạo Bắc Giang; đến năm Quang Thuận thứ 10, đạo Bắc Giang lại đổi thành
đạo Kinh Bắc ; đến đời Hồng Đức năm thứ 21 (1490) Lê Thánh Tông lại
đổi thành xứ và gọi là xứ Kinh Bắc.
Cũng theo Đại việt sử ký toàn thư, Gia Long (1802- 1819) sau khi lên
ngôi chia nước làm 24 trấn, 4 doanh, 2 thành, gọi xứ Kinh Bắc là trấn Kinh

Bắc và đến năm 1831 thì Minh Mạng đổi là tỉnh Bắc Ninh.
Cái tên Bắc Ninh ngày nay chính thức là kết hợp giữa mấy tên: Vũ
Ninh, Bắc Giang, Kinh Bắc. Một điều đáng chú ý là phong tục hát quan họ
nằm ở mấy huyện Tiên Du, Võ Giang, Yên Phong, thuộc bắc phần Bắc
Ninh, xưa gọi là bộ Vũ Ninh nước Văn Lang và châu Vũ Ninh dưới đời nhà
Hồ , thời kỳ thuộc Minh.
Quê hương quan họ còn là một vùng đất đặc biệt, một vùng đất nổi
tiếng, một trong tứ trấn của Thăng Long ngàn năm văn vật xưa. Tính từ
điểm cực Bắc đến điểm cực Nam đường thẳng chừng 72km; từ điểm cực
Đông sang điểm cực Tây đường thẳng chừng 120km, chia làm 3 vùng rõ
rệt: miền núi, trung du và đồng bằng, có các dòng sông Hồng, sông Đuống,
sông Cầu, sông Thương chảy qua. Trên đất Bắc Ninh, Bắc Giang có 8 dân
tộc chính sinh sống, đó là Việt (chiếm hơn 90%), Nùng, Tày, Cao Lan, Sán
Chỉ, Sán Dìu, Dao, Hoa.
Kinh Bắc được coi là cái nôi sinh thành của người Việt. Do nằm ở vị
trí trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, có hệ thống giao thông đường thủy bộ thuận
lợi nên Kinh Bắc có mối quan hệ trao đổi giao thương với nhiều vùng của đất
nước, kể cả nước ngoài như Trung Quốc, Ấn Độ, các nước Trung Á, Nam Á
và một vài nước phương Tây. Luy Lâu là một trung tâm giao thương từ rất
sớm ở Kinh Bắc, là trung tâm giao thương đầu tiên của nước ta với các nước
láng giềng cả về kinh tế, văn hóa, tôn giáo. Kinh Bắc sớm trở thành một vùng
kinh tế có thế mạnh toàn diện đồng bằng, trung du,miền núi.
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, vùng đất kinh
Bắc có vai trò vô cùng quan trọng, là “đất phên dậu phía Bắc của Thăng Long”.
1.1.2. Những đặc sắc văn hóa của quê hương quan họ
* Một vùng văn hóa cội nguồn
Mảnh đất Kinh Bắc nổi tiếng “Đất thiêng, người hiền”, “Trai tài gái
sắc” là nơi có mật độ hết sức dày các di tích lịch sử, văn hóa và truyền
thuyết kỳ diệu về các công tích dựng nước và giữ nước của nhiều thế hệ.
Sông Cầu tức con sông Nguyệt Đức chảy qua Thị Cầu, là một nơi chứng

kiến biết bao cuộc đọ tài quan họ; sông Tiêu Tương theo truyện cổ tích kể
lại; là nơi xưa đã đã vang lên tiếng sáo yêu đương của chàng Trương Chi;
ngòi Tào khê nay không còn nữa nhưng vẫn giữ mãi dấu vết trong lòng
người với mấy câu ca dao quen thuộc:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ
Chùa Lim, đền Lý bát đế, chùa Bạch môn, đền Thánh Gióng, núi Phả
Lại, núi Lạng Sơn, núi Thiên Thai … là những phong cảnh tuyệt vời, có
nhiều di tích lịch sử, là đất “thanh lịch hữu tình” như các cụ ta thường nói .
Bắc Ninh là một vùng đất trù mật có một nền kinh tế nông nghiệp và
thủ công nghiệp phát triển từ lâu, nổi tiếng về gốm Bát Tràng, chum vại
Thổ Hà, the lụa Phù lưu, nồi đồng Quế Dương …là nơi đã từng sản sinh ra
các ông trùm phường họ về các nghề thủ công như Khổng Lộ đúc đồng,
Trương trung ái đúc đồ gốm…
Bắc Ninh là nơi giao lưu về mọi mặt, trao đổi hàng hóa giữa
phương Nam, phương Bắc do đó có nhiều khách bốn phương tứ xứ đến tụ
tập buôn bán.
Bắc Ninh, quê hương của các vị vua Lý, nơi du ngoạn của của các
vua chúa và là một trong những trung tâm văn hóa lâu đời của nước ta. Chỉ
riêng đời nhà Lý đã có đến 160 người đỗ tiến sĩ (theo sách Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú). Hàn Thuyên, người làm thơ nôm đầu
tiên của nước ta, cùng với nhiều nhà văn thơ khác như Hoàng Sĩ Khải,
Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Quát đều là người của vùng
quê hương quan họ.
Bắc Ninh là quê hương của bà mẹ đại thi hào Nguyễn Du, là nơi nổi
tiếng có những cô gái xinh đẹp, tình tứ. Với áo tứ thân màu nâu non, yếm
thắm hoa đào, váy lưỡi trai bảy bức, răng đen hạt huyền, con mắt lá dong,
những cô gái Bắc Ninh đã từng làm cho biết bao nhiêu chàng trai say đắm.
Ỷ Lan phu nhân, nguyên phi của vua Thánh Tông nhà Lý chính là một cô
gái hái dâu ở Siêu Loại (Bắc Ninh) tiêu biểu cho những cô gái đẹp đa cảm,

tình tứ của vùng quê hương Quan họ. Tục truyền cô gái hái dâu mải mê
theo đuổi những ý nghĩ thầm kín trong lòng đến nỗi xe vua đi qua mà cô
vẫn dựa vào gốc cây lan không biết, không hay. Vua thấy thế lấy làm lạ và
truyền vào cung và phong làm Ỷ Lan phu nhân. Nhưng cũng chính vì cái
đẹp diễm tình như nàng Ỷ Lan mà biết bao cô gái xứ Kinh Bắc thủa xưa đã
bị tuyển vào làm cung nữ trong cung điện của bọn vua chúa.
Bắc Ninh, nơi sản sinh ra những câu chuyện thần thoại, vị anh hùng
cứu nước Phù Đổng Thiên Vương, có một truyền thống anh dũng chống
ngoại xâm trải qua bao nhiêu thế kỷ. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến vừa
qua, Bắc Ninh có những làng du kích kiểu mẫu như: Lang Tài, Đình
Bảng… Đã từng làm cho giặc Pháp mất vía kinh hồn.
Kinh Bắc cũng là một trong những cái nôi của các thể loại âm nhạc
và sân khấu cổ truyền như hát ví , hát trống quân, cò lả, hát xẩm, hát ca trù,
múa rối nước, chèo và tuồng…được coi là cội nguồn sinh sôi và nuôi dưỡng
các loại hình âm nhạc nói chung và dân ca quan họ nói riêng.
* Vương quốc của lễ hội
Như ở trên đã nói, Bắc Ninh là đất nông nghiệp thịnh vượng, là một
vựa thóc của miền Bắc, năm này qua năm khác “hòa cốc phong đăng” nên
hội hè được nhân dân lao động mở ra khắp nơi sau ngày mùa, vào dịp
những ngày thu và nhất là về mùa xuân, sau dịp tết Nguyên Đán, vào
khoảng tháng Giêng là những ngày tương đối nhàn hạ nhất sau một năm
canh tác. Hết hội đình, đến hội chùa được mở liên tiếp. Trong mỗi làng, hội
đình và hội chùa thường được mở gần nhau. Vì thế những cuộc vui kéo dài
(ở Xuân Ổ mùng 6 tháng Giêng Âm lịch hội chùa, mùng 8 tháng Giêng Âm
lịch hội đình còn gọi là hội đám; ở Viên Xá hai hội làm cùng ngày ). Ở
những nơi hội chùa và hội đình không sát ngày nhau thì thường để hội đình
vào tháng 8 Âm lịch và hội chùa vào tháng Giêng Âm lịch. Ba tháng mùa
xuân là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội nhất: hơn 400 lễ hội diễn ra trong các
tháng mùa xuân này, trung bình một ngày có đến 3, 4 lễ hội.
Trong những ngày hội, có tổ chức các cuộc vui như kéo cờ ở Chã, hội

chợ bán gà ở Dương Ổ, tục chém lợn ở Khả Lễ,… và đều có tổ chức sinh
hoạt ca hát như: hát ví, hát trống quân, hát nhạc nhà tơ, kể hạnh, tuồng chèo,
hát chầu văn, và đặc biết là hát quan họ. Ngoài sinh hoạt ca hát như trên còn
có phường bát âm, phường tuồng ở Đình Bảng (Từ Sơn) với những cô gái
duyên dáng, mặc áo “cào cào” nhiều màu, đội mũ kim tuyến, thắt lưng ra
ngoài, mỗi bên vai có một cái đèn lồng vừa múa vừa hát trước cửa đình.
Hội mùa ở Bắc Ninh thực sự là một sinh hoạt cộng đồng của nhân
dân, có tác dụng rất lớn bồi dưỡng sức lực và tinh thần của nhân dân lao
động sau một năm làm việc vất vả trên đồng ruộng. Đó cũng là một dịp mà
tình cảm của người lao động được trao đổi với nhau trong một bầu không
khí thoải mái và thân mật. Đứng về mặt dân ca mà nói, đó cũng là một dịp
tạo điều kiện cho nghệ thuật ca hát, của nhân dân lao động được phát triển,
đề cao và khuyến khích.
Theo thống kê của Sở VHTT tỉnh Bắc Ninh thì ca hát quan họ có mặt
ở gần một nửa trong tổng số hơn 500 lễ hội của Bắc Ninh. Đặc biệt là ca hát
quan họ là hoạt động trung tâm của phần hội tại các lễ hội của 49 làng quan
họ truyền thống trong đó nổi tiếng và thu hút nhất là các hội Lim, hội Diềm,
hội Ó, hội Bồ Sơn, hội Đống Cao, hội Y Na, hội Bùi…. Đó là các lễ hội
được coi là dành riêng tôn vinh sinh hoạt và ca hát quan họ.
Sinh hoạt văn hóa quan họ và nghệ thuật dân ca quan họ là nghệ thuật
diễn xướng của các lễ hội Bắc Ninh. Các lễ hội làng Bắc Ninh, nhất là các
hội làng ở 49 làng quan họ, là động lực mạnh mẽ, bệ phóng lý tưởng để
nghệ thuật ca hát quan họ nảy nở, thăng hoa.
Mấy nét địa lý và lịch sử kể trên của Bắc Ninh cho ta thấy trên cơ sở
một nền kinh tế nông nghiệp phồn thịnh, trù mật, một cội nguồn của văn
minh Đại Việt - Thăng Long, một cửa ngõ giao lưu với nhiều nền văn hóa,
một vương quốc của lễ hội… Quan họ, một sinh hoạt văn hóa dân gian đặc
biệt đã nảy sinh, tồn tại, phát triển trên một vùng đất đặc biệt của đất nước
và trong một không gian văn hóa tuyệt vời.
1.2. Nguồn gốc sinh hoạt văn hóa Quan họ

1.2.1. Một vài truyền thuyết về nguồn gốc và thời điểm ra đời của
Quan họ
Cho đến nay, tuy có nhiều công trình nghiên cứu kỹ lưỡng về Quan
họ nhưng chúng ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc và thời điểm ra đời
của Quan họ. Dân ca quan họ có rất nhiều truyền thuyết về nguồn gốc và
thời điểm ra đời. Theo sự tổng hợp của nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung thì
có tới 15 truyền thuyết và 2 câu ca lưu truyền trong dân gian Kinh Bắc về
nguồn gốc và thời điểm ra đời của dân ca quan họ. Trong phạm vi của khóa
luận xin nêu ra một vài truyền thuyết tiêu biểu.
Truyền thuyết thứ nhất: theo các nghệ nhân quan họ kể lại đại ý như
sau: Vua Hùng thứ 6 có người con gái xinh đẹp nết na khi đến tuổi cập kê
nhưng không đoái hoài gì đến chuyện kén phò mã mà chí thích ngao du sơn
thủy. Nàng xin vua cha 1 con thuyền và và tuyển chọn 49 cặp trai gái không
cùng một dòng họ, hằng ngày xuôi ngược dòng sông Cầu để trồng lúa, trồng
dâu. Một lần thuyền đang dong duổi trên sông thì dông bão bất ngờ kéo
đến. Giông bão kéo con thuyền vào vùng hoang sơ. Công chúa cùng đoàn
tùy tùng ở lại khai khẩn vùng đất hoang sơ này thành một vùng trù phú.
Những lúc cùng đám tùy tùng trồng cây, hái quả hay khi thưởng nguyệt
ngắm trăng công chúa đều dạy cho 49 cặp trai gái vui chơi, ca hát. Lúc đất
đai được mở rộng cũng là lúc 49 cặp trai gái thuộc nhiều bài hát. Công chúa
xe duyên cho họ rồi phân đất cho mỗi cặp ở một vùng riêng sau này thành
49 làng quan họ. Khi công chúa mất đi để tưởng nhớ công lao của bà, con
cháu 49 cặp trai gái ở 49 làng quan họ đã đặt đền thờ ở làng Diềm, nơi bà ở
và tôn vinh bà là vua Bà Thủy Tổ Quan Họ. Hàng năm cứ đến ngày 6/2 âm
lịch, dân làng Diềm mở hội hát tại đền vua Bà, trước là xin Bà phù giúp cho
dân làng an khang, thịnh vượng, sau là trai gái ca hát mừng xuân. Lối chơi
này được đặt tên là hát Quan họ.
Truyền thuyết thứ hai: Trong bài viết “Vài ý kiến sơ bộ về dân ca
quan họ Bắc Ninh” đăng trên tạp chí Văn học số 5/1971, khi bàn đến nguồn
gốc dân ca quan họ, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cho rằng có rất nhiều

truyền thuyết về nguồn gốc dân ca quan họ, đáng chú ý nhất là truyền
thuyết cho rằng dân ca quan họ nảy sinh từ tục kết nghĩa, giao hiếu giữa các
làng Lũng Giang - Tam Sơn hay Diềm - Bịu. Theo ông, rất có thể từ những
câu dân ca hát xướng đối đáp kết nghĩa, giao duyên thâu đêm suốt sáng của
các làng kết chạ này mà theo họ Lý tức các “Quan viên họ Lý” theo cách
gọi đương thời chuyển thành câu hát mừng nhà vua khi mỗi khi Người ngự
thuyền về thăm quê hương Đình Bảng, Cổ Pháp.
Khi nhà Trần tiếm ngôi nhà Lý, Vương triều mới muốn xóa những
ảnh hưởng của Vương triều cũ trong lòng dân, kể cả việc bắt cả người trong
tôn thất của họ Lý phải đổi sang họ Nguyễn. Song dân làng Đình Bảng và
vùng Kinh Bắc đã từng tự hào về nhà Lý, nên đã tỏ lòng tưởng nhớ ngưỡng
mộ. Cho nên họ khôn khéo lấy cụm từ “Quan họ Lý” (vua họ Lý) đặt tên
cho lối hát dân ca của chính quê hương mình - một dòng dân ca đã từng hát
trong những dịp mừng đón và tiễn đưa các “Quan họ Lý ” đầu xuân hàng
năm, từ Thăng Long ngự thuyền rồng theo dòng sông Tiêu Tương về quê
dâng hương tổ tiên. Nhưng điều đáng nói ở đây là cách dùng tên gọi theo lối
chiết tự. Chữ “Lý” biểu tượng chính đặt tên cho làn điệu “Lý cây đa”, với ý
nhà Lý như cây đa, còn chữ “Quan họ ” được gọi chung là lối sinh hoạt dân
ca của vùng đó. Song ở phần láy phụ trong lời ca của một số làn điệu như
“Giã bạn” thì cụm từ Quan họ Lý vẫn được nhắc tới đầy đủ
…Hát về “Quan họ Lý” ư ôi ự
Nhà nghiên cứu văn học dân gian Vũ Ngọc Phan trong bài viết “Mấy
ý kiến sơ bộ về dân ca Quan họ” cho rằng:“ Cứ mỗi khi vua về thăm quê
(châu Cổ Pháp ) thì những người trong họ Lý, mà người đương thời gọi là
“Quan viên họ Lý ” đều đến ly cung và hát nhưng câu dân ca mà nhân dân
trong cùng thường hát để mừng nhà vua. Từ đó nhân dân trong vùng thường
hát để mừng nhà vua. Từ đó, nhân dân gọi là những câu hát dân gian ấy là
“hát Quan họ”. Theo tác giả Quan họ là tiếng hát của quan viên họ Lý hát
để mừng vua khi vua về thăm quê hương.
Truyền thuyết thứ ba: Người làng Quả Cảm và Thị Cầu lại có truyền

thuyết về quan họ là do một người con gái vừa cắt cỏ vừa hát những câu có
khẩu khí trị bình thiên hạ:
“Tay cầm bán nguyệt xêng xang
Bao nhiêu cỏ cây lai hàng tay ta”
Tiếng hát hay khiến Chúa Trịnh Sâm và quan quân đi du xuân phải
họ lại (dừng xe) để nghe. Chúa Trịnh Sâm cảm tài sắc của cô gái cắt cỏ nên
cho vời cô về làm vợ. Dân làng cho rằng tiếng hát tạo may mắn cho cô gái
nên đua nhau ca hát gọi là quan họ.
Cũng gần giống với truyền thuyết trên nhưng lại gắn với cuộc du
xuân cầu duyên, cầu tự của Lý Thánh Tông qua vùng Cầu Lự, Siêu Loại
(Thuận Thành ) và cô gái ấy là Ỷ Lan, sau này thành nguyên phi Ỷ Lan, rồi
hoàng hậu, rồi hoàng thái hậu nhà Lý.
Các truyền thuyết dân gian trên đều mang tính chất thần thoại, huyền
thoại có không ít suy đoán hoang đường, phi lý nhưng tất nhiên cũng chứa
đựng trong đó nhiều cơ sở hiện thực, duy lý quý giá. Bởi cho đến giờ vẫn
chưa tìm thấy tài liệu lịch sử chính thức nào ghi về nguồn gốc quan họ nên
khi nghiên cứu đều bắt đầu từ truyền thuyết. Xưa kia, mỗi làng tin theo
truyền thuyết của vùng mình. Qua các truyền thuyết trên có thể tóm tắt về
nguồn gốc của quan họ như sau:
- Do vua bà con gái Hùng Vương truyền dạy
- Là lối hát Đúm của họ nhà quan
- Là tiếng hát hay làm quan viên hai họ lại (dừng lại)
- Là tiếng hát hay tạo nên may mắn, hạnh phúc
Về tên gọi “Quan họ” cũng có nhiều cách lý giải khác nhau. Cuốn
Dân ca quan họ Bắc Ninh, nhiều tác giả, cho rằng:…Quan họ là danh từ kép.
Trong ngôn ngữ dưới chế độ phong kiến dưới chữ họ với chữ phường là hai
danh từ gần đồng nghĩa với nhau, chỉ một tập thể người hát nhất định.
-… chữ phường thường dùng với nghĩa khinh miệt, chỉ những người
cùng làm một nghề …không được coi trọng…
- chữ họ thường dùng với ý nghĩa coi trọng, chỉ những người thuộc

lớp trên của xã hội: Sĩ, nông, cùng sinh hoạt kết bạn với nhau,ví dụ: họ tư
văn, họ võ phá, họ lợn, họ gạo, họ chọi gà…Các người trong họ Tư văn, họ
võ phả gọi là quan viên họ tư văn, quan viên họ võ phả gọi tắt là Quan họ tư
văn, Quan họ võ phả. Các quan cụ, quan trùm, quan đám, quan trong, quan
anh, chính là các quan viên, lớp người có người quyền ăn nói… chữ quan
trước kia dùng để chỉ các quan viên thực sự, nhưng đến sau này, bất cứ nam
hay nữ hễ ai được tôn trọng đều được gọi là quan cả. Do đó, danh từ quan
anh, quan chị, quan bác bắt đầu xuất hiện…
Như vậy, các tác giả Dân ca quan họ Bắc Ninh cho Quan họ là danh
từ kép chỉ nhóm người ca hát với ý nghĩa coi trọng, và lối hát, tiếng hát gắn
liền với tập thể gọi là Quan họ nên cũng gọi là hát Quan họ.
Tác giả Lê Thị Nhâm Tuyết trong cuốn “Mấy ý kiến về vấn đề tìm
hiểu nguồn gốc dân ca Quan họ” thì không đồng ý với cách giải thích Quan
họ là họ nhà quan, hoặc Quan họ dừng lại, hoặc là quan viên họ, tức là hội
của lớp người nông dân có quyền ăn nói và cho cách giải thích ấy là “duy
danh”, “thông tục”.
Tác giả cho rằng từ quan không phải là một từ Hán - Việt vay mượn
mà đã có từ thời Hùng Vương trong từ ghép “quan lang” là một từ Việt cổ
trước khi nhập vào từ quan Hán Việt và có nghĩa là người đàn ông.
Còn họ chỉ cộng đồng gắn theo máu mủ, huyết thống và đã có nhiều
thời kỳ cộng đồng này mang ý nghĩa vai trò của những đơn vị xã hội
(những công xã thị tộc), sau này thành những làng.
Những người đàn ông trong họ (Quan họ) tách ra, dân mình (họ
mình) về làng gốc chơi và hát theo tục lệ nên lối chơi và hát đấy cũng được
gọi tên là hát Quan họ như trường hợp hát quan làng trong đám cưới của
người Tày, Nùng. Quan họ như vậy chỉ một loại dân ca hát trong đám cưới.
Có ý kiến cho rằng: Quan họ có chung nguồn gốc lâu đời với hát Lượn của
người Tày, hát Đang của người Mường, hát Ghẹo ở Phú Thọ, hát Xoan ở
Hạc Trì (Phú Thọ). Quan họ cùng có nguồn gốc như hát Thường Rang, Bọ
Mẹng (Mường), hát Lượn (Tày), hát Hạn Khuống (Thái).

Những ý kiến này muốn khẳng định nguồn gốc lâu đời của tiếng hát
Quan họ. Nhưng các tác giả đều cho rằng lối chơi và tiếng hát Quan họ
không ngừng biến đổi theo thời gian. Vì vậy hệ thống bài ca và lề lối hát
Quan họ mà ta nhận biết được ngày hôm nay, về căn bản là những sản
phẩm sáng tạo của những thế kỷ sau, nhất là những thế kỷ của thời kỳ
phong kiến độc lập sau này: Thời Lý Trần (1010 – 1400 ); thời Lê, nhất là
thời kỳ Lê Thánh Tông (thế kỷ XVI trở đi) và những năm đầu của thế kỷ 20
nghệ thuật chèo, nhà tơ, Cải Lương Nam Bộ, ca Huế…phát triển gia nhập
vào Quan họ, khiến nhiều bài được quan họ cải biên từ hát chèo, từ hát nhả
tơ, ca trù…
Tuy nhiên, qua những bài Quan họ đã được sưu tầm có nhiều bài lời
ca là những thơ lục bát. Theo Trần Việt Ngữ thì: hầu hết những câu trong
những giọng lề lối đều có lời hát viết theo thể sáu, tám. Vậy Quan họ khó
có thể ra đời trước khi nước ta có loại thơ này. Tới nay chúng ta cũng mới
tìm thấy một số tài liệu văn học khoảng thế kỷ XVI có dùng thể thơ có dùng
thơ sáu, tám. Trong khi đó lời ca của những bài ca được thừa nhận là giọng
cổ nhất như Hừ La, La Rằng,Tình Tang, Cái hời cái ả đều ở thể thơ lục bát.
Như thế lối hát giao duyên có tên là quan họ được hình thành sớm
nhất ở thế kỷ XVI, trước thế kỷ XVI nó có thể gọi không phải là Quan họ.
Còn theo nhà nghiên cứu Văn hóa Quan họ Lê Danh Khiêm cho rằng
và “Sinh hoạt Văn hóa Quan họ bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xã”
và “Sinh hoạt Văn hóa Quan họ ra đời từ thời kỳ phát triển kinh tế hàng hóa
tiêu thủ công nghiệp, tiểu thương nghiệp”. Ông phân tích “ Khi nói Quan họ
khởi nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xã, cũng đồng nghĩa với việc nói
rằng Quan họ ra đời khi con người trong các cộng đồng làng xã có nhu cầu
mở rộng giao lưu và gắn bó mật thiết với nhau…Nói cách khác, Quan họ ra
đời, tồn tại và phát triển chính là trên cơ sở nhu cầu tất yếu phải mở rộng
giao lưu. Điều này chỉ thực sự xảy ra khi nền sản xuất không đơn thuần là
tiểu nông, tự cung tự cấp và khép kín trong công xã mà trình độ sản xuất
được nâng cao bằng việc phát triển kinh tế hàng hóa tiểu thủ công nghiệp ”

[ 7; 39,40]
Ông còn cho rằng “Tục thờ thần Thành hoàng - nguyên nhân chính
dẫn tới tục kết chạ cũng ra đời từ thế kỷ XVII”. Như vậy, theo ông thì sinh
hoạt văn hóa Quan họ ra đời sớm nhất là thế kỷ XVII.
Như vậy, về nguồn gốc và thời điểm ra đời của Quan họ có nhiều ý
kiến khác nhau và chưa thống nhất. Nhưng có thể khẳng định Quan họ là
sinh hoạt văn hóa có từ lâu đời, có những bước phát triển, biến đổi không
ngừng và xâm nhập vào đời sống tinh thần của người dân.
1.2.2. Tục kết bạn, kết chạ Quan họ
Tục kết bạn quan họ là một nét nổi bật của sinh hoạt văn hóa quan
họ. Từ gốc là các yếu tố của tục kết chạ giữa các làng, tục kết bạn đã trở
thành tục lệ quan trọng hàng đầu với tất cả liền anh, liền chị, tất cả các bọn
quan họ. Theo truyền thống của các làng quan họ, muốn hát quan họ thì
trước hết phải thực hiện việc kết bạn. GS. Lê Văn Hảo cho biết: “Việc trai
gái quan họ kết bạn với nhau bề ngoài giống như chuyện cưới xin, chỉ có
khác là không lấy nhau thôi”. Trong lối chơi quan họ có câu: “Trai đi tìm
gái, gái hát trước” và cũng theo phong tục, tập quán của người Việt Nam,
tức là bọn trai phải chủ động đi tìm bọn nữ để kết bạn. Vì thế, một bọn trai
làng nào muốn kết bạn với nữ làng kia thì phải tập hợp một số anh em biết
hát và tìm một người lớn tuổi, hay hát cầm đầu, cứ mỗi bọn chừng 10
người. Việc kết bạn này thường diễn ra vào dịp các lễ hội, không khí đang
vui tươi, bọn kia mang trầu cau và đồ lễ đến đình lễ thần và ra mắt quan
viên trong làng, xin kết bạn quan họ với chị em bên đó, buổi lễ thần đó đốt
pháo ăn khao như ngày cưới, như thế là cha anh làng đó công nhận cho con
em làng mình kết bạn với làng kia.
Sau khi kết bạn, hai bọn quan họ coi nhau như một gia đình. Một
hình thức gia đình độc đáo “Gia đình quan họ” đã hình thành qua các cuộc
kết bạn quan họ. Phần lớn các liền anh, liền chị đã kết bạn với nhau thì trở
thành bạn của nhau suốt đời, không bao giờ chuyển tình bạn thành tình yêu
để tiến tới hôn nhân để giữ mãi mối quan hệ thơ mộng như lý tưởng mà

không sa vào cuộc sống gia đình bíu ríu với những lo toan vặt vãnh thức tế
hằng ngày.
Tục kết bạn quan họ có những chi tiết khác nhau giữa các làng: Có
nơi, cùng một thời gian, nhóm quan họ này kết bạn với 2,3 nhóm Quan họ
khác và sự kết bạn ấy đôi khi chỉ kéo dài vài, ba năm: Thị Cầu, làng Yên,
Ngang Nội …rồi lại kết với nhóm khác.
Có nơi hai nhóm nam nữ Quan họ đã kết bạn với nhau rồi thì không
kết bạn với nhóm thứ 3 và có tục lệ không bao giờ lấy nhau, giữ đường đi
lối lại trọn đời: Bồ Sơn - Y Na
Có nơi như Diềm - Bịu, 2 nhóm đã kết bạn thì không kết bạn với
nhóm thứ 3, không những thế, cả bên nam nữ mỗi bên còn gây dựng một
nhóm em bé quan họ để dẫn dắt họ kết bạn với nhau, cứ thế hết thế hệ này
đến thế hệ khác, hàng trăm năm, tạo dựng lên một tình bạn trọn đời. Những
nhóm quan họ này thường có tục không lấy nhau thành vợ chồng.
Có nơi chỉ có quan họ nam như Thị Cầu, Ngang Nội, Sen Hồ… nên
chỉ mời kết bạn với quan họ nữ làng khác.
Trong vùng Quan họ có thể kể một số cặp kết chạ như sau:
Hòa Đình – Độ Xá
Hòa Đình – Niềm Xá
Hòa Đình – Trà Xuyên
Hòa Đình – Đông Yên
Bịu Trung – Phúc Đức
Tam Tảo – Xuân Dục
Tam Tảo – Tế
Tam Tảo – Hồi Quan
Trang Liệt – Đồng Kỵ
Trang Liệt – Phù Khê
Đình Bảng – Cẩm Giàng
Phù Lưu – Hạ Giang
Phù Lưu – Trùng Quán

Ném Thượng – Ném Sơn
Ném Thượng – Xuân Ổ
Khả Lễ - Bái Uyên
Khả Lễ - Bồ Sơn
Ném Đông – Ném Đoài
Ném Đông – Ném Tiền
Ném Đoài – Ném Tiền
Bồ Sơn – Y Na
Lũng Giang – Tam Sơn
Viêm Xá – Hoài Bão
Thị Cầu – Cổ Mễ
….
Việc kết bạn giữa các bọn Quan họ có nguồn gốc từ tục kết chạ giữa
các làng. Tục kết chạ ra đời khi có công xã nông thôn với quan niệm xác
định văn hóa của công xã nông thôn, chứ không phải sự san đôi thị tộc như
nhiều người tưởng. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến kết chạ như nhiều
người đã nói, thì chính lại dẫn từ tình nghĩa thị tộc xưa kia, muốn cho cuộc
sống công xã nông thôn luôn thắm đượm tình thương yêu đùm bọc bình
đẳng như hồi trước. Tình nghĩa đó một mặt được duy trì qua luật tục, một
mặt được duy trì do thực tế cuộc sống trên đất Hà Bắc, với nền nông nghiệp
ruộng nước của cư dân này. Tình nghĩa này ngày càng phát triển cho đến
nay có một số tên gọi phù hợp với chặng đường phát triển này.
- Kết chạ: Kết nghĩa giữa hai làng có tính chất truyền đời, các làng
coi nhau như anh em, đặc biệt giúp đỡ nhau trong sản xuất. Tục kết chạ này
hết sức bền vững, vì ngoài chức năng xã hội còn có chức năng thực hiện
nghi lễ.
- Kế ước” Là một sự phát triển về nội dung xã hội, nhằm mở rộng
tinh thần ruột thịt ăn hèm trong công việc chống giặc, chống trộm cướp.
- Chạ nước: Là một sự liên minh để bảo đảm nguồn nước cày cấy.
- Kết nghĩa: Mở rộng tình ưu ái giữa con người đang cùng nhau lao

động , sản xuất, đánh giặc, giúp đỡ nhau khi “tối lửa tắt đèn”.
- Kết nghĩa: Mở rộng tình ưu ái cho đến cả các thành viên không còn
tồn tại nữa.
Như vậy tục kết chạ là một tục có từ lâu đời. Nó nhập vào quan họ
khi nào thì người ta không biết rõ. Điều chắc là tục kết Nghĩa trong hát
Quan họ hiện nay vẫn là phổ biến. Lễ thức tiến hành gần giống với tục kết
chạ, và luật tục phần lớn cũng giống nhau. Tình hình ấy cho phép ta khẳng
định: Quan họ Nghĩa là một tục phát sinh của tục kết chạ ở Hà Bắc, và tục
kết chạ là một trong những nguyên nhân để giữ gìn và phát triển Quan họ.
Về tình bền vững của phong tục tập quán, thì một phong tục tập quán,
một tín ngưỡng không thể một sớm một chiều mà có được, cho nên cũng có
thể nói chắc yếu tố kết chạ trong quan họ có từ rất sớm. Tác dụng của nó là
để làm cho tục hát Quan họ được toàn vẹn hơn.
Nhưng nó đã trở thành thể thức sinh hoạt Quan họ rồi thì có sự phát
triển riêng, làm cho quan họ được mở rộng hơn so với tục kết chạ: tất cả các
bọn quan họ có thể tự kết với nhau, bỏ qua những quy định tối thiểu của kết
chạ, miễn là họ tuân theo một số quy định và làm theo đúng tinh thần của
tục cũ. Tục kết chạ khi đã vào tục chơi quan họ thì làm cải biến phương
thức chơi. Chơi Quan họ từ nay không còn là một lối chơi giao duyên bình
thường nữa mà phải lĩnh một phần trách nhiệm của đôi dân giao phó. Quan
họ được đẩy lên địa vị hết sức quan trọng: mỗi lần quan họ đi hát cũng là
một lần thực hiện giao hảo với dân anh, không chỉ về mặt tinh thần mà cả
về vật chất (quà biếu). Như vậy là quan họ không những được thần linh
chấp thuận mà còn được dân làng coi trọng. Từ đó quan họ bị tách ra khỏi
sinh hoạt giao duyên của trai gái như trước đây của trai gái để đi vào cõi
huyền bí thiêng liêng. Quan họ từ một lối chơi giao duyên bình thường biến
thành lối chơi phong tục gắn chặt với lễ nghi. Đã vậy thì quan họ với tư
cách là một thuần phong mỹ tục thì phải có sự khác với lối giao duyên
thông thường. Trình thức đó, quy định đó, nằm trong phong tục của từng
làng quan họ. Nhưng vốn là một sinh hoạt tập thể, có sự giao lưu rộng rãi,

nên nhanh chóng đưa đến chọn lọc một số các hình thức nhiều vẻ ấy một
vài trình thức tương đối ổn định và trình thức ổn định nhất là hệ thống bài
bản trong hát lề lối mà ta hiện nay còn thấy. Và quan họ không ra đời với tư
cách là một lối hát thờ thành hoàng như Xoan, Dậm, Dô nên hệ thống bài
bản của nó không diễn tả lai lịch thành hoàng như các loại hát này. Hệ
thống bài bản quan họ chỉ là những lời chúc tụng và xưng công đức càng
chứng tỏ Quan họ chịu ảnh hưởng lớn của tục kết chạ.
Vì những lý do đó mà một số người đã cho rằng hát quan họ bắt đầu
từ khi có tục kết chạ.
1.3. Lễ hội xứ Kinh Bắc - Bắc Ninh
1.3.1. Lễ hội Quan họ - Môi trường của sinh hoạt văn hóa Quan họ
Bắc Ninh được xem là vương quốc của lễ hội, mỗi năm có tới 547 lễ
hội được tổ chức, chiếm gần một nửa tổng số các lễ hội đó là có mặt của ca
hát Quan họ. Ca hát Quan họ chính là hoạt động trung tâm của phần hội tại
các lễ hội của 49 làng Quan họ gốc. Các lễ hội làng Bắc Ninh, nhất là các
hội làng ở 49 làng Quan họ gốc, là động lực mạnh mẽ, bệ phóng lý tưởng để
nghệ thuật ca hát Quan họ nảy nở và thăng hoa.
Lễ hội có thể được xem là môi trường của sinh hoạt văn hóa Quan
họ. Môi trường đó cũng giống như con người muốn sống cần có không khí,
con cá muốn sống phải có nước, sinh hoạt văn hóa Quan họ muốn tồn tại thì
cần có những lễ hội. Bởi vì, có một thực tế sinh động là trong nhiều năm
giữa thế kỷ trước, do nhiều nguyên nhân mà lễ hội làng xã hầu như không
được mở. Chính trong thời kỳ này, Quan họ hầu như không còn. Vì thế,
ngoại trừ một số trường hợp hoạt động Quan họ rải rác quanh năm, như
Quan họ thăm viếng nhau mỗi khi bạn có việc vui, việc buồn, Quan họ giúp
đỡ nhau trong lao động sản xuất và buôn bán, còn hầu hết các hoạt động
chủ yếu của Quan họ đều tập trung trong các ngày lễ hội làng xã (đặc biệt lễ
hội mùa xuân). Chính trong các lễ hội Quan họ thể hiện một lối “chơi Quan
họ” rất độc đáo với nhiều nét văn hóa đặc trưng của quê hương Quan họ.
Dịp chơi chủ yếu của Quan họ là lễ hội mùa xuân nên mùa xuân được

coi là “mùa Quan họ”. Bởi đây là dịp để các bọn Quan họ giao lưu, kết bạn
với nhau. Trong ngày hội xuân của bất kỳ làng nào cũng đều có đủ 4 hình
thức ca hát: Hát chúc, mừng, hát thờ, hát hội và hát canh. Ngày hội xuân
cũng thu hút đông đảo các lực lượng tham gia giao lưu, kết bạn của Quan
họ sở tại với Quan họ bạn, kết bạn với bọn Quan họ khác tới chơi hội, các
bọn Quan họ nam, nữ tìm nhau để kết bạn.
Cũng giống như lễ hội mùa xuân, lễ hội mùa thu là dịp để các bọn
Quan họ nam nữ trong nội bộ làng mở hội giao lưu với nhau trong việc
cùng tham gia các hoạt động tín ngưỡng của lễ hội. Đây cũng là dịp duy
nhất để nam nữ trong cùng một làng giao lưu với nhau.
Như vậy, nhờ có môi trường là các lễ hội, Quan họ mới có điều kiện
tập trung giao lưu giữa Quan họ các làng và Quan họ nam nữ cùng một làng
với nhau. Hơn nữa, những ngày lễ hội Quan họ chính là lễ hội truyền thống
của làng xã. Bởi vậy, riêng ở 44 làng Quan họ gốc ở Bắc Ninh thì làng nào
cũng có lễ hội mùa xuân, tập trung vào các tháng giêng hai, khởi đầu là hội
làng Hữu Chấp mùng 4 tháng giêng và kết thúc là hội Điều Thôn 15 tháng 2
(âm lịch). Cụ thể như sau:
Tháng giêng:
- Ngày 4: Hữu Chấp (Chắp).
- Ngày 5: Xuân Ổ (Ó), Bái Uyên (Bưởi).
- Ngày 6: Niềm Xá (Niềm), Y Na (Nưa), Khắc Niệm (Ném
Đoài, Ném Sơn, Ném Tiền), Khả Lễ (Sẻ), Khúc Toại (Chọi).
- Ngày 7: Hòa Đình (Nhồi), Vân Khám (Khám), Dương Ổ (Đống
Cao).
- Ngày 8: Đỗ Xá (Đọ).
- Ngày 9: Bồ Sơn (Bò), Thọ Ninh (Thụ).
- Ngày 10: Hoài Thị (Bịu Sim), Thượng Đồng (Lẫm), Vệ An
(Vệ).
- Ngày 11: Phúc Sơn (Bãi Cát).
- Ngày 12: Hoài Trung (Bựu Trung), Xuân Ái (Sói).

- Ngày 13: Lũng Giang (Lim), Lũng Sơn (Lim), Duệ Đông (xưa
gọi là Giáo phường Tiên Du ).
- Ngày 14: Cổ Mễ (Cổ Mễ).
- Ngày 15: Trà Xuyên (Trà), Viêm Xá (Diềm – Hội Chùa), Đông
Mơi (Đông Mai), Xuân Viên (Vườn Xuân, Vườn Hồng).
- Ngày 16: Tam Sơn, Thị Cầu (Chùa Trong), Đẩu Hàn (Hàn,
cũng gọi là Đô Hàn).
- Ngày 18: Thanh Sơn.
- Ngày 19: Xuân Đồng (Đồng Mật).
- Ngày 20: Thị Cầu (Chùa Ngoài).
- Ngày 25: Ngang Nội (Ngang).
- Ngày 28: Châm Khê (Bùi).
- Ngày 29: Thị Chung (Yên Chợ).
Tháng hai:
- Ngày 2: Đông Xá (Đặng).
- Ngày 6: Tiêu Thượng, Viêm Xá (hội đền Vua Bà).
- Ngày 7: Tiêu Long.
- Ngày 10: Yên Mẫn (Yên Giữa).
- Ngày 15: Điều Thôn (Đào Xá).
Việc tổ chức các lễ hội trong năm có ý nghĩa quan trọng đối với các
sinh hoạt văn hóa Quan họ. Bởi vì, thông qua đó dân ca Quan họ, tục kết
bạn Quan họ, văn hóa hành vi, giao tiếp Quan họ, lối chơi Quan họ được thể
hiện đậm nét và có sức lan tỏa tới quần chúng nhanh nhất. Mặt khác, hoạt
động Văn hóa Quan họ cũng tạo cho lễ hội vùng Quan họ mang màu sắc
riêng như: tính cộng đồng của lễ hội được nâng cao hơn, phần lễ trong lễ
hội được tôn nghiêm hơn và đặc biệt, có hoạt động Văn hóa Quan họ, lễ hội
mang tính trữ tình và địa điểm tổ chức lễ hội được mở rộng, không khí lễ
hội cũng sôi động hơn.
1.3.2. Hội Lim – Hội Quan họ
Nhắc đến Quan họ và các lễ hội Quan họ thì không thể không nhắc

tới hội Lim – lễ hội tiêu biểu và được coi là Hội Quan họ.
Lim là tên Nôm của xã Lũng Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh,
cách Hà Nội 18 km. Hội mở trên đồi Lim, tên chữ là Hồng Vân Sơn và có
chùa Lim nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu, người sáng lập tục hát quan họ. Đây
là một ngọn đồi thuộc địa phận 3 xã Duệ Đông, Lũng Sơn, và Lũng Giang,
huyện Tiên Du, Bắc Ninh.
Hiếu Trung Hầu tên húy là Diễn, làm quan dưới triều của vua Lê
Cảnh Hưng, xuất thân hoạn quan, ngài đã được thăng đến chức Thanh Hóa
trấn đốc đồng. Dân chúng quanh vùng quen gọi lăng ngài là lăng quan trấn.
Ông không có con nên khi gần chết ngài hầu hàng tổng và làm đình cho
mấy xã. Để ghi nhớ công ơn ngài hàng năm đến 13 tháng giêng (âm lịch)
dân tổng Nội Nhuệ mở hội rất to tại lăng ngài. Ngày hội đó được gọi là
ngày hội Lim.
Lâu nay người ta có ấn tượng rằng ngày hội Lim là ngày hội Cả của
Quan họ, là ngày hội tiêu biểu nhất của sinh hoạt Quan họ. Thực ra đó cũng
chỉ là hội chùa Lim và do làng Lim đứng ra tổ chức, giống và ngang với các
ngày hội khác do các làng đứng ra tổ chức thôi. Tuy nhiên, hội Lim , như ta

×