Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

SKKN Biện pháp quản lý ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 47 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC”
PHỤ LỤC
STT NỘI DUNG TRANG
PHẦN THỨ NHẤT: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I Đặt vấn đề 1
1 Lí do chọn đề tài 2
2 Ý nghĩa, tác dụng của giải pháp mới 5
3 Phạm vi nghiên cứu 6
4 Nhiệm vụ nghiên cứu 7
5 Phương pháp nghiên cứu 7
II Phương pháp tiến hành
1 Cơ sở lí luận 8
2 Cơ sở thực tiễn 14
3 Các biện pháp tiến hành- thời gian tạo ra giải pháp 16
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
I Mục tiêu chung 17
II Các biện pháp thực hiện 17
III Kết quả 43
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
1 Kết luận 47
2 Điều kiện áp dụng giải pháp 48
3 Bài học kinh nghiệm 49
4 Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển
các giải pháp
50
5 Kiến nghị 51
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ CHỮ VIẾT TẮT


1 Ban giám hiệu BGH
2 Cán bộ giáo viên CBGV
3 Cán bộ quản lí CBQL
4 Công nghệ thông tin CNTT
5 Công nghiệp hóa- hiện đại hóa CNH-HĐH
6 Hiệu trưởng HT
7 Học sinh HS
8 Nhân viên NV
9 Nghiên cứu khoa học NCKH
10 Phó Hiệu trưởng PHT
11 Phương pháp dạy học PPDH
12 Thiết bị dạy học TBDH
13 Tổ trưởng chuyên môn TTCM
14 Tổ phó chuyên môn TPCM
PHẦN THỨ NHẤT
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thế giới hôm nay đang chứng kiến những đổi thay có tính chất khuynh đảo trong
mọi hoạt động phát triển kinh tế xã hội nhờ những thành tựu của công nghệ thông tin (
CNTT). CNTT đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những nhân tố năng động mới,
cho quá trình hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Hòa trong xu thế đổi mới từng bước tiến lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa
( CNH-HĐH) của đất nước, ngành GD&ĐT nước ta không ngừng phát triển để đáp
ứng yêu cầu trong thời kì mới. Thực hiện chủ trương của Đảng về việc: “ Nâng cao
năng lực, bồi dưỡng nhân tài, lấy khoa học kĩ thuật và công nghệ làm trung tâm”,
yêu cầu cấp bách đặt ra với GD&ĐT là cần phải xây dựng, bồi dưỡng nguồn lực con
người có đủ đức, tài làm chủ đất nước, để đưa đất nước tránh khỏi tình trạng tụt hậu
về mọi mặt so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Xuất phát từ các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về việc đẩy mạnh ứng
dụng CNTT trong các nhà trường, theo đó, các nhà trường đã từng bước trang bị máy

vi tính và các trang thiết bị cần thiết khác , tạo cơ sở hạ tầng CNTT cho công tác quản
lí của BGH, cho giáo viên sử dụng vào quá trình dạy học của mình.
CNTT mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình
thức dạy – học, giúp việc chuyển từ “ lấy giáo viên làm trung tâm” sang “ lấy học
sinh làm trung tâm” sẽ trở nên dễ dàng hơn. Nhờ có máy tính điện tử mà việc thiết kế
giáo án và giảng dạy trên máy tính trở nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời
gian hơn so với cách dạy theo phương pháp truyền thống, chỉ cần “ bấm chuột”, vài
giây sau trên màn hình hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh, âm
thanh sống động, thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú cho học sinh. Thông qua giáo
án điện tử, giáo viên cũng có nhiều thời gian để đặt các câu hỏi gợi mở, tạo điều kiện
cho học sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ, ưu việt này
của CNTT và truyền thông đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc,
cách học tập, cách tư duy và quan trọng hơn cả cách ra quyết định của con người.
Mục tiêu của việc ứng dụng CNTT trong dạy học là nâng cao một bước cơ bản
chất lượng học tập cho học sinh, tạo ra môi trường giáo dục mang tính tương tác cao
chứ không đơn thuần chỉ là “ Thầy đọc- trò chép; thầy giảng- trò nghe; thậm chí “
thầy giảng- trò ngủ gật” như kiểu truyền thống, học sinh được khuyến khích và tạo
điều kiện để chủ động lĩnh hội kiến thức, sắp xếp hợp lí quá trình tự học tập, tự rèn
luyện của bản thân mình.
Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường nói chung và trường Tiểu
học nói riêng là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các
nhà trường nâng cao chất lượng công tác quản lí, giúp các thầy giáo, cô giáo nâng cao
chất lượng dạy học và các em học sinh được học ra học, góp phần rèn luyện cho học
sinh (HS) một số phẩm chất của người lao động thời kì CNH-HĐH.
Có thể khẳng định: Đã đến lúc việc ứng dụng CNTT trong nhà trường nói chung,
trường Tiểu học nói riêng cần được quan tâm đúng mức hơn và cần được quản lí chặt
chẽ, hiệu quả hơn.
Vậy người Hiệu trưởng trường Tiểu học cần phải làm gì để đưa CNTT vào trong
nhà trường và quản lí việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của nhà trường nói chung,
trong hoạt động dạy học nói riêng? Bản thân tôi đã thực sự tâm huyết, trách nhiệm và

đã cùng tập thể lãnh đạo nhà trường từng bước quản lí tốt việc ứng dụng CNTT vào
việc giảng dạy, đảm bảo đúng thực chất, có chất lượng và đạt năng suất lao động cao.
1. Lí do chọn đề tài SKKN:
Thứ nhất: Xuất phát từ xu thế hội nhập và toàn cầu hoá. Việc tiếp nhận những công
nghệ mới trong đó CNTT là yếu tố khách quan và tất yếu để khẳng định sự hưng thịnh
của một quốc gia. Giáo dục không nằm ngoài quy luật đó, việc ứng dụng CNTT trong
giáo dục thể hiện sự lớn mạnh về khoa học, về công nghệ, về kinh tế… của một đất nước.
Một đất nước muốn phát triển nhanh và bền vững thì nền kinh tế tri thức phải được ưu
tiên hàng đầu. CNTT đã làm thay đổi căn bản bức tranh của nền kinh tế tri thức đó.
Để đáp ứng yêu cầu hội nhập thế giới công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục thực sự phải đi trước, đón
đầu và đổi mới. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, các nhà quản lý giáo dục từ trung
ương đến địa phương, hơn ai hết phải hiểu tầm quan trọng của CNTT với công tác giáo
dục và cần phải có những biện pháp quản lý hiệu quả để việc ứng dụng CNTT trở thành
một nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu và tất yếu.
Chiến lược phát triển giáo dục 2001- 2010 của Chính phủ đã nhận định: “Sự đổi
mới và phát triển giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội tốt để giáo dục
Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những cơ sở lý luận,
phương thức tổ chức, nội dung giảng dạy hiện đại và tận dụng các kinh nghiệm quốc
tế đổi mới và phát triển”
Chỉ thị số 29/2001/CT BGD&ĐT ngày 30 tháng 7 năm 2001 của Bộ GD&ĐT về
tăng cường giảng dạy, đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2001-
2005 nêu rõ: “CNTT và đa dạng phương tiện sẽ tạo ra những thay đổi lớn trong hệ
thống quản lý giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc
đẩy cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học”.
Nhận rõ vai trò quan trọng của CNTT trong sự phát triển của đất nước, Chỉ thị số
55/2008/CT-BGD ĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng
cường giảng dạy, đào tạo, ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục giai đoạn 2008-2012 đã
chỉ rõ: “Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một
nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước”.

Như vậy, việc quản lý ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học góp phần thực
hiện đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới phương pháp giáo dục nói riêng nhằm nâng cao
chất lượng.
Thứ hai: Xuất phát từ thực tế tại trường TH Xuân Quan việc ứng dụng CNTT vào
dạy học còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn do trình độ tin học của giáo viên còn nhiều
bất cập. Hầu hết CBGV-NV đều không được đào tạo, trang bị bài bản kiến thức Tin học.
Kiến thức, hiểu biết và kĩ năng của GV đều do cá nhân tự học hỏi, nhiều thuật ngữ , kĩ
thuật máy tính còn chưa nắm bắt đầy đủ, có những GV còn chưa biết thao tác mở-tắt máy
tính, lại rất hạn chế về ngoại ngữ - tiếng Anh- thậm chí có nhiều GV không biết
( vì trước đây ở trường phổ thông mới chỉ được học tiếng Nga) làm cho việc sử dụng
máy vi tính gặp rất nhiều khó khăn. Đội ngũ học sinh chủ yếu là con nông dân, đời sống
kinh tế còn khó khăn, rất ít gia đình học sinh và cả giáo viên có máy tính. Cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ cho dạy học nói chung, phục vụ cho việc ứng dụng CNTT còn
nhiều hạn chế và rất khiêm tốn ( Năm học 2008-2009 nhà trường mới có 02 máy tính
thanh lí do Công ty Việt Hưng chuyển cho để sử dụng). Các thiết bị đi kèm thiếu đồng bộ,
lỗi thời ( do quá cũ, không có thiết bị thay thế),…
Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi. Sự áp
đặt vẫn chưa thể một sớm một chiều xóa được trong một bộ phận giáo viên. Việc dạy học
có ứng dụng CNTT còn quá mới mẻ với giáo viên. Điếu đó làm cho CNTT, mặc dù đã
đưa được vào quá trình dạy học mà vẫn chưa thể phát huy tính tích cực và hiệu quả của
nó. Việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH chưa được nghiên cứu kĩ và hiểu đúng dẫn
đến việc ứng dụng không đúng lúc, không đúng chỗ, nhiều khi còn bị lạm dụng. Việc
đánh giá một tiết dạy có ứng dụng CNTT còn lúng túng. Kết quả đánh giá giờ giảng ứng
dụng CNTT đôi khi còn là sự cảm tính. Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực
hiện triệt để và chưa có chiều sâu, sử dụng không thường xuyên, chưa có kĩ năng khai
thác nguồn tư liệu theo địa chỉ. Khả năng trình chiếu bài giảng trên máy tính chưa tốt làm
cho chất lượng bài giảng chưa đạt hiệu quả như mong muốn, chất lượng giáo dục chưa
được nâng cao.Việc ứng dụng CNTT trong dạy học trở thành nhu cầu cấp bách, không
thể thiếu trong việc đổi mới phương pháp của giáo viên trong mỗi nhà trường.
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, xuất phát từ yêu cầu khách

quan và tính cấp thiết về bài toán Quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường Tiểu
học, tôi đã nghiên cứu và tổ chức thực hiện thành công SKKN : “Biện pháp Quản lí
ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở trường Tiểu học ”
2.Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới.
Sáng kiến kinh nghiệm: “ Biện pháp Quản lí ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
trường Tiểu học” mà tôi sẽ trình bày là những công việc tôi đã kiên trì thực hiện trong 5
năm qua, có điều chỉnh bổ sung mỗi năm học( từ năm học 2009-2010 đến nay) góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng dạy học nói riêng của trường TH
Xuân Quan – Đơn vị ba năm liền đạt danh hiệu “ Tập thể LĐXS” và được UBND tỉnh
Hưng Yên tặng Cờ thi đua xuất sắc năm học 2012- 2013.
Ý nghĩa và tác dụng cơ bản của SKKN là:
Thứ nhất: Đối với công tác quản lí
Nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ năng sử dụng các thiết bị tin học là điều kiện
cần và đủ đối với người quản lí. BGH nhà trường phải là người tiên phong, gương mẫu
trong việc tự trau dồi kiến thức Tin học và kĩ năng ứng dụng CNTT trong công tác quản
lí nhà trường đồng thời động viên , khuyến khích đội ngũ tích cực tự học để trang bị cho
mình những kĩ năng cơ bản nhất về CNTT. Đưa việc ứng dụng CNTT vào tiêu chí thi
đua. Khuyến khích GV soạn giáo án lên lớp trên máy vi tính ( có sát hạch, kiểm tra
thường xuyên và báo cáo với Phòng GD&ĐT), xây dựng kế hoạch của tổ, khối, đoàn thể,
nhà trường bằng hình thức chế bản vi tính, bảo đảm nhanh gọn, chính xác. Có kế hoạch
đầu tư, mua sắm trang thiết bị tin học và động viên, tư vấn giáo viên trang bị máy tính cá
nhân, coi việc có máy tính cá nhân là điều kiện để soạn giáo án trên máy tính của giáo
viên. Công tác quản lí của HT, PHT khoa học, bài bản và hiệu quả hơn.
Thứ hai: Đối với giáo viên
Tạo cho giáo viên có sự chuyển đổi về nhận thức, từ qui định ( mang tính áp đặt )
lúc ban đầu sang tâm thế say mê với việc ứng dụng CNTT trong soạn giảng cũng như các
hoạt động khác. Kĩ năng soạn giảng các tiết có ứng dụng CNTT được nâng lên rõ rệt,
chất lượng bài dạy được nâng cao. Kĩ năng sử dụng mạng Internet cuãng có chiều sâu
hơn. Từ đó, không chỉ nâng cao về năng lực chuyên môn mà nhận thức, hiểu biết về xã
hội cũng được cải thiện đáng kể.

Thứ ba: Đối với học sinh
Các em được là chủ thể của quá trình dạy học, được lính hội tiếp thu kiến thức một
cách chủ động, phát triển tư duy sáng tạo, kĩ năng phản xạ nhanh và chính xác. Trong các
giờ dạy có ứng dụng CNTT của GV, học sinh có hứng thú hơn trong học tập, kết quả học
tập tốt hơn. Các em tích cực tham gia có hiệu quả cao các cuộc thi qua mạng do nhà
trường phát động theo sự chỉ đạo của ngành.
3.Phạm vi nghiên cứu của SKKN.
3.1 Nơi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm: Trường Tiểu học Xuân Quan – xã Xuân
Quan- huyện Văn Giang- tỉnh Hưng Yên.
3.2: Đối tượng SKKN tiến hành nghiên cứu: Giáo viên.
3.3 : Lĩnh vực khoa học nghiên cứu: Quản lí.
3.4: Mục đích của SKKN: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các biện
pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục; tăng tính hiệu quả và đẩy
mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở trường Tiểu học.
3.5: Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá thực trạng quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy học.
- Biện pháp quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học ở trường TH Xuân Quan trong
05 năm học ( từ năm học 2009-2010 đến nay)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về CNTT và ứng dụng CNTT trong dạy học.
4.2. Đánh giá thực trạng ứng dụng CNTT vào dạy học ở trường Tiểu học. 4.3. Đề xuất
một số biện pháp quản lý của phòng GD&ĐT nhằm nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT
vào dạy học ở trường Tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, mô hình hoá… các tài liệu, các văn bản có liên
quan đến vấn đề nghiên cứu như sách, tài liệu về giáo dục, về quản lý giáo dục, về CNTT
và ứng dụng CNTT ; chủ trương đường lối, nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước, các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Sở GD&ĐT Hưng Yên, của
Phòng GD&ĐT Văn Giang về CNTT và quản lý việc ứng dụng CNTT nhằm xây dựng cơ

sở lý luận của đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp quan sát
Quan sát các hoạt động ứng dụng CNTT vào dạy học của nhà trường Có cái nhìn
chung nhất (thuận lợi và khó khăn) về hiện trạng tại địa bàn mình. Từ đó đưa ra đánh giá,
kết luận về thực trạng và đề xuất các giải pháp có hiệu quả về ứng dụng CNTT vào giảng
dạy ở trường TH.
5.3. Xử lý kết quả bằng thống kê toán học
Phân tích xử lý các thông tin, các số liệu bằng thống kê toán học.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Cơ sở lí luận:
Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn nền kinh tế tri thức. Vì vậy việc nâng
cao hiệu quả chất lượng GD&ĐT sẽ là yếu tố sống còn và quyết định sự tồn tại và phát
triển của mỗi quốc gia. Việc áp dụng những công nghệ mới vào giáo dục trong đó có
CNTT chính là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục. Điều này đặt ra
vấn đề cho các nhà quản lý giáo dục là: Làm thế nào để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT
trong hoạt động dạy học ? Chính vì vậy vấn đề nghiên cứu các biện pháp quản lý để thúc
đẩy ứng dụng CNTT trong giáo dục đã thực sự sự phát triển rộng khắp trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng.
Quản lý ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học ở trường TH là một vấn đề cấp
thiết nhưng chỉ được nghiên cứu dưới góc độ hẹp. Thực tế ở Việt Nam việc đưa CNTT
vào quản lý các hoạt động nhà trường nói chung và quản lý hoạt động dạy học nói riêng
còn tồn tại nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết. Vì thế tôi đã đi sâu nghiên
cứu và tổ chức thực hiện vấn đề này trong phạm vi trường TH Xuân Quan- huyện Văn
Giang và đã thu được kết quả tốt, qua đó đề xuất được một số biện pháp quản lý góp phần
nâng cao hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học trong các trường TH trong huyện, trong
tỉnh.
1.1. Các khái niệm:
1.1.1. Phương pháp dạy học
Phương pháp dạy học là con đường, là cách thức giữa người dạy và người học nhằm
chiếm lĩnh tri thức, thực hiện nhiệm vụ dạy học đã đề ra. Việc đổi mới phương pháp dạy

học trong đó có ứng dụng CNTT không nhằm ngoài mục đích thực hiện tốt các nhiệm vụ
dạy học.
1.1.2. Phương tiện kỹ thuật dạy học
Để việc dạy học đạt hiệu quả cao, trong quá trình dạy học người giáo viên và học
sinh phải sử dụng các phương tiện dạy học mà ta vẫn gọi là thiết bị dạy học. Việc đổi mới
phương pháp dạy học cũng bao gồm việc đổi mới các thiết bị - phương tiện dạy học, đổi
mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách dạy, cách quản lý việc sử dụng các phương tiện dạy
học sao cho hoạt động này trở thành thói quen thường xuyên trong từng tiết lên lớp của
giáo viên.
Trên thực tế trong dạy học sử dụng nhiều loại thiết bị dạy học, phương tiện kỹ thuật
dạy học khác nhau và được phân loại như sau:
a) Thiết bị đơn giản: Các dụng cụ dạy học học thông thường: tranh ảnh, đồ dùng
dạy học, mô hình vật mẫu, đồ chơi giáo dục mầm non…
b)Thiết bị hiện đại có giá trị kinh tế cao: Các thiết bị phục vụ dạy học và đồ dùng
dạy học hiện đại, máy móc thực hành, dụng cụ thí nghiệm, máy chiếu, máy vi tính, máy soi
vật thể, hệ thống nghe nhìn, máy in, máy photo coppy…
Do có nhiều ưu điểm nổi trội, trước yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học và do
khoa học công nghệ ngày càng phát triển mà các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại
ngày càng được phát triển. Quản lý tốt các phương tiện kỹ thuật dạy học sẽ có tác động
tích cực đối với việc nâng cao chất lượng dạy học.
1.2. CNTT và ứng dụng CNTT vào giảng dạy trong trường TH.
1.2.1. Thông tin- Công nghệ thông tin.
a.Thông tin:
Thông tin là một khái niệm trừu tượng mô tả các yếu tố đem lại hiểu biết, nhận thức
cho con người cũng như các sinh vật khác. Thông tin tồn tại khách quan, dưới nhiều dạng
khác nhau, xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, có thể được tạo ra, truyền đi, lưu trữ và
chọn lọc. Khi tiếp nhận thông tin, con người thường phải xử lí nó để tạo ra những thông tin
mới và tạo ra những phản ứng nhất định. Trong lĩnh vực quản lí, các thông tin mới là các
quyết định quản lí.
b) Công nghệ thông tin

Công nghệ thông tin, viết tắt là CNTT ( Information Technology- viết tắt là IT) là
một ngành ứng dụng công nghệ vào quản lí xã hội, xử lí thông tin. Có thể hiểu CNTT là
ngành sử dụng máy tính và các phương tiện truyền thông để thu thập, truyền tải, lưu trữ,
bảo vệ , xử lí, truyền thông tin. Nghị quyết 49/CP ngày 4.8.1993 định nghĩa CNTT như
sau: “CNTT là một hệ thống các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ
kĩ thuật hiện đại- chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
Có thể nói, sự phát triển nhanh chóng của CNTT và đặc biệt là của mạng Internet
hiện nay vừa tạo ra một điều kiện hết sức thuận lợi đồng thời cũng là một đòi hỏi cấp
thiết đối với GD&ĐT nói chung, phương pháp dạy học trong mỗi nhà trường, của mỗi
thày cô giáo nói riêng phải đổi mới mạnh mẽ theo hướng tích hợp và sử dụng triệt để
những thế mạnh của CNTT vào dạy học.
1.2.2. Ứng dụng CNTT vào giảng dạy
Theo Luật công nghệ thông tin số 67/2006/QH11, ngày 29/6/2006: “Ứng dụng
CNTT là việc sử dụng CNTT vào các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng, đối ngoại và các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả của các hoạt động này”.
Ứng dụng CNTT trong GD&ĐT là một yêu cầu đặt ra trong những chủ trương
chung của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội. Ứng dụng CNTT trong giáo dục còn là một điều tất yếu của
thời đại, như ông Peter Van Gils, chuyên gia dự án CNTT trong giáo dục và quản lý nhà
trường (ICTEM) khẳng định: Chúng ta đang sống trong một xã hội mà ta gọi là một xã
hội tri thức hay một xã hội thông tin. Điều này có nghĩa rằng những sản phẩm đầu ra
mang tính công nghiệp cho xã hội của chúng ta đã mất đi cái tầm quan trọng của nó.
Thay vào đó là những “dịch vụ” và “những sản phẩm tri thức” của công nghệ. Trong một
xã hội như vậy, thông tin đã trở thành một loại hàng hóa cực kỳ quan trọng. Máy vi tính
và những vấn đề liên quan đã đóng một vai trò chủ yếu trong việc lưu trữ và truyền tải
thông tin và tri thức. Thực tế này yêu cầu các nhà trường phải đưa các kỹ năng công nghệ
vào trong chương trình giảng dạy của mình. Một trường học mà không có CNTT là một

nhà trường không quan tâm gì tới các sự kiện đang xảy ra trong xã hội trong thời đại
ngày nay.
Việc ứng dụng CNTT trong giáo dục bao gồm hai lĩnh vực : ứng dụng CNTT trong
quản lý và ứng dụng CNTT trong giảng dạy ( Phạm vi đề tài là ứng dụng CNTT vào
giảng dạy ở trường TH). Thực tiễn việc ứng dụng CNTT trong dạy học hiện nay đã trở
nên phổ biến. Điều kiện CSVC, hạ tầng CNTT - viễn thông đang thay đổi một cách
nhanh chóng là một cơ hội rất lớn cho một phương pháp giáo dục hiện đại, một nền giáo
dục tiên tiến với vai trò nòng cốt của CNTT. Nó đòi hỏi công tác quản lý giáo dục phải có
những giải pháp thích hợp để phát huy hết những lợi thế mà CNTT mang lại cho việc dạy
và học trong nhà trường
1.3. Quản lý ứng dụng CNTT vào giảng dạy trong trường TH
1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và ngành GD&ĐT
Nhân loại đang bước vào một thời đại mới, thời đại mà thông tin, tri thức trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, thời đại của xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức được
hình thành trên cơ sở phát triển và ứng dụng rộng rãi CNTT&TT. Cuộc cách mạng thông
tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời
sống kinh tế - xã hội, đưa con người chuyển nhanh từ xã hội công nghiệp sang xã hội
thông tin, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, ở đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc
chủ yếu vào năng lực sáng tạo, thu thập, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin
Trong xu thế biến động mạnh mẽ của cuộc cách mạng thông tin, Đảng, Chính phủ,
Bộ GD&ĐT và cấp cơ sở đã có nhiều văn bản chỉ đạo và xác định CNTT là một trong
các động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Cụ thể:
- Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và
phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đã chỉ ra rằng “Ứng dụng và phát triển
CNTT ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của
toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành
kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho
quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.

- Nghị định 49/CP của Chính phủ cũng nêu rõ: “Cần nhanh chóng đào tạo chính
quy một đội ngũ chuyên viên lành nghề trong lĩnh vực CNTT, giáo dục phổ cập về
CNTT trong trường trung học, phổ biến kiến thức về CNTT trong xã hội, đồng thời
tăng cường áp dụng CNTT trong bản thân ngành Giáo dục và Đào tạo”. Tin học hóa
quản lý giáo dục vừa là nhiệm vụ phải thực hiện đồng thời cũng là biện pháp để thực hiện
tốt nhất, hiệu quả nhất công tác quản lý giáo dục.
- Chỉ thị số 9584/BGDĐT-CNTT, ngày 7/9/2007 của Bộ GD&ĐT về hướng dẫn
thực hiện nhiệm vụ năm học 2008 – 2009 đã ghi: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương
pháp dạy và học; tăng cường ứng dụng CNTT trong các hoạt động của nhà trường,
nhất là ứng dụng CNTT trong giảng dạy, học tập và quản lý giáo dục; đẩy mạnh
chương trình dạy ngoại ngữ, tin học trong các cơ sở giáo dục”, trong đó có nhiệm vụ
quan trọng là lấy năm học 2008 - 2009 là “Năm học Công nghệ thông tin”.
1.3.2. Vai trò của CNTT trong giảng dạy
Những thành tựu của KH- CN nửa cuối thế kỷ 20 đang làm thay đổi hình thức và
nội dung các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội của loài người. Một số quốc gia phát
triển đã bắt đầu chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh thông tin. Các quốc gia
đang phát triển tích cực áp dụng những tiến bộ mới của KH - CN, đặc biệt CNTT để phát
triển và hội nhập. CNTT là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển,
cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội của thế giới hiện đại.
CNTT trở thành một yếu tố then chốt làm thay đổi các hoạt động kinh tế và xã hội
của con người trong đó có giáo dục. CNTT giữ một ví trí quan trọng trong GD&ĐT với
những lý do chủ yếu sau đây:
Một là: Những yếu tố cơ bản của CNTT và kỹ năng sử dụng máy vi tính là các bộ
phận không thể thiếu của học vấn phổ thông, đáp ứng những yêu cầu của KH - CN trong
kỷ nguyên thông tin, nền kinh tế tri thức
Hai là: Những yếu tố của CNTT còn có thể góp phần phát triển con người.
Ba là: Máy vi tính, với tư cách là một công cụ của CNTT một tiến bộ của KH-CN
cũng cần được sử dụng trong quá trình dạy học để cải tiến phương pháp dạy học nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục.

Bốn là: CNTT đã đem đến một tài nguyên giáo dục cho tất cả mọi người, làm cho
vai trò, vị trí của giáo viên thay đổi, người học có thể phát huy tính tích cực tự truy cập
vào nguồn tài nguyên học tập vô cùng phong phú trên mạng Internet với những tiêu chí
mới: học mọi lúc, học mọi nơi,…rất dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả.
Năm là: CNTT làm thay đổi quá trình dạy học với nhiều hình thức phong phú. Mối
giao lưu, tương tác giữa người dạy và người học đặc biệt là giữa người học và máy tính.
Thông tin đã trở thành tương tác hai chiều với nhiều kênh truyền thông là kênh chữ, kênh
hình, động hình, âm thanh, màu sắc mà đỉnh cao là các sản phẩm E-learning.
1.3.3. Quản lý ứng dụng CNTT trong giảng dạy
Việc ứng dụng CNTT vào quản lý dạy học là công việc, là nhiệm vụ của các nhà
quản lý giáo dục nói chung và của mỗi nhà quản lý các cơ sở giáo dục đào tạo nói riêng.
Quản lý là lãnh đạo, chỉ đạo, điều khiển một tổ chức bằng cách vạch ra mục tiêu cho tổ
chức đồng thời tìm kiếm các biện pháp, cách thức tác động vào tổ chức sao cho tổ chức
ấy đạt được mục tiêu đề ra.
Mục đích phát triển giáo dục nước ta hiện nay là phải nâng cao chất lượng giáo
dục. Một trong những vấn đề trăn trở của ngành giáo dục là: làm thế nào để CNTT thực sự
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục? Ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học là một
trong những lời giải của bài toán nâng cao chất lượng GD&ĐT. Các biện pháp quản lý ứng
dụng CNTT trong hoạt động giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định
để nâng cao chất lượng giáo dục ở trường TH.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng hoạt động ứng dụng CNTT vào giảng dạy
2.1.1. Ưu điểm
Nhà trường được tiếp thu đầy đủ các Chỉ thị, Nghị quyết , Quyết định của cấp trên về
nhiệm vụ trọng tâm từng năm học. Căn cứ vào đó nhà trường xây dựng kế hoạch và triển
khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường, của địa phương. Bên cạnh
đó lại có đội ngũ CBQL năng động, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm huyết và có năng lực
quản lý tốt là động lực thúc đẩy việc ứng dụng CNTT vào dạy học.
Nhà trường được sự quan tâm, chỉ đạo của Phòng GD&ĐT đầu tư về trang thiết bị từ
ngồn ngân sách chi cho mua sắm trang thiết bị dạy học. BGH quan tâm bồi dưỡng GV về

mọi mặt, biết nhân điển hình các nhân tố tích cực bằng biện pháp "nêu gương” đã mang
lại những kết quả bước đầu cho việc ứng dụng CNTT vào dạy học.
Đội ngũ GV của nhà trường có trình độ chuyên môn vững vàng và khá đồng đều, tâm
huyết và trách nhiệm cao trong công việc.
2.1.2 Tồn tại, hạn chế
Xuất phát từ thực tế tại trường TH Xuân Quan việc ứng dụng CNTT vào dạy học
còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn do trình độ tin học của giáo viên còn nhiều bất cập.
Hầu hết CBGV-NV đều không được đào tạo, trang bị bài bản kiến thức Tin học. Kiến
thức, hiểu biết và kĩ năng của GV đều do cá nhân tự học hỏi, nhiều thuật ngữ , kĩ thuật
máy tính còn chưa nắm bắt đầy đủ, có những GV còn chưa biết thao tác mở-tắt máy tính
và rất hạn chế, thậm chí không biết ngoại ngữ ( tiếng Anh) làm cho việc sử dụng máy vi
tính gặp rất nhiều khó khăn. Đội ngũ học sinh chủ yếu là con nông dân, đời sống kinh tế
còn khó khăn, rất ít gia đình học sinh và cả giáo viên có máy tính. Cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ cho dạy học nói chung, phục vụ cho việc ứng dụng CNTT còn nhiều hạn
chế và rất khiêm tốn ( Năm học 2008-2009 nhà trường mới có 02 máy tính thanh lí do
Công ty Việt Hưng chuyển cho để sử dụng). Các thiết bị đi kèm thiếu đồng bộ, lỗi thời
( do quá cũ, không có thiết bị thay thế),…
Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi. Sự áp
đặt vẫn chưa thể một sớm một chiều xóa được trong một bộ phận giáo viên. Việc dạy học
có ứng dụng CNTT còn quá mới mẻ với giáo viên. Điếu đó làm cho CNTT, mặc dù đã
đưa được vào quá trình dạy học mà vẫn chưa thể phát huy tính tích cực và hiệu quả của
nó. Việc sử dụng CNTT để đổi mới PPDH chưa được nghiên cứu kĩ và hiểu đúng dẫn
đến việc ứng dụng không đúng lúc, không đúng chỗ, nhiều khi còn bị lạm dụng. Việc
đánh giá một tiết dạy có ứng dụng CNTT còn lúng túng. Kết quả đánh giá giờ giảng ứng
dụng CNTT đôi khi còn là sự cảm tính. Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực
hiện triệt để và chưa có chiều sâu, sử dụng không thường xuyên, chưa có kĩ năng khai
thác nguồn tư liệu theo địa chỉ. Khả năng trình chiếu bài giảng trên máy tính chưa tốt làm
cho chất lượng bài giảng chưa đạt hiệu quả như mong muốn, chất lượng giáo dục chưa
được nâng cao.Việc ứng dụng CNTT trong dạy học trở thành nhu cầu cấp bách, không
thể thiếu trong việc đổi mới phương pháp của giáo viên trong mỗi nhà trường.

2.2. Nguyên nhân của tồn tại hạn chế
Trước hết, một bộ phận nhỏ CBGV-NV còn chậm đổi mới về tư duy, thiếu sáng
tạo, nhạy bén, chưa theo kịp yêu cầu và sự đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn; chưa coi
trọng công tác phát triển và ứng dụng CNTT trong quản lý và giảng dạy.
Thứ hai, một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học; Kĩ năng ứng dụng CNTT còn hạn chế.
Thứ ba, kinh phí đầu tư cho giáo dục còn ít, cơ sở vật chất, máy tính, mạng
máy tính, trang thiết bị dạy học nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu của việc nâng
cao chất lượng.
2. Các biện pháp tiến hành – thời gian tạo ra giải pháp.
2.1: Các biện pháp tiến hành
Biện pháp 1:Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, lợi ích của việc ứng dụng
CNTT trong giảng dạy.
Biện pháp 2 : Lập kế hoạch cho việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy ở
trường Tiểu học.
Biện pháp 3 : Xây dựng kế hoạch tạo nguồn nhân lực có chất lượng về CNTT cho
nhà trường.
Biện pháp 4 : Tổ chức tập huấn, chuyên đề cho GV để phổ biến, chia sẻ các nguồn
tài nguyên mạng và các PPDH có ứng dụng CNTT.
Biện pháp 5 : Tăng cường các nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật tin học,
hiện đại hóa trang thiết bị.
Biện pháp 6 : Kiểm tra và đánh giá việc bảo quản, sử dụng CNTT ở trường Tiểu
học.
2.2: Thời gian: Từ năm học 2009-2010 đến nay.
Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà trường và quản lý ứng dụng CNTT trong dạy
học đồng thời từ thực trạng quản lý, tôi đã thực hiện có hiệu quả trong 5 năm qua, nay xin
đề xuất: Biện pháp Quản lý ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở trường Tiểu học.
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ ỨNG DỤNG CNTT VÀO GIẢNG DẠY Ở

TRƯỜNG TIỂU HỌC
I. MỤC TIÊU CHUNG
Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp quản lí ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
trường Tiểu học có nhiệm vụ: Xuất phát từ thực trạng ứng dụng và Quản lí ứng dụng
CNTT trong giảng dạy ở trường Tiểu học để đề ra các biện pháp quản lí hiệu quả hoạt
động này nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng dạy học nói riêng.
II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Trên cơ sở kế thừa và phát triển những biện pháp mà nhà trường đã thực hiện đồng
thời với việc nghiên cứu và vận dụng những kiến thức lý luận liên quan như đã phân tích
nêu trên, tôi xin đề xuất những biện pháp quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy học trong
trường TH như sau :
1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, lợi ích của việc ứng dụng
CNTT vào giảng dạy.
1.1. Mục đích, ý nghĩa
Quán triệt, tuyên truyền để nâng cao nhận thức, quan điểm về đường lối chính sách
của Đảng, của Nhà nước, của Bộ GD&ĐT, của UBND tỉnh, Sở GD&ĐT Hưng Yên;
UBND, Phòng GD&ĐT Văn Giang về vai trò, lợi ích của việc ứng dụng CNTT trong quản
lý dạy học. Tăng cường sự lãnh đạo của CBQL và các tổ chức khác trong nhà trường
Nâng cao nhận thức giáo viên về sự cần thiết của ứng dụng CNTT vào hoạt động
dạy học, trên cơ sở đã nhận thức đúng đắn, sâu sắc giáo viên sẽ chủ động tìm tòi những
giải pháp phù hợp với yêu cầu ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học. Góp phần đổi
mới tư duy quản lý, đổi mới nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học.
Việc ứng dụng CNTT cũng góp phần cho việc chuẩn hóa về cơ sở vật chất, xây
dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng môi trường giáo dục thích ứng với các yêu cầu đặt ra
trong xã hội mới.
Ứng dụng CNTT còn giúp cho lãnh đạo nhà trường chỉ đạo, quản lý, thu thập thông tin, xử
lý thông tin và ra các quyết định một cách nhanh chóng, chính xác.
1.2. Nội dung
* Tuyên truyền phổ biến nội dung của Đảng, Chính phủ và của ngành về ứng dụng
CNTT trong GD&ĐT về vai trò, tác động của CNTT đối với GD&ĐT cũng như sự cần

thiết phải đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào tất cả mọi hoạt động của lĩnh vực này là xu thế
tất yếu. Trong xu thế toàn cầu hóa, CNTT đang làm thay đổi mọi lĩnh vực hoạt động của
con người. Chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi trong xã hội loài người tới mức
chóng mặt trong đó kĩ năng toàn cầu, hiểu biết quốc tế, CNTT, tri thức mới Khẳng định
CNTT là công cụ quan trọng thiết thực cho việc đẩy mạnh chất lượng giáo dục.
Thực hiện đổi mới tư duy trong giáo dục, đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới
nội dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức thực hiện, đổi mới việc kiểm tra, đánh giá
trong hoạt động giáo dục. Giúp cho người học tự đánh giá, tự điều chỉnh, tự giải quyết
vấn đề sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân và các yêu cầu của xã hội.
Giúp cho cán bộ, giáo viên có ý chí phấn đấu, có ý thức tự học hỏi, vươn lên để trở thành
nhà giáo, nhà sư phạm mẫu mực có tính thần trách nhiệm cao.
Khắc phục những tư tưởng tiêu cực buông xuôi hoặc bệnh thành tích, đốt cháy giai
đoạn, nóng vội duy ý chí trong việc ứng dụng CNTT trong đổi mới giáo dục.
Khuyến khích động viên giáo viên chủ động tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ về
CNTT, tạo điều kiện cho các thầy cô giáo cao tuổi tiếp cận CNTT, kích thích niềm say mê
tìm tòi CNTT, coi đó là tấm gương sáng cho lớp trẻ.
1.3. Tổ chức thực hiện
Trước tiên là lãnh đạo nhà trường cần tìm hiểu và nhận thức đúng đắn các chủ
chương, chính sách của Đảng, của Nhà nước của Bộ GD&ĐT, của UBND, Sở GD&ĐT
Hưng Yên; UBND, phòng GD & ĐT Văn Giang về CNTT trong lĩnh vực hoạt động giáo
dục. Lãnh đạo nhà trường phải là người tiên phong, đi đầu trong việc ứng dụng các tiện
ích của CNTT thông tin đem lại, tạo ra phong trào và là tấm gương sáng cho cán bộ, giáo
viên trong nhà trường noi theo.
Bằng nhiều hình thức, quán triệt trong Ban giám hiệu, Chi ủy Đảng, Công đoàn,
Đoàn thanh niên và các tổ chức khác trong nhà trường. Cung cấp, tuyên truyền các văn
bản chỉ đạo của cấp trên về việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong nhà trường. Xây dựng
các kế hoạch, ra các văn bản, quyết định có tính chất chiến lược lâu dài, kết hợp triển
khai theo từng mảng công việc, giao trách nhiệm cho các CBQL và các tổ chức khác
trong nhà trường thực hiện các nhiệm vụ về ứng dụng CNTT. Tạo sự đồng thuận, nhất trí
trong Ban giám hiệu và các tổ chức khác trong nhà trường. Để công tác tuyên truyền đạt

hiệu quả cần thực hiện tốt các bước sau:
Một là: Tìm hiểu đánh giá mức độ nhận thức và hiểu biết của CBQL và giáo viên
trong nhà trường.
Hai là: Đề xuất những nội dung tuyên truyền, quán triệt các văn bản, Chỉ thị, Nghị
quyết về giáo dục về ứng dụng CNTT trong quản lý dạy học hiện hành để nâng cao nhận
thức cho CBQL, giáo viên.
Ba là: Xây dựng kế hoạch tuyên truyền phù hợp với các thành phần đối tượng. Quy
định cụ thể trách nhiệm của từng thành viên trong hệ thống cùng thực hiện mục tiêu.
Cung cấp và bổ sung hệ thống văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết và các chế định hiện hành về
ứng dụng CNTT trong giáo dục. Soạn thảo những nội dung cần tuyên truyền,quán triệt
một cách ngắn gọn, dễ hiểu.
Bốn là: Tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết và giao ban rút kinh nghiệm về
những công việc và kế hoạch đề ra.
Tổ chức các cuộc hội thảo, báo cáo kinh nghiệm, tổ chức đi thăm quan, học tập, rút
kinh nghiệm các đơn vị bạn, đồng thời xen kẽ trong các hội nghị, trong các cuộc họp giao
ban, họp Hội đồng sư phạm để tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức về CNTT cho
toàn thể CBGV-NV.
CBQL nhà trường tăng cường chỉ đạo các tổ, nhóm chuyên môn ứng dụng CNTT
trong đổi mới phương pháp dạy học. Giao kế hoạch dạy học có ứng dụng CNTT cho các
tổ, nhóm chuyên môn. Chỉ đạo cho các tổ nhóm chuyên môn thường xuyên báo cáo kinh
nghiệm về đổi mới phương pháp nhất là những báo cáo có ứng dụng CNTT trong giảng
dạy, đồng thời phát động phong trào dạy học có ứng dụng CNTT trong các đợt Hội giảng
hằng năm giao cho các tổ nhóm chuyên môn, cá nhân sưu tầm, tuyển chọn các tiết dạy
hay có ứng dụng CNTT để giáo viên tham khảo, học tập.
Hiệu trưởng chỉ đạo, giao cho chi đoàn thanh niên giáo viên là nòng cốt đi đầu
trong học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học,
đồng thời mời các chuyên gia về CNTT về tập huấn cho CBGV-NV từ những kiến thức
sơ đẳng, đi sâu vào kĩ năng cơ bản cho đội ngũ GV trẻ trước, từ đó nhân rộng đến các
thành phần, đối tượng khác trong nhà trường. Tạo thói quen vào mạng, cập nhật thông
tin, sưu tầm dữ liệu, phần mềm giáo dục, đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong đổi mới

phương pháp dạy học.
Động viên, khuyến khích các thầy, cô giáo cao tuổi có kinh nghiệm, say mê CNTT,
say sưa tìm tòi phương pháp giảng dạy mới, tổng hợp, góp ý, kết hợp các phương pháp
dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại để đạt được hiệu quả cao nhất
trong dạy học, coi đó là tấm gương sáng cho cán bộ, giáo viên trẻ noi theo. Có chế độ ưu
tiên, khuyến khích, động viên, khen thưởng, tuyên dương các cá nhân, tập thể ứng dụng
hiệu quả CNTT trong công việc và đổi mới phương pháp dạy học. Coi đó là một tiêu chí
thi đua trong các cá nhân, tập thể trong nhà trường.
HT, PHT, các TTCM, TPCM tăng cường công tác kiểm tra, dự giờ thăm lớp, xếp
loại giáo viên nhất là các bài dạy, tiết dạy có ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp
dạy học.
Tạo mọi điều kiện cho cán bộ, giáo viên đi học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ về
chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực CNTT( Năm học 2008-2009 nhà trường chi 100%
kinh phí học tập chứng chỉ Tin học A, B, C cho CBGV-NV. Từ năm học 2009- 2010 trở
đi chi 50% )
Tham mưu, huy động mọi nguồn lực để trang bị, mua sắm thêm về cơ sở vật chất,
máy tính, mạng máy tính cho nhà trường.
1.4. Điều kiện thực hiện
* Đối với cán bộ quản lý:
Lãnh đạo nhà trường phải hiểu rõ xu thế phát triển tất yếu của thời đại đó là sự phát
triển mạnh mẽ của Khoa học - Công nghệ. Từ đó có sự nhất trí đồng thuận trong lãnh đạo
nhà trường về đường lối, chủ trương của ngành về việc ứng dụng CNTT trong hoạt động
dạy học. Đi sâu đi sát hiểu rõ thực tế trong tình hình phát triển kinh tế, văn hóa chính trị
của địa phương; điều kiện thực tiễn của nhà trường trong sự biến đổi của xã hội. Điều
kiện về năng lực quản lý và trình độ CNTT của cán bộ quản lý. Cần phải chủ động trau
dồi kiến thức tin học, nâng cao trình độ CNTT.
* Đối với giáo viên:
Nghiêm túc trong việc thực hiện đường lối chủ trương chung của lãnh đạo nhà
trường. Chủ động đổi mới tư duy, nhận thức được vai trò của CNTT trong giai đoạn hiện
nay. Biết cách sử dụng CNTT một cách phù hợp trong giờ dạy, đổi mới phương pháp dạy

học. Tự bản thân mỗi giáo viên phải có trách nhiệm nghề nghiệp, thấy được vai trò, tác
dụng của CNTT trong việc nâng cao chất lượng để từ đó có kế hoạch tự bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn nói chung và CNTT nói riêng.
2. Biện pháp 2: Lập kế hoạch cho việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT vào giảng dạy trong
nhà trường.
2.1. Mục đích, ý nghĩa
Quản lý việc ứng dụng CNTT vào dạy học chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố
luôn biến động, từ những yếu tố bên trong như trình độ và năng lực của đội ngũ CBGV,
CSVC, trang thiết bị trong mỗi nhà trường đến các yếu tố bên ngoài như môi trường kinh
tế xã hội của đất nước và mỗi địa phương, sự phát triển CNTT trong nước và thế giới.
Việc lập kế hoạch sẽ giúp cho người quản lý có thể lường trước được những biến cố có
thể xảy ra nhằm tìm được những cách tốt nhất để đạt được mục tiêu đề ra.
Việc lập kế hoạch trong quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học trong các trường TH
sẽ giúp CBQL nhà trường chú ý vào mục tiêu chung của việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT
vào dạy học, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học. Mặt khác nó cho thấy cái
nhìn tổng thể, toàn diện về các hoạt động ứng dụng CNTT vào dạy học; thấy được mối
quan hệ, sự tương tác giữa các bộ phận, các yếu tố từ đó cho phép có những tác động,
những điều chỉnh cần thiết đảm bảo cho việc biến các mục tiêu đề ra thành hiện thực.
Việc lập kế hoạch trong quản lý ứng dụng CNTT vào dạy học trong trường còn
giúp cho Hiệu trưởng chủ động trong việc lựa chọn những phương án đầu tư CSVC và
những chi phí cần thiết khác cho ứng dụng CNTT sát thực tế, tiết kiệm và đạt hiệu quả
cao, đồng thời việc lập kế hoạch trong lý ứng dụng CNTT vào dạy học còn tạo điều kiện
để lãnh đạo nhà trường chủ động trong việc kiểm tra, đánh giá việc đẩy mạnh triển khai
hoạt động ứng dụng CNTT vào dạy học như thế nào.
Có thể nói rằng những yêu cầu bức thiết của việc ứng dụng CNTT trong dạy học
hiện nay đòi hỏi phải đổi mới và tăng cường mạnh mẽ công tác quản lý trước hết là phải
tăng cường và đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng kế hoạch. Kế hoạch là khâu đầu tiên,
là công cụ chủ yếu của công tác quản lý nói chung và công tác quản lý việc ứng dụng
CNTT trong dạy học nói riêng. Có xây dựng được kế hoạch chi tiết, cụ thể, khoa học và
có tính khả thi cao thì mới đảm bảo các mục tiêu, mục đích, sau đó là tổ chức và chỉ đạo

kiểm tra đánh giá có chất lượng, hiệu quả.
2.2. Nội dung
Kế hoạch ứng dụng CNTT trong dạy học của Hiệu trưởng ban hành phải là một
phương án tổng hợp bao gồm các yếu tố: mục tiêu, thời gian, không gian, nội dung của
các hoạt động, nguồn nhân lực, vật lực, tài chính, phương án tổ chức bộ máy, sắp xếp cán
bộ cho việc triển khai thực hiện.
2.3. Tổ chức thực hiện
Phải xác định các mục tiêu, các bước đi cụ thể về ứng dụng CNTT vào dạy học cho
từng giai đoạn, từng học kỳ, từng năm học.
Xây dựng kế hoạch về khai thác và sử dụng kinh phí đầu tư : không chỉ dừng ở
việc đầu tư trang thiết bị, mà cần chú trọng hơn trong kế hoạch kinh phí cho bảo trì, bảo
dưỡng; mua phần mềm; lắp đặt và khai thác đường truyền Internet, xây dựng cơ sở dữ
liệu điện tử phục vụ dạy học và quản lý
- Xây dựng kế hoạch về con người : Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ
cho đội ngũ hiện nay, có kế hoạch bồi dưỡng chuyên sâu các kỹ năng soạn thảo văn bản
trên máy tính để thiết kế giáo án, sử dụng phần mềm hỗ trợ dạy học, kỹ năng khai thác và
sử dụng thông tin trên mạng, kỹ năng tổ chức dạy học bằng trình chiếu,
Trong kế hoạch cần chỉ rõ Ai chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện, chỉ đạo hoạt
động, kiểm tra theo kế hoạch đã đề ra? Hoạt động ứng dụng CNTT vào dạy học có liên
quan chặt chẽ với các hoạt động chuyên môn khác nên công việc này cần giao cụ thể cho
PHT hoặc TTCM, hoặc GV có trình độ, kĩ năng về CNTT và có kinh nghiệm trong chỉ
đạo đổi mới dạy học đối với giáo viên. Điều này hết sức quan trọng giúp cho các hoạt
động quản lý được triển khai một cách có hiệu quả.
3. Biện pháp 3: Xây dựng kế hoạch tạo nguồn nhân lực có chất lượng về CNTT cho
nhà trường.
3.1. Mục đích, ý nghĩa
Điều kiện kinh tế xã hội thay đổi cùng với sự tiến bộ về khoa học công nghệ đã tạo
ra môi trường mới cho giáo dục. Môi trường mới vừa tạo điều kiện vừa bắt buộc chúng ta
phải đổi mới phương pháp dạy học. Ngày nay, kiến thức, kĩ năng về CNTT là một trong
những văn hóa thiết yếu, cần thiết cho cuộc sống và công việc. Việc nước ta gia nhập

WTO đòi hỏi ngành giáo dục đào tạo ra những con người không chỉ đáp ứng nhu cầu về
đào tạo nguồn nhân lực mà còn phải đáp ứng nhu cầu về nhân lực trình độ cao của thế giới
đang bước vào nền kinh tế tri thức – công dân toàn cầu.
Đào tạo và bồi dưỡng kiến thức về CNTT cho cán bộ, giáo viên (tạo nguồn nhân
lực của CNTT) là khâu quan trọng quyết định thành công của chiến lược phát triển và
ứng dụng CNTT của nhà trường nói riêng và của ngành GD&ĐT nói chung. Vì vậy phải
có kế hoạch, chính sách đào tạo, kế hoạch sử dụng đội ngũ cán bộ, giáo viên một cách
hợp lý, có hiệu quả.
Mục đích của biện pháp này là:
Thứ nhất: Nâng cao kiến thức kỹ năng về CNTT cho cán bộ giáo viên để họ có thể
tổ chức, ứng dụng tốt CNTT trong công việc.
Thứ hai: Tạo nguồn nhân lực về CNTT để thực thi các tốt các vụ và yêu cầu đặt ra
về các lĩnh vực CNTT cho nhà trường. Tạo ra đội ngũ tiên phong thực hiện cuộc cách
mạng ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học.
Thứ ba: Thực hiện thành công chủ trương của Nhà nước, của Bộ GD&ĐT, của
UBND và ngành GD&ĐT các cấp về việc triển khai đề án đưa Tin học vào nhà trường.
3.2. Nội dung
Để đạt được mục đích nêu trên cần thực hiện các nội dung sau đây :
Một là: Tăng cường, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong hoạt động dạy học và việc
đào tạo bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng tin học cho đội ngũ CBQL-GV- NV, trong đó coi
trọng việc rèn kĩ năng bởi vì đa số GV trong nhà trường trước đây đều không được đào
tạo bài bản trong các trường phổ thông, sư phạm. Hơn nữa, có lẽ với GVTH thì các kĩ
năng cơ bản như: soạn thảo văn bản trên máy tính, khai thác thông tin trên mạng, gửi thư
điện tử, thiết kế bài giảng powerpoint,…
Hai là: Tích cực xây dựng đội ngũ CBQL, giáo viên và nhân viên phục vụ phát
triển CNTT. Xây dựng chương trình bồi dưỡng về CNTT cho các trình độ và các đối
tượng tại nhà trường ( Mời chuyên gia, GV có kinh nghiệm tập huấn cho GV, người biết
hướng dẫn người chưa biết,…. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng giáo viên về CNTT đặc
biệt là lĩnh vực phần mềm với đội ngũ GV cốt cán trong nhà trường.
Ba là: Tạo điều kiện tốt nhất để đội ngũ giáo viên có điều kiện tiếp cận nhanh

chóng đối với CNTT.
3.3. Tổ chức thực hiện
Xây dựng kế hoạch cử cán bộ, giáo viên đi học chứng chỉ để nâng cao trình độ
chuyên môn về Tin học, GV không đi học các lớp cấp chứng chỉ thì chỉ cần có kĩ năng sử
dụng, ứng dụng ( Qua kiểm tra, sát hạch tay nghề hàng năm do nhà trường tổ chức.
Năm học 2012-2013 và 2013- 2014 nhà trường tổ chức kiểm tra, đánh giá cho điểm và
đưa vào kết quả thi đua), đồng thời mời các chuyên gia và giáo viên giảng dạy có kinh
nghiệm, hướng dẫn trực tiếp, thuyết trình bằng máy chiếu, thảo luận, hỏi đáp, thực hành
tại trường 3 lần cho 100% CBGV-NV
Hàng năm, luân phiên tổ chức bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng sử dụng CNTT cho
giáo viên cốt cán để sử dụng được máy vi tính, phần mềm ứng dụng vào giảng dạy, công
tác. Từ những giáo viên mạng lưới này sẽ tự bồi dưỡng cho những giáo viên khác trong
trường về những kiến thức cơ bản của tin học để có khả năng sử dụng tốt máy vi tính trong
công tác “Học thầy không tày học bạn”. Qua kinh nghiệm cho thấy một cách học tập
nhanh nhất của Tin học đó là học tập kinh nghiệm, qua “truyền tay” và chỉ bảo trực tiếp qua
máy tính ngay từ tổ, nhóm chuyên môn.
Bồi dưỡng kiến thức về tin học cho cán bộ lãnh đạo, giáo viên và nhân viên có đủ
trình độ để sử dụng, khai thác tốt các thiết bị CNTT trong quản lý nhà trường. Tin học
hoá trong công tác quản lý nhân sự, sổ điểm, trao đổi thông tin trong trường qua Email,…
Thực hiện việc bồi dưỡng ngắn ngày, trực tiếp cho giáo viên có những kiến thức và kỹ
năng cần thiết để ứng dụng các thiết bị và phần mềm nhằm đổi mới nội dung giảng dạy, đổi
mới phương pháp, đổi mới đánh giá, vận dụng phương tiện CNTT vào tự học, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ.
Nhà trường tổ chức những cuộc phát động phong trào thi đua học tập, bồi dưỡng,
ứng dụng CNTT trong hoạt động của toàn trường đặc biệt trong các kỳ hội giảng, kỷ
niệm ngày 20/11, 8/3, để phát động phong trào sử dụng, ứng dụng, học tập lẫn nhau về
kiến thức CNTT.
Thành lập ban CNTT trong nhà trường do Hiệu trưởng hoặc uỷ quyền cho một
đồng chí Phó hiệu trưởng làm trưởng ban để theo dõi, giúp đỡ các cán bộ, giáo viên, tích
hợp và triển khai các hoạt động về ứng dụng CNTT trong nhà trường, coi tiêu chí ứng

dụng CNTT là một tiêu chí thi đua trong nhà trường. Kết nối mạng Internet (wifi ) đưa
máy tính, mạng máy tính, máy chiếu về các tổ, nhóm chuyên môn để các cán bộ, giáo
viên tranh thủ, truy cập lấy thông tin phục vụ công việc của mình tại phòng Tin học trong
Thư viện nhà trường, được sắp xếp theo hình chữ U cho 3 tổ chuyên môn.
Phát động HS tích cực tham gia các cuộc thi qua mạng do Bộ GD& ĐT tổ chức
nhằm nâng cao chất lượng. Đây cũng là một hình thức nhằm phát huy năng lực chuyên
môn, khả năng tự tìm hiểu, học hỏi của đội ngũ giáo viên chủ nhiệm của nhà trường vì
kết quả thi môn Toán, Tiếng Anh qua mạng các cấp cũng được tính điểm thi đua và đánh
giá chất lượng công tác của GVVH cũng như GV môn năng khiếu.
Tổ chức nhóm GV có chuyên môn nghiệp vụ tốt như GVG cấp huyện, cấp tỉnh;
GV cốt cán về CNTT cùng HT, PHT tham gia thiết kế bài giảng điện tử E-learning và đã
có 03 bài giảng điện tử E-learning dự thi cấp Bộ năm học 2012-2013 ( Có đĩa CD kèm
theo). Qua đó, nâng lên một tầm cao mới của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy của
đội ngũ GV trong nhà trường.
3.4. Điều kiện thực hiện:
Lãnh đạo nhà trường thực sự quan tâm đến vấn đề trình độ CNTT của GV; coi việc
thiếu hụt kiến thức về CNTT là một phần trách nhiệm của nhà trường; có kế hoạch bồi
dưỡng dài hơi; linh hoạt trong việc đưa ra các chương trình đào tạo cụ thể phù hợp với
từng giáo viên.
Cán bộ quản lý, các giáo viên và nhân viên nhà trường phải có nhận thức đúng đắn
và nhiệt tình tham gia vào việc phát triển áp dụng CNTT vào hoạt động dạy học.
CSVC trang thiết bị giảng dạy cho giáo viên đồng bộ, hiện đại và hiệu quả.
Có đủ nguồn tài chính để hỗ trợ kinh phí cho GV học tập, bảo hành, bảo trì máy,
mạng, tổ chức thiết kế bài giảng điện tử theo nhóm…
4. Biện pháp 4 :Tổ chức tập huấn, chuyên đề để phổ biến, chia sẻ các nguồn tài
nguyên mạng và các phương pháp dạy học có ứng dụng CNTT.
4.1. Mục đích, ý nghĩa
Một là: Tăng cường các ứng dụng CNTT trong đổi mới, nội dung phương pháp,
phương thức cách làm việc và dạy học.
Hai là: Đa dạng hoá, hiện đại hoá cách thức quản lý và dạy học trong nhà trường.

Ba là: Tăng cường khai thác Internet để thu thập, sử dụng các thông tin phục vụ
chuyên môn, nghiệp vụ.
Bốn là: Tăng cường công tác quản lý theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát
triển và hội nhập
Năm là: Học tập kinh nghiệm của các trường đã ứng dụng thành công CNTT trong
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
4.2. Nội dung- Biện pháp
Nhà trường cần đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong giáo dục theo hướng tin học
hoá quản lý giáo dục và sử dụng CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho việc
đổi mới phương pháp quản lý và dạy học như:
Thứ nhất: Triển khai chương trình quản lý nhân sự, hệ thống thông tin quản lý
giáo dục trong nhà trường.
Thứ hai: Tin học hoá công tác quản lý tài chính, ngân sách nhà nước.
Thứ ba: Khai thác tốt các phần mềm quản lý đang thực hiện trong nhà trường theo
sự chỉ đạo của ngành: Phần mềm phổ cập, vermis, Emis…
Thứ tư: Trong dạy và học, chỉ đạo, khuyến khích giáo viên tăng cường khai thác,
sử dụng có hiệu quả các phần mềm như: phần mềm mô tả, mô phỏng, minh hoạ, chứng
minh, vẽ hình học, để đổi mới nội dung và phương pháp dạy học.
Thứ năm: Sử dụng tốt các phần mềm thiết kế bài dạy như: phần mềm Microsoft
PowerPoint, Microsoft Frontpage, HTML, Violet, Macromedia Flash,
Thứ sáu: Thông báo thông tin điện tử (Website) của Phòng, Sở và địa chỉ Email
chung của nhà trường để CBGV-NV nắm bắt các thông tin, hoạt động của ngành, của nhà
trường nhanh chóng và chính xác. Các kế hoạch năm học, kế hoạch theo học kì, tháng,
tuần của nhà trường, Liên đội và các đoàn thể đều được gửi vào hộp thư điện tử của nhà
trường, tạo được thói quen cho GV cập nhật thông tin qua thư điện tử. Biện pháp này
giúp cho công tác chỉ đạo kịp thời, hiệu quả, tiết kiệm thời gian, văn phòng phẩm đồng
thời giúp cho GV từng bước nâng cao kĩ năng sử dụng, khai thác qua mạng Internet. GV
nào không cập nhật sẽ không nắm bắt được kế hoạch cho nên đó cũng là điều kiện buộc
người GV phải thay đổi nếp nghĩ, nếp tư duy, từ đó có sự đầu tư mua máy tính, kết nối
mạng tại gia đình để đáp ứng yêu cầu công việc.( Trường hợp gia đình không kết nối

×