Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Công tác đào tạo nghề có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực không chỉ của Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.97 KB, 117 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác đào tạo nghề có một vị trí quan trọng trong chiến lược phát
triển nguồn nhân lực không chỉ của Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Thực hiện tốt việc đào tạo nghề sẽ giúp cho mỗi quốc gia có được
đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ cao, tay nghề giỏi, khắc phục được
tình trạng thừa thầy, thiếu thợ; đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng và Nhà nước ta đã
nhận thấy rõ vai trò quan trọng của đào tạo nghề, nhất là trong giai đoạn hiện
nay, giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Sự nghiệp CNH - HĐH đòi
hỏi một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, tiếp cận
với khoa học hiện đại. Chiến lược giáo dục - đào tạo của Đảng và Nhà nước
được đề ra theo hướng mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng đào tạo, tạo
điều kiện thuận lợi đáp ứng thiết thực cho hoạt động dạy nghề và học nghề
của nhân dân.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII xác định: Cùng với
khoa học và công nghệ, Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đồng thời, Nghị
quyết Trung ương hai khoá VIII đã phân tích sâu sắc việc xác định những
quan điểm, định hướng, đề ra các mục tiêu và các giải pháp chiến lược nhằm
phát triển công tác đào tạo nghề trong thời kì CNH, HĐH đất nước.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 đã cụ thể hoá mục tiêu phát
triển đối với dạy nghề trong thời kì CNH, HĐH là: Đặc biệt quan tâm nâng
cao chất lượng dạy nghề gắn với nâng cao ý thức kỷ luật lao động và tác
phong lao động hiện đại. Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng, với việc làm
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chú trọng đào tạo công nhân
kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ cao.
Luật giáo dục 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14.6.2005 trong
1
đó, quy định đào tạo nghề phải được thực hiện ở 3 cấp trình độ: sơ cấp nghề,
trung cấp nghề và cao đẳng nghề; tạo sự cạnh tranh trên thị trường trong


nước, khu vực và quốc tế.
Trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm (Việt Trì – Phú Thọ) được
thành lập tháng 10.2006 trên cơ sở trường Trung cấp Công nghiệp Thực
phẩm, là trường duy nhất trên miền Bắc trực thuộc Bộ Công thương đào tạo
hệ Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và Công nhân kỹ thuật ngành: Chế
biến Bảo quản lương thực - thực phẩm. Với hơn 40 năm xây dựng và trưởng
thành, Trường đã phát triển và trở thành một trong những trường trọng điểm
của địa phương và khu vực phía Bắc. Hiện nay, Trường đang đào tạo 09
ngành, 12 chuyên ngành, 10 nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp thực phẩm
như: Lương thực, Chế biến nông sản thực phẩm, Kiểm tra chất lượng sản
phẩm, May công nghiệp…
Trường có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, kết hợp với đội ngũ cán
bộ, giảng viên có bề dày trong công tác quản lý và kinh nghiệm giảng dạy
đáp ứng tốt công tác đào tạo. Tuy nhiên, trường mới được nâng cấp lên Cao
đẳng (2006) nên trang thiết bị dạy học chưa hoàn toàn theo kịp với công
nghệ sản xuất tiên tiến; nội dung chương trình vẫn còn những bất cập. Trình
độ của giảng viên được bồi dưỡng nâng cao song kỹ năng sư phạm còn có
mặt hạn chế, một bộ phận giảng viên dạy thực hành thiếu kinh nghiệm thực
tế sản xuất. Bên cạnh đó, phương pháp quản lý hoạt động đào tạo của cán bộ
quản lý còn hạn chế, sự phối hợp trong việc thúc đẩy giữa một bên là tính
tích cực chủ động của sinh viên, với một bên là PPGD mới của đội ngũ
giảng viên chưa tốt. Trước sự tác động mạnh mẽ của tiến bộ khoa học công
nghệ, với điều kiện thực tế của nhà trường thì năng lực và hiệu quả quản lý
hoạt động đào tạo chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Trong khi đó, trên địa bàn tỉnh với sự hình thành và phát triển khu
công nghiệp Chế xuất Thuỵ Vân, các khu công nghiệp và cụm công, nông
2
nghiệp khác ở các tỉnh phía Bắc với nhiều nông lâm trường trồng các loại
cây nông sản thực phẩm cần phải chế biến sử dụng trong nước và xuất khẩu
đòi hỏi cần có một lực lượng cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật lành nghề

có chất lượng, đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trong khu vực. Điều đó nói
lên rằng, nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo đang là một trong những bức xúc và cấp thiết trong
tình hình hiện nay. Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng được xem
như là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển sự nghiệp Giáo dục –
Đào tạo nói chung và lĩnh vực đào tạo chuyên nghiệp, dạy nghề nói riêng.
Những biện pháp quản lý hoạt động đào tạo mang tính tích cực, đổi
mới và thiết thực được xem là những biện pháp quản lý chiến lược để phát
triển sự nghiệp dạy nghề, góp phần cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng
cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói riêng và đất nước nói chung.
Với những lý do đã trình bày như trên, chúng tôi chọn và thực hiện
nghiên cứu đề tài khoa học “Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo
tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì – Phú Thọ”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích và hệ thống hoá những vấn đề khoa học về quản
lý, quản lý giáo dục và khảo sát thực trạng quản lý hoạt động đào tạo tại
trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm. Từ đó, chúng tôi đề xuất một số
biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
3. Khách thể đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý hoạt động đào tạo tại trường Cao đẳng.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo tại trường Cao đẳng Công
nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
3
4. Giả thuyết khoa học
Xuất phát từ các cơ sở lý luận cùng với nghiên cứu thực tiễn, nếu đề ra
được hệ thống của biện pháp quản lý hoạt động đào tạo một cách có cơ sở
khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường thì chất lượng đào

tạo nghề được nâng lên và như vậy “sản phẩm” của nhà trường đào tạo ra sẽ
đáp ứng yêu cầu xã hội trong xu thế hội nhập hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Hệ thống hoá, phân tích các vấn đề lý luận về quản lý, quản lý đào tạo
nghề ở trường Cao đẳng.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động đào tạo ở trường Cao đẳng
Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
5.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Giới hạn đối tượng nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu khía cạnh của một số biện pháp quản lý hoạt động
đào tạo tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
6.2. Giới hạn khách thể điều tra
- Hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, các trưởng phòng, khoa, tổ chuyên môn
và một số CBGV của trường.
- Sinh viên của trường.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc tra cứu các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng cùng với việc nghiên cứu
các sách, tài liệu liên quan đến những vấn đề quản lý, quản lý giáo dục, công
tác đào tạo nghề… để từ đó phân tích, tổng hợp và hệ thống hoá những vấn
đề đó, làm cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài.
4
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Kết hợp nhiều phương pháp như: Phương pháp điều tra; Phương pháp
quan sát; Phương pháp phân tích và tổng kết các kinh nghiệm giáo dục,
Phương pháp chuyên gia. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như:
phương pháp thống kê toán học.
8. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung cơ bản của luận văn thể hiện 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và hoạt động đào tạo nghề ở các trường
Cao đẳng.
Chương 2: Thực trạng biện pháp quản lý hoạt động đào tạo tại trường
Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động đào tạo tại trường Cao
đẳng Công nghiệp Thực phẩm Việt Trì - Phú Thọ.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO NGHỀ
Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Cùng với sự phát triển về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, hệ
thống giáo dục nói chung cũng như trong lĩnh vực đào tạo nghề nói riêng
luôn luôn được hầu hết các quốc gia trên thế giới quan tâm, phát triển và
hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về phát triển nguồn nhân lực.
Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa
học công nghệ , cùng với xu thế toàn cầu hoá, cũng như sự ra đời của nền
kinh tế tri thức, yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực ngày càng cao. Ở tất cả các
nước trên thế giới, bất luận là nước giàu hay nghèo, hay ở châu lục nào thì hệ
thống giáo dục nói chung, công tác đào tạo nghề nói riêng luôn có vai trò
quyết định đến việc nâng cao vị thế và trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
Như chúng ta được biết, trong cơ cấu lao động, nguồn nhân lực qua
đào tạo nghề là lực lượng đông đảo nhất, trực tiếp tham gia sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội. Khi nghiên cứu về hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở
Việt nam (Năm 1997) các chuyên gia trong và ngoài nước đều khẳng định:
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp đã bị lãng quên trong một thời gian dài.
Đã đến lúc chúng ta nhìn nhận thực tế vai trò của đào tạo nghề với quan
niệm và cách nhìn khác. Đào tạo nghề cộng đồng đối mặt với những thách

thức mới và tự tìm thấy vai trò của mình trong xã hội. Không phải ngẫu
nhiên mà Hội nghị quốc tế có hơn 150 nước tham dự với chủ đề “Giáo dục
kỹ thuật nghề nghiệp trước thềm thế kỷ XXI” được tổ chức tại Hàn Quốc
6
năm 1999 đã đưa ra khuyến nghị:
- Uy tín và địa vị của đào tạo nghề phải được tăng cường trong con
mắt của cộng đồng và các phương tiện thông tin đại chúng.
- Học suốt đời là cuộc hành trình với nhiều hướng đi, trong đó giáo
dục kỹ thuật nghề nghiệp là hướng đi chủ yếu trong cuộc hành trình này.
Và đây là một trong những yêu cầu rất quan trọng, trọng tâm và cấp bách
của hệ thống đào tạo nghề hiện nay.
• Thực trạng khung trình độ dạy nghề
Luật giáo dục đã quy định:
- Dạy nghề được thực hiện dưới một năm đối với đào tạo nghề trình độ sơ
cấp, từ một đến ba năm đối với đào tạo trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng.
- Dạy nghề nhằm đào tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ
có năng lực thực hành tương xứng với trình độ đào tạo.
- Dạy nghề được thực hiện ở các cơ sở dạy nghề gồm: Trung tâm dạy
nghề, Trường Trung cấp nghề, Trường cao đẳng nghề.
Việc hình thành ba cấp trình độ đào tạo nhằm đổi mới hệ thống dạy nghề
đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực, phù hợp với cơ cấu tổ chức sản
xuất, thay đổi của kỹ thuật, công nghệ mới trong quá trình CNH, HĐH đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời, cũng tạo tính liên thông giữa
các cấp đào tạo. Và đây là một trong những yêu cầu rất quan trọng, trọng
tâm và cấp bách của hệ thống đào tạo nghề hiện nay.
7
Sơ đồ 1: HỆ THỐNG DẠY NGHỀ MỚI TRONG HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
8
SAU ĐẠI HỌC
ĐẠI HỌC

CAO ĐẲNG
CAO ĐẲNG NGHỀ
(max: 3 năm)
TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
TRUNG CẤP
CHUYÊN
NGHIỆP
TRUNG CẤP NGHỀ
(từ 1 – 3 năm)
TRUNG HỌC
CƠ SỞ
SƠ CẤP NGHỀ
(dưới 1 năm)
TIỂU HỌC
MẪU GIÁO
NHÀ TRẺ
Cùng với các lĩnh vực quản lý khác, quản lý giáo dục nói chung và
quản lý đào tạo nghề nói riêng luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm, đặc biệt là trong nhận thức sâu sắc vai trò của hệ thống giáo dục
nói chung và hệ thống đào tạo Đại học, Cao đẳng nói riêng đối với sự phát
triển KT - XH của mỗi đất nước. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã đóng
góp nhiều giá trị trong thực tiễn quản lý quá trình dạy - học. Tuy nhiên vấn
đề nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động đào tạo nhằm nâng cao chất
lượng hiện nay còn ít được quan tâm. Đặc biệt, với Trường Cao đẳng Công
nghiệp Thực phẩm là trường đang đào tạo đa dạng về trình độ chuyên môn
kỹ thuật (từ trình độ Công nhân kỹ thuật đến Cao đẳng) và phong phú ngành
nghề nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu “Một số biện pháp quản lý hoạt động đào
tạo” tại trường Cao đẳng Công nghiệp Thực phẩm là đòi hỏi cấp thiết và mới

mẻ, nó vừa giải quyết những vướng mắc, vừa tạo ra bước chuyển biến về
chất lượng đào tạo ngành nghề phù hợp với điều kiện thực tiễn, góp phần
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ đắc lực cho việc đẩy mạnh
CNH - HĐH và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Thọ
và trong cả nước.
1.2. Khái niệm công cụ liên quan
1.2.1 Khái niệm biện pháp
Biện là tranh luận, pháp là phép; biện pháp là cách thức giải quyết một
vấn đề hoặc thực hiện một chủ trương. Về phương diện quản lý thì biện pháp
được các chủ thể đề ra, có tính bắt buộc đối với đối tượng quản lý; đồng thời
biện pháp đề ra luôn được chủ động thi hành.
Trong lĩnh vực giáo dục, biện pháp đó là việc tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần của một người hay một số người nào đó nhằm
làm cho họ có được những phẩm chất và năng lực theo yêu cầu đã định.
Khái niệm biện pháp có khi được hiểu là các thao tác, thủ thuật, cách thức
9
dạy học của giáo viên trong hoạt động dạy học. Ngoài ra, biện pháp giáo dục
đó là cách tác động có định hướng, có chủ đích, phù hợp với tâm lý đến đối
tượng giáo dục nhằm bồi dưỡng hoặc làm thay đổi những phẩm chất và năng
lực của đối tượng.
1.2.2 Khái niệm về Quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ
đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế đều phải thừa nhận và
chịu sự quản lý nào đó.
Trong tập Các Mác - Ăngghen toàn tập chỉ rõ: “Quản lý xã hội một
cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ
hay những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức
và vận dụng đúng đắn những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm
đảm bảo cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra”. [1]

Lao động xã hội gắn liền với quản lý, quản lý là một hoạt động lao
động đặc biệt, điều khiển lao động chung khi xã hội có sự phân công lao
động. Xã hội càng phát triển, các loại hình lao động ngày càng phong phú,
đa dạng, phức tạp thì hoạt động quản lý ngày càng đóng vai trò quan trọng
và quyết định.
Như vậy, quản lý là một khái niệm rộng lớn, bao gồm nhiều lĩnh vực,
các nhà quản lý kinh tế thiên về quản lý nền sản xuất xã hội, các nhà quản lý
nhà nước thiên về quản lý các hoạt động xã hội theo pháp luật, còn các nhà
quản lý giáo dục thiên về quản lý mọi hoạt động giáo dục và đào tạo trong xã
hội nhằm đạt được những mục tiêu đã định. Tuỳ theo góc độ tiếp cận khác
nhau mà khái niệm quản lý được các nhà khoa học định nghĩa trong các công
trình nghiên cứu khoa học của mình, chẳng hạn:
- Tác giả Vũ Ngọc Hải đưa ra khái niệm về quản lý như sau: “Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng
10
quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.” [8]
- Hai tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ cho rằng “Quản lý là một
quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình
tác động đến hệ thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định. Những mục tiêu
này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong
muốn”. [11]
- Tác giả Nguyễn Văn Lê cho rằng: “Quản lý là một hệ thống xã hội,
là khoa học và nghệ thuật tác động vào hệ thống đó mà chủ yếu là con người
nhằm đạt hiệu quả tối ưu theo mục tiêu đề ra”. [16]
- Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Mỹ Lộc cho rằng “Quản lý là
qúa trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”. [2]
- Đối với tác giả Trần Quốc Thành đã đưa ra định nghĩa chung về
quản lý, có thể xem xét dưới hai góc độ:
+ Theo góc độ Chính trị xã hội thì quản lý là sự kết hợp giữa tri thức với

lao động. Vì vậy, quản lý được xem là tổ hợp các cách thức, phương pháp
tác động vào đối tượng nhằm thúc đẩy sự phát triển xã hội
+ Theo góc độ hành động thì quản lý là quá trình điều khiển. Chủ thể quản
lý điều khiển đối tượng quản lý để đạt tới mục tiêu đã đặt ra.
Từ đó tác giả đã đưa ra định nghĩa: “Quản lý là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội, hành
vi và hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà
quản lý, phù hợp với quy luật khách quan”. [30]
Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định;
nó thể hiện mối quan hệ chủ thể quản lý và đối tượng quản lý, đây là quan hệ
giữa mệnh lệnh và phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc. Ngoài ra,
quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy luật
khách quan và bao giờ cũng quản lý con người. [36]
11
Các định nghĩa trên tuy nhấn mạnh mặt này hay mặt khác nhưng điểm
chung thống nhất đều coi quản lý là hoạt động có tổ chức, có mục đích nhằm
đạt tới mục tiêu xác định. Trong quản lý bao giờ cũng có chủ thể quản lý,
khách thể quản lý quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý.
Nói một cách tổng quát nhất, có thể xem quản lý là: Một quá trình tác
động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt
mục tiêu chung.
1.2.3 Biện pháp quản lý
Biện pháp quản lý được xem là yếu tố linh hoạt, thường được thay đổi
theo đối tượng quản lý. Các nhà quản lý chỉ thực hiện tốt các chức năng của
mình khi nhận thức đúng và sử dụng tốt các biện pháp quản lý. Đối tượng
quản lý là những con người, là một thực thể có cá tính, có thói quen, tình
cảm, nhân cách gắn với các hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Ngoài ra, con người
còn là một chủ thể quản lý phải biết lôi cuốn, thúc đẩy mọi người trong tổ
chức tham gia công việc chung, đem hết sức lực, tài năng làm việc cho tổ
chức. Chỉ có như vậy mới thực hiện được mục tiêu chung, làm cho tổ chức

ngày càng vững mạnh.
Thực tế cho thấy, phần lớn kết quả của một quá trình quản lý lại tuỳ
thuộc vào sự lựa chọn và sử dụng các biện pháp quản lý, điều đó giúp cho
chủ thể quản lý có thể tạo được động cơ, động lực thúc đẩy đối tượng quản
lý thực hiện tốt các nhiệm vụ.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu khái niệm biện pháp quản lý là những định
hướng quan điểm cho công tác quản lý ở một lĩnh vực nào đó, nó cũng là cách
thức, con đường, cách làm cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao nhất của quá trình quản
lý nhằm tiết kiệm thời gian và vật lực của các thành phần tham gia quản lý.
- Quản lý giáo dục
Trước hết, cũng như quản lý xã hội nói chung, quản lý giáo dục là hoạt
động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình. Chỉ
12
có con người mới có khả năng khách thể hoá mục đích, nghĩa là thể hiện cái
nguyên mẫu lý tưởng của tương lai được biểu hiện trong mục đích đang ở
trạng thái tiềm ẩn sang trạng thái hiện thực. Như đã biết, mục đích giáo dục
cũng chính là mục đích của quản lý (tuy nó không phải là mục đích duy nhất
của mục đích quản lý giáo dục). Đây là mục đích có tính khách quan. Nhà
quản lý, cùng đông đảo đội ngũ giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội, ….
bằng hành động của mình hiện thực hoá mục đích đó trong hiện thực.
Về thuật ngữ Quản lý giáo dục cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Theo ý kiến của tác giả Trần Kiểm thì thuật ngữ này có nhiều cấp độ. Ít nhất
có hai cấp độ chủ yếu: cấp vĩ mô và cấp vi mô. Cấp quản lý vĩ mô tương ứng
với việc quản lý một hoặc một loạt đối tượng có quy mô lớn, bao quát toàn
bộ hệ thống. Đối với cấp vĩ mô:
- Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất
cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo
dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội. Hoặc:

- Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích
của chủ thể quản lý trên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính vượt trội/ tính
trồi của hệ thống; sử dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ
thống nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện
đảm bảo sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn biến động. Hoặc:
- Cũng có thể định nghĩa Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của
chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát…
một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục
vụ cho mục tiêu phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. [9, 10]
- M.L. Konđacốp cho rằng: “QLGD là tập hợp tất cả các biện pháp tổ
13
chức, kế hoạch hoá, công tác cán bộ, nhằm đảm bảo sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong HTGD để tiếp tục và mở rộng hệ thống cả về
mặt số lượng cũng như chất lượng”. [14]
- Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD thực chất là tác động
một cách khoa học đến nhà trường, nhằm tổ chức tối ưu các quá trình dạy
học, giáo dục thể chất, theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, tiến
tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới”. [22]
Như vậy, chúng ta có thể hiểu: QLGD thực chất là hệ thống những tác
động có mục đích, có kế hoạch nhằm đạt mục tiêu giáo dục đề ra. Tuy nhiên,
sự tác động đó không chỉ đơn thuần một hướng, QLGD trong đó có quản lý
công tác đào tạo mà tâm điểm là quản lý hoạt động dạy và học, do đó những
tác động của nó lên hệ thống phải là những tác động kép. Từ năm 1973, cố
thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đề cập đến bản chất của QLGD là “Quản lý
thế nào để thầy dạy tốt, trò học tốt, tất cả để phục vụ hai tốt đó”.
Quản lý giáo dục là một lĩnh vực khoa học, đòi hỏi tính chuyên môn
cao, là công cụ giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức triển khai các hoạt
động giáo dục nhất là trong dạy và học, bảo đảm điều kiện cần thiết cho việc
nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.

Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH đất nước; là
điều kiện để tạo ra và phát huy lợi thế cạnh tranh quốc tế của Việt Nam về
nguồn lực con người trong quá trình toàn cầu hoá.
- Quản lý nhà trường:
Nhà giáo dục người Nga Xukhôm linxki đã từng nói: “Trường học là
cái nôi tinh thần của dân tộc. Dân tộc nào biết chăm lo đến cái nôi tinh thần
ấy, họ sẽ có một tương lai rực rỡ”. Dân tộc Việt nam luôn coi trọng sự
nghiệp giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Nhà trường là tế bào, là đơn vị cấu trúc cơ sở trong hệ
14
thống giáo dục quốc dân. Chính nơi đây sẽ hiện thực hóa mọi chủ trương,
đường lối, chính sách giáo dục của Đảng, Nhà nước các cấp; đồng thời cũng
là nơi kiểm chứng những vấn đề lý luận Khoa học giáo dục nói chung, Khoa
học quản lý giáo dục nói riêng. Vì vậy, có thể nói nhà trường là bộ mặt phản
ánh nền giáo dục của cả một đất nước.
Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của xã hội thực hiện các chức
năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho một nhóm dân cư nhất
định của xã hội đó. Nhà trường được tổ chức sao cho việc kiến tạo kinh
nghiệm xã hội nói trên đạt được các mục tiêu mà xã hội đó đặt ra cho nhóm
dân cư được huy động vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm
của xã hội.
Chúng ta cũng có thể hiểu nhà trường theo một khái niệm cụ thể hơn:
Nhà trường là thiết chế chuyên biệt của xã hội, nơi tổ chức thực hiện và quản
lý quá trình giáo dục. Quá trình này được thực hiện bởi hai chủ thể: người
được giáo dục(người học) và người giáo dục(người dạy). Trong quá trình
giáo dục, hoạt động của người học (hoạt động học theo nghĩa rộng) và hoạt
động của người dạy (hoạt động dạy theo nghĩa rộng) luôn luôn gắn bó, tương
tác, hỗ trợ nhau, tựa vào nhau để thực hiện mục tiêu giáo dục theo yêu cầu
của xã hội.

Như vậy, nhà trường là một cộng đồng học tập hay một tổ chức học
tập, không chỉ đối với học sinh mà còn đối với giáo viên và các nhà quản lý.
Hệ thống giáo dục nước ta bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường
xuyên với các ngành học từ mầm non đến đại học. Mục tiêu giáo dục nhằm
“Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xa hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực
của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Đối với cấp vi mô, trong phạm vi nhà trường, hoạt động quản lý bao
15
gồm nhiều loại, như quản lý các hoạt động giáo dục: hoạt động dạy học, hoạt
động giáo dục (theo nghĩa hẹp), hoạt động xã hội, hoạt động văn thể, hoạt
động lao động, hoạt động ngoại khoá, hoạt động giáo dục hướng
nghiệp… Quản lý các đối tượng khác nhau: quản lý giáo viên, học sinh,
quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất….Quản lý (Thực ra là tác động đến)
nhiều khách thể khác nhau: quản lý thực hiện xã hội hoá giáo dục, điều tiết
và điều chỉnh ảnh hưởng từ bên ngoài nhà trường, tham mưu với hội phụ
huynh học sinh, sinh viên….
Trên bình diện vi mô, quản lý giáo dục trong phạm vi nhà trường có
thể xem là đồng nghĩa với quản lý nhà trường. Việc quản lý trường học mà
trọng tâm là quản lý quá trình giáo dục - đào tạo, tức là làm sao đưa hoạt
động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để thực hiện hướng tới mục
tiêu giáo dục. Nội hàm của khái niệm quản lý trường học đã được các nhà
nghiên cứu giáo dục diễn tả theo nhiều góc độ khác nhau. Ta hãy điểm qua
các định nghĩa dưới đây về quản lý nhà trường:
- Theo tác giả Trần Kiểm thì: “Quản lý vi mô là quản lý hoạt động giáo dục
trong nhà trường bao gồm hệ thống những tác động có hướng đích của hiệu
trưởng đến các hoạt động giáo dục, đến con người (giáo viên, cán bộ nhân
viên và học sinh), đến các nguồn lực (cơ sở vật chất, tài chính, thông tin…),
đến các ảnh hưởng ngoài trường một cách hợp qui luật (quy luật quản lý, quy

luật giáo dục, quy luật tâm lý, quy luật kinh tế, quy luật xã hội…) nhằm đạt
mục tiêu giáo dục.” Hoặc:
+ Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống những tác động sư
phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học
sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài trường nhằm huy động và phối
hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động của nhà trường, hướng vào
việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu dự kiến”. [13]
Quản lý nhà trường về bản chất là quản lý con người. Điều đó tạo cho
16
các chủ thể (người dạy và người học) trong nhà trường một sự liên kết chặt
chẽ không những chỉ bởi cơ chế hoạt động của những tính quy luật khách
quan của một tổ chức xã hội - nhà trường, mà còn bởi hoạt động chủ quan,
hoạt động của chính bản thân giáo viên và học sinh. Trong nhà trường, giáo
viên và học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể quản lý. Với tư cách là chủ
thể quản lý, họ là người tham gia chủ động, tích cực vào hoạt động quản lý
chung và biến nhà trường thành hệ tự quản lý. Trong thực tế, giáo viên và
học sinh gắn với rất nhiều quan hệ xã hội trong cộng đồng. Điều này đặt ra
yêu cầu quản lý nhà trường phải gắn với quản lý xã hội và nhiệm vụ quan
trọng của nó là phải thiết lập một quan hệ tối ưu giữa những lợi ích , tình
trạng và sự phát triển của cá nhân, của cộng đồng và của xã hội. Từ góc độ
này, “Quản lý nhà trường thực chất là việc xác định vị trí của mỗi người
trong hệ thống xã hội, là quy định chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ, quan hệ
cùng vai trò xã hội của họ mà trước hết là trong phạm vi nhà trường với tư
cách là một tổ chức xã hội” [12 ]
- Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, quản lý giáo
dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách
nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo”…[9 ]
Từ các khái niệm đó, ta có thể hiểu: Quản lý trường học là một hệ
thống những tác động sư phạm hợp lý và có tính hướng đích của chủ thể

quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng xã hội trong và
ngoài trường nhằm làm cho nhà trường vận hành theo đúng đường lối giáo
dục - đào tạo của Đảng, biến đường lối đó trở thành hiện thực. Quản lý
trường học chính là quản lý giáo dục nhưng trong một phạm vi xác định của
một đơn vị giáo dục mà nền tảng là nhà trường. Như vậy, Quản lý trường
học phải vận dụng tất cả các nguyên lý chung của QLGD để đẩy mạnh hoạt
động của nhà trường thực hiện có hiệu quả mục tiêu đào tạo. Quản lý trường
17
học phải là quản lý toàn diện nhằm phát triển, hoàn thiện nhân cách cũng
như nhân cách nghề nghiệp của học sinh.
1.3 Quản lý hoạt động đào tạo
Quản lý hoạt động đào tạo là nhiệm vụ trọng tâm, nằm trong công tác
quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng. Chủ thể quản lý
có thể thực hiện quản lý một cách trực tiếp hay gián tiếp các hoạt động đào
tạo, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục là: “Đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Vì vậy, quản lý hoạt động đào tạo trong nhà tường chính là nội dung,
cách thức mà chủ thể quản lý cụ thể hoá và sử dụng có hiệu quả các công cụ
quản lý đào tạo trong việc thực hiện các chức năng, mục tiêu và nguyên lý
giáo dục. Trong quá trình đào tạo, các yếu tố mục đích, nội dung, phương
pháp, phương tiện dạy học, chúng luôn vận động và kết hợp chặt chẽ với
nhau thông qua hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Hai hoạt
động này được xem là trung tâm của quá trình đào tạo và có tính chất khác
nhau nhưng thống nhất với nhau trong mối quan hệ giữa thầy và trò, giữa
hoạt động dạy và hoạt động học, chúng cùng lúc diễn ra trong điều kiện
CSVC, kỹ thuật nhất định.
Ngoài ra, quản lý hoạt động đào tạo trong nhà trường cần quan tâm các

vấn đề sau:
- Quản lý công tác tổ chức khoa học môi trường và không gian lao động
sư phạm.
- Quản lý công tác tổ chức hoạt động ở xưởng thực hành.
- Đặc biệt là quản lý công tác tổ chức đánh giá chất lượng dạy - học
trong nhà trường.
18
1.4 Nội dung quản lý hoạt động đào tạo nghề
Quản lý công tác đào tạo chính là quản lý các hoạt động toàn diện
nhằm thực hiện các mục tiêu, kế hoạch đào tạo, nội dung chương trình đào
tạo, phương pháp giảng dạy, kết quả nhân cách nghề nghiệp, tri thức về
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp. Đồng thời, với dạy nghề, cần phải coi
trọng công tác quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ công tác
đào tạo ở các xưởng thực tập nghề. Ngoài ra, nội dung quản lý còn thể hiện ở
các điều kiện cần thiết và bảo đảm tính khả thi cho mọi hoạt động khác của
nhà trường như là quy mô đào tạo, tài chính, môi trường sư phạm, môi
trường xã hội.
Để đạt được mục tiêu, yêu cầu và hiệu quả của quản lý hoạt động đào
tạo trong trường cao đẳng nghề, cần phải thực hiện các nội dung quản lý cụ
thể như sau:
- Quản lý công tác tuyển sinh
Cơ quan cấp trên có thẩm quyền giao chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm. Trên
cơ sở đó, nhà trường xác định quy mô và các ngành đào tạo.
- Quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung chương trình và kế
hoạch đào tạo
Qua khảo sát, điều tra nhu cầu của thị trường lao động, nhà trường
phải xây dựng nội dung chương trình đào tạo một cách hợp lý, vừa đảm bảo
hàm lượng kiến thức chuyên môn, vừa đảm bảo kĩ năng nghề nghiệp được
đào tạo. Mặt khác, trên cơ sở đầu vào của sinh viên để phân bố các môn học
trong chương trình một cách khoa học, hợp lôgíc.

Nội dung đào tạo thể hiện ở việc thống nhất giáo trình, tài liệu giảng
dạy là cơ sở xuất phát cho việc lập kế hoạch giảng dạy của học kỳ, năm học,
toàn khoá học; xây dựng chương trình môn học, lập tiến độ đào tạo, xây
dựng lịch giảng dạy của các ngành nghề được đào tạo…. Đó là hệ thống văn
bản pháp qui để các chủ thể quản lý chỉ đạo, tổ chức thực hiện, hướng dẫn và
19
kiểm tra toàn bộ công tác đào tạo trong nhà trường.
Căn cứ vào chỉ tiêu tuyển sinh được cấp có thẩm quyền giao hàng
năm, nhà trường xác định ngành nghề đào tạo cho năm học mới, phân bố chỉ
tiêu sinh viên vào học các nghề được tổ chức giảng dạy; từ đó xây dựng kế
hoạch đào tạo cho từng nghề. Từ mục tiêu đào tạo, Ban giám hiệu chỉ đạo
cho các Phòng, Khoa chức năng, xây dựng các nội dung đào tạo cho phù
hợp. Đó là toàn bộ những kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề và những nội
dung chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lương tâm nghề nghiệp cần
được trang bị cho sinh viên trong quá trình đào tạo.
Sau khi được quán triệt mục tiêu, nội dung chương trình và kế hoạch
đào tạo, trên cơ sở đó mỗi giảng viên lên kế hoạch giảng dạy, trong đó dự
kiến nội dung, thời gian, phương pháp cũng như phương tiện giảng dạy;
chuẩn bị tài liệu giảng dạy (giáo trình, tài liệu tham khảo). Đặc biệt, đối với
dạy thực hành, ngoài công tác chuẩn bị trên, giảng viên lập kế hoạch sử dụng
các trang thiết bị thực hành ở xưởng và kế hoạch phôi liệu, vật tư thực hành.
Quản lý hoạt động đào tạo mà trong đó quản lý, chỉ đạo thực hiện
đúng và đủ nội dung chương trình và kế hoạch đào tạo là một trong những
khâu trọng yếu của chủ thể quản lý, nhằm giúp giảng viên hoàn thành được
nhiệm vụ chính trị của mình theo đúng quy chế, quy định và đảm bảo chất
lượng, hiệu quả đào tạo, góp phần tích cực trong việc thực hiện và hoàn
thành mục tiêu đào tạo đã đề ra.
- Quản lý trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật và phương tiện dạy học
Hiện nay, trong các trường cao đẳng chuyên nghiệp và trường cao
đẳng nghề Nhà nước do Bộ, Ngành trung ương quản lý thì toàn bộ nguồn

kinh phí đầu tư cho mọi hoạt động của nhà trường được Bộ, Ngành cấp, kể
cả việc đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo, đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết
bị kỹ thuật và phương tiện giảng dạy. Ngoài ra, còn nguồn kinh phí do người
học đóng góp và sự đóng góp công sức của đội ngũ giảng viên, sinh viên
20
trong việc tạo ra các vật lực phục vụ cho công tác đào tạo.
Với nguồn kinh phí được đầu tư như hiện nay rất khó khăn trong việc
tổ chức mua sắm, trang bị cho các xưởng thực hành một cách đồng bộ và
phù hợp với công nghệ hiện đại. Vì thế, một trong các biện pháp hỗ trợ cơ sở
vật chất kỹ thuật để sinh viên có thể tiếp cận với sự phát triển của sản xuất,
đồng thời tạo được kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp là quản lý tốt việc tổ chức
liên kết đào tạo với các đơn vị sản xuất - kinh doanh trên cơ sở thoả thuận
cùng phát triển.
- Quản lý công tác quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ giảng viên
Điều lệ trường Cao đẳng được ban hành tại Quyết định số 14.2009.TT -
BGD&ĐT ngày 28.5.2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo, trong đó quy
định Hiệu trưởng phải là người có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có uy tín, có
sức khoẻ đã qua giảng dạy hoặc tham gia quản lý giáo dục đại học, cao đẳng ít
nhất là 5 năm. Có học vị từ thạc sĩ trở lên. Các Phó hiệu trưởng phải có học vị
từ thạc sỹ trở lên, có đủ sức khoẻ. Phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo và nghiên
cứu khoa học phải có đủ tiêu chuẩn như đối với hiệu trưởng.
Cán bộ quản lý khoa như Trưởng khoa, Phó trưởng khoa là những
người có uy tín, có kinh nghiệm giảng dạy, nghiên cứu khoa học, quản lý và
có trình độ từ thạc sỹ trở lên. Cán bộ quản lý phòng phải có trình độ chuyên
môn nghiệp vụ từ bậc đại học trở lên, đảm đương nhiệm vụ tốt, nhiệt tình
công tác và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Giảng viên giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động giảng dạy, giáo
dục; phải đạt trình độ chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất theo quy
định ở điều 26 của Điều lệ trường cao đẳng do Bộ giáo dục ban hành; phải
có tinh thần nỗ lực phấn đấu hết lòng vì sự nghiệp giáo dục - đào tạo.

- Quản lý hoạt động dạy học
Để quản lý hoạt động dạy học đạt mục tiêu đề ra, nhất thiết phải thực
hiện các chức năng quản lý bao gồm: Công tác lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo,
21
kiểm tra. Những vấn đề này phải được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc.
+ Công tác lập kế hoạch
Căn cứ vào các văn bản chỉ đạo của các cấp có thẩm quyền , BGH chỉ
đạo các phòng chức năng, nghiệp vụ xây dựng các kênh thông tin, nắm bắt
các hoạt động ở trong và ngoài trường liên quan đến công tác đào tạo, xác
định tiềm năng, dự kiến, mục tiêu, tính toán sơ bộ các nguồn lực. Từ đó,
BGH tổng hợp, phác thảo bản kế hoạch đào tạo cho toàn khoá học và cho
từng năm học bao gồm: Mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, nội dung
chương trình đào tạo, thời lượng và tiến độ đào tạo, các hoạt động liên kết,
hoạt động ngoại khoá, kể cả phương án huy động tài lực, vật lực, kế hoạch
mua sắm mới cũng như bổ sung trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho công tác
đào tạo. Bản kế hoạch này được thông qua lấy ý kiến góp ý của các tổ chức
trong nhà trường. Sau khi được tập thể lãnh đạo nhà trường thống nhất, bản
kế hoạch chính thức được Hiệu trưởng phê duyệt và tiến hành tổ chức thực
hiện. Từ bản kế hoạch chính thức này, BGH triển khai đến các phòng, khoa
chuyên môn, để từ đó triển khai đến từng cán bộ giảng viên, công nhân viên
trong toàn trường.
Bản kế hoạch bao gồm: Kế hoạch đào tạo khoá học; kế hoạch đào tạo
năm học, kế hoạch giảng dạy học kỳ, kế hoạch giảng viên, kế hoạch tài
chính…Trong đó kế hoạch đào tạo toàn khoá học là văn bản gốc, là cơ sở để
nhà trường triển khai các hoạt động đào tạo trong nhà trường.
Kế hoạch đào tạo toàn khoá học gồm 3 nội dung chính:
- Mục tiêu đào tạo: Yêu cầu ghi cụ thể về trình độ chuyên môn, trình
độ đào tạo, kỹ năng hành nghề, thái độ chung đối với xã hội.
- Phân phối thời gian cho các môn học: Đây là bản sắp xếp trình tự
các môn học, môn nào học trước, môn nào học sau, số tiết, lý thuyết, thực

hành, thực tập, qui định các môn thi, kiểm tra và số giờ dự kiến học ở kỳ
nào.
22
- Lịch học toàn khoá: Thể hiện thời gian học lý thuyết, thực hành,
thực tập, thi học kỳ, thi tốt nghiệp, lao động, dự trữ, nghỉ hè, nghỉ tết, nghỉ lễ
trong học kỳ, năm học và cả khoá học.
+ Công tác tổ chức
Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận được quy định trong
Điều lệ trường cao đẳng; đồng thời, căn cứ vào trình độ, năng lực chuyên
môn nghiệp vụ, nhu cầu, hoàn cảnh của mỗi thành viên trong đơn vị mà tiến
hành sắp xếp, phân công nhiệm vụ một cách khoa học, hợp lý. Đặc biệt, phải
xây dựng cơ chế phối hợp, quy chế làm việc, giám sát lẫn nhau, tạo điều kiện
cho nhau để hoàn thành nhiệm vụ. Trong quá trình thực hiện, BGH cần phải
nắm bắt được chất lượng của quá trình đào tạo, kịp thời khen thưởng, động
viên những cá nhân và tập thể làm tốt, đạt hiệu quả cao; đồng thời, thường
xuyên theo dõi uốn nắn những lệch lạc, kịp thời bổ sung, điều chỉnh, từng
bước hoàn thiện thông qua hệ thống quản lý.
+ Công tác chỉ đạo
Để kế hoạch của nhà trường khả thi và đạt hiệu quả cao, BGH kịp thời
ra quyết định quản lý cần thiết để chỉ đạo. điều hành, đưa mọi hoạt động của
nhà trường đi theo đúng kế hoạch đã đề ra. Thực hiện nghiêm túc quy chế
phối hợp giữa các khoa, phòng, bộ phận để cho toàn bộ hệ thống hoạt động
của nhà trường ăn khớp, nhịp nhàng.
Mặt khác, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng uỷ, BGH phối hợp
cùng các tổ chức quần chúng trong đơn vị phát huy quy chế dân chủ cơ sở,
quyền làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của đội ngũ CB, GV, CNV trong nhà
trường, tổ chức các hoạt động thiết thực; tạo môi trường lành mạnh, đoàn
kết, gắn bó, phát huy nội lực, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đóng
góp nhiều nhất sức lực của mình cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.
+ Công tác kiểm tra, đánh giá

23
Thực hiện công tác kiểm tra tức là rà soát lại xem việc thực hiện kế
hoạch đạt tiến độ, chất lượng và hiệu quả tới đâu, xem xét sự tác động của
các quyết định quản lý, tìm được những thuận lợi, khó khăn, những nguyên
nhân dẫn đến kết quả của quá trình thực hiện kế hoạch. Trên cơ sở đó, các
chủ thể quản lý kịp thời phát hiện những sai lệch, những tồn tại, yếu kém; để
đề ra các biện pháp thích hợp cho việc điều chỉnh, uốn nắn.
BGH chỉ đạo phòng Đào tạo xây dựng các nội dung kiểm tra, phát
hiện các vấn đề nảy sinh, vướng mắc và đề xuất các biện pháp giải quyết.
đồng thời, chỉ đạo Ban thanh tra nhân dân của nhà trường xây dựng kế hoạch
định kỳ, đột xuất thanh tra trực tiếp các hoạt động của nhà trường. Kết quả
công tác thanh tra, kiểm tra ngoài việc giúp cho BGH kịp thời nắm bắt và xử
lý thông tin, còn giúp cho việc giáo dục nâng cao ý thức trách nhiệm, ý thức
tổ chức kỷ luật, tăng cường “Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm” nhất là
trong hoạt động dạy học, kịp thời điều chỉnh các hoạt động dạy học phù hợp
với yêu cầu, điều kiện thực tế đặt ra, cũng như rút ra những bài học kinh
nghiệm trong công tác quản lý, điều hành kế hoạch đào tạo trong những năm
tiếp theo.
- Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên ở trường cao đẳng
Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên thực chất là quản lý việc
thực hiện các nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên và của từng giảng viên. Công
tác giảng dạy chính là tổ chức quá trình nhận thức của sinh viên, chất lượng
giảng dạy là yếu tố quyết định đến chất lượng nhận thức của sinh viên. Vì
vậy, hoạt động giảng dạy là một trong hai hoạt động trọng tâm của nhà
trường, đòi hỏi đầu tư phần lớn công sức, thời gian, trí tuệ của đội ngũ giảng
viên, đây là hoạt động mang hàm lượng chất xám cao.
Quản lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên trong trường cao
đẳng là nhằm bảo đảm cho CBGV thực hiện đầy đủ và nghiêm túc các nhiệm
24
vụ: chấp hành nội quy, quy chế chuyên môn, thường xuyên học tập, bồi dưỡng

nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ rèn luyện phẩm chất đạo đức, giữ
gìn uy tín, danh dự nhà giáo; tôn trọng nhân cách và đối xử công bằng với
sinh viên, thực hiện đúng và đầy đủ nội dung, chương trình, kế hoạch cũng
như tiến độ đào tạo, đảm bảo chất lượng giảng dạy của giảng viên.
Quá trình giảng dạy của giảng viên gồm các khâu:
Một là, chuẩn bị bài giảng (tài liệu, giáo trình, đề cương bài giảng,
giáo án, phương tiện, đồ dùng dạy học, các trang thiết bị kỹ thuật dạy thực
hành…)
Hai là, tổ chức giảng dạy trên lớp (Thực hiện các bước lên lớp, tổ
chức quá trình nhận thức của sinh viên)
Ba là, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên.
Ba khâu này ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, được kết hợp nhuần
nhuyễn với nhau đảm bảo hiệu quả cao nhất của hoạt động giảng dạy.
- Quản lý hoạt động học tập của sinh viên ở trường cao đẳng
Quản lý hoạt động học tập của sinh viên là quản lý việc thực hiện các
nhiệm vụ học tập, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên trong quá
trình đào tạo.
Sinh viên ở trường cao đẳng có nhiệm vụ chấp hành pháp luật của
nhà nước, thực hiện nghiêm túc nội quy, quy chế của nhà trường; học tập,
rèn luyện kỹ năng nghề theo kế hoạch, nội dung, chương trình đào tạo. Tham
gia lao động và hoạt động xã hội phù hợp lứa tuổi, sức khoẻ và năng lực;
tuân thủ các quy định về an toàn lao động và vệ sinh lao động; giữ gìn, bảo
vệ tài sản của nhà trường, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an toàn xã hội;
thực hiện nếp sống văn minh, lành mạnh, góp phần xây dựng và phát huy
truyền thống của nhà trường.
Hoạt động học có vị trí hết sức quan trọng, đúng thứ hai so với hoạt
25

×