Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.69 KB, 23 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu cùng tập thể thầy cô giáo
trong nhà trường đã tạo điều kiện về thời gian, cung cấp tài liệu tham khảo,
đóng góp một số kinh nghiệm trong giảng dạy cũng như việc áp dụng lý
thuyết vào thực tế giảng dạy của bộ môn Hóa học. Nhằm giúp tôi hoàn thành
đề tài này.
Trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những mặt hạn chế .
Rất mong nhận được sự góp ý của Ban Giám Hiệu cùng các bạn đồng
nghiệp …
Xin trân trọng cảm ơn !
Trang 1

MỤC LỤC
Nội dung Trang
LỜI CẢM ƠN 1
I. PHẦN MỞ ĐẦU 3
I.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3
I.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 4
I.3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU : 4
I.4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 5
I.5. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU : 5
I.6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU : 5
I.7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : 5
I.8. GIẢ THIẾT KHOA HỌC : 6
I.9. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI : 6
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 7
II.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN : 7
II.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN : 9
II.3. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11
II.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 18
II.5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM : 20


III. PHẦN KẾT LUẬN 21
PHẦN PHỤ LỤC 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
Trang 2

I. PHẦN MỞ ĐẦU.
I.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước hiện nay đòi hỏi con người phải có tri
thức đạo đức đặc biệt phải có tính năng động sáng tạo biết làm chủ trong mọi
lĩnh vực và biết ứng dụng những tri thức đã học vào thực tế để nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Muốn tạo ra những thế hệ biết làm chủ công nghệ hiện đại ngày nay thì
nhà trường có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó bộ môn hoá học có vai trò
hết sức to lớn thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường THCS. Môn học này
cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức phổ thông, cơ bản và thói quen
làm việc khoa học, góp phần làm nền tảng cho việc giáo dục xã hội chủ nghĩa,
phát triển năng lực nhận thức, năng lực hành động chuẩn bị cho học sinh học
lên và đi vào cuộc sống lao động.
Với mục tiêu chung đó thì môn Hóa học giúp cho học sinh được những
mục tiêu cụ thể về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Trong đó có kĩ năng biết giải
bài tập hóa học.
Bài tập hoá học có vai trò rất lớn trong việc dạy học tích cực môn Hoá
học. Ngoài ra bài tập hóa học là phương tiện để tích cực hoá hoạt động của
học sinh ở mọi cấp học, bậc học, giúp học sinh hình thành kiến thức mới, kĩ
năng mới và vận dụng tốt kiến thức.
Trong chương trình Hoá học THCS có rất nhiều dạng bài tập. Trong đó
dạng bài tập tính theo phương trình hoá học là một trong những dạng bài tập
cơ bản. Học sinh được làm quen từ bài 22 hoá học 8. Tuy nhiên học sinh vẫn
còn nhiều bỡ ngỡ khi giải các bài tập này đặc biệt là bài hoá học vận dụng

học.
Năm học 2008 - 2009 là năm thứ 3 toàn ngành giáo dục hưởng ứng
cuộc vận động “hai không” với 4 nội dung và được xác định là "Năm học đẩy
Trang 3

mạnh ứng dụng cơng nghệ thơng tin, đổi mới quản lý tài chính và triển khai
phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Tơi ln trăn
trở phải làm thế nào để thực hiện tốt cuộc vận động này, và điều tơi đúc kết
được đó là phải làm sao để nâng cao được chất lượng dạy và học. Muốn nâng
cao chất lượng dạy học thì “Thầy phải dạy tốt, trò phải học tốt”
Trường THCS Mạc Đĩnh Chi là nơi tơi dạy. Khả năng nắm bắt, tư duy
của các em còn hạn chế đặc biệt về các mơn tự nhiên như : Tốn, Vật lí, Hố
học đòi hỏi tư duy cao. Do đó việc giải bài tập Hố học nói chung đạt hiệu
quả chưa cao và kĩ năng giải bài tập hố học tính theo phương trình dạng hỗn
hợp có vận dụng học nói riêng còn thấp. Do đó đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến
chất lượng học tập của các em. Trên cơ sở đó tơi đã dành thời gian nghiên cứu
chương trình Hố học THCS tìm hiểu và phân loại các dạng bài tập tính theo
phương trình hố học, một mặt nâng cao chun mơn của mình, mặt khác có
thể giúp các em học tốt mơn hóa học. Đây chính là lí do mà tơi chọn nội dung
của đề tài này: “Rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo
phương trình hố học có vận dụng tốn học”
I.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với mục đích nhằm nâng cao kiến thức cho học sinh, đòi hỏi ở người giáo
viên phải sáng tạo tìm tòi và có sự vận dụng kết hợp với tốn học để phát triển
năng lực tư duy cao hơn cho các em từ những bài tốn hố học cơ bản của
SGK, từ đó giúp các em hứng thú học tập bộ mơn Hố học cũng như Tốn
học.
Từ việc nghiên cứu vận dụng thực hiện, bản thân tơi tự đúc rút ra những kinh
nghiệm, biện pháp hay để có thể vận dụng cho những năm học sau.
I.3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU :

Nghiên cứu thực tiễn cơ sở vật chất nhà trường, gia đình, xã hội.
Trang 4

Nghiên cứu về Rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo
phương trình hố học có vận dụng tốn học cho học sinh ở trường trung học
cơ sở.
Nghiên cứu các hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh
Đúc rút kinh nghiệm của mình và đưa ra các biện pháp để giải quyết vấn
đề Rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hố
học có vận dụng tốn học cho học sinh ở trường trung học cơ sở.
I.4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu về rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo
phương trình hố học có vận dụng tốn học cho học sinh ở trường trung học
cơ sở.
I.5. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU :
Giáo viên giảng dạy và học sinh học mơn hố học ở trường trung học cơ sở.
I.6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Vì điều kiện thời gian, kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên phạm vi
nghiên cứu chỉ giới hạn đối với học sinh khối 8 trường trung học cơ sở.
I.7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
- Phương pháp quan sát : Sử dụng phương pháp này để nghiên cứu, quan sát
các hoạt động dạy học của giáo viên và học tập của học sinh.
- Phương pháp đối thoại : Trực tiếp trò chuyện với giáo viên và học sinh để
bổ sung kinh nghiệm cho phương pháp điều tra.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu : Để nghiên cứu tài liệu, sách báo có liên
quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh : Thơng qua
các bài kiểm tra để thấy được rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất
Trang 5


tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học cho học sinh ở trường
trung học cơ sở có hiệu quả hay không.
- Phương pháp thống kê toán học : Sử dụng phương pháp này để xử lí các
số liệu đi đến kết luận phù hợp với giả thiết khoa học.
I.8. GIẢ THIẾT KHOA HỌC :
- Nếu những biện pháp trong đề tài này được áp dụng một cách đồng bộ, có
sự tìm tòi của giáo viên bộ môn và sử dụng các biện pháp này một cách linh
hoạt thì tôi tin chắc rằng chất lượng bộ môn hoá học sẽ thu được kết quả khả
quan.
I.9. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI :
- Phần mở đầu
+ Lí do chọn đề tài
+ Mục đích nghiên cứu
+ Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu
+ Khách thể nghiên cứu
+ Phạm vi nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu
+ Giả thiết khoa học
+ Cấu trúc đề tài
- Phần nội dung
+ Cơ sở lí luận
+ Cơ sở thực tiễn
+ Kết quả đạt được
+ Bài học kinh nghiệm
- Phần kết luận
- Tài liệu tham khảo
Trang 6

II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI.

II.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN :
II.1.1 Phương pháp dạy học được hiểu như thế nào ?
Nói tóm tắt thì phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo
viên trong việc chỉ đạo, tổ chức hoạt động của học sinh nhằm đạt được mục
tiêu dạy học.
Trong phương pháp dạy học cần nắm vững các mối quan hệ sau :
II.1.1.1 Quan hệ giữa dạy và học :
Thuật ngữ “ dạy học “ ( dạy việc học, dạy cách học ) vốn dùng để phản
ánh hoạt động của người dạy. Nhưng đối tượng của hoạt động dạy là người
học . Người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy vừa là chủ thể của hoạt
động học, phương pháp dạy học và quan niệm chức năng cơ bản của dạy là
dạy cách học; trong hoạt động dạy - học thì giáo viên giữ vai trò chỉ đạo, học
sinh giữ vai trò chủ động.
II.1.1.2 Quan hệ giữa mặt bên ngoài và mặt bên trong của phương
pháp dạy học.
Mặt bên ngoài là trình tự hợp lý các thao tác hành động của giáo viên
và học sinh như : Giáo viên giảng giải, đặt câu hỏi, treo tranh, biểu diễn thí
nghiệm… học sinh nghe, trả lời, quan sát, giải thích điều đã quan sát…
Mặt bên trong là cách thức tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh,
là con đường giáo viên dẫn dắt học sinh lĩnh hội nội dung dạy học : giải thích
minh hoạ, tìm tòi từng phần, đặt và giải quyết vấn đề.
Mặt bên trong phụ thuộc một cách khách quan vào nội dung dạy học và
trình độ phát triển tư duy của học sinh. Mặt bên ngoài tuỳ thuộc ở kinh
nghiệm sư phạm của giáo viên và chịu sự ảnh hưởng của phương tiện thiết bị
dạy học. Mặt bên trong quy định mặt bên ngoài. Nếu chú trọng nhiệm vụ phát
triển tư duy thì phải quan tâm đến mặt bên trong của phương pháp dạy học.

Trang 7

II.1.1.3 Quan hệ giữa phương pháp dạy học và các thành tố của quá

trình dạy học.
Quá trình dạy học - hiểu theo tiếp cận hệ thống - gồm 6 thành tố cơ bản
( Mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá) tương tác
với nhau tạo thành chỉnh thể, vận hành trong môi trường giáo dục của nhà
trường và môi trường kinh tế - xã hội của cộng đồng.
II.1.1.4 Phương pháp tích cực.
Trong Xã hội hiện đại ngày nay đang biến đổi nhanh với sự phát triển
của thông tin, khoa học kĩ thuật, công nghệ tuy vậy không thể nhồi nhét vào
đầu trẻ khối lượng kiến thức ngay lập tức mà phải quan tâm dạy cho trẻ
phương pháp học ngay từ bậc tiểu học, càng lên bậc học cao hơn càng được
chú trọng và nâng cao dần khối lượng kiến thức.
Trong phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kỹ năng, thói quen, ý chí tự học
thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dạy nội lực vốn có trong mỗi con người,
kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội.
Vì vậy ngày nay, người ta nhấn mạnh mọi hoạt động học trong quá
trình dạy - học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập
chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ
tự học ở nhà sau bài học trên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn
trực tiếp của thầy.
Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác. Trong một
lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không đồng đều tuyệt đối
thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận sự phân hoá về
cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là bài học được thiết kế
thành một chuỗi công tác độc lập.
Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò. Trong dạy học việc
đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định hiện trạng học và điều

Trang 8


chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực
trạng học và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây thường quan niệm giáo viên giữ độc quyền đánh giá học
sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát
triển kỹ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học, liên quan đến điều này,
giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn
nhau - tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là một năng lực rất
cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường cần trang bị cho học
sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội thì việc kiểm tra đánh
giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lại các kỹ năng đã học
mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết những
tình huống thực tế.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn
đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ
để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức nội dung học tập, chủ động đạt các mục
tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình.
II.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN :
II.2.1 Kỹ năng giải bài tập tính theo phương trình Hoá học
“Rèn luyện kỹ năng giải bài tập tính theo phương trình Hoá học” là một
vấn đề không mới, vấn đề này có thể được nhiều giáo viên, nhiều nhà giáo
dục nghiên cứu đề cập đến song bản thân tôi nhận thấy bài tập tính theo
phương trình hoá học, dạng bài hỗn hợp các chất có vận dụng toán học là vấn
đề cần được phát hiện và được tiến hành thường xuyên, liên tục. Theo tôi việc
nghiên cứu đề tài góp phần giúp cho giáo viên thấy rõ tầm quan trọng của
việc rèn kĩ năng giải bài tập hoá học cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng

Trang 9


dạy và học môn hoá. Muốn rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất
tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán giáo viên cần:
+ Nắm vững các bước giải bài tập tính theo phương trình hoá học.
+ Nắm được một số nét riêng của loại bài tập tính theo phương trình
hoá học dạng hỗn hợp các chất.
+ Biết vận dụng toán học vào hoá học.
+ Dựa trên khả năng tiếp thu của học sinh để phân loại bồi dưỡng học
sinh cho phù hợp.
II.2.2 Tình hình thực tiễn về trình độ và điều kiện học tập của học
sinh.
Xuất phát từ nhiệm vụ đào tạo của nhà trường là đào tạo thế hệ trẻ cho
đất nước phát triển toàn diện về mọi mặt. Xuất phát từ nguyên lí của giáo dục
“học phải đi đôi với hành”. Vì vậy trong quá trình dạy học tôi luôn chú trọng
cung cấp đầy đủ chính xác kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên trình độ kiến
thức kĩ năng từng đối tượng học sinh trong lớp không giống nhau do đó tôi đã
tiến hành khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học, để từ đó phân
loại đối tượng học sinh để tìm ra những phương án tối ưu sao cho phù hợp với
từng đối tượng học sinh.
Khi chuẩn bị thực hiện đề tài qua quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy
việc giải bài tập tính theo phương trình Hoá học của học sinh là rất yếu. Đa số
học sinh cho rằng hoá học là môn khó học, các em rất sợ và hầu như rất ít học
sinh nắm vững kiến thức cũng như kỹ năng hoá học. Vì thế các em rất thụ
động trong các tiết học và không hứng thú bộ môn này, ngoài ra nhà trường
còn thiếu nhiều trang thiết bị, hoá chất để phục vụ cho việc học tập của học
sinh. Địa bàn nông thôn rộng lớn, nhà dân thưa thớt nên việc trao đổi lẫn nhau
trong học tập là rất khó khăn.
II.2.3 Chuẩn bị vận dụng đề tài.
Để áp dụng các phương pháp trong dạy học tôi đã thực hiện một số
khâu quan trọng sau:


Trang 10

Xác định mục tiêu, dự đoán những tình huống có thể xảy ra trong quá
trình rèn luyện kỹ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương
trình Hoá học.
Tìm hiểu tình hình học sinh, tạo niềm tin cho học sinh về khả năng hoạt
động tìm tòi của các em, đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cho học sinh để các em chủ
động sẵn sàng tham gia các hoạt động một cách tích cực, tự giác và sáng tạo.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học : trong phương pháp rèn kĩ năng giải bài tập
dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học
chủ yếu dựa vào bảng phụ là chính.
II.2.4 Qua đánh giá phân loại học sinh tôi tập trung nghiên cứu và
thực hiện những biện pháp cụ thể sau:
II.2.4.1. Xác định kiến thức có liên quan.
Để giải quyết loại bài tập này học sinh cần phải nắm vững các bước
giải bài toán tính theo phương trình hóa học. Sau đó học sinh phải biết cách
lập và giải hệ phương trình toán học.
II.2.4.2. Giáo viên đưa ra ví dụ cụ thể tiến hành giải song song với
giải bài toán cổ.
Cùng với việc giải song song như vậy giúp học sinh biết cách giải toán
Hoá học có vận dụng Toán học.
II.3. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
II.3.1. Kiến thức học sinh cần nắm.
II.3.1.1. Học sinh phải nắm vững các bước giải bài tính phương
trình hoá học ở bài 22, Tiết 22, 23 theo phân phối hoá học lớp 8 đó là .
1. Chuyển đổi khối lượng hoặc thể tích chất khí thành số mol chất.
2. Viết phương trình hoá học.
3. Dựa vào phương trình hoá học để tìm mol chất tham gia hoặc chất
tạo thành.


Trang 11

4. Chuyển đổi số mol chất thành khối lượng (m = n x M ) hoặc thể tích
khí ở ĐKTC ( V = 22,4 x n )
Học sinh nắm chắc các bước và làm thành thạo các bài tập đơn giản có
như vậy thì khi đưa bài tập hỗn hợp các chất vào học sinh mới vận dụng được.
II.3.1.2. Học sinh biết cách giải hệ phương trình bậc nhất hai ẩn số.
- Giải hệ phương trình bằng phương pháp cộng đại số.
- Giải hệ phương trình bằng phương pháp thế.
- Giải hệ phương trình bằng máy tính bỏ túi
II.3.2. Ví dụ cụ thể.
II.3.2.1: Ví dụ 1: Bài toán 1: Hoà tan hoàn toàn 3,6g Magie vào dung
dịch HCl dư theo sơ đồ:
Mg + HCl
− − − →
MgCl
2
+ H
2
.
a, Em hãy lập phương trình hoá học.
b. Tính thể tích khí Hiđro thu được đo ở ĐKTC.
Giải:
Số mol Mg tham gia phản ứng:
)(15,0
24
6,3
moln
Mg

==
Phương trình hoá học:
Mg + 2HCl
→
MgCl
2
+ H
2
1 2 1 1
0,15 mol
→
0,15 mol
Thể tích khí H
2
sinh ra ở ĐKTC.
)(36,34,22.15,0
2
litV
H
==
II.3.2.2.Ví dụ 2: Bài toán 2. Hoà tan hoàn toàn 5,4 gam Nhôm vào
dung dịch HCl dư theo sơ đồ:
Al + HCl
− − − →
AlCl
3
+ H
2
.
a, Em hãy lập phương trình hoá học.

b. Tính thể tích khí Hiđro thu được ở ĐKTC.

Trang 12

Giải:
Số mol Nhôm tham gia phảm ứng:
)(2,0
27
4,5
moln
Al
==
a. Phương trình hoá học.
2Al + 6 HCl
→
2AlCl
3
+ 3H
2
.
2 6 2 3
0,2 mol
→
0,3 mol
Thể tích khí H
2
thoát ra ở ĐKTC.
)(72,64,22.3,0
2
litV

H
==
Đây là 2 bài đơn giản mà hầu hết học sinh đều giải đúng theo các bước
tiến hành nêu ở trên. ( 2 ví dụ trên đều tương tự như nhau – chỉ thay đổi kim
loại phản ứng ).
Từ hai bài toán đơn giản trên nhằm hình thành và rèn luyện kĩ năng giải
dạng bài toán hỗn hợp các chất đó là:
- Trộn hỗn hợp hai kim loại có khối lượng ở bài toán 1 và 2.
- Lấy kết quả của khí Hiđro thoát ra (thu được) ở ĐKTC của bài toán 1
và 2. Từ đó hình thành bài toán hỗn hợp sau.
II.3.2.3. Ví dụ 3: Bài toán 3: Hoà tan hoàn toàn 9 gam (3,6 + 5,4) hỗn
hợp hai kim loại Magie và Nhôm trong dung dịch HCl dư thu được 10,08
(3,36 + 6,72) lít Hiđro ở ĐKTC.
a. Viết phương trình phản ứng hoá học xảy ra.
b. Tính khối lượng mỗi kim loại trong hỗn hợp ban đầu.
(hoặc câu hỏi: Tính thành phần phần trăm về khối lượng của mỗi kim
loại trong hỗn hợp ban đầu).
Bài toán 3 là dạng bài toán hỗn hợp có thể giải bằng nhiều phương
pháp khác nhau (có thể giải bằng phương pháp số học, phương pháp đại số).
Trong phạm vi bài này tôi muốn rèn luyện cho học sinh cách giải kết
hợp việc vận dụng giải bài toán cổ.

Trang 13

“Vừa gà vừa chó, bó lại cho tròn. 36 con, 100 chân chẵn. Tính số gà, số
chó”
Giáo viên hướng dẫn học sinh giải bài toán cổ từ đó dẫn dắt học sinh
vận dụng vào giải bài toán hóa học dạng hỗn hợp các chất.
Giải theo phương pháp lập hệ
phương trình bậc nhất hai ẩn số.

Gọi số gà là x con (x > 0,
nguyên)
Số chó là y con (y > 0, nguyên)
Ta có phương trình.
x + y = 36 (*)
Cứ một con gà có 2 chân

x con gà có 2x chân.
Cứ một con chó có 4 chân.

y con chó có 4y chân
Theo bài ra ta có phương trình
về tổng số chân gà và chân chó
là:
Vận dụng bài hoá học dạng hỗn hợp các
chất.
a, Viết phương trình phản ứng hóa học.
Mg + 2HCl
→
MgCl
2
+ H
2
(1)
2Al + 6HCl
→
2AlCl
3
+ 3H
2

(2)
b. Gọi khối lượng Mg là x (x > 0, tính
bằng gam)
Gọi khối lượng Al là y ( y > 0, tính bằng
gam )
Ta có phương trình.
x + y = 9 (*)
Từ PTHH (1) ta có.
Cứ 24g Mg phản ứng cho 22,4 lít H
2
x gam Mg phản ứng cho
24
.4,22 x
lít H
2
.
Từ PTHH (2) ta có.
Cứ 2.27 gam Al phản ứng cho 3.22,4 lít
H
2
.
y gam Al phản ứng cho
54
.2,67
27.2
.4,22.3 yy
=

lít H
2

Theo bài ra ta có phương trình về tổng
thể tích khí H
2
thoát ra ở ĐKTC.
(**)08,10
54
.2,67
24
4,22
=+
yx
Kết hợp (*) và (**) ta có hệ phương

Trang 14

2x + 4y = 100 (**)
Kết hợp (*) và (**) ta có hệ
phương trình.



=+
=+
10042
36
yx
yx
Giải hệ phương trình ta tìm được
x = 22; y = 14;
Vậy số gà là 22 con, số chó là 14

con.
trình





=+
=+
08,10
54
2,67
24
4,22
9
yx
yx
Giải hệ phương trình tìm được.
Khối lượng Mg: x = 3,6 g
Khối lượng Al: y = 5,4g.
II.3.2.4. Ví dụ 4: Bài toán 4.
Hoà tan hoàn toàn 5,2g hỗn hợp gồm Mg và Fe bằng dung dịch axit
HCl 1M, thì thu được 3,36 lít H
2
ở ĐKTC.
a. Tính % khối lượng mỗi kim loại trong hỗn hợp.
b. Tính thể tích dung dịch axit HCl đã dùng.
Giải
a. Phương trình hoá học
Mg + 2HCl

→
MgCl
2
+ H
2
(1)
Fe + 2HCl
→
FeCl
2
+ H
2
(2)
Gọi khối lượng Mg là x (g) (x > 0).
Khối lượng Fe là y (g) (y > 0).
Ta có phương trình.
x + y = 5,2 (*)
Từ PTHH (1) ta có:
Cứ 24g Mg phản ứng cho 22,4 lít H
2
Vậy x gam Mg phản ứng cho
24
.4,22 x
lít H
2
Từ PTHH (2) ta có.
Cứ 56g Fe phản ứng cho 22,4 lít H
2

Trang 15


Vậy y gam Fe phản ứng cho
56
.4,22 y
lít H
2
Theo bài ra ta có phương trình về tổng thể tích khí H
2
thoát ra ở ĐKTC:

(**)36,3
56
.4,22
24
.4,22
=+
yx
Kết hợp (*) và (**) có hệ phương trình:





=+
=+
36,3
56
.4,22
24
.4,22

2,5
yx
yx
Giải ra ta có khối lượng Mg: x = 2,4g
Khối lượng Fe : y = 2,8g
 %Mg =
%15,46%100.
2,5
4,2
=
 %Fe =
%85,53%100.
2,5
8,2
=
b.
)(1,0
24
4,2
moln
Mg
==
)(05,0
56
8,2
moln
Fe
==
Từ PTHH (1) và (2) tổng số mol axit đã dùng.
)(3,02.05,02.1,022 molyxn

HCl
=+=+=

)(3,0
1
3,0
litV
HCl
==
Vậy thể tích dung dịch axit HCl đã dùng là 0,3 lít.
II.2.2.5.Ví dụ 5: Bài toán 5. Khử hoàn toàn 5,43 gam một hỗn hợp
gồm 2 oxit CuO và PbO bằng khí Hiđro thu được 0,9 gam nước.
a. Viết các phương trình hoá học xảy ra.
b. Tính khối lượng mỗi oxit có trong hỗn hợp ban đầu.
c. Tính thành phần phần trăm theo khối lượng của mỗi chất rắn thu
được sau phản ứng.
Giải:
a. Phương trình hoá học.

Trang 16

CuO + H
2

0
t
→
Cu + H
2
O (1)

PbO + H
2

0
t
→
Pb + H
2
O (2)
b. Gọi khối lượng của CuO là x (x > 0, tính bằng gam).
Khối lượng của PbO là y (y > 0, tính bằng gam).
Ta có phương trình: x + y = 5,43 (*)
Từ PTHH (1) ta có:
Cứ 80g CuO phản ứng cho 18g nước.
Vậy: x gam CuO phản ứng cho
g
x
80
.18
nước.
Từ PTHH (2) ta có:
Cứ 223g PbO phản ứng cho 18g nước.
Vậy y g PbO phản ứng cho
223
.18 y
g nước.
Theo bài ra ta có phương trình về tổng khối lượng nước được tạo thành.
(**)9,0
223
.18

80
.18
=+
yx
Kết hợp (*) và (**) ta có hệ phương trình.





=+
=+
(**)9,0
223
.18
80
.18
(*)43,5
yx
yx
Giải ra ta có: Khối lượng CuO: x = 3,2g.
Khối lượng PbO: y = 2,23g.
c. Theo kết quả phần b ta có.
)(04,0
80
2,3
moln
CuO
==
Theo phương trình (1).

)(04,0 molnn
CuOCu
==
 m
Cu
= 0,04. 64 =2,56 (g).
)(01,0
223
23,2
moln
PbO
==

Trang 17

Theo phương trình (2)
)(01,0 molnn
PbOPb
==

)(07,201,0.207 gm
Pb
==
Khối lượng hỗn hợp sau phản ứng
)(63,407,256,2 gmmm
PbCuhh
=+=+=
% Cu =
%3,55%100.
63,4

56,2
=
% Pb =
%7,44%100.
63,4
07,2
=
Qua các ví dụ trên. tổ chức thiết kế dạy học đã góp phần rất lớn vào
việc nâng cao chất lượng dạy học. Học sinh nắm vững kiến thức vừa rèn
luyện kỹ năng vừa phát triển năng lực hoạt động tư duy, phát huy khả năng
sáng tạo của học sinh làm cho tiết học thực sự trở nên sinh động theo hướng
tích cực vaø qua việc hướng dẫn cách giải bài hỗn hợp các chất kết hợp việc
vận dụng toán học, nhằm giúp học sinh cách giải nhanh hơn các dạng bài toán
hoá học tính theo phương trình hoá học. Từ bài toán 3,4,5 ở trên giáo viên có
thể yêu cầu học sinh đặt các đề toán có dạng tương tự như trên (với bài toán
chung nhất). Bài toán đó là: “Cho một hỗn hợp gồm hai chất A và B (A và B
có thể là hai kim loại, oxit, axit, bazơ, muối …) Có khối lượng (m) gam, tác
dụng với chất C, thu được các sản phẩm, trong đó có một sản phẩm D chung
(chất D có thể đã biết khối lượng, có thể biết thể tích ở ĐKTC …). Trên cơ sở
đó tính khối lượng, hay tính phần trăm về khối lượng của mỗi chất có trong
hỗn hợp ban đầu”
II.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
II.4.1. Kết quả đạt được.
II.3.2.1. Chất lượng học sinh khi chưa vận dụng đề tài
Tổng số: 50 học sinh.
Loại
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
Tổng số 1 2 7 14 32 64 9 18 1 2
Qua đánh giá phân loại.


Trang 18

- 16% học sinh biết cách giải song trình bày chưa khoa học.
- 64% học sinh có hướng giải song chưa trình bày được.
- 20% học sinh chưa biết cách giải bài tập.
Nguyên nhân kết quả trên là:
- Đại đa số các em còn thiên về học thuộc lòng mà chưa chuyên sâu về
bản chất.
- Dạng bài tập này vận dụng óc tư duy sáng tạo nhiều nhưng sự tư duy
của học sinh chưa cao.
- Dạng bài tập bày liên quan đến môn toán mà kĩ năng giải toán của học
sinh còn hạn chế.
II.3.2.2. Chất lượng học sinh khi vận dụng đề tài
Qua việc phân loại được dạng bài tập hỗn hợp các chất tính theo
phương trình hoá học có vận dụng toán học và hướng dẫn giải bài tập mẫu đã
đem lại hiệu quả thiết thực đem lại hứng thú trong học tập môn Hoá học. Học
sinh thích học môn Hoá học hơn và không còn ngại khi giải bài tập tính theo
phương trình hoá học dạng hỗn hợp các chất.
Kết quả học sinh cuối năm đạt được như sau.
Loại
Giỏi Khá TB Yếu Kém
SL % SL % SL % SL % SL %
Tổng số 11 22 18 36 19 38 2 4 0 0
Như vậy khi sử dụng phương pháp dạy học như trên đã thấy được chất
lượng bộ môn hoá học tăng cao, nhằm góp phần vào đội tuyển học sinh giỏi
của trường, cũng như của huyện, số học sinh giỏi đầu năm chỉ có 01 em
chiếm tỉ lệ 02% tăng lên 11 học sinh chiếm 22%, số học sinh khá cũng tăng
vọt từ 07 học sinh chiếm 14% đến cuối năm học tăng lên 18 học sinh chiếm
36%, còn số học sinh yếu giảm đáng kể từ 9 học sinh chiếm 18% còn 02 học

sinh chiếm 04 % và không còn học sinh kém.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài thì đa số học sinh đã biết
cách giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận

Trang 19

dụng toán học. Tuy nhiên do khả năng tiếp thu kiến thức bộ môn Hoá ở nhiều
em còn hạn chế nên kĩ năng giải bài tập dạng này ở một số em chưa thật thành
thạo. Đó cũng là khó khăn chung khi giảng dạy đối tượng học sinh vùng cao,
ở tất cả các bộ môn.
II.5. BÀI HỌC KINH NGHIỆM :
Qua thời gian nghiên cứu vận dụng các phương pháp, tôi rút ra cho
mình một số kinh nghiệm như sau :
Hoàn toàn có thể sử dụng các phương pháp nêu trên để có thể giúp học
sinh hoạt động tìm kiến thức, rèn luyện kỹ năng vận dụng vào các bài tập cụ
thể ở môn hoá học trong trường trung học cơ sở. Yêu cầu giáo viên phải làm
tốt các khâu chuẩn bị và khéo léo phối hợp các phương pháp sao cho phù hợp
với từng nội dung và mức độ kiến thức và đối với học sinh.
Phương pháp nêu trong đề tài có khả năng phát huy rất tốt năng lực tư
duy độc lập của học sinh, làm cho không khí học tập của học sinh hào hứng
và sôi nổi hơn. Các em đã tích cực tham gia vào các hoạt động tìm kiếm kiến
thức. Kiến thức và kỹ năng của các em đã được cũng cố một cách vững chắc,
kết quả học tập của học sinh không ngừng được nâng cao. Học sinh đã thực
sự chủ động và biết cách tự lĩnh hội tri thức trong quá trình học tập không còn
mang tính gượng ép như trước. Đồng thời tôi cũng nhận thấy rõ rằng hơn giáo
viên đóng một vai trò quyết định cho sự thành hay bại của chất chất lượng
dạy học.

Trang 20


III. PHẦN KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy mình được củng cố thêm về kiến
thức, kinh nghiệm giảng dạy bộ môn. Đối với học sinh các em cũng thêm yêu
môn Hoá học hơn và có hứng thú học tập trong các giờ luyện tập, ôn tập. Chất
lượng học tập bộ môn dần được nâng lên.
Trong thời gian nghiên cứu đề tài tôi thấy để giải các bài tập dạng hỗn
hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học, chúng ta
cần tổ chức hướng dẫn học sinh tiến hành theo các bước cơ bản sau:
Bước 1: Tổ chức cho học sinh nghiên cứu kĩ đầu bài, nhận dạng bài
toán.
Bước 2: Lập đúng phương trình Hóa học.
Bước 3: Đặt ẩn số cho các đại lượng cần tính trong hỗn hợp các chất
đã cho ở đầu bài và điều kiện của ẩn. Sau đó dựa vào các dữ kiện ở đầu bài
lập hệ phương trình. Trong đó một phương trình biểu diễn các ẩn theo khối
lượng hỗn hợp các chất và một phương trình theo dữ liệu của sản phẩm
chung.
Bước 4: Giải hệ phương trình tìm giá trị của ẩn và kiểm tra với điều
kiện của ẩn ta sẽ tìm được khối lượng của từng chất trong hỗn hợp chất.
Để phù hợp với đặc trưng của bộ môn “ Khoa học thực nghiệm” Thì
việc Giải bài tập hoá học là hết sức cần thiết. Thông qua việc làm này học
sinh đã được tìm tòi kiến thức một cách chủ động. Rèn kĩ năng giải bài tập
dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học
vào các bài tập cụ thể. Giúp các em biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn.
Phát huy khả năng phán đoán, óc tổng hợp, kết luận theo hướng quy nạp và
diễn giải.
Để phát huy tốt tính tích cực sáng tạo, tìm tòi của học sinh trong việc
giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học, người giáo
viên phải có những lời nói, việc làm mang tính khuyến khích động viên hơn là
sự bắt buộc. Có sự kiểm tra, đánh giá việc làm của học sinh một cách thoả


Trang 21

đáng, tạo cho học sinh niềm vui, hứng thú với công việc. Như vậy việc giải
bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học không chỉ phát
huy tính tích cực của đông đảo học sinh mà còn phát hiện bồi dưỡng những
năng lực tiềm ẩn trong các em.
Việc rèn kĩ năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương
trình hoá học có vận dụng toán học nêu trên nhằm mục đích làm tích cực hoá
các hoạt động dạy và học, đem lại những kết quả rất khả thi và tạo được hứng
thú lớn trong học tập của học sinh, đồng thời phát huy tối đa sự tham gia của
người học. Học sinh có khả năng tự tìm ra kiến thức, tự mình tham gia vào
các hoạt động để củng cố kiến thức, rèn luyện được kỹ năng. Dạy học như thế
có tác động rất lớn đến việc phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, nâng cao
năng lực tư duy độc lập và khả năng tìm tòi sáng tạo.
Như vậy khi tôi chưa áp dụng đề tài này thì tỉ lệ học sinh yêu thích bộ
môn hoá học là rất ít, đồng thời kết quả học tập bộ môn hoá học cũng không
được cao. Sau khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực và rèn luyện kỹ
năng giải bài tập dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận
dụng toán học thì chất lượng học tập bộ môn này được nâng cao rõ rệt.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về việc rèn kĩ năng giải bài tập
dạng hỗn hợp các chất tính theo phương trình hoá học có vận dụng toán học.
Do thời gian và kinh nghiệm chưa nhiều nên đề tài còn hạn chế. Tôi rất mong
sự đóng góp ý kiến và chỉ đạo của các đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để
sáng kiến thêm phong phú và hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
ĐakPơ, ngày 08 tháng 3 năm 2009.
NGƯỜI VIẾT
Nguyễn Duy Tuấn Anh

Trang 22


PHẦN PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình tâm lí học đại cương – NXB GD
- Phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông – tác giả : Lê Văn Dũng -
Nguyễn Thị Kim Cúc.
- Sách Giáo Khoa Hóa học 8 – Lê Xuân Trọng - Nguyễn Cương – NXB GD
2004.
- Sách Giáo viên hoá học 8 – Lê Xuân Trọng - Nguyễn Cương – NXB GD
2004.
- Sách Giáo Khoa Hóa học 9 – Lê Xuân Trọng – Cao Thị Thặng – Ngô Văn
Vụ – NXB GD 2005.
- Sách Giáo viên hoá học 9 – Lê Xuân Trọng – Cao Thị Thặng –Nguyễn Phú
Tuấn - Ngô Văn Vụ – NXB GD 2005.
- Chuyên đề bồi dưỡng Hoá 8,9 của Hoàng Vũ.
- Hướng dẫn làm bài tập hoá học 8, 9 – tác giả : Ngô Ngọc An.
- Một số tài liệu khác có liên quan.

Trang 23

×