Tải bản đầy đủ (.doc) (144 trang)

luận văn đại học sư phạm hà nội Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.68 KB, 144 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vấn đề đổi mới quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo
dục - đào tạo thực chất là “Lấy người học làm trung tõm”, “lấy tự học, tự đào
tạo làm trọng tõm”, “lấy tự học làm cốt”. [36, tr 26]. Bởi vì, mọi cố gắng của
thầy chỉ đem lại kết quả khi trò phải tự thân vận động, tích cực chủ động tiếp
thu tri thức. Khâu học trờn lớp chỉ là điều kiện cần để học sinh lĩnh hội tri
thức, rèn luyện kĩ năng, còn muốn biến tri thức mà thầy truyền thụ trở thành
tri thức của mỗi cá nhân thì phải do khâu tự học mà có. Để làm tốt vai trò
chủ động, sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, đòi hỏi người học phải
có thời gian tự học, tự nghiên cứu một cách khoa học mới có thể biến những
tri thức mà người thày truyền thụ trở thành của mỡnh. Chớnh vì vậy, Bác Hồ
đã nói: “ Về cách học, phải lấy tự học làm cốt ”.
1.2. Đã từ lâu Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục và Đào tạo đã có
nhiều chỉ thị, Nghị quyết đề cập đến vấn đề nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục như:
Nghị quyết TW 2 (khoá VIII) đó nờu: "Đảm bảo điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu. Phát triển mạnh mẽ phong trào tự học tự đào tạo
thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên"[9, tr 41].Chỉ
thị 15/1999/CT-BGD&ĐT đề cập nhiệm vụ :"Đẩy mạnh hoạt động đổi mới
phương pháp giảng dạy và học tập, Các giảng viên coi trọng hướng dẫn
học sinh - sinh viên tự học "[4, tr 1- 2].Chỉ thị số 40/CT-TW ngày
15/6/2004 của Ban bí thư TW Đảng về việc xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngò nhà giáo đã đề cập đến nhiệm vụ: "Đặc biệt đổi mới mạnh mẽ và cơ
bản phương pháp giáo dục nhằm khắc phục kiểu truyền thụ một chiều, nặng
lý thuyết Ýt khuyến khích tư duy sáng tạo, bồi dưỡng năng lực tự học, tự
nghiên cứu, tự giải quyết vấn đề, phát triển năng lực thực hành sáng tạo cho
người học đặc biệt cho sinh viên các trường cao đẳng và đại học" [8, tr 3]
1.3. Gần đây nhất, trường Cao đẳng Sơn La liên tục mở các buổi hội
thảo về Đào tạo tín chỉ cho sinh viên (SV) và hướng tới việc thực hiện mục
tiêu đào tạo theo hệ thống tín chỉ trong những năm học tới. Vì vậy, vấn đề tự


học của sinh viên cũng được nhà trường hết sức quan tâm và coi đây là một
vấn đề cần phải có những giải pháp cụ thể để đảm bảo cho quá trình đào tạo
của trường nói chung và Khoa Tiểu học- Mầm non nói riêng.
Trải qua 4 khoá đào tạo giáo viên Tiểu học và giáo viên Mầm non có
trình độ Cao đẳng tại trường Cao đẳng Sơn La, chúng tôi thấy: Khoa TH -
MN đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý mục tiêu, nội dung đào tạo, quản
lý hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của SV; quản lý chất lượng
đào tạo, quản lý việc kiểm tra, đánh giá đã và đang cải tiến phương pháp
giảng dạy, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo. Tuy nhiên, kết qủa
học tập của sinh viên còn thấp, hoạt động học của SV còn nhiều hạn chế.
Sinh viên chưa có động cơ mục đích học tập rõ ràng, chưa tự giác học tập,
đại đa số mới chỉ học để đối phó với thi cử, sinh viên chưa biết lùa chọn và
sử dụng hợp lý phương pháp cũng như hình thức tự học.
Bên cạnh đó người dạy chỉ mới quan tâm nhiều đến việc truyền thụ
kiến thức mà chưa chú trọng tới giáo dục, rèn luyện phương pháp tự học cho
SV, chưa chó ý đến việc thiết kế bài tập, bài kiểm tra, đề thi đòi hỏi sinh viên
phải nghiên cứu, tìm tòi mới có thể hoàn thành được. Thêm vào đó Khoa mới
thành lập nên chưa có nhiều kinh nghiệm và biện pháp phù hợp để quản lý
hoạt động học tập của sinh viên, đặc biệt là hoạt động tự học. Thực tế việc
quản lý hoạt động này mới chỉ tập trung vào quản lý thời gian học chứ chưa
quan tâm đúng mức đến quản lý chất lượng tự học của sinh viên. Có lẽ đấy
cũng chính là nguyên nhân dẫn đến chất lượng đào tạo chưa cao.
Với lý do trình bày trên chúng tôi lùa chọn đề tài: "Biện pháp quản lý
hoạt động tự học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao
đẳng Sơn La" làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiờn cứu lý luận và thực tiễn quản lý hoạt động tự học, đề
xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên góp phần nâng cao kết
quả tự học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn la.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động dạy học của khoa Tiểu học - Mầm non
trường Cao đẳng Sơn la.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Khoa Tiểu học -
Mầm non trường Cao đẳng Sơn La.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động tự học và biện pháp quản lý hoạt động
tù học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn la.
5. Giả thuyết khoa học
Các biện pháp quản lý hoạt động tự học cho sinh viên nếu được thực
hiện đồng bộ từ việc nâng cao nhận thức về vai trò của tự học đến việc trang
bị cho sinh viên các phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện
cơ sở vật chất thuận tiện cho hoạt động tự học thì sẽ nâng cao khả năng
cũng như hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Xác định cơ sở lý luận của việc quản lý hoạt động tự học của sinh
viên hệ cao đẳng.
6.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng hoạt động tự học và thực trạng biện
pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non
trường Cao đẳng Sơn la.
6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự học cho sinh viên Khoa
Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn la. Khảo nghiệm các biện pháp.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu trên, đề tài cần sử dụng
các phương pháp cơ bản sau:
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Phân tích và tổng hợp, khái quát hoỏ cỏc văn bản, tài liệu, các công trình
nghiên cứu có liên quan đến hoạt động tự học cho sinh viên và quản lý hoạt
động tự học.

7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Phương pháp phỏng vấn: Dành cho cán bộ quản lý, giảng viên, sinh
viên để thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho yêu cầu đề tài.
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Dành cho cán bộ quản lý và
giảng viên, sinh viên để tìm hiểu thực trạng tự học và quản lý hoạt động tù
học của sinh viên cũng như xác định các nguyên nhân ảnh hưởng đến thực
trạng đó.
+ Phương pháp chuyên gia: Nhằm tư vấn những vấn đề lý luận, nghiên
cứu biện pháp dạy học, tự học.
+ Phương pháp khảo nghiệm: Nhận thức về tính cấp thiết và tính khả
thi của các biện pháp quản lý tự học của sinh viên.
+ Phương pháp thống kê toán học: Để xử lý số liệu điều tra.
8. Cái mới của đề tài
- Làm rõ thực trạng hoạt động tự học và biện pháp quản lý hoạt động
tự học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn La
- Đưa ra các biện pháp cụ thể, đồng bộ, có tính khả thi và phù hợp
nhằm quản lý tốt hoạt động tự học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non
trường Cao đẳng Sơn La.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung
chính của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên Khoa
Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn La
Chương 3: Mét số biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên
Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn La
Kết luận và kiến nghị
Ngoài ra luận văn còn có danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ

HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
1.1. Vài nét tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tự học là một vấn đề được quan tâm nghiên cứu từ lâu về cả lý luận và
thực tiễn, nhằm phát huy vai trò của người học và nâng cao chất lượng của
hoạt động tự học. Vấn đề tự học có tính truyền thống và tính phổ biến không
chỉ ở nước ta mà còn là vấn đề của thế giới. Song ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, ở mỗi quốc gia nhất định, vấn đề tự học được nghiên cứu đề cập
dưới nhiều khía cạnh khác nhau và đã được nhiều học giả nghiên cứu.
* Ở nước ngoài:
Ở phương Đông, ngay từ thời Trung Hoa cổ đại, nhà giáo dục lỗi lạc -
Khổng Tử (551 - 479, tr CN) đã sớm nhận thấy vai trò quan trọng của tự học,
ụng luụn quan tâm và coi trọng vai trò tích cực chủ động suy nghĩ của người
học. Ông cho rằng: Đồng thời với việc hướng dẫn của người thày, người học
phải tích cực suy nghĩ, tìm tòi khám phá để lĩnh hội tri thức. Ông đã dạy học
trũ: “Khụng khao khát vì không muốn biết thỡ khụng gợi cho, không cảm
thấy xấu hổ vì không rõ thì không bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết
một góc mà không suy ra được ba góc kia thỡ khụng dạy nữa”.[31, Tr 6].
Theo ông, trong việc học người học không những phải tích cực chủ động
trong học tập, phải biết kết hợp học với nghĩ, biết phát huy năng lực sáng tạo
của bản thân mà người học còn phải học ở mọi nơi, mọi lúc: Học bất cứ ai,
học bất cứ nơi nào, lóc nào. Trong ba người đồng hành tất phải có một người
là thày ta. ”.[31, Tr 6]. Chính từ những quan điểm về học tập như thế nờn ụng
đó rất thành công trên con đường “dạy học” của mình.
Ở phương Tây, ngay từ thời cận đại, trong quá trình truyền thụ kinh
nghiệm xã hội cho thế hệ sau, các nhà khoa học đã rất quan tâm đến tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Nhà sư phạm lỗi lạc Tiệp Khắc
J.A.Comenxky (1592 -1670 ) - ễng tổ của nền giáo dục cận đại đã khẳng
định: “Khụng cú khát vọng học tập thì không thể trở thành tài năng, cần phải
làm thức tỉnh và duy trì khát vọng học tập trong học sinh” [31, Tr 6]. Như
vậy ụng đó đánh giá rất cao vai trò của tự học, sự tích cực, chủ động của

người học đối với hoạt động học tập.
Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, các nhà giáo dục nổi tiếng thế giới
như: J.J. Rutxo (1712 - 1778), J.H. Petstalogi (1746 - 1827), K.D. Usinxky
(1824 - 1890) trong các tác phẩm nghiên cứu của mỡnh đó khẳng định: Tự
học giành lấy tri thức bằng con đường khám phá, tự tìm tòi, tự suy nghĩ là
con đường quan trọng để chiếm lĩnh tri thức [31, Tr 6]. Giáo dục động cơ học
tập đúng đắn là điều kiện cơ bản để học sinh tích cực, chủ động trong học
tập.
*Ở Việt Nam, hoạt động tự học thực sự được xã hội quan tâm và nú đó
trở thành một truyền thống quý báu của dõn tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một tấm gương sáng về ý chí quyết tâm trong tự học và tự rèn luyện. Người
đã động viên toàn dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc tự học là
nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được, do đó
phải tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập”. [32, Tr 7]. Trong tác
phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” Người đã chỉ rõ: “Phải lấy tự học làm cốt,
cần có thảo luận và chỉ đạo hỗ trợ vào, cần phải biết sắp xếp thời gian và
bài học khéo và mạch lạc với nhau”. [32, Tr 6]. Với Người học và hoạt động
cách mạng phải thực hiện suốt đời. Người luôn căn dặn: “Còn sống thỡ cũn
phải học, còn phải hoạt động cách mạng”. [32, Tr 6].
Hơn nửa thế kỷ đã qua, tư tưởng giáo dục của Người đã trở thành tư
tưởng và lý luận cho đường lối chính sách giáo dục ở nước ta. Nghị quyết hội
nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định:
“Đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của
người học”. [32, tr 6]. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định ở các văn kiện
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX, lần thứ X về cách dạy - học hiện
nay.
Quán triệt đường lối của Đảng về giáo dục, ngay từ những năm 60 của
thế kỷ XX đã có nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề tự học với khẩu hiệu trong
nhà trường là “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Tiêu biểu
như các tác giả: Nguyễn Cảnh Toàn, Hà Thế Lữ, Đặng Vũ Hoạt, Trần Bá

Hoành, Vũ Quốc Chung, Thái Duy Tuyên
Trong những năm gần đây, dưới sự hướng dẫn của các thày cô giáo
của trường Đại học sư phạm Hà Nội, có một số luận văn thạc sĩ đã quan tâm
nghiên cứu nhằm khai thác và vận dụng vào thực tiễn những biện pháp tổ
chức hoạt động tự học ở một số trường cao đẳng và đại học góp phần nâng
cao hiệu quả, chất lượng dạy học nói chung và quá trình tự học của sinh viên
nói riêng, tiêu biểu như: Nguyễn Thị Lý, Nguyễn Thị Mai Lan, Trịnh Khắc
Hậu, Nguyễn Thị Bích Phượng, Lê Thị Bích Mỗi tác giả đều có một cách
tiếp cận riêng về vấn đề tự học, song đều tập trung xoay quanh những khía
cạnh như: Tìm hiểu tình hình tự học của sinh viên, nâng cao hoạt động tự học
cho sinh viên, tăng cường hoạt động tự học cho sinh viên, nghiên cứu hoạt
động tự học của sinh viên Từ những góc độ khác nhau, các tác giả đều đề
cập đến vai trò, vị trí, tầm quan trọng của tự học; thực trạng của hoạt động tự
học và đưa ra các phương pháp và biện pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt
động tự học và đã khẳng định rõ: Tự học có vai trò rất quan trọng trong quá
trình đào tạo. Đó là cách thức giúp người học phát huy tính độc lập, chủ động
sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức khoa học.
Như vậy, vấn đề tự học, tổ chức hoạt động tự học nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học đã được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên ở góc độ quản lý
vấn đề tự học, quản lý hoạt động tự học Ýt được các tác giả quan tâm đến.
Chính vì vậy, chúng tôi nhận thấy rằng việc đi sâu nghiên cứu cơ sở lý
luận về tự học, biện pháp quản lý hoạt động tự học trên cơ sở đó đề ra các
biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên là vấn đề rất thiết thực. Đặc
biệt Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn La - Nhiệm vụ chủ yếu
là đào tạo giáo viên tiểu học và mầm non có trình độ trung cấp và cao đẳng
cho con em cỏc dõn tộc trong tỉnh thì chưa có công trình nào nghiên cứu. Do
vậy, chúng tôi lùa chọn nghiên cứu đề tài: "Biện pháp quản lý hoạt động tự
học của sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non trường Cao đẳng Sơn La" nhằm
góp phần thực hiện có hiệu quả việc đổi mới chương trình dạy học, giải quyết

một số những đòi hỏi cấp bách hiện nay của khoa và nhà trường.
1.2. Một số khái niệm công cụ có liên quan
1.2.1. Quản lý giáo dục.
Quản lý giáo dục (QLGD) được hiểu là sự tác động của chủ thể quản
lý đến các khách thể quản lý trong lĩnh vực hoạt động của công tác giáo dục.
Đã có nhiều nhà khoa học nghiên cứu về quản lý giáo dục và đưa ra một số
quan niệm như sau:
Theo P.V Khudominxkhi: "QLGD có thể hiểu là tác động có hệ
thống, có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể ở các cấp khác nhau
đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ bộ đến các trường, các cơ sở giáo
dục khác, ) nhằm mục đích đảm bảo việc giáo dục CNXH cho thế hệ trẻ,
bảo đảm cho sự phát triển hài hoà và toàn diện của họ trên cơ sở nhận thức
đúng và sử dụng các quy luật chung vốn có của CNXH cũng như quy luật
của quá trình dạy học”. [23, tr 6]
Theo Nguyễn Ngọc Quang: "QLGD là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ
vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các
tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam, đưa hệ thống giáo dục tới các
mục tiêu dự kiến tiến tới trạng thái mới về chất". [23, tr 8]
Còn tác giả Nguyễn Gia Quý thì cho rằng: "QLGD là quản lý một hệ
thống toàn vẹn bao gồm các yếu tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ
chức giáo dục, người dạy, người học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học,
môi trường giáo dục, kết quả giáo dục, ".[23, tr14]
Từ các quan niệm về quản lý giáo dục nói trên, chúng ta thấy rõ: Các
quan niệm đều có sự thống nhất khi chỉ ra những tác động có định hướng trong
quản lý giáo dục. Song những tính chất và mục tiêu của tác động này lại được
diễn đạt khác nhau. Nhưng thực chất QLGD là quá trình vận dụng những
nguyên lý, phương pháp, khái niệm, chung nhất của khoa học quản lý vào
một lĩnh vực hoạt động cụ thể - lĩnh vực giáo dục. Do vậy có thể hiểu QLGD
là những tác động có chủ định của chủ thể quản lý giáo dục đến đối tượng

quản lý nhằm đạt đến những mục tiêu đã xác định. Quản lý giáo dục là thực
hiện việc quản lý trong lĩnh vực giáo dục. Ngày nay, lĩnh vực xã hội được mở
rộng nhiều hơn so với trước. Đối tượng giáo dục từ thế hệ trẻ sang người lớn
và toàn xã hội. Tuy nhiên, giáo dục thế hệ trẻ vẫn là bộ phận nòng cốt.
Quản lý giáo dục gồm quản lý nhà nước về giáo dục, quản lý nhà
trường và các cơ sở giáo dục khác. Là một bộ phận của quản lý xã hội, quản
lý giáo dục dự cú những đặc điểm riêng biệt song cũng chịu sự chi phối của
quản lý xã hội. Sự khác biệt giữa QLGD và các lĩnh vực quản lý khác được
thể hiện trong cấu trúc của nã.
Cấu trúc của hệ thống QLGD bao gồm:
+ Chủ thể QLGD: là trung tâm thực hiện các tác động hướng đích,
trung tâm ra quyết định điều hành và kiểm tra hoạt động của toàn bộ hệ thống.
Chủ thể QLGD là các cán bộ ngành giáo dục, các nhà giáo có kinh nghiệm và
năng lực lãnh đạo được chuyên môn hoá trong lao động với tư cách cá nhân hay
một tập thể. Tập hợp các cán bộ QLGD tạo thành đội ngò CB QLGD.
+ Cơ chế QLGD: Là phương thức thực hiện sự tác động qua lại giữa
chủ thể và đối tượng quản lý. Cơ chế này bao gồm loại cơ chế chính thức và
cơ chế không chính thức. Cơ chế chính thức là những quy định đã thành văn
bản mang tính pháp lý được thực hiện nhằm duy trì quan hệ giữa chủ thể và
đối tượng. Đó là các văn bản do nhà nước ban hành, do Bộ Giáo dục & Đào
tạo và các cơ quan chức năng có thẩm quyền được Bộ Giáo dục & Đào tạo uỷ
quyền ban hành. Chẳng hạn chủ thể quản lý điều hành hoạt động của hệ
thống quản lý bởi kế hoạch chương trình dạy học, khi đó ta nói cơ chế quản
lý được thực hiện là quy chế chính thức. Cơ chế không chính thức là những
quy định không thành văn nhưng được chủ thể quản lý sử dụng nhằm duy trì
quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý. Những quy định này được mọi
thành viên trong hệ thống quản lý chấp nhận và được biến đổi dưới những tác
động đó một cách phù hợp với ý chí của chủ thể, phù hợp với quy luật khách
quan và mục tiêu mà chủ thể đã đặt ra.
+ Đối tượng QLGD: là những đối tượng chịu sự tác động của chủ thể

quản lý và được biến đổi dưới tác động đó một cách phù hợp với ý chí của
chủ thể, phù hợp với quy luật khách quan và mục tiêu mà chủ thể quản lý đã
đặt ra. Đối tượng QLGD bao gồm nguồn nhân lực của giáo dục - đào tạo, cơ
sở vật chất kỹ thuật của giáo dục và các hoạt động liên quan đến việc thực
hiện chức năng của giáo dục đào tạo.
QLGD được phân công theo những nguyên tắc khác nhau: Chẳng hạn
phân công quản lý theo địa bàn lãnh thổ, phân công theo chuyên môn kỹ
thuật, phân công theo mục tiêu quản lý.
Nói một cách đầy đủ hơn, QLGD là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục,
là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực
hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. QLGD
là hoạt động điều hành phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công
tác giáo dục theo yêu cầu phát triển xã hội.
Dùa vào phạm vi quản lý, người ta chia ra 2 loại QLGD đó là:
- Quản lý hệ thống GD: QLGD được diễn ra ở tầm vĩ mô trong phạm
vi toàn quốc trên lãnh thổ địa phương (tỉnh, thành phố).
- Quản lý nhà trường: QLGD ở tầm vi mô trong phạm vi một đơn vị,
một cơ sở giáo dục.
1.2.2. Quản lý quá trình đào tạo.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: Đào tạo là quá trình tác động đến
một con người nhằm làm cho con người đó lĩnh hội, nắm vững những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó
thích nghi với cuộc sống và có khả năng nhận một sự phân công nhất định
góp phần của mình vào phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh
của loài người. Về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường
gắn với giáo dục đạo đức, nhân cách. [38, tr 298]
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: "Đào tạo là hoạt động có mục đích,
có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng, thái
độ, để hoàn thiện nhân cách cho mỗi các nhân tạo tiền đề để họ có thể vào

đời hành nghề một cách có hiệu quả". [12, tr 45]
Như vậy đào tạo có thể hiểu là quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng
nghề nghiệp từ đầu, đồng thời giáo dục phẩm chất đạo đức thái độ cho người
học để họ trở thành công dân, người cán bộ, người lao động có chuyên môn và
nghề nghiệp nhất định nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mỗi cá
nhân, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Quá
trình này diễn ra ở các cơ sở đào tạo như: Các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp, trường dạy nghề theo một kế hoạch, nội dung, chương
trình, thời gian quy định cho từng ngành nghề cụ thể nhằm giúp cho người học
đạt được trình độ nhất định trong hoạt động lao động nghề nghiệp.
Quản lý quá trình đào tạo là hệ thống những tác động có mục đích, có
kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý lên quá trình đào tạo (Theo nghĩa
hẹp chính là quá trình dạy và học) nhằm phát triển nhân cách (phẩm chất,
năng lực) của HS - SV theo mục tiêu đào tạo của nhà trường đã đề ra.
Đối tượng của quản lý quá trình đào tạo trong nhà trường là hoạt
động của GV, HSSV và các tổ chức sư phạm của nhà trường trong việc
thực hiện các kế hoạch và chương trình đào tạo nhằm đạt được mục tiêu
đào tạo đã quy định.
Quá trình đào tạo ở đây bao gồm quá trình dạy học và quá trình giáo
dục, là bộ phận cấu thành chủ yếu nhất trong toàn bộ hoạt động của nhà
trường (theo nghĩa hẹp). Do đó quản lý quá trình đào tạo là bộ phận chủ yếu
nhất trong toàn bộ công tác quản lý nhà trường. Sự phõn hoỏ của quá trình
đào tạo trong nhà trường chính là nền tảng để phõn hoỏ chức năng, xác định
cơ chế tổ chức quản lý và tổ chức chỉ đạo hoạt động đào tạo trong nhà
trường.
Quá trình đào tạo là do nhà trường tổ chức, quản lý và chỉ đạo nhưng
nó có quan hệ tương tác, liên thông với các tổ chức đào tạo khác hoặc các tổ
chức cơ quan khoa học, kỹ thuật công nghệ, văn hoá, nghệ thuật mà Sinh
viên cần phải có điều kiện tiếp cận.
* Quản lý quá trình đào tạo bao gồm các nội dung chủ yếu sau:

+ Quản lý mục tiêu đào tạo : Là quản lý việc xây dựng và thực hiện
mục tiêu đó trong quá trình đào tạo, là quản lý một hệ thống những yêu cầu
lâu dài và trước mắt của xã hội với sự phát triển nhân cách của người được
đào tạo đối với những phẩm chất và những năng lực cần phải có của người
học sau từng giai đoạn học tập.
+ Quản lý nội dung chương trình đào tạo: Là quản lý việc xây dựng
và thực hiện nội dung đào tạo theo mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Bao hàm cả việc
quản lý nội dung truyền đạt của thầy và cách tổ chức cho người học lĩnh hội
nội dung; bảo đảm các yêu cầu cơ bản về tỷ lệ các khối kiến thức, tính hợp lý
của cấu trúc chương trình, tính khoa học, tính tư tưởng, tính thực tiễn của nội
dung và sự bảo đảm tính cân đối, phù hợp giữa lý thuyết với thực hành, giữa
cơ bản và chuyờn sõu, giữa truyền thống và hiện đại,
+ Quản lý phương pháp đào tạo: Là quản lý phương pháp dạy học và
các phương pháp giáo dục rèn luyện của người học về mặt phẩm chất, đạo đức
để làm chuyển biến nhân cách của người học theo mục tiêu nội dung đã xác
định.
+ Quản lý hình thức tổ chức đào tạo: Là quản lý các hình thức tổ
chức kết hợp các hoạt động của giáo viên, các cán bộ quản lý với người học
nhằm thực hiện các nội dung đào tạo như: lờn lớp, tự học, thực hành, thực
tập, thăm quan, nghiên cứu khoa học
+ Quản lý kết quả đào tạo: Là quản lý kết quả hoạt động dạy, học và
giáo dục. Những kết quả được kiểm tra và đánh giá một cách kịp thời và
chính xác được đối chiếu thường xuyên với hệ thống các mục đích và nhiệm
vụ giáo dục sẽ trở thành yếu tố kích thích điều chỉnh quá trình đào tạo.
+ Quản lý các điều kiện bảo đảm: Là quản lý các phương tiện vật chất
(Trường sở, trang bị đồ dùng dạy và học) và các yếu tố về chính trị, tinh
thần đối với quá trình đào tạo nói chung và đối với từng đối tượng nói riêng.
Những điều kiện đó tác động thường xuyên tạm thời đến quá trình đào tạo
đòi hỏi người quản lý phải tổ chức và quản lý sao cho phát huy được hết tiềm
năng để đảm bảo cho hoạt động dạy học và giáo dục tiến hành thuận lợi và

đạt hiệu quả cao.
1.2.3. Hoạt động tự học.
* Tù học: Từ trước đến nay tự học là một vấn đề luôn được nhiều
người quan tâm và có nhiều quan niệm về vấn đề này.
Tự học là tự mình suy nghĩ, tự tìm kiến thức, là quá trình nỗ lực chiếm
lĩnh tri thức của bản thân người học bằng hành động của chính mình, hướng
tới những mục đích nhất định.
N.A.Rubakin đã nói: "Tự đi tìm lấy kiến thức - có nghĩa là tự học"[37].
Các nhà tâm lý học cho rằng: “Tự học là một quá trình lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội, hoạt động lý luận và thực tiễn của cá nhân. Bằng cách thiết
lập các quan hệ mới cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu các mô hình
phản ánh hoàn cảnh hiện tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo của bản thân chủ thể. [15, Tr 12].
Theo giáo sư Lờ Khỏnh Bằng “Tự học là hình thức học tập hoàn toàn
tự lực của học sinh nhằm xử lý các thông báo khoa học mà học sinh nhận
thức được thông qua tất cả các hình thức dạy học khỏc”. [15, Tr 12].
Trong cuốn “Tự học - Mét nhu cầu của thời đại” Nguyễn Hiến Lờ đó
đưa ra cách hiểu: Tự học là không ai bắt buộc mà tự mình tìm tòi, học hỏi để
hiểu biết thờm. Cú thày hay không, ta không cần biết. Người tự học hoàn
toàn làm chủ mình, muốn học môn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng được,
đó mới là điều kiện quan trọng. [15, Tr 12].
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn và các cộng sự của ụng đó đưa ra khái
niệm tự học như sau: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ (quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp ) và có khi cả cơ bắp
(khi phải sử dụng công cụ) cựng cỏc phẩm chất của mình rồi cả động cơ tình
cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí
tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng ham mê khoa
học ) để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó
thành sở hữu của mỡnh” [33, Tr 59].
Theo tác giả Lưu Xuân Mới: " Tù học là hình thức hoạt động nhận

thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính sinh
viên tiến hành ở trên líp hoặc ở ngoài líp theo hoặc không theo chương trình
và SGK đã được quy định". [21, Tr 276].
Với những dẫn liệu trên đây, chúng ta thấy tự học là một vấn đề được
rất nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra những định nghĩa khác nhau về cách
diễn đạt, song đều phản ánh nội dung cơ bản của khái niệm tự học: Tự học là
hoạt động tự giác, độc lập của chính bản thân người học nhằm chiếm lĩnh tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm lịch sử xã hội loài người nói chung
để đạt tới mục tiêu học tập của cá nhân. Tự học là tự giác tìm tòi, học hỏi để
hiểu biết dự cú thầy hay không có thầy. Khi đã chiếm lĩnh được kiến thức tức
là phải hiểu rõ, nhớ được, vận dụng kiến thức thì kiến thức đó là sở hữu riêng
của mình và dự đó nghe giảng ở trên líp, khi về nhà sinh viên vẫn phải tự học
và làm bài tập. Vì thế để nắm được kiến thức thì chỉ có bản thân người học
thực hiện chứ không thể ai học hộ.
Nhìn chung các tác giả đều thừa nhận cốt lõi của học là tự học, hễ có
học là có tự học vì không ai có thể học hộ mình được. Các tác giả đều quan
niệm tự học là công việc của người học. Người học phải tự giác sử dụng các
năng lực trí tuệ, phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh tri thức khoa học. Do đó, dạy
học phải kích thích được năng lực tự học của người học.
Tóm lại: Tù học là sự nỗ lực của bản thân người học thông qua các
hành động và phẩm chất năng lực của mình để chiếm lĩnh một lĩnh vực nào
đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Khi người học tự mình huy động những phẩm chất, năng lực để tiến
hành các hoạt động tìm tòi, khám phá độc lập nhằm mục đích chiếm lĩnh tri
thức tức là họ tiến hành hoạt động tự học.
HĐTH có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn trực tiếp
của giáo viên. Khi đó người học là chủ thể nhận thức tích cực. Họ phải huy
động mọi phẩm chất tâm lý cá nhân tiến hành những hoạt động học tập để
lĩnh hội được kiến thức theo sự chỉ dẫn trực tiếp của giáo viên.
Khi không có giáo viên điều khiển trực tiếp, người học tự mình sắp

xếp kế hoạch, huy động các điều kiện vật chất và năng lực bản thân để ôn tập,
củng cố, đào sâu, mở rộng và hoàn chỉnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ học
tập mà giáo viên giao, lĩnh hội phần kiến thức mới. Đó là tự học dưới sự điều
khiển gián tiếp của giáo viên nhằm hoàn thiện nhiệm vụ dạy - học.
Trong quá trình học tập, sinh viên còn tiến hành hoạt động tự học
nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết riêng, bổ xung và mở rộng tri thức ngoài
chương trình đào tạo đã quy định của nhà trường.
Như vậy, hoạt động tự học của sinh viên về bản chất là hoạt động
nhận thức độc lập. Nú cú phạm vi rất rộng, từ tự học trờn lớp dưới sự tổ
chức, điều khiển trực tiếp của giáo viên, tự học ở nhà dưới sự điều khiển
gián tiếp của giáo viên cho tới tự học hoàn toàn độc lập không có sự tổ
chức điều khiển của giáo viên.
* Hoạt động tự học xét dưới góc độ cấu trúc bao gồm:
- Động cơ: Là nhu cầu, hứng thó thu hót người học vào quá trình học
tập tích cực và duy trì tính tích cực đó trong mọi giai đoạn học tập, cho người
học thấy được ý nghĩa của việc học tập.
- Định hướng: Là mục đích của người học để xác định và ý thức được
hoạt động nhận thức của mỡnh, nú trả lời cho câu hỏi: Học để làm gì?
- Nội dung - phương pháp: Là hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chủ
đạo cần chiếm lĩnh và các hình thức chiếm lĩnh chóng. Nó trả lời cho câu hỏi:
Học cái gì? Học như thế nào?
- Năng lực học tập: Là những khả năng tập trung chó ý, năng lực
trí tuệ và năng lực thực hành vốn có để phát huy quá trình tự học (chính
là thái độ học tập).
- Năng lực tự kiểm tra, tự đánh giá: Là hoạt động mà cá nhân tự đánh
giá kết quả học tập và hoạt động, làm cơ sở cho những hoạt động tiếp theo
của bản thân.
* Kỹ năng tự học:
Để hoạt động tự học đạt kết quả cao, người học có động cơ tự học
đúng đắn, có thái độ tự học tốt, có ý chí và có hứng thó với môn học khụng

thụi thỡ chưa đủ, bởi đó mới chỉ là điều kiện cần. Điều kiện đủ để hoạt động
tự học được diễn ra và có hiệu quả đòi hỏi người học phải cú cỏc kỹ năng để
thực hiện hoạt động tự học.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học và giáo dục học “kỹ năng”
được hiểu như sau:
Kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức, khái niệm, cách thức,
phương pháp để giải quyết một nhiệm vụ mới (PGS Lê Văn Hồng, TS Lê
Ngọc Lan, TS Nguyễn Văn Thàng).
Như vậy có thể hiểu “kỹ năng tự học” là khả năng vận dụng những tri
thức, kinh nghiệm đó cú để giải quyết nhiệm vụ học tập trong điều kiện cho
phép. Kỹ năng tự học là yếu tố cần thiết, là điều kiện vật chất bên trong để
sinh viên thực hiện có kết quả hoạt động tự học, tự đào tạo. Làm cho sinh
viên tự tin hơn vào bản thân, bồi dưỡng và phát triển hứng thó nhận thức, duy
trì tính tích cực nhận thức trong quá trình học tập và nghiên cứu của họ.
Kỹ năng tự học biểu hiện ở mặt kỹ thuật của hành động tự học. Để tự học
có kết quả, sinh viên phải cú cỏc kỹ năng tự học như: Kỹ năng ghi chép, kỹ
năng đọc sách, kỹ năng tự nghiên cứu, hệ thống hoá bài học Cỏc kỹ năng tự
học này có quan hệ hữu cơ với nhau, bổ sung cho nhau, có ý nghĩa quyết định
đến kết quả tự học. Chính vì thế mà trong quan hệ tự học phải biết vận dụng một
cách mềm dẻo, linh hoạt các kỹ năng tự học để nhằm đạt kết quả tối ưu.
* Có ba nhóm kỹ năng tự học cơ bản sau:
- Nhóm kỹ năng kế hoạch hoá hoạt động tự học: Kỹ năng phân tích,
xác định mục tiêu tù học, nội dụng tự học, xác định trình tự các công việc
cần phải làm, phân phối và sắp xếp thời gian cho từng công việc một cách
hợp lý; xây dựng kế hoạch tự học và biết cách làm việc theo kế hoạch phù
hợp với điều kiện, phương tiện vật chất hiện có.
- Nhóm kỹ năng tiến hành các hoạt động nhận thức: Nhóm này bao
gồm những kỹ năng đảm bảo trực tiếp cho việc hoàn thành kế hoạch tự học
đặt ra như kỹ năng đọc sách và tài liệu, kỹ năng tóm tắt tài liệu đã nghiên
cứu, kỹ năng giải quyết các bài tập nhận thức, kỹ năng ghi chép, kỹ năng hệ

thống hoá và khái quát hoá tài liệu
- Nhóm kỹ năng tự kiểm tra đánh giá: Nhóm này bao gồm những kỹ
năng xác định nội dung sẽ kiểm tra và đánh giá; xây dựng chuẩn tự kiểm tra,
đánh giá; sử dụng các thao tác tự kiểm tra, tự đánh giá như so sánh, đối
chiếu Tự kiểm tra là kỹ năng không thể thiếu được trong việc thực hiện mục
tiêu đã đề ra, giúp người học kịp thời phát hiện sai sót và điều chỉnh hoạt
động tự học để đạt kết quả học tập.
Như vậy, kỹ năng tự học là một yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến
kết quả tự học. Việc huy động các kỹ năng tự học để thực hiện các mục tiêu
tự học là một trong những yếu tố giúp người học đáp ứng được nội dung,
chương trình đào tạo. Bởi vậy, việc rèn luyện kỹ năng tự học cho người học
là việc làm rất cần thiết của mỗi giáo viên và của chính bản thân người học.
1.2.4. Quản lý hoạt động tự học.
a. Khái niệm:
Quản lý hoạt động tự học là một trong những nội dung quản lý quá
trình đào tạo nói chung và quản lý hoạt động dạy - học nói riêng.
Mét trong những nội dung quản lý quá trình giáo dục đào tạo là quản
lý hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập, rèn luyện của học sinh,
sinh viên (HSSV) mà tự học là một bộ phận quan trọng trong học tập, rèn
luyện của HSSV.
Với ý nghĩa tự học là quá trình chủ động chiếm lĩnh tri thức của người
học dưới tác động của các nhân tố bên ngoài và bên trong và với ý nghĩa
quản lý là quá trình tác động tích cực của chủ thể quản lý đến đối tượng để
định hướng, giúp đỡ, tổ chức, thúc đẩy tạo điều kiện giám sát, kiểm tra,
hoạt động cuả đối tượng nhằm đạt đến mục đích. Ta có thể hiểu khái niệm
quản lý hoạt động tự học như sau:
Quản lý hoạt động tự học là quản lý các hoạt động học tập tích cực
nhằm nâng cao hiệu quả học tập của người học và hiệu quả đào tạo của cơ sở
giáo dục. Công tác quản lý hoạt động tự học ở sinh viên là kế hoạch hoá hoạt
động lãnh đạo, chỉ đạo của nhà trường nhằm điều khiển các tổ chức trong nhà

trường thực hiện việc quản lý, kiểm tra, đôn đốc hoạt động tự học của sinh
viên, phát huy vai trò tích cực chủ động học tập của sinh viên.
Quản lý hoạt động tự học gắn với việc phát triển nhà trường, góp phần
nâng cao chất lượng đào tạo. Vì vậy, phạm vi hoạt động của công tác này
được mở rộng, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ với cỏc phũng khoa, đoàn thể
trong suốt quá trình đào tạo.
Quản lý hoạt động tự học mang tính định hướng, gợi mở, tạo điều kiện,
gây ảnh hưởng lôi cuốn mọi người thực hiện một cách tự giác, sáng tạo công
việc của họ.
* Yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý hoạt động tự học là:
- Cần coi trọng công tác quản lý tự học trong hoạt động giáo dục - đào
tạo của trường sư phạm, coi đó là một nội dung trọng tâm và phải thực hiện
một cách thường xuyên, tích cực.
- Cần xác định chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của từng bộ phận
trong hệ thống quản lý nhà trường với cơ chế phối hợp nhịp nhàng.
- Cần có quy chế quản lý đào tạo chặt chẽ nhất là quản lý hoạt động tự
học của sinh viên.
- Cần đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học đặc
biệt là thư viện, phòng học phục vụ cho hoạt động tự học.
- Đổi mới quy chế thi, kiểm tra theo hướng tăng cường việc kiểm tra
kết quả tự học của sinh viên.
Quản lý hoạt động dạy học, trong đó việc quản lý SV thực hiện kế
hoạch tự học, phương pháp tự học và các điều kiện đảm bảo cho các hoạt
động đó đạt hiệu quả.
Quản lý hoạt động tự học là một trong những nhân tố quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo.
Quản lý hoạt động tự học cũng là một nội dung thuộc chức năng của
nhà trường và chức trách của giáo viên, cán bộ quản lý.
Hiệu quả hoạt động tự học của SV có quan hệ chặt chẽ với mục đích,
động cơ học tập nói chung và động cơ tự học núi riờng.Cỏc kỹ năng tự học

của họ sinh viên, vai trò tổ chức điều khiển của giáo viên, hoạt động phối hợp
trong kiểm tra, đôn đốc của cán bộ quản lý cũng như các điều kiện khác có
liên quan đến hoạt động tự học.
b. Nội dung quản lý hoạt động tự học.
* Xây dựng động cơ tự học cho sinh viên.
Mọi hoạt động của con người đều là hoạt động có mục đích, được thúc
đẩy bởi động cơ của hoạt động đó. Động cơ hoạt động là lực đẩy và nguyên
nhân trực tiếp của hành động duy trì hứng thó, tạo ra sự chú ý liên tục, giúp
chủ thể vượt mọi khó khăn đạt tới mục đích đã định. Vì vậy, động cơ của
hoạt động quyết định kết quả của hoạt động đó.
Đó có những nghiên cứu khẳng đinh vai trò của động cơ trong hoạt
động: Hoạt động nào diễn ra có hiệu quả hơn và cho kết quả chất lượng hơn
thì trong hoạt động đó cá nhân đều có động cơ rõ ràng sâu sắc, mạnh mẽ,
kích thích ý muốn hành động tích cực, cống hiến toàn bộ sức lực, vượt qua
trở ngại không tránh khỏi. [29, tr 23]
Hoạt động tự học của sinh viên bình đẳng như các hoạt động khác song
nó có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân, điều này càng khẳng
định nó phải được thúc đẩy bởi hệ thống động cơ học tập nói chung và động
cơ tự học nói riêng. Động cơ tự học cũng có nhiều cấp độ khác nhau bắt đầu
từ sự phải thoả mãn nhu cầu, phải hoàn thành nhiệm vô tù học, tự khẳng định
mình, mong muốn thành thạo nghề nghiệp tương lai Cho tới cấp độ cao là
thoả mãn nhu cầu hiểu biết, lòng khát khao tri thức. Mọi động cơ đều có
nguồn gốc được hình thành từ những tác động bên ngoài và được cá nhân hoá
thành hứng thó, tâm thế, niềm tin, của mỗi cá nhân. Hình thành động cơ
hoạt động phải bắt đầu từ xây dựng các điều kiện bên ngoài cho phù hợp với
nhận thức, tình cảm cá nhân.
Xác định được động cơ học tập tức là ý thức được nhiệm vụ của mình
ở trường học, hoạt động học tập sẽ diễn ra hữu hiệu hơn nếu như sinh viên có
thái độ học tập đúng đắn, có hứng thó nhận thức, có nhu cầu lĩnh hội kiến
thức, kỹ năng, kỹ sảo. Vì vậy, cần bồi dưỡng cho sinh viên động cơ học tập

đúng đắn.
Động cơ học tập đúng là xác định rõ mục đích, mục tiêu học tập phù
hợp với khả năng và điều kiện của bản thân và các yêu cầu của thời đại, của
đất nước, của nhà trường. Từ đó có thể phát triển nhân cách và nghề nghiệp
của mình, có được niềm vui trong học tập và hạnh phóc trong cuộc sống.
Động cơ học tập mạnh là phải có quyết tâm cao để thực hiện cho kỳ
được mục đích, mục tiêu đã đề ra, phải yêu nghề.
Xác định, bồi dưỡng động cơ tự học cho sinh viên có thể thông qua:
- Giáo dục về truyền thống, về mục tiêu đào tạo của nhà trường, về
phương pháp học tập, nghiên cứu ở trường sư phạm.
- Giáo dục ý thức và tình cảm nghề nghiệp cho sinh viên.
- Xây dựng bầu không khí học tập tích cực, thi đua giúp đỡ nhau trong
sinh viên.
* Quản lý kế hoạch tự học.
Việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên là yếu tố quan trọng góp
phần nâng cao hiệu quả tự học. Kế hoạch tự học là bảng phân chia nội dung
tự học theo thời gian một cách hợp lý dựa trờn yêu cầu, nhiệm vô tù học, khả
năng của bản thân và các điều kiện được đảm bảo nhằm hướng tới mục tiêu
đào tạo, mục tiêu môn học. Kế hoạch tự học giúp cho người học thực hiện
các nhiệm vô tù học một cách khoa học, hiệu quả. Xây dựng kế hoạch tự học
là quá trình hình thành một biểu tượng rõ ràng về trình tự các công việc làm
theo ý nghĩa và nhu cầu của nã.
Trong quá trình được đào tạo, sinh viên phải tuân theo kế hoạch dạy
học chung của khoa, của líp. Nhưng kế hoạch dạy học không thể đồng nhất
với kế hoạch tự học cá nhân. Kế hoạch tự học của cá nhân phải là các nội
dung, các yêu cầu cụ thể được tiến hành trong thời gian hợp lý của cá nhân
nhằm hoàn thành kế hoạch học tập, đáp ứng được kế hoạch dạy - học chung
của khoa, của nhà trường. Các nội dung và yêu cầu của kế hoạch tự học được
cá nhân xác định trên cơ sở thực hiện kế hoạch dạy học chung, xác định nội
dung và yêu cầu tự học phải hướng tới bổ xung và hoàn thiện kiến thức đào

sâu và mở rộng sự hiểu biết, hoàn thành nhiệm vụ học tập được giao của từng
cá nhân sinh viên. Vì vậy, xây dựng kế hoạch tự học phải do chính cá nhân
người học thực hiện.
Xây dựng kế hoạch tự học là việc làm thể hiện tính khoa học, tính tích
cực chủ động nhằm giúp cho sinh viên bố trí thời gian công việc một cách
hợp lý, hoàn thành đúng tiến độ và chất lượng. Song việc thực hiện kế hoạch
một cách có hiệu quả và thường xuyên lại là một việc khó hơn. Đây là quá
trình biến những điều đã dự định thành hiện thực, là sự tiến hành trong thực
tiễn các hoạt động theo những phương thức đó lựa chọn. chính giai đoạn này
đòi hỏi sự kiên trì, mạnh mẽ và chủ động ở người học nhằm vượt qua những
khó khăn trong quá trình học tập. Hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch tự học của sinh viên thông qua:
- Hướng dẫn, giúp đỡ sinh viên xây dựng và điều chỉnh, hoàn thiện kế
hoạch tự học, tự kiểm tra, đánh giá.
- Đảm bảo điều kiện phục vụ cho hoạt động tự học của sinh viên: Quỹ
thời gian, giáo trình, tài liệu tham khảo, các phương tiện phục vụ học tập.
- Gợi ý nội dung tự học, nhiệm vụ cần giải quyết và thời gian tự học
cho từng phần, từng môn học.
- Hướng dẫn cho sinh viên các phương pháp tự học, cách thức giải
quyết những tình huống nảy sinh trong quá trình tự học.
Từ đó quản lý việc xây dựng kế hoạch và quản lý việc thực hiện kế
hoạch tự học sẽ góp phần nâng cao hiệu quả tự học của sinh viên.
* Quản lý nội dung tự học.
Để quản lý được nội dung tự học, hướng cho nội dung tự học phù hợp
mục tiêu, yêu cầu đào tạo, giảng viên phải hướng dẫn nội dung tự học cho
sinh viên. Nội dung tự học gồm:
- Hệ thống các nội dung tự học mang tính bắt buộc (sinh viên phải hoàn
thành) để nắm vững tri thức.
- Định hướng nghiên cứu đào sâu, mở rộng tri thức từ các vấn đề trong nội
dung học tập và hướng vận dụng nghiên cứu.

Ngoài ra, cán bộ quản lý phải thường xuyên tư vấn nội dung tự học cho
sinh viên phù hợp với định hướng của giảng viên và phù hợp với mục tiêu,
yêu cầu đào tạo.
* Quản lý các phương pháp tự học.
Việc quản lý phương pháp học tập, tự học phải bắt đầu từ việc xác
định mục đích, động cơ học tập đúng đắn, đú chớnh là cách học, biện pháp
học và kỹ thuật học Do vậy, người học cần biết tổ chức việc quản lý
phương pháp tự học của mình theo một kế hoạch hợp lý, biết tạo ra điều kiện
cần thiết để đảm bảo cho việc học tập và tự học tập suốt đời, học ở mọi
người, mọi nơi, mọi lúc. Phương pháp học tập tự học đối với từng người,
từng môn học khác nhau nhưng chúng vẫn có điểm chung đó là phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu tượng hoá
Từ những quan điểm về phương pháp học tập, tự học như trên, mỗi
sinh viên cần xác định và chọn cho mình một phương pháp học tập phù hợp.
Cán bộ quản lý, giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên xây dựng kế hoạch
tự học và giúp sinh viên quản lý phương pháp tự học.
* Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả tự học.
- Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên (hàng tuần,
hàng tháng, năm học )
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tự học theo các mục tiêu, yêu cầu,
nhiệm vô tù học, phát hiện sai lệch giúp sinh viên điều chỉnh hoạt động tự học.
- Kiểm tra, đánh giá hoạt động và kết quả tự học là chức năng của
giáo viên và cán bộ quản lý. Đối với cán bộ quản lý đào tạo còn phải thực
hiện cả nội dung quản lý công tác kiểm tra đánh giá của giáo viên nhằm đảm
bảo tính khoa học, thống nhất và công bằng (qua việc làm tham mưu, hướng
dẫn, giám sát các hoạt động kiểm tra, đánh giá của giáo viên và chủ nhiệm líp
đối với hoạt động của sinh viên).
- Kiểm tra việc xây dựng kế hoạch tự học của sinh viên (hàng tuần, hàng
tháng, năm học )
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch tự học theo các mục tiêu, yêu cầu,

nhiệm vô tù học, phát hiện sai lệch giúp sinh viên điều chỉnh hoạt động tự học.
- Kiểm tra, đánh giá hoạt động và kết quả tự học là chức năng của giáo
viên và cán bộ quản lý. Đối với cán bộ quản lý đào tạo còn phải thực hiện cả
nội dung quản lý công tác kiểm tra đánh giá của giáo viên nhằm đảm bảo tính
khoa học, thống nhất và công bằng (qua việc làm tham mưu, hướng dẫn,
giám sát các hoạt động kiểm tra, đánh giá của giáo viên và chủ nhiệm líp đối
với hoạt động của sinh viên).
* Quản lý các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tự học của sinh viên.
Nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ học tập phải đảm bảo các điều kiện
cho hoạt động tự học của sinh viên trờn cỏc mặt sau:
- Quản lý cơ sở vật chất đảm bảo học tập trờn lớp, tự học, sinh hoạt tập
thể. Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập góp phần nâng
cao hiệu quả dạy và học: Tu sửa, nâng cấp, hiện đại hoá phòng học, cải tạo hệ
thống chiếu sáng, cách âm, Những việc làm này không chỉ có ý nghĩa đảm
bảo chất lượng dạy - học, tự học mà còn có ý nghĩa kích thích hứng thó cho
sinh viên. Để tăng cường hoạt động dạy - học, tự học việc đầu tư hợp lý đảm
bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị cho dạy học, tự học là vấn đề cấp bách và
thiết thực.
- Quản lý giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo, phương tiện kỹ
thuật dạy học.

×