Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT chuyên Nguyễn Huệ tỉnh Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 146 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là một xu thế
phát triển khách quan. Điều đó đặt sự nghiệp hiện đại hoá, công nghiệp hoá
của đất nước ta nói chung, sự nghiệp giáo dục- đào tạo của chúng ta nói
riêng trước những thời cơ và thách thức không nhỏ.
Tất cả các quốc gia, từ những nước phát triển đến những nước đang phát
triển đều nhận thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi
mới giáo dục một cách năng động hơn, hiệu quả trực tiếp hơn những nhu cầu
của sự hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Cùng với KH-CN, Giáo dục và Đào tạo được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt chú trọng, đề cao là quốc sách hàng đầu. Phát triển nguồn nhân lực
là nhiệm vụ hàng đầu, là khâu đột phá trong chiÕn lược phát triển kinh tế -
xã hội và chiến lược phát triển giáo dục đào tạo ở nước ta trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức sâu sắc chiến lược phát triển giáo dục đào tạo của Đảng ta
trong thời kỳ đổi mới đến năm 2001: “ Giáo dục phải đi trước một bước,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài để thực hiện thành
công các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội”, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã thực sự quan tâm tới việc phát triển giáo dục “ đại trà và mũi
nhọn”. Vì thế từ năm 1987 ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước được phép
thành lập trường THPT chuyên (trường chuyên biệt) dành cho những học
sinh đạt kết quả xuất sắc trong học tập nhằm phát triển năng khiếu của các
em về một số môn học trên cơ sở đảm bảo giáo dục toàn diện.
Trường THPT chuyên Nguyễn Huệ- Hà Tây có tiền thân là Trung
tâm văn hoá giải phóng kháng chiến vùng tự do, thành lập từ năm 1947 tại
làng Sêu- Mỹ Đức. Trường có bề dày truyền thống hơn nửa thế kỷ xây
dựng và trưởng thành. Đến năm 1997 trường được UBND tỉnh Hà Tây
quyết định chuyển thành trường chuyên, bồi dưỡng học sinh giỏi, đào tạo
nguồn nhân tài trẻ tuổi cho địa phương, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


Với bề dày truyền thống và thành tích xuất sắc trong mười năm đổi
mới, năm 2000 Chủ tịch nước đã phong tặng trường THPT chuyên Nguyễn
Huệ danh hiệu Anh hùng lao động, năm 2003 trường vinh dự đón nhận
Huân chương Độc lập hạng 3. Trường THPT chuyên Nguyễn Huệ đã có
những đổi mới đáng kể về công tác quản lý dạy học.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi từ trường THPT đại trà sang
trường THPT chuyên, nhà trường cũng có những bất cập trong quản lý giáo
dục đào tạo như:
- Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ quản lý, nhất
là đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo toàn diện học sinh trường chuyên của tỉnh.
- Cơ sở vật chất xuống cấp và trong tình trạng chắp vá, sửa chữa, sử
dụng tạm thời; các trang thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại còn hạn chế,
chưa thực sự phát huy tối đa sự năng động, sáng tạo trong giảng dạy của
giáo viên và học tập của học sinh chuyên.
- Nếp dạy và học của trường THPT thời kỳ bao cấp vẫn còn sức ỳ,
ảnh hưởng không nhỏ tới nhận thức, lề lối làm việc, học tập của cán bộ và
học sinh nhà trường.
- Tình trạng học lệch, học thực dụng của học sinh khiến sự đầu tư
theo lối thực dụng của cha mẹ học sinh còn quá sâu sắc.
Xuất phát việc học tập, nghiên cứu lý luận về khoa học quản lý giáo
dục, từ thực tiễn công tác, tôi thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu thực
trạng công tác quản lý dạy học của các trường THPT chuyên nói chung và
trường THPT chuyên Nguyễn Huệ nói riêng nhằm rút kinh nghiệm góp
phần đề ra các biện pháp quản lý dạy học đồng bộ, có tính khả thi cao, để
vừa phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, vừa đáp ứng được mục tiêu
giáo dục - đào tạo mà tỉnh, ngành đặt ra đối với nhà trường.
Lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “ Biện pháp tăng cường quản lý
hoạt động dạy học ở trường THPT chuyên Nguyễn Huệ tỉnh Hà Tây”,
người viết mong muốn tìm hiểu sâu hơn một số vấn đề lý luận và thực

trạng quản lý chuyên môn ở trường chuyên, đề xuất một số biện pháp nhằm
nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý hoạt động dạy học của nhà trường cũng
như chất lượng giáo dục - đào tạo học sinh trường THPT chuyên Nguyễn
Huệ- tỉnh Hà Tây.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn công tác quản lý hoạt
động dạy học ở trường THPT nói chung, nghiên cứu thực trạng quản lý
hoạt động dạy học ở trường THPT chuyên Nguyễn Huệ nói riêng, đề ra
một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động dạy học ở trường THPT chuyên Nguyễn Huệ, góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo của tỉnh Hà Tây.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT.
- Đối tượng nghiên cứu: Các biện pháp quản lý hoạt động dạy học ở
trường THPT chuyên Nguyễn Huệ.
4. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT chuyên Nguyễn
Huệ Hà Tây chưa thật toàn diện và đồng bộ; điều này ảnh hưởng tới việc
thực hiện các mục tiêu giáo dục - đào tạo của nhà trường và của tỉnh Hà
Tây. Nếu đề ra được những biện pháp quản lý phù hợp hơn sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động dạy học, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp
giáo dục - đào tạo ở trường chuyên tỉnh Hà Tây.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học ở trường
THPT chuyên.
- Khảo sát thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động dạy học của
trường THPT chuyên Nguyễn Huệ.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động dạy học ở trường THPT chuyên Nguyễn Huệ .
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Hiện nay, trường THPT chuyên Nguyễn Huệ bao gồm học sinh hệ
chuyên, hệ phổ thông đại trà và hệ bán công. Nhưng đề tài chỉ đi vào
nghiên cứu các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học hệ chuyên
của nhà trường.
7. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp các phương pháp:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các Văn kiện,
Nghị quyết của Đảng, các văn bản quy định của Nhà nước và của ngành
Giáo dục và Đào tạo; các tài liệu lý luận về quản lý, quản lý giáo dục và
các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát: Tiến hành quan sát hoạt động dạy học của
giáo viên và học sinh.
+ Phương pháp điều tra: Tiến hành bằng phiếu theo các biểu mẫu về
thực trạng các biện pháp quản lý dạy học ở trường THPT chuyên Nguyễn
Huệ trong phạm vi đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp chuyên gia: Trao đổi, phỏng vấn, trưng cầu ý kiến
cán bộ Sở Giáo dục và Đào tạo, cán bộ quản lý nhà trường, tổ trưởng
chuyên môn, giáo viên, học sinh, chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong
quản lý giáo dục.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một chức năng lao động - xã hội bắt nguồn từ tính chất xã
hội của lao động.
Ngay từ khi con người bắt đầu hình thành nhóm, đã biết phối hợp
các nỗ lực cá nhân để thực hiện mục tiêu duy trì sự sống., Từ khi xuất hiện
nền sản xuất xã hôi, nhu cầu phối hợp các hoạt động riêng lẻ càng tăng lên.

Bất cứ một tổ chức, một lĩnh vực nào, từ sự hoạt động của nền kinh tế quốc
dân, của một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính sự nghiệp đến một tập
thÓ nhỏ như tổ chuyên môn, tổ sản xuất, bao giờ cũng có hai phân hệ :
Người quản lý và đối tượng được quản lý. Sự cần thiết của quản lý trong
một tập thể lao động được K.Marx viết : "Tất cả mọi lao động trực tiếp hay
lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì Ýt nhiều cũng
đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực
hiện những chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể sản
xuất khác với sự vận động của những cơ quan độc lập của nó. Một người
độc tấu vĩ cầm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì
cần phải có nhạc trưởng "(K.Marx và Ăng Ghen-toàn tập, tập 23 trang 34-
NXB Chính trị quốc gia).
Như vậy K.Marx đã lột tả được bản chất quản lý là một hoạt động
lao động để điều khiển lao động, một hoạt động tất yếu vô cùng quan trọng
trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Quản lý đã trở thành một
hoạt động phổ biến, mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và có liên
quan đến mọi người. Đó là một loại hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất
cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm
đạt một mục tiêu chung.
Quản lý là một khái niệm rộng bao gồm nhiều lĩnh vực, các nhà kinh
tế thiên về quản lý nền sản xuất xã hội, các nhà luật học thiên về quản lý
nhà nước. các nhà điều khiển học thiên về quan điểm hệ thống. Cho nên
khi đưa các định nghĩa về quản lý, các tác giả thường gắn với các loại hình
quản lý cụ thể hoặc phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực hoạt động hay nghiên cứu
của mình.
Theo GS Hà Sĩ Hồ : "Quản lý là một quá trình tác động có định
hướng có chủ đích), có tổ chức, lựa chọn trong số các tác động có thể có,
dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường, nhằm giữ
cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới
mục đích đã định".[20]

Theo GS Nguyễn Ngọc Quang : "Quản lý là tác động có mục đích có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (nói chung
là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến".[31 -
Tr35]
Theo Nguyễn Minh Đạo: ”Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng của chủ thể quản lý về các mặt văn hoá, chính trị, kinh tế, xã
hội bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương
pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng” [13 - Tr28].
Theo Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu; quản lý là một hệ thống là quá trình tác động
đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định” (26 - Tr28).
Từ các cách định nghĩa trên ta thấy: Quản lý dù nhìn ở góc độ nào thì nó
cũng là quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể QL đến khách thể QL
nhằm đạt mục tiêu chung. Quá trình tác động này được vận hành trong một
môi trường xác định. Cấu trúc hệ thống quản lý được thể hện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Cấu trúc hệ thống quản lý
Quản lý thông qua quy trình kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Như vậy, khái niệm QL thường được hiểu như sau:
Quản lý là sự tác động có ý thức thông qua kế hoạch hoá, tổ chức,
chỉ đạo, kiểm tra để chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người nhằm đạt đến mục tiêu đúng ý chí của người QL
và phù hợp với quy luật khách quan.
1.1.2. Khái niệm về quản lý giáo dục
* Khái niệm về giáo dục
Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động,
học tập và cuộc sống hàng ngày, con người nhận thức thế giới xung quanh,
dần dần tích luỹ được kinh nghiệm, từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt
những hiểu biết Êy cho nhau. Đó chính là nguồn gốc phát sinh của hiện
tượng giáo dục.

Lúc đầu giáo dục xuất hiện như một hiện tượng tự phát, sau đó trở
thành một hoạt động có ý thức. Ngày nay giáo dục đã trở thành một hoạt
động được tổ chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có chương trình, kế hoạch,
C«ng cô
Chñ thÓ QL
Ph¬ng ph¸p
§èi tîng QL
Môc
tiªu QL
M«i trêng qu¶n lý
có nội dung, phương pháp hiện đại và trở thành động lực thúc đẩy sự phát
triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Như vậy, giáo dục là một hiện tượng xã hội loài người, bản chất của
nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử- xã hội của các thế hệ
loài người. Nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh
hoa văn hoá dân tộc, nhân loại được thừa kế, bổ sung và trên có sở đó, xã
hội loài người không ngừng tiến lên.
* Khái niệm về quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt
tới kết quả mong muốn. Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt
động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Theo M.M Mechti-Zade, nhà lý luận Xô Viết trước đây: Quản lý
giáo dục là tập hợp những biện pháp (tổ chức, phương pháp, cán bộ, giáo
dục, kế hoạch hoá, tài chính ) nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường của
các cơ quan trong hệ thống giáo dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở
rộng hệ thống cả về số lượng và chất lượng.
Theo GS Phạm Minh Hạc: Quản lý giáo dục là tổ chức các hoạt động
dạy học. Có tổ chức được các hoạt động dạy học, thực hiện được các tính

chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mới quản lý
được giáo dục, tức là cụ thể hoá đường lối giáo dục của Đảng và biến
đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước.
Theo GS Nguyễn Ngọc Quang: Quản lý giáo dục là hệ thống các tác
động cho mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực
hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và tiêu
điểm hội tụ là quá trình dạy học-giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới.
Khái quát lại, nội hàm của khái niệm quản lý giáo dục chứa đựng
những nhân tố đặc trưng bản chất sau: Phải có chủ thể quản lý giáo dục. Ở
tầm vĩ mô là quản lý của nhà nước mà cơ quan trực tiếp quản lý là Bộ, Sở,
Phòng GD-ĐT; ở tầm vi mô là quản lý của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
các trường phổ thông. Phải có hệ thống tác động quản lý theo một nội
dung, chương trình kế hoạch thống nhất từ Trung ương đến địa phương
nhằm thực hiện mục đích giáo dục trong mỗi giai đoạn cụ thể của xã hội.
Phải có một lực lượng đông đảo những người làm công tác giáo dục cùng
với hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Quản lý giáo dục có tính
xã hội cao. Bởi vậy cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề xã hội kinh tế,
chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng phục vụ công tác giáo dục.
Nhà truờng là đối tượng cuối cùng và cơ bản nhất của quản lý giáo
dục, trong đó đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan trọng
nhất, đồng thời lại là chủ thể trực tiếp quản lý quá trình giáo dục.
Tóm lại: Quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định
hướng của nhà QL giáo dục trong việc vận hành nguyên lý, phương pháp
chung nhất của kế hoạch nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Những tác
động đó thực chất là những tác động khoa học đến nhà trường, làm cho
nhà trường tổ chức một cách khoa học, có kế hoạch quá trình dạy và học
theo mục tiêu đào tạo.
1.1.3. Khái niệm quản lý nhà trường

Nhà trường là một thiết chế xã hội thể hiện chức năng tái tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho sù duy trì và phát triển của xã hội. Thiết chế chuyên
biệt này hoạt động trong tính quy định của xã hội và theo những dấu hiệu
phân biệt tính mục đích tập chung hay tính hẹp được “chiết xuất”; tính tổ
chức và kế hoạch hoá cao; tính hiệu quả của giáo dục - đào tạo cao nhờ quá
trình truyền thụ có ý thức tổ chức; tính chuyên biệt tương đối hay tính lý
tưởng hoá các giá trị xã hội; tính chuyên biệt cho từng đối tượng hay tính
chất phân biệt đối xử theo sự phát triển tâm lý và thể chất.
Thực chất của quản lý giáo dục là tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động của nhà trường được vận hành theo đúng mục tiêu. Trường học
là những tế bào quan trọng của hệ thống giáo dục. Những tế bào có hoạt
động tốt, hiệu quả, đúng mục tiêu thì hệ thống giáo dục mới thực hiện được
những mục tiêu xã hội giao phó. Vì vậy, để trường học vận hành và phát
triển thì cần phải quản lý. Quản lý trường học có thể hiểu như một bộ phận
của quản lý giáo dục nói chung.
Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong
phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên
lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh.
Bản chất của việc quản lý nhà trường phổ thông là quản lý hoạt động
dạy học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác để dần tiến tới mục tiêu giáo dục.
Quản lý nhà trường là tổ chức hoạt động dạy học có tổ chức hoạt
động dạy học, thực hiện được các tính chất của nhà trường phổ thông Việt
Nam XHCN, mới quản lý được giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối đó
thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước.
Theo GS Phạm Minh Hạc: ”Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu
đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”. [17 -

Tr71]
GS Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: ”Quản lý nhà trường là quản lý
hoạt động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này
sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục”.[31 - Tr34]
Như vậy, quản lý nhà trường chính là quản lý giáo dục nhưng trong
một phạm vi xác định cuả một đơn vị giáo dục nền tảng, đó là nhà trường.
Vì thế quản lý nhà trường phải vận dụng tất cả các nguyên lý chung của
quản lý giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường theo mục tiêu
đào tạo.
Quản lý nhà trường về cơ bản khác với quản lý các lĩnh vực khác. Ở
đây những tác động của chủ thể quản lý là những tác động của công tác tổ
chức sư phạm đến đối tượng quản lý nhằm giải quyết những nhiệm vụ giáo
dục của nhà trường. Đó là hệ thống tác động có phương hướng, có mục
đích, có một quan hệ qua lại lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau.
Quản lý nhà trường là một hoạt động được thực hiện trên cơ sở
những quy luật chung của quản lý, đồng thời có những nét đặc thù riêng
của nó. Quản lý nhà trường khác với các loại quản lý xã hội khác, được quy
định bởi bản chất lao động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá
trình dạy học, giáo dục. Trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là đối
tượng quản lý vừa là chủ thể tự hoạt động của bản thân mình. Sản phẩm tạo
ra của nhà trường là nhân cách người học sinh được hình thành trong quá
trình học tập, tu dưỡng rèn luyện và phát triển theo yêu cầu của xã hội và
được xã hội thừa nhận.
Quản lý nhà trường là phải quản lý toàn diện nhằm hoàn thiện và
phát triển nhân cách của thế hệ trẻ một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả.
Thành công hay thất bại của một sự cải tiến trong ngành giáo dục đều phụ
thuộc rất lớn vào những điều kiện đang tồn tại, phổ biến ở các nhà trường.
Vì vậy, muốn thực hiện có hiệu quả công tác giáo dục phải xem xét đến
những điều kiện đặc thù của mỗi nhà trường, phải chú trọng thực hiện việc
cải tiến công tác quản lý giáo dục đối với nhà trường, nền tảng của hệ

thống giáo dục quốc dân.
Tóm lại: Quản lý nhà trường là một bộ phận của QL giáo dục. Thực
chất của QL nhà trường, suy cho cùng là hệ thống những tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể QL nhằm làm cho nhà trường
vận hành theo đúng đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện
được các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà điểm hội tụ là quá
trình dạy học – giáo dục thế hệ trẻ. Người QL nhà trường phải làm sao cho
hệ thống các thành tố vận hành liên kết chặt chẽ với nhau, đưa đến kết quả
mong muốn.
1.1.4.Khái niệm về biện pháp quản lý họat động dạy học
* Dạy học
Dạy học là một bộ phận của quá trình sư phạm, với nội dung khoa
học, được thực hiện theo một phương pháp sư phạm đặc biệt, do nhà
trường tổ chức, thầy giáo thực hiện nhằm giúp học sinh nắm vững hệ thống
kiến thức khoa học và hình thành hệ thống kỹ năng hoạt động, nâng cao
trình độ học vấn, phát triển trí tuệ và hoàn thiện nhân cách. Dạy học là con
đường cơ bản để thực hiện mục đích giáo dục xã hội. Học tập là cơ hội
quan trọng nhất giúp mỗi cá nhân phát triển và thành đạt.
* Quản lý hoạt động dạy học
Là quá trình người hiệu trưởng hoạch định, tổ chức, điều khiển,
kiểm tra hoạt động dạy học của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu đã đề
ra. Trong toàn bộ quá trình quản lý nhà trường thì quản lý hoạt động dạy
học của hiệu trưởng là hoạt động cơ bản nhất, quan trọng nhất.
Quản lý hoạt động dạy học thực chất là quản lý quá trình truyền thụ
tri thức của đội ngũ giáo viên và quá trình lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ
xảo của học sinh; QL các điều kiện có sở vật chất, trang thiết bị, phương
tiện phục vụ hoạt động dạy học của cán bộ QL nhà trường
* Biện pháp quản lý hoạt động dạy học
Là nội dung, cách thức, cách giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó
của chủ thể quản lý. Trong quản lý giáo dục, biện pháp quản lý là tổ hợp

nhiều cách thức tiến hành của chủ thể quản lý nhằm tác động đến đối
tượng quản lý để giải quyết những vấn đề trong công tác quản lý, làm cho
hệ quản lý vận hành đạt mục tiêu mà chủ thể quản lý đã đề ra và phù hợp
với quy luật khách quan. Trong nhà trường, biện pháp quản lý hoạt dạy và
học là những cách thức tổ chức, điều hành kiểm tra, đánh giá hoạt động
dạy và học của cán bộ, giáo viên và học sinh nhằm đạt được kết quả cao
nhất đã đề ra.
1.1.5. Khái niệm trường PTTH chuyên
Với mục tiêu để phát triển sự nghiệp giáo dục, tăng cường hiệu lực
quản lý nhà nước về giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh, Luật giáo dục nước Việt Nam đã đưa ra
những quy định về tổ chức và hoạt động giáo dục. Trong đó, Luật giáo dục
cũng quy định rõ :
"Trường chuyên được thành lập ở cấp THPT dành cho những học
sinh đạt kết quả xuất sắc trong học tập nhằm phát triển năng khiếu của các
em về một số môn học trên cơ sở bảo đảm giáo dục phổ thông toàn diện.
Nhà nước ưu tiên bố trí giáo viên, CSVC, thiết bị và ngân sách cho
trường chuyên. Bộ Giáo dục và ĐT phối hợp với các bộ, ngành liên quan
quyết định ban hành chương trình giáo dục, quy chế tổ chức cho các trường
này". (Luật GD)
Để thực hiện Luật GD, trong công tác quản lý vĩ mô, Bộ GD và ĐT
đã xây dựng được một số văn bản pháp quy cho loại hình trường THPH
chuyên.
- Hướng dẫn nội dung dạy học các môn chuyên trường THPT
chuyên (áp dụng từ năm học 2001-2002)
- Quy chế trường THPT chuyên (ban hành kèm theo quyết định số
05/2002/QĐ-BGD ngày 11/03/2002 của Bộ trưởng Bộ GD và ĐT).
1.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý hoạt động dạy học ở

trường THPH chuyên
1.2.1. Trường THPH trong hệ thống giáo dục quốc dân
* Vị trí trường THPT
Điều 2, Chương I Điều lệ trường THPT quy định: "Trường TH là cơ
sở giáo dục của bậc trung học, bậc học nối tiếp bậc tiểu học của hệ thống
giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh học vấn phổ thông. Trường trung học
có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng".
THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là giai đoạn quan
trọng mà học sinh cần phải tích luỹ đầy đủ những kiến thức phổ thông cơ
bản, toàn diện để chuẩn bị học lên (đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp) hoặc đi vào cuộc sống xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Ở độ tuổi từ 15 –
18, học sinh THPT có đủ các điều kiện về tâm - sinh lý, trí tuệ và thể chất
để phát triển nhân cách toàn diện. Chất lượng học tập ở bậc học này quyết
định năng lực làm việc, tư duy sáng tạo, kỹ năng sống của mỗi con người .
* Mục tiêu, nội dung và kế hoạch đào tạo của trường THPT
- Mục tiêu giáo dục THPT
"Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết
quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết
thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao
đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động".
Xác định đúng đắn mục tiêu giáo dục có vai trò, ý nghĩa quan trọng
trong việc hoàn thành các mục tiêu xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội. Mục tiêu giáo dục như là một phần của định hướng, chỉ đường cho
các khuôn mẫu phát triển và làm nền tảng cho sự vận động của tình hình
hiện tại đi đến tương lai.
Để giáo dục - đào tạo phát triển mạnh mẽ nhằm: "Phát huy nguồn lực
con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững", khi bước
vào thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: "Mục tiêu chủ yếu là
thực hiện giáo dục toàn diện; đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục ở tất cả các
bậc học".

Ngoài ra những mục tiêu cụ thể được xác định nhằm thực hiện phổ
cập giáo dục tiểu học trong cả nước năm 2000, phổ cập THCS năm 2010,
phổ cập THPT năm 2020. Bảo đảm phần lớn thanh, thiếu niên trong độ tuổi
ở thành thị và vùng nông thôn học hết THPT, trung học chuyên nghiệp
hoặc đào tạo nghề. Tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi được học
tập thường xuyên, suốt đời.
- Nội dung giáo dục trung học phổ thông
Khoản 1 điều 24 Luật Giáo dục quy định : "Nội dung GDPT phải bảo
đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, hướng nghiệp và hệ thống: gắn với
thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của học sinh, đáp ứng
mục tiêu giáo dục ở mỗi bậc học, cấp học".
Nội dung giáo dục THPT "phải củng cố, phát triển những nội dung đã
học ở trung học cơ sở, hoàn thành nội dung giáo dục phổ thông. Ngoài nội
dung chủ yếu nhằm bảo đảm chuẩn kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn diện
và để phát huy năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh".
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, đổi mới nội dung giáo
dục nhằm "loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội
dung cần thiết theo hướng bảo đảm kiến thức cơ bản cập nhật với tiến bộ
của khoa học và công nghệ, tăng nội dung khoa học - công nghệ ứng dụng,
tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng lực thực hành ở bậc học
phổ thông, tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng
yêu nước, chủ nghĩa Mác – Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí
Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học, coi trọng hơn
nữa các môn khoa học xã hội - nhân văn, nhất là tiếng Việt, lịch sử dân tộc,
địa lý và văn hoá Việt Nam
Như vậy, nội dung giáo dục THPT được đổi mới phải mang tính chất
phổ thông, cơ bản, toàn diện và hướng nghiệp, gắn với thực tiễn cuộc sống,
phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý học sinh
Để thực hiện những mục tiêu và nội dung đổi mới giáo dục THPT
trong giai đoạn mới, yêu cầu xây dựng đội ngũ giáo viên chuẩn hoá, có

chất lượng cũng như tăng cường việc đào tạo, sử dụng đội ngũ giáo viên
càng trở nên cấp bách.
- Kế hoạch giáo dục ở bậc trung học phổ thông.
Kế hoạch giáo dục là một văn bản có tính pháp lý của Nhà nước do Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành trong toàn quốc, mọi cán bộ quản
lý, giáo viên phải thực hiện nghiêm túc.
Kế hoạch giáo dục quy định: Thành phần các môn học, trình tự dạy
các môn ở từng lớp, số giờ dành cho từng bộ môn học trong tuần, trong
năm, cầu trúc thời gian của năm học, khoa học giáo dục là tài liệu quan
trọng nhất nhằm xác định nội dung, mức độ học vấn phổ thông và tổ chức
các hoạt động giáo dục góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học,
bậc học.
Định hướng mang tính nguyên tắc khi xây dựng kế hoạch giáo dục
trong thời gian tới:
+ Kế hoạch giáo dục phải phản ánh mục tiêu giáo dục toàn diện bao
gồm những yêu cầu về giáo dục đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, lao
động kỹ thuật.
+ Kế hoạch giáo dục phải phản ánh tính hài hoà, cân đối giữa các
mặt giáo dục bảo đảm tính hệ thống, kế tiếp. Xác định hệ thống môn học
với thời lượng phù hợp, bảo đảm coi trọng nội dung giáo dục, khoa học tự
nhiên, xã hội và nhân văn, kỹ năng và công nghệ.
+ Kế hoạch giáo dục xây dựng phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý
và sức khoẻ của học sinh
Để bảo đảm mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh THPT, những
nội dung kiến thức cần thiết về kỹ thuật, công nghệ, hướng nghiệp, và
những kiến thức về: dân số, môi trường, pháp luật, giao thông, ngoại ngữ,
sử dụng máy tính, âm nhạc, mỹ thuật, hướng nghiệp ngày càng được cập
nhật hoá, tích hợp trong các môn học.
Mục tiêu, nội dung, phương pháp, kế hoạch giáo dục là những thành
tố của hệ thống giáo dục và chúng có quan hệ hữu cơ, gắn bó và tác động

qua lại lẫn nhau. Đối với mục tiêu giáo dục không những phải đổi mới nội
dung, phương pháp, kế hoạch giáo dục mà còn phải xây dựng đội ngũ giáo
viên có năng lực, đủ tài đức để thực hiện mục tiêu đó, nhất là trong giai
đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Giáo dục phổ thông tuy có vị trí tương đối độc lập với phát triển kinh
tế nhưng là một bộ phận KT - XH, nên sự phát triÓn của giáo dục phổ
thông phụ thuộc nhiều vào các điều kiện và trạng thái vận động của nhiều
nhân tố: Dân số, thu nhập quốc dân, khả năng nguồn lao động, trình độ
phát triển văn hoá, kết cấu và cơ chế kinh tế Sự phát triển của giáo dục
phổ thông với đặc trưng về tổ chức sư phạm như cơ cấu hệ thống, nội dung
đào tạo, tổ chức các điều kiện đào tạo, nếu có sự quản lý tốt sẽ có tác dụng
thúc đẩy các nhân tố tích cực, hạn chế các diễn biến tiêu cực của kinh tế -
xã hội
* Yêu cầu và xu thế phát triển trường THPT hiện nay
Trong bối cảnh thế giới cũng như trong khu vực và nước ta hiện nay
đặt ra cho giáo dục trung học những yêu cầu mới. Trước hết đó là những
vấn đề, như:
- Sự bùng nổ tri thức khoa học và công nghệ. Đây là xu thế đưa nhân
loại đến nền văn minh trí tuệ. Nhờ vào lượng thông tin khoa học - công
nghệ, nhờ vào công nghệ cao như vi điện tử, tin học, sinh học, tự động học,
vật liệu mới xã hội thông tin sẽ tạo ra một nền "công nghiệp sinh thái". Vì
vậy tác giả Hoàng Đức Nhuận trong bài: "Bàn về vai trò giáo dục của nhà
trường trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam"
đề nghị phải xem lại học vấn THPT, cấu trúc lại chương trình và nội dung
dạy học, phải phát triển cho được ở học sinh phương pháp tư duy sáng tạo.
- Con người sẽ thay đổi những quan niệm cơ bản đối với thiên nhiên
và xã hội.
Sự tiến bộ xã hội không chỉ đo bằng công nghệ hoặc mức sống vật
chất, mà bằng cả chỉ tiêu đạo đức, thẩm mỹ, môi trường, văn hoá, tinh
thần .Con người sẽ là trung tâm của sự phát triển. Sự phát triển phải là của

dân, do dân tham gia thực hiện, sự phát triển vì nhân dân, vì hạnh phúc con
người, xem con người là động lực phát triển của xã hội. Đảng ta đã đề ra
mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
- Nền kinh tế thế giới cũng như khu vực đi đến một khuôn khổ toàn
cầu. Bất kể đất nước nào nếu thu nhận được những bài học của thị trường,
tạo lập được những phẩm chất cho phép cạnh tranh trong một thế giới kinh
tế không biên giới thì mới có cơ hội thành công. Giáo dục được nhận thức
như một động lực, một đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế
- Thế giới ngày càng phụ thuộc lẫn nhau: Ngày nay các quốc gia
không còn tách biệt nhau mà càng ngày càng liên kết trong một cộng đồng
khu vực giáo dục, yêu cầu sử dụng vệ tinh cho giáo dục từ xa, nhu cầu xây
dựng trường quốc tế, đa quốc gia .
Sự hợp tác đa phương, song phương ngày càng mở rộng, làn sóng đua
tranh, sàng lọc ngày càng gay gắt. Xuất hiện trạng thái đa văn hoá trên nền
văn hoá truyền thống. Trong quan hệ quốc tế, hợp tác trí tuệ rất quan trọng.
Hợp tác quốc tế về trí tuệ là nét điển hình trong thế giới ngày nay.
- Bối cảnh thế giới sẽ xuất hiện những khủng hoảng trầm trọng, như
nạn ô nhiễm môi trường sinh thái, sự bùng nổ dân số, xung đột sắc tộc, dân
tộc và tôn giáo, sự đói nghèo, lạc hậu và ngu dốt, các nạn dịch thời đại
(HIV/AIDS, SARS, H5N1) cũng ảnh hưởng đến nền giáo dục nói chung và
GDTH nói riêng trong tình hình mới hiện nay.
- Ở nước ta, từ năm 1986 trở lại đây, thời gian mặc dù chưa dài,
nhưng con người Việt Nam bước đầu bộc lộ một số đặc điểm nhân cách
của mình trong điều kiện mở cửa. Chuyển sang cơ chế mới, mỗi con trước
hết phải chịu trách nhiệm về công việc của mình. Cho nên biết tính toán
hiệu quả kinh tế, sự đòi hỏi mức tiêu dùng hàng ngày càng cao, chấp nhận
ganh đua, chấp nhận giàu nghèo. Vì vậy tạo ra sự hăng say lao động, học
tập thay cho trung bình chủ nghĩa, đặc biệt ở lứa tuổi học sinh THPT và
sinh viên
- Về vai trò của giáo dục trên thế giới cũng như trong nước ngày

càng được khẳng định " Giáo dục là quốc sách hàng đầu", "Giáo dục là
chìa khoá mở cửa tiến vào tương lai", "Giáo dục là con đường cơ bản để
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Bác Hồ cũng đã dạy: “ Không có giáo dục, không có cán bộ thì không
nói gì đến kinh tế, văn hoá”. Do đó, học tập là đặc trưng nổi bật của cuộc
sống hiện tại và tương lai. Mỗi con người phải có một trình độ học tập nhất
định, một tay nghề nhất định, trên cơ sở đó mới có thể tự rèn luyện để thích
nghi và sáng tạo trong cuộc sống đang có nhiều biến đổi.
- Ở nước ta, sự chuyển đổi nền kinh tế, cùng với sự đổi mới trên mọi
lĩnh vực đã có ảnh hưởng rất lớn đến mọi mặt của đời sống xã hội. Thực
tiễn đòi hỏi ngành giáo dục và đào tạo nói chung và GDTH nói riêng phải
kịp thời đổi mới mục tiêu, nội dung, phương thức đào tạo. Tất cả những
vấn đề trên đòi hỏi phải nhìn nhận lại những vấn đề cơ bản của GDTH
nước ta: Cần khắc phục và giải quyết sự sa sút về chất lượng, sự thiếu trung
thực trong thi cử, nạn dạy thêm, học thêm tràn lan, sự không phù hợp với
tình hình biến đổi khoa học - xã hội của đất nước hiện nay. Những vấn đề
bức xúc được thể hiện ở chỗ:
+ Chất lượng học tập của học sinh nhìn chung còn thấp.
+ Những điều kiện phục vụ cho dạy và học vừa thiếu vừa yếu kém đã
ảnh hưởng không tốt đến kết quả học tập.
+ Không đa dạng và thiếu cân đối về loại hình trường trung học. Suốt
cả một thời gian dài, dạy nghề chỉ là hình thức, hoàn toàn lý thuyết, rất xa
rời thực tế.
+ Chưa có sự phân hoá trong nội dung dạy học ở cấp THPT đã ảnh
hưởng không tốt đến vấn đề hướng nghiệp cho học sinh.
GDTH nước ta trong 50 năm qua đã có những đóng góp xứng đáng
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta đã bước sang một thời kỳ mới. Những yêu cầu mới
của cách mạng đòi hỏi cần phải thay đổi cơ cấu, nội dung và phương pháp
GDTH.

Như đã trình bày, hệ thống giáo dục trong giai đoạn mới biến đổi
nhanh chóng về khoa học, kỹ thuật, kinh tế - xã hội, hoạt động dạy và học
phải luôn tự điều chỉnh để thích ứng.
GDTH có vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy tốc độ phát triển
kinh tế xã hội, đất nước, thực hiện 3 mục tiêu giáo dục là nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Trong những năm tới, GDTH cần
được đổi mới theo hai phương hướng sau:
- Góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, thực hiện
mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, xây dựng một nước Việt
Nam giàu mạnh, bình đẳng, hạnh phúc thông qua việc nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Đồng thời góp phần hình thành và phát triển nhân
cách học sinh, nhằm đào tạo ra những con người năng động, sáng tạo, có
năng lực giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra cho cá nhân, gia đình,
cộng đồng và xã hội.
- Hoà nhập GDTH trên thế giới, nhất là ở khu vực trong bối cảnh một
thế giới mở cửa, hợp tác để giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu
Để thực hiện sứ mệnh trọng đại này, trong quá trình đổi mới GDTH
cần phải giải quyết những vấn đề sau đây:
- Tăng cường khả năng mở rộng quy mô đào tạo để đáp ứng những
yêu cầu phát triển sản xuất, góp phần thực hiện bình đẳng trong cơ hội
hưởng thụ giáo dục.
- Bảo đảm hiệu quả và chất lượng GDTH trong tình hình đất nước còn
nghèo, khả năng tài chính của đất nước đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp.
- Đa dạng hoá các hình thức tổ chức GDTH để vừa bảo đảm cơ hội
học tập cho mọi người, vừa đáp ứng những yêu cầu của một nền kinh tế
đang phát triển, tạo ra một xã hội học tập.
- Phân hoá nội dung đào tạo vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội, vừa đáp ứng nhu cầu của học sinh và mong muốn của gia đình học
sinh
Ngành giáo dục - đào tạo nước ta đứng trước 3 mục tiêu lớn: Nâng

cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi dưỡng nhân tài, phục vụ CNH - HĐH
đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được
những mục tiêu trên, vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên, đặc biệt là xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục là hết sức quan trọng và có ý nghĩa
chiến lược rất lớn. Họ có vai trò quyết định cho sự phát triển nền giáo dục
quốc dân trong tương lai.
1.2.2. Quản lý hoạt động dạy học ở trường THPT
Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm chi phối tất cả các hoạt
động giáo dục khác trong nhà trường. Đó là con đường trực tiếp và thuận
lợi nhất để giúp cho học sinh lĩnh hội được tri thức của xã hội loài người.
Hoạt động dạy học làm cho học sinh nắm vững tri thức khoa học một
cách có hệ thống, cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết trong học tập,
lao động và trong đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập
sáng tạo, hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của
học sinh, hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, lòng yêu nước, yêu
CNXH. Ở trẻ em, đó chính là động cơ học tập trong nhà trường và định
hướng hoạt động của học sinh sau này.
Vì vậy có thể nói, hoạt động dạy học trong nhà trường đã tô đậm
chức năng xã hội của nhà trường, đặc trưng cho nhiệm vụ của nhà trường
và là hoạt động giáo dục trung tâm, là cơ sở khoa học của các hoạt động
giáo dục khác trong nhà trường.
Quản lý hoạt động dạy học là phải tổ chức thực hiện các nhiệm vụ hoạt
động dạy và học ở trên lớp, tập trung chủ yếu vào các nhiệm vụ sau đây :
+ Thầy dạy và trò học nghiêm túc, đầy đủ theo chương trình và kế
hoạch đào tạo ở tất cả các lớp, không được coi nhẹ và bỏ bớt môn nào, ở
bất cứ lớp nào, chú trọng cả việc dạy lý thuyết lẫn thực hành, đào tạo được
thế hệ học sinh phát triển toàn diện.
+ Xây dựng nền nếp giảng dạy, nâng cao chất lượng ở tất cả các
khâu của quá trình giảng dạy của giáo viên.
+ Xây dựng được phương pháp học tập cho học sinh; học sinh có

động cơ, tinh thần, thái độ học tập đúng đắn, có phương pháp, nền nếp và
kỷ luật học tập ở lớp cũng như ở nhà.
Để thực hiện được nhiệm vụ đó thì điều kiện cơ sở vật chất, phương
tiện, thiết bị, nguồn kinh phí đóng vai trò rất quan trọng. Vì vậy quản lý
hoạt động dạy và học không những chỉ quản lý hoạt động dạy của thầy,
quản lý hoạt động học của trò mà còn phải quản lý những điều kiện vật
chất-kỹ thuật, điều kiện về kinh phí để phục vụ cho quá trình dạy và học ở
trong nhà trường.
* Quản lý hoạt động dạy của thầy
Hoạt động dạy của thầy là hoạt động chủ đạo trong quá trình dạy
học. Quản lý hoạt động này bao gồm: Quản lý việc thực hiện chương trình
dạy học, quản lý việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp, quản lý giờ lên lớp của
giáo viên, quản lý việc dự giờ và phân tích bài học sư phạm, quản lý hoạt
động kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của học sinh
- Quản lý việc thực hiện chương trình
Thực hiện chương trình dạy học là thực hiện kế hoạch đào tạo theo
mục tiêu của nhà trường phổ thông. Nó là pháp lệnh của nhà nước do Bộ
Giáo dục - Đào tạo ban hành. Yêu cầu đối với hiệu trưởng là phải nắm
vững chương trình, tổ chức cho giáo viên tuân thủ một cách nghiêm túc,
không được tuỳ tiện thay đổi, thêm bớt làm sai lệch chương trình dạy học
(nếu có thay đổi, bổ sung phải theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục- Đào tạo,
Sở Giáo dục - Đào tạo địa phương).
Sù nắm vững chương trình dạy học là việc bảo đảm để hiệu trưởng
quản lý thực hiện tốt chương trình dạy học. Bao gồm :
+ Nắm vững những nguyên tắc cấu tạo chương tình, nội dung và
phạm vi kiến thức của từng môn học, cấp học.
+ Nắm vững phương pháp dạy học đặc trưng của môn học và các
hình thức dạy học của từng môn học.
+ Nắm vững kế hoạch dạy học của từng môn học, từng khối lớp
trong cấp học.

+ Không được giảm nhẹ, nâng cao hoặc mở rộng so với yêu cầu nội
dung, phạm vi kiến thức quy định của từng chương trình môn học.
+ Phương pháp dạy đặc trưng của môn học, của bài học phải phù hợp
với từng loại lớp học, từng loại bài của cấp học.
+ Vận dụng các hình thức tổ chức dạy học khác nhau, kết hợp giữa
các hình thức dạy học trên lớp, ngoài lớp, thực hành, tham quan một cách
hợp lý.
+ Dạy đủ và coi trọng tất cả các môn học theo quy định của phân
phối chương trình, nghiêm cấm việc cắt xén, dồn Ðp bài học, thêm bớt tiết
học với bất cứ môn học nào, lớp học nào, dưới bất kỳ hình thức nào.
Để việc quản lý thực hiện chương tình dạy học đạt kết quả, bảo đảm
thời gian cho việc thực hiện chương trình dạy học, hiệu trưởng phải chủ ý
sử dụng thời khoá biểu như là công cụ để theo dõi, điều khiển và kiểm soát
tiến độ thực hiện chương trình dạy học, để thường xuyên, kịp thời điều
chỉnh những lệch lạc trong quá trình thực hiện chương trình dạy học.
- Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp
Soạn bài là khâu quan trọng nhất trong việc chuẩn bị của giáo viên
cho giờ lên lớp. Tuy nó chưa dự kiến hết các tình huống trong quá trình lên
lớp, nhưng soạn bài thực sự là lao động sáng tạo của từng giáo viên. Nó thể
hiện sự suy nghĩ, lựa chọn, quyết định của giáo viên về nội dung, phương
pháp giảng dạy, hình thức lên lớp phù hợp với đối tượng học sinh và đúng
với yêu cầu của chương trình.
Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp phải bảo đảm những yêu
cầu cần thiết đó là :
+ Bảo đảm tính tư tưởng, tính giáo dục của bài giảng.
+ Thực hiện soạn bài phải đúng quy chế, soạn bài chu đáo trước khi
lên lớp, chống việc soạn bài để đối phó với việc kiểm tra.
+ Bảo đảm nội dung, tri thức khoa học mang tính giáo dưỡng.
+ Đưa việc soạn bài, chuẩn bị lên lớp vào nền nếp, nghiêm túc và
phải bảo đảm chất lượng.

+ Chỉ đạo không rập khuôn, máy móc, bảo đảm và khuyến khích tính
tích cực, tự giác và sáng tạo của giáo viên.
Để việc soạn bài, chuẩn bị lên lớp của giáo viên có thể thực hiện theo
một kế hoạch đồng bộ và có hiệu quả, hiệu trưởng nhà trường cần phải
phân công trách nhiệm cụ thể cho cán bộ, giáo viên trong trường, tạo mọi
điều kiện để họ thực hiện tốt việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp, có kế hoạch
thường xuyên kiểm tra, theo dõi để khuyến khích kịp thời, đồng thời điều
chỉnh những sai lệch nhằm thực hiện đúng quy định đã đề ra.
- Quản lý giờ lên lớp của giáo viên
Hoạt động dạy và học trong nhà trường phổ thông hiện nay được
thực hiện chủ yếu bằng hình thức dạy và học trên lớp, với những giờ lên
lớp và hệ thống bài học cụ thể. Nói cách khác, giờ lên lớp là hình thức tổ
chức cơ bản và chủ yếu nhất của quá trình dạy học trong nhà trường để
thực hiện mục tiêu cấp học.
Chính vì vậy trong quá trình quản lý dạy và học của mình, hiệu
trưởng phải có những biện pháp tác động cụ thể, phong phú và linh hoạt để
nâng cao chất lượng giờ lên lớp của giáo viên, đó là những việc làm của
hiệu trưỏng, là trách nhiệm của người quản lý.
Quản lý giờ lên lớp của giáo viên phải bảo đảm các yêu cầu chủ yếu là :
+ Xây dựng được "chuẩn" giờ lên lớp để quản lý tốt giờ lên lớp của
giáo viên. Chuẩn này, ngoài những quy định chung của ngành như Thông

×