Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

tiểu luận môn triết học những khó khăn và giải pháp khắc phục trong công tác giáo dục học sinh tiểu học tại các tỉnh vùng núi phía bắc nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.83 KB, 31 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ- ĐHQG HÀ NỘI


TIỂU LUẬN
MÔN TRIẾT HỌC
( Dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh)
Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS. Phạm Công Nhất
Nhóm thực hiện: Lê Thị Thanh Hường
Tên đề tài:
“Những khó khăn và giải pháp khắc phục trong công tác giáo dục học sinh tiểu
học (hoặc giáo dục phổ thông) tại các tỉnh vùng núi phía Bắc nước ta hiện nay
qua thực tế tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.”
Năm học 2014- 2015
A. Mở đầu – (2-3 trang)- Trang + Chính
1. Đặt vấn đề
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Kết cấu của tiểu luận
B. Nội dung
I. Một số vấn đề lí luận chung- Chị hạnh(4-5 trang)
Một số vấn đề lý luận chung về: Những khó khăn và giải pháp khắc phục
đối trong công tác giáo dục học sinh tiểu học (hoặc giáo dục phổ thông) tại các
tỉnh vùng núi phía Bắc nước ta hiện nay qua thực tế tại huyện Ba Bể, Tỉnh Bắc
Kạn.
1.1. Vấn đề lý luận chung:
Có thể hiểu một cách khái lược nhất: Giáo dục học là khoa học về giáo dục
con người. Giáo dục Tiểu học là một bộ phận, một chuyên ngành của Giáo dục


học. Với tư cách là một khoa học, Giáo dục Tiểu học trước hết phải xác định
được đối tượng, nhiệm vụ, phương pháp và những khái niệm cơ bản, các phạmtrù
chính của giáo dục học. Đó là những tri thức cơ bản giúp chúng ta tiếp cận được
với khoa học giáo dục nóichung, khoa học giáo dục Tiểu học nói riêng.
Các khái niệm cơ bản của giáo dục: Giáo dục (xét dưới góc độmột hiện
tượng xã hội) Giáo dục được xem xét dưới hai góc độ: Giáo dục với tư cách là
một hiện tượng xã hội. Giáo dục với tư cách là một quá trình giáo dục.
Khái niệm Triết học duy vật biện chứng đã khẳng định rằng, thế giới tồn
tại xung quanh con người là thế giới vật chất (thể hiện dưới dạng sự vật và hiện
tượng).Trong vô vàn các hiện tượng ấy có thể chia thành hiện tượng tự nhiên, xã
hội và tưduy. Ví dụ: Mây, mưa, ánh sáng, sự biến đổi của các dạng vật chất vô cơ
và hữu cơ (hiện tượng tự nhiên); chế độ kinh tế –xã hội, tư tưởng chính trị, quan
2
điểm đạo đức, luật lệ quốc gia,chuẩn mực các giá trị xã hội v.v (hiện tượng xã
hội); thế giới khách quan tồn tại ngoài ý thức của chúng ta nhưng nhận thức của
mỗi người về thế giới khác nhau, nông –sâu, rộng –hẹp, đúng sai v.v (hiện
tượng tưduy). Trong số các hiện tượng xã hội đó có một loại hiện tượng có dấu
hiệu đặc trưng là truyền thụ cho nhau và lĩnh hội (tiếp thu) của nhau những kinh
nghiệm lịch sử xã hội (tri thức và kĩ năng) để sống và hoạt động, để tồn tại và
phát triển của mỗi người và cả cộng đồng. Hiện tượng này gọi là hiện tượng giáo
dục. Ví dụ: Cha mẹ giáo dục con cái ở gia đình, thầy cô giáo và tập thể sưphạm
giáo dục cho mỗi học sinh trong nhà trường, mỗi thành viên xã hội, cả cộng đồng
và chính thực tiễn là người thầy giáo vĩ đại luôn giáo dục mọi người. Có thể nói
rằng, truyền thụ và lĩnh hội tri thức (kinh nghiệm xã hội trên bình diện rộng cả
líluận lẫn thực tiễn) là nét đặc trưng cơ bản nhất của giáo dục.Với tưcách là một
hiện tượng xã hội, giáo dục chỉ nảy sinh trong quan hệ giữa người với người
(trong quan hệ xã hội) vì thế giáo dục chỉ có trong xã hội loài người, còn thế giới
động vật không có.Kinh nghiệm lịch sử xã hội là những tri thức và kĩ năng, niềm
tin và thái độ đó chính là những chân lí khách quan, những chuẩn mực đạo đức
xã hội, những phương thức và phương tiện của các dạng hoạt động giao lưu của

con người trong xã hội. Nhờ những kinh nghiệm lịch sử xã hội này mà thế hệ sau
kế thừa được nền văn hóa từ thế hệ trước để trở thành nhân cách có nội dung
phong phú và đa dạng, có sức mạnh về thể chấtvà tinh thần (tình cảm, trí tuệ )
để hoạt động xã hội, cải tạo tự nhiên, cải tạo chính bản thân mình vì sự tồn tại và
phát triển của mỗi người và cả xã hội, cả cộng đồng. Vậy giáo dục là gì? Giáo
dục ở đây được hiểu theo hai nghĩa: rộng và hẹp.
Theo nghĩa rộng: Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách
được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và
các quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm truyền đạt và
chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. Ở đây phải đặt khái niệm
3
"giáo dục"vào trong toàn bộ quá trình hình thành con người nói chung với các
phạm trù cơ bản có mối quan hệmật thiết là: quá trình hình thành con người; quá
trình xã hội hóa con người; quá trình giáo dục v.v –Quá trình hình thành con
người là quá trình phát triển con người một cách tổng thể cả về mặt sinh học, tâm
lí và xã hội. Đó là quá trình làm tăng trưởng về lượng và biến đổi về chất ở mỗi
con người dưới ảnh hưởng và biến đổi của các yếu tố bên trong (sinh học, bẩm
sinh, các tố chất đã có ở con người) và các nhân tố bên ngoài (môi trường, xã hội,
giáo dục ) do các ảnh hưởng tự phát (tác động ngẫu nhiên cả bên trong và bên
ngoài cơ thể, chưa kiểm soát, chưa điều khiển được). Ví dụ,ảnh hưởng của các
nhân tố bẩm sinh, di truyền và tác nhân xã hội bên ngoài từ phía gia đình, xã hội,
môi trường lên đứa trẻ; các động tác tự giác có mục đích, có kế hoạch của con
người (chính là những tác động của giáo dục) có thể chế ngự và điều khiển được.
Ví dụ: Tác động của cô giáo, của trường lớp lên trẻ Mặt khác, do sự tăng
trưởng và phát triển của trẻ có tính tổng thể nên công tác nghiên cứu, đặc biệt là
các biện pháp tác động vào trẻ cũng phải mang tính tổng thể. Nhưvậy, không
những cần có chính sách và biện pháp huy động toàn thể xã hội chăm lo đến công
tác chăm sóc, giáo dục trẻ mà còn cần đảm bảo tính đồng bộ giữa các cơ quan
hữu trách, hình thành những chương trình thích hợp chăm sóc và giáo dục trẻ
đảm bảo hiệu quả tối ưu của các biện pháp giáo dục. Đó chính là đặc điểm quan

trọng của việc xã hội hóa công tác chăm sóc và giáo dục trẻ em. Quá trình giáo
dục là một bộ phận của quátrình xã hội hình thành nhân cách con người. Quá
trình này chỉ bao hàm những nhân tố tác động tựgiác, có mục đích, có kế hoạch
của nhà giáo dục và tổ chức giáo dục trong việc hình thành nhân cách trẻ em.
Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là bộ phận của quá trình sưphạm (quá trình giáo
dục) là quá trình hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những
nét tính cách, những hành vi và thói quen cưxử đúng đắn trong xã hội thuộc các
lĩnh vực tưtưởng chính trị, đạo đức, lao động và học tập, thẩm mĩ, …
4
Vị trí, chức năng của giáo dục Giáo dục với tưcách là một hiện tượng xã
hội: Là phương thức để tồn tại và phát triển xã hội loài người.
Điều này được thể hiện ở ba chức năng sau đây: Chức năng kinh tế sản
xuất: Lịch sử đã chứng minh rằng, sự phát triển của sản xuất đã quyết định sự
phát triển xã hội. Con người đã tạo ra mọi giá trị vật chất, tinh thầnvà sáng tạo ra
chính bản thân mình. Trong lĩnh vực sản xuất thì con người là lực lượng sản xuất
có tầm quan trọng bậc nhất. Theo ý nghĩa này thì trong quá trình lao động, con
người tạo ra giá trị vật chất và tạo ra con người, tái sản xuất con người bằng con
đường giáo dục. ởđây cần nói rằng, giáo dục với ý nghĩa đầy đủ của nó chính là
đào tạo, chuẩn bị một lớp người lao động trẻ cho xã hội. Nhưta đã biết, con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục chuẩn
bị con người cho xã hội là chuẩn bị cho họ có được những phẩm chất nhân cách
cần thiết để trở thành người lao động thực sự tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Con người ấy cần có thể lực khỏe mạnh, tình cảm đạo đức tốt đẹp để biết sống
trong cộng đồng, có trí tuệ phát triển phong phú kịp với trình độ phát triển của
khoa học thời đại, có kĩ năng lao động cần thiết để sản xuất trong nền sản xuất
đương đại. Những người lao động ấy chính là sản phẩm của giáo dục (theo nghĩa
rộng). Vì thế giáo dục được coi là lực lượng sản xuất trực tiếp. Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
lần thứ tư, khóa VII (tháng 1 –1993) đã coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu và luôn đặt song song giữa chiến lược con người và chiến lược kinh tế quốc

gia, thậm chí giáo dục phải đi trước một bước của sự phát triển kinh tế. Vậy có
thể nói rằng, chức năng thứ nhất của giáo dục là chức năng kinh tế –sản xuất.
Giáo dục nhằm đào tạo con người lao động mới, làm tái sản xuất sức lao động
của xã hội, đào tạo ra sức lao động mới khéo léo hơn, có hiệu quả hơn để thay thế
sức lao động cũ đã già cỗi, đã bị lạc hậu so với thời đại. Nghĩa là giáo dục nhằm
đào tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, có tác dụng đẩy mạnh sản xuất,
5
pháttriển kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế công nghiệp ở các nước tưbản chủ
nghĩa phát triển (Anh, Pháp, Đức, Nhật ) đã khẳng định chức năng to lớn này
của giáo dục.
Chức năng chính trị -xã hội: Giáo dục có tác động làm thay đổi bộ mặt cấu
trúc của xã hội. Giáo dục làm thay đổi cả vẻ mặt bên ngoài cũng nhưnội dung bên
trong (hình thức, nội dung) của các nhóm xã hội; của các bộ phận dân cưtrong
cộng đồng; của các giai cấp khác nhau (khi xã hội có giai cấp). Một số vấn đề đặt
ra như: Giáo dục là của ai? Chất lượng dân cư, dân tộc, giai cấp xã hội khác nhau
nhưthế nào?Tính chất bình đẳng, tính chất xã hội hóa của giáo dục nhưthế nào?
Quan hệ giữa giáo dục, người lao động và nền sản xuất ấy, chế độ kinh tế –xã hội
ra sao? v.v Đó là những phạm trù luôn đặt ra trong mỗi quốc gia, mỗi cộng
đồng, mỗi giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội, những vấn đề này đều có
liên quan đến giáo dục và giáo dục góp phần thay đổi bộ mặt này của xã hội.
Chức năng tưtưởng -văn hóa: Giáo dục nhằm chuẩn bị lớp người mới cho
xã hội. Con người mới ấy không chỉ là người lao động có thân thể khoẻ mạnh, có
kĩ năng lao động phát triển và đáp ứng yêu cầu của nền sản xuất mới mà còn phải
được phát triển về tâm lí, tình cảm, đạo đức và ý thức chính trị nhất định (đó
chính là những thành phần cấu trúc nhân cách). Đó là những yếu tố cần có của
mỗi con người cụ thể mà giáo dục đã góp phầntạo ra bằng chính chức năng này:
Tưtưởng –văn hóa. ởđây, giáo dục có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một hệ
tưtưởng cho mỗi người, hình thành một nếp sống mới, trên nền tảng một nền văn
hóamới, nhân sinh quan mới. Trình độ dân trí của mỗi người sống trong cộng
đồng có được nâng lên ngang tầm với đòi hỏi của nền kinh tế –xã hội, thời đại

hay không, ý thức xã hội của mỗi người trong cộng đồng có tác động đến nền văn
minh xã hội hay không chính nhờ giáo dục có chức năng thứ ba: Chức năng
tưtưởng văn hoá. Nhưvậy, giáo dục đã đồng thời thực hiện ba chức năng, đó là tái
sản xuất sức lao động xã hội, cải biến cấu trúc xã hội; hình thành ý thức hệ
6
tưtưởng mới trên nền văn hóa mới. Với ba chức năng này, giáo dục đã trực tiếp
tham gia vào việc đáp ứng đòi hỏi mới của một hình thái kinh tế –xã hội mới về
lực lượng sản xuất, về quan hệ sản xuấtvàý thức xã hội.Đồng nghĩa với nó, giáo
dục góp phần quan trọng vào việc giải phóng con người, đem tới những quyền cơ
bản và phúc lợi thực sự của nó cho mỗi thành viên và cả cộng đồng.
Tính chất của giáo dục: Giáo dục là một hiện tượng xã hội,chỉ nảy sinh
trong xã hội loài người, nghĩa là chỉ con người mới có giáo dục, còn thế giới
động vật không có giáo dục mà chỉ dừng ở hoạt động bản năng. Giáo dục là một
phương thức để duy trì và phát triển xã hội loài người.
Giáo dục là một phạm trù phổ biến và vĩnh hằng: Vì có con người là có
giáo dục, dùở đâu hoặc trong thời điểm nào của lịch sử. Vĩnh hằng bởi cùng là
hiện tượng xã hội nhưng nhiều hiện tượng xã hội khác có thể nảy sinh rồi kết
thúc nhưng giáo dục với tưcách là một hiện tượng xã hội, đã xuất hiện cùng với
conngười và tồn tại mãi mãi với con người nhưmột đại lượng vĩnh cửu.Nhà nước
với tất cả bộ máy và luật pháp của nó đã xuất hiện khi xã hội phân thành giai cấp
với tưcách nhà nước là công cụ để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị xã
hội.Khi xã hội tiến tới không còn giai cấp thì nhà nước cùng với bộ máy và luật
pháp của nó tất yếu sẽ bị tiêu vong.Còn giáo dục đã xuất hiện trong xã hội loài
người thì mãi mãi tồn tại với xã hội, với cộng đồng bất kì trong thời điểm nào của
lịch sử phát triển nhân loại.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, nó phản ánh mối quan hệ xã hội (người
–người) một cách cụ thể trong thời gian và không gian nhất định.Vì thế các chuẩn
mực giá trị của giáo dục luôn mang màu sắc và tính chất của sự tồn tại xã hội,
luôn phản ánh trình độ phát triển nhất định của lịch sử. Và tất nhiên khi xã hội
phân chiathành giai cấp thì giáo dục chứa trong nó nội dung của cuộc đấu tranh

giai cấp ấy. Vì thế giáo dục luôn mang tính lịch sử và giai cấp (khi xã hội phân
chia thành giai cấp).
7
Từ việc nắm bắt quy luật trên đây của giáo dục, Đảng ta đã nhiều lần
khẳng định quan điểm cơ bản của giáo dục Việt Nam: Giáo dục là một bộ phận
của cuộc cách mạng tưtưởng văn hóa. Nhà trường là công cụ của chuyên chính
vô sản.Thầy giáo là chiến sĩ trên mặt trận tưtưởng văn hóa. Đại hội toàn quốc lần
thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) và tiếp đó là Hội nghị lần thứ tưcủa
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (1 –1993) đã khẳng định "cùng với
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Trong thực
tiễn lao động và cuộc sống xã hội, người xưa đã tích lũy được những kinh
nghiệm giáo dục và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác một cách tự
nhiên trong kho tàng văn học dân gian của các dân tộc như: ca dao, tục ngữ, dân
ca, câu đố, trò chơi, chuyện kể Tri thức về việc giáo dục con người thời xưa (cổ
đại) nằm trong bộ môn triết học (khoa học nghiên cứu về đời sống tinh thần).
Đến thế kỉ XVII, lần đầu tiên xuất hiện hệ thống quan điểm giáo dục của J.A.
Cômenxki (1592 –1670) - Nhà giáo dục Tiệp Khắc vĩ đại với tác phẩm kiệt xuất
có tựa đề "Phép giảng dạy lớn"viết năm 1632. Tác phẩm này chứa đựng hệ thống
lí luận giáo dục của J.A. Cômenxki với tưcách một khoa học giáo dục con người
xuất hiện, đánh dấu mốc thời gian của sự tách khỏi triết học một khoa học mới ra
đời nghiên cứu việc giáo dục con người. Tiếp theo J.A. Cômenxki, nhiều nhà
giáo dụctiếp tục nghiên cứu làm phong phú thêm ở các thế kỉ sau như: J.J. Ruxô
(thế kỉ XVIII), K.D. Usinxki (thế kỉ XIX) và C. Mác –Ph. Ăngghen (giữa thế kỉ
XIX). Vậy giáo dục là một khoa học về việc giáo dục con người, có nhiệm vụ chỉ
ra bản chất và nêu ra các quy luật của quá trình giáo dục con người; xác định mục
tiêu giáo dục; quy định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức giáo dục
cho trẻ em ở các đối tượng khác nhau nhằm đạt được hiệu quả hoạt động tối ưu
trong những điều kiện, xã hội nhất định. Giáo dục học tiểu học là một chuyên
ngành của giáo dục, có nhiệm vụ xây dựng lí luận và tổ chức khoa học quá trình
giáo dục trẻ em ở độ tuổi từ 6 – 10 tuổi (trước tuổi đến trường phổ thông). Dựa

8
trên cơ sở khoa học mang tính quy luật chung của giáo dục và tính đến những đặc
điểm riêng của sự phát triển tâm sinh lí của trẻ đểhình thành và phát triển nhân
cách của trẻ em ở lứa tuổi này, giáo dục tiểu học có nhiệm vụ nghiên cứu, xác
định mục tiêu, quy định nội dung, chỉ dẫn phương pháp và các hình thức tổ chức
giáodục trẻ em ở lứa tuổi này một cách khoa học để đạt được hiệu quả giáo dục
tối ưu cho trẻ em trong độ tuổi trước tuổi đến trường phổ thông.
Quá trình giáo dục diễn ra theonhững quy luật của nó với những nét đặc
trưng chủ yếu sau: Quá trình sưphạm hay quá trình giáo dục là một quá trình xã
hội được tổ chức một cách có ý thức, có kế hoạch nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri
thức (kinh nghiệm lịch sử xã hội) và việc xây dựng và phát triển những nhân
cách mới theo yêu cầu của xã hội cụ thể do từng thời kì lịch sử quy định. Quá
trình giáo dục là một quá trình tác động lẫn nhau giữa người giáo dục và người
được giáo dục để tạo thành một quan hệ xã hội đặc biệt (quan hệ sưphạm hay
quan hệ giáo dục).
Quá trình giáo dục là quá trình mà người giáo dục giữ vai trò chủ đạo, tổ
chức, điều khiển, điều chỉnh các loại hình hoạt động và giao lưu, còn người được
giáo dục giữ vai trò chủ động, tích cực, tự giác tham gia vào các loại hình hoạt
động giáo dục và giao lưu đó nhằm lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội, những giá
trị văn hóa của loài người. Nếu quá trình giáo dục được tổ chức tốt thì quá trình
giáo dụcđó là một bộ phận chủ yếu (hoặc toàn bộ) trong hoạt động sống (hoặc
sinh hoạt) của người được giáo dục. Đối tượng của giáo dục tiểu học là đối tượng
của nhiều ngành khoa học (triết học, văn học, sử học, xã hội học, sinh lí học, tâm
lí học ) trong đó con người cũng chính là đối tượng của giáo dục. Ngày nay,
đường lối đổi mới giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
đã vạch ra cho khoa học giáo dục nói chung vàgiáo dục học nói riêng những
nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu phù hợp, đáp ứng các yêu cầu xây dựng và phát
triển giáo dục trong giai đoạn mới. Theo xu thế phát triển chung, giáo dục tiểu
9
học cần nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh các vấn đề lí luận cũng nhưthực tiễn

giáo dục tiểu học, phương pháp, đảm bảo vừa có giá trị định hướng, vừa đáp ứng
nhu cầu phát triển của hoạtđộng giáo dục mầm non theo hướng đa dạng hóa, xã
hội hóa, tạo điều kiện để hoạt động giáo dục tiểu học đáp ứng các yêu cầu phát
triển của xã hội và có cơ sở, có điều kiện hộinhập, tham gia vào hoạt động giáo
dục tiểu học trên thế giới và khu vực.
Miền núi phía Bắc Việt Nam - nơi có vị trí quan trọng trong lịch sử dựng
nước và giữ nước, là nơi tiếp giáp với các nước láng giềng, có vị trí quan trọng về
an ninh, quốc phòng. So với cả nước, các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có
nền kinh tế kém phát triển, trình độ dân trí của đồng bào còn nhiều hạn chế…
Đây là một trong những nguyên nhân kìm hãm phát triển; đồng thời, các thế lực
thù địch có thể lợi dụng để kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc.
1.2 . Sơ lược về điều kiện tự nhiên và dân cư:
Điều kiện tự nhiên: Miền núi phía Bắc Việt Nam bao gồm 15 tỉnh: Hòa
Bình, Sơn La, Phú Thọ, Điện Biên, LaiChâu, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang,
Thái Nguyên, Hà Giang, Bắc Kạn, Cao Bằng, LạngSơn, Bắc Giang và Quảng
Ninh. Đây là khu vực tập trung các khối sơn nguyên có độ cao,hướng núi và mức
chia cắt khác nhau.
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa vùng Đông Bắc, phía
Nam giáp Thái Nguyên, phía Bắc giáp Cao Bằng, phía Đông giáp Lạng Sơn, phía
Tây giáp Tuyên Quang. Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, địa hình, địa mạo nên khí
hậu Bắc Kạn có những nét đặc trưng như: nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20 -
22
0
C, nhiệt độ thấp tuyệt đối -0,1
0
C ở thị xã Bắc Kạn và -0,6
0
C ở Ba Bể, -2
0
C ở

Ngân Sơn, gây băng giá ảnh hưởng lớn đến cây trồng, vật nuôi và gây khó khăn
cho việc học tập các cấp nói chung, tiểu học nói riêng.
Dân cư: Bắc Kạn có tổng diện tích tự nhiên là 4.868,41 km
2
và dân số là
294.660 người, với 07 dân tộc anh em cùng sinh sống; trong đó:
10
- Người Tày chiếm: 54%
- Người Dao: 16,8%
- Người Kinh: 14%
- Người Nùng: 9%
- Người Mông: 5,5%
- Người Hoa: 0,4%
- Người Sán Chay: 0,3%.
Bắc Kạn có 08 đơn vị hành chính, bao gồm 01 thị xã và 07 huyện (Thị xã
Bắc Kạn, các huyện: Chợ Mới, Chợ Đồn, Bạch Thông, Ngân Sơn, Ba Bể, Na Rỳ,
Pác Nặm), với tổng số 122 xã, phường, thị trấn.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TẠI CÁC TỈNH
MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY QUA THỰC TẾ TẠI HUYỆN
BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN.
2.1 Thực trạng công tác giáo dục phổ thông tại các tỉnh vùng núi phía Bắc
nước ta hiện nay
Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo
dục ở miền núi và vùng các dân tộc thiểu số, Công tác giáo dục ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta với sự quan tâm, chỉ đạo và giúp đỡ của các ngành, các cấp chính
quyền có liên quan, các tổ chức chính trị-xã hội trong và ngoài nước đã đạt được
những kết quả tích cực. Tuy nhiên, khu vực miền núi phía Bắc nước ta là nơi cư trú
của nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, điều kiện tự nhiên không thuận lợi, khí hậu
khắc nghiệt, giao thông khó khăn, kinh tế chưa phát triển. Do đó, công tác giáo dục
11

phổ thông tại các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay đang tồn tại những khó
khăn, yếu kém và bất cập.
2.1.1 Những kết quả tích cực đã đạt được trong công tác giáo dục phổ thông tại
các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta
Trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng với sự
nỗ lực cố gắng của nhân dân các dân tộc thiểu số, các tỉnh miền núi phía Bắc đã đạt
được những kết quả tích cực trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, nhất là giáo dục ở
các bậc phổ thông.
Thứ nhất, chất lượng giáo dục cả trong dạy và học đã được nâng cao rõ rệt.
Giáo dục mầm non từ chỗ hầu như không phát triển hoặc chỉ phát triển ở các thị
trấn, thị xã, thì nay đa số vùng cao đã có lớp mẫu giáo, nhóm trẻ gắn với trường tiểu
học. Tất cả các xã đều có trường tiều học, các bản “trắng’’ về giáo dục tiểu học hầu
như không còn. Phần lớn các xã và cụm xã có trường trung học cơ sở. Huyện nào
cũng có ít nhất một trường phổ thông. Bên cạnh đó còn có hàng trăm trường bán trú
dân lập hoặc trường nộ trú dân nuôi tại xã và cụm xã.
Thứ hai, hệ thống cơ sở vật chất của trường cấp xã, huyện đều được tăng
cường đáng kể, trở thành các hạt nhân đối với phong trào xây dựng văn hóa, nông
thôn mới ở miền núi.
Thứ ba, đội ngũ giáo viên đã được củng cố và phát triển cả về số lượng và
chất lượng. Từ chỗ phải chờ sự chi viện giáo viên từ các tỉnh miền xuôi, nay nhiều
tỉnh đã tự túc được giáo viên do tỉnh nào cũng có trường trung cấp sư phạm để đào
tạo giáo viên tiểu học, nhiều tỉnh có trường cao đẳng sư phạm (trường cao đẳng sư
phạm Cao Bằng, trường cao đẳng sư phạm Điện Biên, trường cao đẳng sư phạm
Hòa Bình, trường cao đẳng sư phạm Lạng Sơn, trường cao đẳng sư phạm Lào Cai,
trường cao đẳng sư phạm Sơn La,trường cao đẳng sư phạm Quảng Ninh, trường cao
12
đẳng sư phạm Yên Bái,…), tỉnh Thái Nguyên có trường đại học sư phạm Thái
Nguyên.
2.1.2 Những khó khăn và bất cập trong công tác giáo dục phổ phông tại các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta

Bên cạnh những kết quả đã đạt được như trên, công tác giáo dục ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta còn tồn tại nhiều khó khăn, yếu kém và bất cập đặt ra cần
được giải quyết
Thứ nhất, quy mô giáo dục - đào tạo còn nhiều hạn chế. Hiện nay, nhu cầu
học tập và nâng cao trình độ của người dân vẫn chưa được đáp ứng, nhất là đối với
con em đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Ở bậc học mầm non, nhiều
địa phương như Phìng Sáng (Tuần Giáo - Điện Biên), Yên Châu (Sơn La)… đến
nay vẫn phải ghép với trường tiểu học, có lớp do nhân dân tự đóng góp xây dựng
nên rất sơ sài, tạm bợ, nền đất mất vệ sinh… không thể đáp ứng được tiêu chuẩn tối
thiểu cho việc chăm sóc trẻ dẫn đến tỷ lệ trẻ đến trường các tỉnh miền núi phía Bắc
thấp. ở những vùng sâu, vùng xa chỉ có 25% đến 50% trẻ đến trường, thậm chí có
những vùng tỷ lệ là 0%. Do vậy, để đạt được mục tiêu đề ra- tỷ lệ trẻ từ 3-5 tuổi học
mẫu giáo tại các tỉnh miền núi bình quân đến năm 2015 đạt trên 95% quả là một
nhiệm vụ khó khăn của chính quyền và ngành giáo dục ở những tỉnh miền núi phía
Bắc.
Ở bậc tiểu học, học sinh là con em đồng bào thiểu số chiếm tỷ lệ thấp so với học
sinh người Kinh (Kinh 81,37%, Tày 69,39%, Thái 53,38%, Mông 38,14%).
Ở bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông, mặc dù các tỉnh đã đầu tư xây dựng
nhiều trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh kiên cố với điều kiện học tập tốt
hơn nhưng tiêu chuẩn số lượng được tuyển chọn mỗi năm có hạn. Các trường phổ
thông dân tộc nội trú cấp huyện, khả năng đào tạo thường khoảng 200 học sinh một
13
năm, đây là tỷ lệ thấp so với nhu cầu người học. Ngoài ra, trong chỉ tiêu tuyển sinh
vẫn còn nhiều thiếu sót mà trong những năm gần đây, báo chí và những phương tiện
truyền thông đã nhiều dịp đăng tải.
Ở bậc học cao hơn, cơ hội tiếp cận của con em đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây
càng ít. Tỷ lệ người có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học thấp, cứ 72.554
người thì mới chỉ có 1 người có trình độ trên đại học, 441 người mới có 1 người có
trình độ đại học, cao đẳng và 111 người mới có 1 người có trình độ trung học
chuyên nghiệp. Có những dân tộc như Cờ Lao, Pà Thẻn ở Hà Giang hiện vẫn chưa

có ai có trình độ phổ thông.
Thứ hai, cơ sở vật chất phục vụ cho phát triển giáo dục - đào tạo còn thiếu và
chưa đồng bộ. Cho đến nay, nguồn kinh phí đầu tư để xây dựng cơ sở vật chất và
trang thiết bị giáo dục vẫn không đủ, nhiều tỉnh còn thiếu phòng học, học sinh phải
học ở những lớp học tạm bợ. Trang thiết bị dạy học vừa thiếu vừa không đồng bộ,
hiện mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% yêu cầu, tình trạng phổ biến vẫn là dạy
“chay”, học “chạy”. ở Lai Châu, số phòng học mới chỉ đáp ứng được 1/2 nhu cầu
hiện tại, nhiều trường vẫn phải học 3 ca. ở Lào Cai, vẫn còn nhiều số phòng học
tạm, chỉ có trên 30% số trường có thư viện. ở Sơn La, vẫn còn rất nhiều phòng học
tranh, tre, nứa, lá. ở Hoà Bình, vẫn còn trên 1000 phòng học tạm. ở Bắc Cạn, số
phòng học tạm là 910, trong đó có 462 phòng tranh, tre, nứa, lá. Theo số liệu thống
kê của Bộ GD&DT, năm học 2013-2014, các tỉnh miền núi phía Bắc còn thiếu
7.200 phòng học, còn hơn 5.500 phòng học tạm và 5.852 phòng học nhờ.
Hầu hết trang thiết bị tại các trường học chỉ có bảng đen, bàn ghế được sử dụng
chung cho tất cả các học sinh trường cùng cấp học và các lớp ghép nên gây khó
khăn trong học tập đối với học sinh. Một tình trạng khá phổ biến là không đủ sách
cho học sinh học tập và nâng cao trình độ. Thư viện các trường chủ yếu chỉ có sách
giáo khoa nhưng cũng không đồng bộ, sách tham khảo hầu như không có. Giáo viên
14
dạy các môn nhạc, hoạ, ngoại ngữ, tin học… thiếu trầm trọng, các phương tiện dạy,
học cho những môn này cũng chưa được trang bị đầy đủ, vì vậy, cơ hội được học
tập toàn diện các môn cho học sinh còn rất ít.
Thứ ba, đội ngũ giáo viên ở các tỉnh miền núi phí Bắc vừa thiếu, vừa yếu.
Về số lượng: Hiện nay, nhiều tỉnh này vẫn còn thiếu nhiều giáo viên ở tất cả các cấp
học. Ngoại trừ Lai Châu là tương đối đủ giáo viên trung học, các tỉnh khác đều gặp
khó khăn. Hoà Bình thiếu 215 người, Sơn La thiếu 209 người, Lao Cai thiếu gần
200 người, Bắc Cạn thiếu 66 người. Với giáo viên trung học cơ sở, Lai Châu thiếu
300 người, trong đó, vẫn còn 172/2.200 bản chưa có giáo viên, Lao Cai thiếu 700
người. Với giáo viên tiểu học, Bắc Cạn thiếu 208 người, Lao Cai thiếu 1.115 người.
Tình trạng thiếu giáo viên dẫn đến việc các trường phải huy động dạy học thêm ca,

thêm giờ, có giáo viên phải lên lớp tới 30-35 tiết/tuần, 250 tiết/học kỳ, ảnh hưởng
rất lớn đến sức khoẻ lâu dài và chất lượng giảng dạy.
Về chất lượng: Do đội ngũ giáo viên ở đây được đào tạo hệ cử tuyển và tại chức
nhiều vì thế chất lượng còn nhiều hạn chế. ở Lai Châu, số giáo viên dạy trung học
phổ thông có thâm niên trong nghề từ 1-5 năm học hệ cử tuyển và tại chức chiếm tỷ
lệ 25 – 30% (thậm chí có trường tới 80%), tỷ lệ giáo viên chưa đạt chuẩn còn cao.
Năm học 2003 – 2004, tỉnh Bắc Cạn còn 13,94% giáo viên trung học cơ sở và 25%
giáo viên tiểu học chưa đạt chuẩn, con số này ở Lào Cai là 20,6% và 20%, tỉnh
Lạng Sơn là 20% và 10%.
Ở những xã đặc biệt khó khăn có chỉ tiêu biên chế nhưng không có nguồn giáo viên
để tuyển dụng. Trong khi ở ngay tại địa phương thì không có đủ giáo viên (kể cả
trình độ dưới chuẩn) để tuyển dụng thì những giáo viên sống ở các vùng ít khó khăn
hơn và giáo viên người Kinh hầu hết không muốn về công tác ở những vùng này.
Một hạn chế nữa là một bộ phận giáo viên người Kinh không biết tiếng dân tộc
15
thiểu số, không hiểu phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số, còn một bộ
phận giáo viên là người dân tộc thiểu số thì trình độ chuyên môn lại thấp, khả năng
sử dụng tiếng phổ thông còn yếu, do đó trong quá trình giảng dạy gặp rất nhiều khó
khăn đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục.
Thứ tư, chất lượng giáo dục - đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc nhìn
chung còn thấp. Qua khảo sát cho thấy, chỉ số phát triển giáo dục ở các tỉnh này
chưa đều, chỉ có 3 tỉnh ở trong nhóm có chỉ số cao là Lạng Sơn, Phú Thọ, Hoà
Bình, còn lại phần lớn các tỉnh khác rất thấp, Sơn La là 0,65, Lào Cai là 0,66, Lai
Châu 0,50. Vì vậy, số lượng học sinh giỏi rất ít, thậm chí nhiều trường không có,
học sinh có học lực trung bình và yếu chiếm tới hơn 50%. Tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn
còn nhiều, huyện Quản Bạ (Hà Giang) có 5,0% số trẻ em trong độ tuổi học tập bỏ
học, huyện Văn Chấn (Yên Bái) tỷ lệ này là 6,63%, huyện Điện Biên Đông (Điện
Biên) tỉ lệ bỏ học là 8,27%, Mộc Châu (Sơn La) là 5,43%. Tỷ lệ học sinh lưu ban
còn cao so với các khu vực khác, Mộc Châu (Sơn La) hiện vẫn còn 5,01% học sinh
lưu ban, Điện Biên Đông (Điện Biên) tỷ lệ này là 5,53%, Sa Pa (Lào Cai) là 4,25%.

So với các vùng khác trong cả nước, hiệu suất đào tạo ở khu vực này còn rất thấp.
Hiện có tới 4 tỉnh miền núi phía Bắc trong số 7 tỉnh của cả nước có hiệu suất đào
tạo dưới 50% là: Cao Bằng 47,33%, Sơn La 42,67%, Lai Châu (cũ) 37,6%, Hà
Giang 21,76%. Với hiệu suất đào tạo thấp như vậy, sẽ có ít cơ hội cho người dân
trong vùng tham gia học tập, hiện số người mù chữ còn cao, đặc biệt là trong đồng
bào các dân tộc thiểu số.
Thứ năm, Việc nghiên cứu và dạy chữ dân tộc, nói chung đang bị ngừng trệ
và hạn chế phát triển. Lý do là sự đánh giá về yêu cầu chữ dân tộc giữa các địa
phương hoặc ngay trong 1 vùng cũng khác nhau về cơ bản. Nơi thì cho là cần, nơi
cho là không cần, vì không thấy có tác dụng thiết thực và làm chậm việc phát triển
16
giáo dục bằng chữ quốc ngữ. Do đó, việc dạy chữ Mông, chữ Thái ở vùng Tây Bắc
đang bị cầm chừng hoặc không còn duy trì, phát triển nữa.
Nguyên nhân của các mặt còn yếu kém tồn tại trên, về khách quan là do điều
kiện kinh tế, đời sống vật chất ở miền núi còn nhiều khó khăn hơn miền xuôi; ý
thức lo lao động sản xuất hơn là lo cho con đi học trong các dân tộc thiểu số, nhất là
ở vùng cao, còn khá nặng nề; điều kiện hỗ trợ của Nhà nước cho việc phát triển sự
nghiệp giáo dục miền núi chưa có khả năng đáp ứng yêu cầu; ở vùng biên giới phía
Bắc lại còn có sự phản tuyên truyền, và phá hoại của bọn bành trướng, phản động
Trung Quốc, v.v Nhưng về chủ quan còn nhiều nhược điểm, thiếu sót là chủ yếu,
như sau:
Một là, về nhận thức đối với việc phát triển giáo dục ở miền núi nói chung, ở
vùng cao nói riêng của các cấp, các ngành, kể cả ngành giáo dục, chưa được quán
triệt đầy đủ, nên còn chưa quan tâm đúng mức đến việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ này; ở chừng mực nhất định còn bị coi nhẹ so với miền xuôi và
các thành phố, thị xã. Do đó, có nhiều tồn tại và vướng mắc đã thấy từ lâu, nhưng
chậm hoặc chưa được giải quyết, khắc phục.
Hai là, Việc vận dụng thực hiện chương trình nội dung và tổ chức hệ thống
trường lớp ở miền núi, đặc biệt ở vùng cao theo nội dung cải cách giáo dục không
được nghiên cứu kịp thời cho sát với từng vùng, ngược lại đã áp dụng một cách dập

khuôn, máy móc theo 1 quy chế nhất loạt như miền xuôi, như bỏ các lớp ở từng
thôn bản nếu số học sinh không đủ mức qui định. Do đó, hàng loạt các thôn bản
vùng cao, xa xôi hẻo lánh đã không còn lớp học, các trẻ em phải bỏ học vì không
thể đi đến trường trung tâm cách xa 5-10km đường dốc núi hiểm trở được. Hoặc
như việc áp dụng chương trình giảng dạy rút gọn, vấn đề nghỉ đông hay nghỉ hè
v.v đang là những vấn đề tồn tại chưa thực hiện được thống nhất, nhưng cũng chưa
được nghiên cứu giải quyết.
17
Ba là, Việc đầu tư ngân sách Nhà nước vào việc phát triển giáo dục ở miền
núi còn quá ít ỏi, mặc dù ai cũng biết rằng chi phí cho việc giáo dục vào đào tạo
một học sinh người dân tộc thiểu số phải tốn kém hơn nhiều so với miền xuôi, trong
khi đó nhân dân miền núi lại chưa có khả năng đóng góp đáng kể. Do đó, trường sở,
đồ dùng học tập, sách vở của các trường cấp I ở miền núi, vùng cao vẫn ở tình trạng
tạm bợ và thiếu thốn kéo dài, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học và học của
giáo viên và học sinh.
Bốn là, Công tác đào tạo giáo viên, nhất là giáo viên người dân tộc địa
phương, chưa được coi trọng đúng mức. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều so với
nhu cầu; giáo viên người địa phương còn quá ít (thường chỉ chiếm 20-25%); giáo
viên người dân tộc vùng cao càng hiếm (tỉnh Lai Châu trong 4.000 giáo viên nhưng
chỉ mới có 6 là người Mông). Số giáo viên người Kinh miền xuôi và nơi khác điều
lên miền núi hàng năm hàng 100 người là cần thiết và lâu dài. Đa số anh chị em này
có nhiệt tình cách mạng hăng hái công tác nhưng nói chung không an tâm ở lâu
miền núi, luôn luôn có tư tưởng xin chuyển về xuôi, do đó lực lượng giáo viên luôn
luôn bị mất ổn định, ảnh hưởng lớn đến chất lượng giảng dạy.
Năm là, Về mặt chính sách, chế độ, có những mặt chưa hợp lý, cần bổ sung
hoặc sửa đổi, đã thấy từ lâu, các tỉnh đều có đề nghị, nhưng chưa được nghiên cứu
và giải quyết của Bộ giáo dục, các Bộ liên quan và Hội đồng Bộ trưởng, như chính
sách cấp sinh hoạt phí, đồ dùng và sách vở học tập, xây dựng nhà ăn, ở cho học viên
và giáo viên các trường dân tộc nội trú, chế độ ưu đãi giáo viên miền núi và vùng
vao Do đó, chưa tạo được điều kiện thuận lợi và khuyến khích việc phát triển giáo

dục miền núi, cả về mặt số lượng và chất lượng.
Tóm lại, những hạn chế điều kiện kinh tế-xã hội, giao thông khó khăn, địa
hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt đã tạo lên nhiều bất cập trong công tác giáo dục
đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta hiện nay. Xuất phát từ những nhận
18
thức chung về công tác giáo dục giáo dục tại các tỉnh miền núi phía Bắc, nhóm
nghiên cứu chúng tôi đã đi tìm hiểu khảo sát thực tế công tác giáo dục-đạo tạo tại
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Cạn.
2.2 Kết quả khảo sát công tác giáo dục phổ thông tại huyện Ba Bể, tỉnh Bắc
Kạn
Ba Bể là một huyện miền núi phía Bắc nằm cách Thị xã Bắc Kạn hơn 50km
về hướng Tây Bắc. Địa hình chủ yếu của huyện Ba Bể là đồi núi cao xen lẫn những
khối núi đá vôi hiểm trở, diện tích đất đồi, núi cao chiếm khoảng 90% tổn diện tích
toàn huyện. Là một huyện nghèo, có điều kiện kinh tế- xã hội cực kỳ khó khăn nên
công tác giáo dục phổ thông tại huyện Ba Bể còn nhiều bất cập mặc dù nhà nước,
các tổ chức đoàn thể xã hội đã và đang tích cực thực hiện các chương trình, dự án
nhằm thúc đẩy phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo tại huyện Ba Bể.
2.2.1 Những thuận lợi và các kết quả đã đạt được trong công tác giáo dục phổ
thông tại huyện Ba Bể
Thuận lợi thứ nhất: Nhà trường thuộc các bậc học từ mần non đến trung học
phổ thông của toàn huyện Ba Bể được Phòng giáo dục và Đào tạo huyện Ba Bể, các
cấp Đảng ủy, chính quyền địa phương và các tổ chức, đoàn thể chính trị-xã hội, các
nhà hảo tâm luôn quan tâm, giúp đỡ và chỉ đạo sát sao mọi hoạt động giáo dục của
nhà trường.
Thuận lợi thứ hai: Huyện có đội ngũ giáo viên trẻ, năng động, có trình độ
chuyên môn-nghiệp vụ, có tinh thần đoàn kết và lòng thương yêu học sinh. Các thầy
cô giáo đều đang tích cực thực hiện các cuộc vận động như “mỗi thầy cô giáo là
môt tấm gương đạo đức, tự học và tự sáng tạo”, “kỷ cương-tình thương-trách
nhiệm”, và phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực”.
Trong số các thầy cô giáo tại các trường học có những thầy cô là tri thức trẻ tình

19
nguyện tại huyện Ba Bể. Các trí thức trẻ này đều biết tiếng dân tộc, nên thuận lợi
khi tiếp cận với người dân và trẻ em là người dân tộc, hiểu được người dân và con
em họ muốn gì, mình có thể làm gì cho họ và con em họ. Các trí thức trẻ với lòng
nhiệt tình, hăng hái của tuổi trẻ, với chuyên môn-nghiệp vụ được đào tạo bài bản, có
tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp đã về tận các thôn bản vùng dân tộc thiểu số,
vùng sâu vùng xa của các xã nghèo thuộc huyện Ba Bể để dạy chữ cho trẻ em dân
tộc và vận động các em đến lớp học.
Xuất phát từ những thuận lợi trên, công tác giáo dục đào tạo tại huyện Ba Bể
đã đạt được một số kết quả tích cực như sau:
100% đội ngũ cán bộ, giáo viên tại huyện Ba Bể có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm, quản lý lớp và không có giáo viên nào vi phạm quy chế chuyên
môn. Công tác thanh tra, kiểm tra tại các điểm trường luôn được duy trì, giám sát
chặt chẽ. Công tác phổ biến giáo dục pháp luật của các trường học được thực hiện
thường xuyên, liên tục do đó ý thức kỷ luật của cả giáo viên và học sinh ngày càng
được nâng cao. Các trường học trên địa bàn huyện đã thực hiện tốt phong trào “xây
dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực” tạo niềm tin của nhân dân, đặc biệt là
nhân dân là người dân tộc thiểu số vào các cấp giáo dục của huyện và của nhà nước.
Bên cạnh đó, các trường học cũng thường xuyên tổ chức giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh bằng các hoạt động giáo dục thiết thực trong các buổi trào cờ đầu tuần,
các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động tập thể khác và tích hợp
giáo dục đạo đức, giá trị kỹ năng sống vào trong các bài giảng, các tiết học chính
khóa.
Các loại hình trường lớp không ngừng được mở rộng, cơ sở vật chất được
tăng cường. Năm học 2013-2014, toàn huyện có 50 trường học thuộc các bậc học từ
mần non đến Trung học phổ thông , trong đó có 04 trường đạt chuẩn quốc gia mức
độ 1, kế hoạch năm 2014 nâng số trường đạt chuẩn lên 8 trường. Toàn huyện có 526
20
lớp, trên 8.800 học sinh. Kết quả trong năm học 100% trẻ trong độ tuổi được học
chương trình giáo dục mầm non; tỷ lệ học sinh xếp loại học lực khá giỏi bậc tiểu

học đạt trên 55%; học sinh đạt học lực khá giỏi của bậc THCS đạt trên 28%; tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp THPT đạt trên 98%. Cùng với đó cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy học từng bước được kiên cố và nâng cao, toàn huyện hiện có 678 phòng học,
trong đó hơn 73% số phòng học được xây dựng kiên cố và bán kiên cố. Chất lượng
giáo dục toàn diện của các bậc học được nâng lên; công tác bồi dưỡng học sinh khá
giỏi được quan tâm đầu tư và đạt được những thành tích đáng ghi nhận.
Câu lạc bộ tình nguyện “vì trẻ em vùng cao” được thành lập và hoạt động tại
địa bàn huyện Ba Bể bắt đầu từ tháng 11/2012 đã đóng góp tích cực vào việc nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo của huyện Ba Bể.Tôn chỉ hoạt động của câu lạc bộ
là tập hợp đoàn viên, thanh niên và các nhà hảo tâm tham gia ủng hộ, tuyên truyền
vận động hỗ trợ trẻ em các thôn, bản vùng khó khăn, trẻ em mắc căn bệnh hiểm
nghèo. với sự kiên trì, quyết tâm mang nụ cười cho thiếu nhi vùng cao, hoạt động
của câu lạc bộ đã dần thu hút được sự quan tâm của đông đảo cán bộ, đoàn viên,
thanh niên. Đến nay, Câu lạc bộ tình nguyện “Vì trẻ em vùng cao” - thành viên tập
thể của Hội LHTN Việt Nam huyện Ba Bể đã có 385 thành viên, trong đó có 65
thành viên thường trực, 01 chủ nhiệm và 04 phó chủ nhiệm. Sau gần 2 năm hoạt
động, các thành viên của Câu lạc bộ tình nguyện “Vì trẻ em vùng cao” đã tổ chức
thăm và tặng quà cho 20 điểm trường trong toàn huyện định kỳ mỗi tháng 1 lần vào
thứ 7 cuối tháng; tổ chức 01 đêm nhạc từ thiện, quyên góp được gần 18 triệu đồng;
bán hàng gây quỹ tại Hội xuân Ba Bể với 100% lợi nhuận từ việc bán hàng đưa vào
quỹ của câu lạc bộ; tổ chức Tết thiếu nhi cho 275 thiếu nhi thôn Phia Khao, điểm
trường Tọt Còn, Nà Ma - Phiêng Chỉ, Nà Đồng- Nà Cà của huyện Ba Bể; tặng 320
chiếc đèn ông sao, 6 thùng bánh kẹo cho trẻ em thôn Đán Mảy; láng nền 02 phòng
học diện tích 60m2 tại Phia Phạ - xã Phúc Lộc, Bản Lấp - xã Bành Trạch; giúp đỡ
em Lý Văn Quyến, xã Nghiên Loan, huyện Pác Nặm mắc bệnh tim bẩm sinh được
21
phẫu thuật; vận động, khâu nối sự giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân hỗ trợ kinh phí
chương trình ăn trưa cho 15 điểm trường vùng cao của huyện Ba Bể.
2.2.2 Những khó khăn trong công tác giáo dục phổ thông tại huyện Ba Bể
Bên cạnh những thuận lợi và các kết quả tích cực đạt được, công tác giáo dục

của huyện Ba Bể vẫn còn tồn tại những khó khăn, bất cập cần được khắc phục
Thứ nhất, Do địa hình huyện Bắc Cạn chủ yếu là đồi núi cao xen lẫn núi đá
vôi hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, nhiều thôn bản vùng cao, dân cư sống
không tập trung, dẫn đến nhiều điểm trường, lớp học ghép nhiều độ tuổi làm cho
chất lượng dậy và học không được đảm bảo. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế-xã hội
kém phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao, dẫn đến tỷ lệ huy động trẻ đến trường chưa cao.
Đồng nghĩa với nạn mù chữ vẫn đang tiếp diễn ở nơi đây.Ví dụ, tại xã Phúc Lộc, tỷ
lệ huy động trẻ học ở bậc trung học cơ sở là 87,93%. Với cặp sách và đùm cơm trên
tay, học sinh nơi đây phải đi bộ vượt sông suối, dốc cao hàng cây số đến trường học
chữ. Vậy nên, nếu không được sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời của các cấp, các ngành,
của gia đình và nhà trường, nhiều trẻ em nghèo, ở các thông bản vùng cao sẽ không
chịu đến lớp hoặc bỏ học giữa chừng. Năm học 2014-2015, huyện Ba Bể có 8861
học sinh, trẻ mầm non 2801 cháu, tăng 7,2% so với năm học trước, nhưng tỷ lệ học
sinh yếu, bỏ học vẫn khá cao, chủ yếu là học sinh bậc THCS
Thứ hai, Cơ sở vật chất của các trường học còn thiếu. Hầu hết các điểm
trường chưa có công trình nước sạch, thiếu nước sinh hoạt để phục vụ công tác
chăm sóc và vệ sinh cho học sinh nhỏ tuổi đặc biệt là trẻ học trong các trường học
mầm non. Thiếu công trình vệ sinh và nhà công vụ cho giáo viên. Trang thiết bị dạy
học đồng bộ chưa có cộng thêm tình trạng thiếu phòng học, phải học nhờ, học tạm
làm ảnh hưởng đến công tác dạy và học của giáo viên và học sinh. Tình trạng thiếu
phòng học là nan giải nhất, 40% phòng học bị xuống cấp các em phải học tạm. Điển
22
hình như: trường mầm non Khang Ninh ở xã Khang Ninh, hơn 10 năm nay chưa
xây được trụ sở chính, đa số học sinh phải học nhờ nhà văn hoá, trạm xá thôn”. Học
nhờ nên chất lượng dạy và học không đảm bảo. Các phòng học chật hẹp. Không tổ
chức cho các cháu ăn bán trú được cũng ảnh hưởng khi học 2 buổi nhưng buổi trưa
nhiều cháu bố mẹ đến đón về ăn trưa và ngủ muộn thì chiều không đến lớp nữa.
Thứ ba, Phụ huynh học sinh chủ yếu là người dân tộc, chưa thông thạo tiếng
kinh, nghèo đói nên nhận thức về việc cho con đến trường học còn hạn chế, việc
dạy con hoàn toàn phó mặc cho nhà trường, tình trạng học sinh bỏ học ở các trường,

lớp vùng thôn bản diễn ra thường xuyên và tồn tại cả tình trạng học sinh chưa đủ
tuổi đã kết hôn. Điển hình như, năm học 2013-2014, hai học sinh đang học lớp 9 tại
trường THCS Phúc Lộc xin kết hôn, gia đình hai em phải đến trường xin phép nhà
trường cho hai em kết hôn. Tại trường Đồn Đèn, một trong 6 điểm trường khó khăn
của trường tiểu học Khang Ninh. Ở đây có 7 giáo viên, 5 lớp với 75 học chủ yếu là
con em đồng bào Mông và Dao. 100% là hộ nghèo ở rải rác các nơi trên đỉnh Đồn
Đèn, Khuổi Luông…HS nhiều em chưa thông thạo tiếng phổ thông nên tiếp thu rất
chậm, có em học buổi sáng, buổi chiều đã quên, thậm chí cả năm học vẫn chưa biết
đánh vần những chữ cái đơn giản. Gia đình những em thuộc khu tái định cư Đồn
Đèn rất khó khăn, bố mẹ đa số mù chữ nên không quan tâm đến việc học của con,
phó mặc cho nhà trường. Các em đều được mượn sách từ thư viện nhà trường, vở tự
mua. Nhưng nhiều em không được mua vở nên có em đi học chỉ có 1 quyển vở viết
chung các môn. Đa số ở đây các cháu học hết lớp 5 là bỏ học. Điều này làm cho
chất lượng giáo dục chậm được cải thiện.
Tóm lại, huyện Bắc Cạn đã được các cấp, các nghành, các tổ chức chính trị-
xã hội quan tâm, giúp đỡ rất nhiều trong công tác giáo dục phổ thông. Hệ thống
trường lớp các bậc học của toàn huyện nhìn chung đã được đầu tư hơn so với những
năm trước đây, đội ngũ giáo viên các trường có chuyên môn, nghiệp vụ và tâm
23
huyết với nghề. Tuy nhiên, bên cạnh một số điểm tích cực đó, công tác giáo dục của
huyện Bắc Cạn còn tồn tại nhiều yếu kém và bất cập như tình trạng mù chữ, bỏ học,
học kém, thiếu cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học, thiếu phòng học, gia đình
phó mặc việc nuôi dạy con cho nhà trường….
III. GIẢI PHÁP
Như trên đã trình bày, sự nghiệp giáo dục bậc Phổ thông ở miền núi phiá Bắc nước
ta hiện nay nói chung và công tác giáo dục đào tạo ở Huyện Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn
24
nói riêng từ trước đến nay đã đạt được những thành quả đáng kể, là nhân tố quan
trọng cho việc phát triển văn hóa xã hội của miền núi phía Bắc . Tuy nhiên, so với
yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở miền núi, thì những thành quả đó

chưa đáp ứng, còn nhiều nhược điểm, tồn tại, mà nguyên nhân chủ yếu là do nhận
thức và hành động thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước về các
mặt công tác này còn nhiều thiếu sót, khuyết điểm.
Để tiếp tục đưa sự nghiệp giáo dục bậc Phổ thông và tiểu học ở miền núi phiá Bắc
nước ta phát triển mạnh mẽ, nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài đặt
ra, chúng tôi xin kiến nghị một số vấn đề như sau:
3.1. Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất và hỗ trợ chi phí học hành cho các em
học sinh miền núi
Hiện nay, khu vực miền núi phía Bắc còn thiếu cơ sở dạy và học, các lớp học
phần lớn trong tình trạng tạm bợ (cụ thể huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn: Cơ sở vật chất
của các trường học còn thiếu. Hầu hết các điểm trường chưa có công trình nước
sạch, thiếu nước sinh hoạt để phục vụ công tác chăm sóc và vệ sinh cho học sinh
nhỏ tuổi đặc biệt là trẻ học trong các trường học mầm non. Thiếu công trình vệ sinh
và nhà công vụ cho giáo viên. Trang thiết bị dạy học đồng bộ chưa có cộng thêm
tình trạng thiếu phòng học, phải học nhờ, học tạm làm ảnh hưởng đến công tác dạy
và học của giáo viên và học sinh. Tình trạng thiếu phòng học là nan giải nhất, 40%
phòng học bị xuống cấp các em phải học tạm. ). Tình trạng này ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc dạy và học, đặc biệt trong mùa mưa lũ. Vì vậy, Đảng và Nhả Nước
cần sửa đổi, bổ sung một số chính sách nhằm tăng mức đầu tư ngân sách và kinh
phí cho việc phát triển sự nghiệp giáo dục ở miền núi một cách thoả đáng hơn, với
tinh thần chịu tốn kém hơn miền xuôi và nơi kinh tế đã phát triển, nhất là những nơi
ít dân, kinh tế còn nghèo, đời sống còn nhiều khó khăn. Trước mắt, cần giải quyết,
giúp đỡ về các mặt cho việc phát triển giáo dục phổ thông cơ sở và thanh toán nạn
25

×