Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Vấn đề tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học ngữ văn đi đôi với hiệu quả và có tính giáo dục cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.5 MB, 58 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
TẠO HỨNG THÓ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
TRONG TIẾT DẠY NGỮ VĂN
1
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy Ngữ văn hiện nay đã và đang
thực sự là yếu tố quyết định hiệu quả giờ dạy. Phương pháp dạy học đổi mới
chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học
sinh làm cho học sinh ham thích môn học. Điều 24, Luật giáo dục (do Quốc
hội khóa X thông qua) cũng đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Đây là định hướng cơ bản thiết thực đối
với mỗi giáo viên trong đó có giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn.
Từ nhiều năm nay, phương pháp dạy văn đổi mới đã chú trọng phát
triển hứng thú học văn của học sinh. Một trong những mục đích của giờ văn
là làm sao gây được rung động thẩm mĩ, giáo dục nhân cách cho học sinh. Ai
đó đã nói rằng: “Dự đó dắt ngựa đến bờ sông cũng không thể bắt nó uống
nước được”. Vấn đề học tập của trẻ cũng vậy. Dự cú bắt được chúng ngồi
ngay ngắn học tập nhưng nếu không thích thú, trẻ không thể học tốt được. Từ
thực tế giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 10 tôi nhận thấy, muốn giờ dạy đạt
hiệu quả cao, ngoài việc truyền đạt kiến thức, tôi nghĩ rằng mình cần phải
biết gây hứng thú học tập cho học sinh để tiết học thực sự nhẹ nhàng, sinh
động; học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự nhiên, không gượng ép. Từ đó
mới phát huy thực sự tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin đề cập đến một số


biện pháp nhằm khơi gợi hứng thú học tập của học sinh trong tiết học Ngữ
văn lớp 10.
2
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trước hết, nghiên cứu đề tài để tìm ra biện pháp nhằm đảm bảo hiệu
quả và nâng cao chất lượng trong dạy học văn ở nhà trường phổ thông. Bên
cạnh đó, nhằm xác định các cơ sở lí luận, các nguyên tắc, yêu cầu, đề tài rút
ra kết luận về các giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học Ngữ văn,
phát huy được vai trò chủ thể của học sinh trong tiếp nhận văn học, phù hợp
với mục tiêu đặt học sinh vào vị trí trung tâm của quá trình dạy học.
Đó cũng là hướng tiếp cận quan điểm giúp học sinh mạnh dạn, tự tin
trong học tập. Việc quan tâm đúng mức trong rèn luyện các kỹ năng Nghe –
Nói – Đọc – Viết giỳp cỏc em khắc sâu kiến thức và hoàn thiện các kỹ năng
sống cần thiết. Đây cũng là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành
thói quen tốt, hình thành nhân cách cho các em trong tương lai.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng chủ yếu mà đề tài này nghiên cứu là các phương pháp
giảng dạy tích cực nhằm phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong
dạy học văn.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu là chương trình Ngữ văn lớp 10 – THPT.
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp đàm thoại: với phương pháp này tôi lấy nguồn thông
tin chính xác và nhanh nhất.
2. Phương pháp phỏng vấn: đặt các câu hỏi khéo léo tế nhị cung cấp
cho tôi thực hiện những vần đề thắc mắc chưa được giải toả.
3. Phương pháp quan sát: “trăm nghe không bằng một thấy”, sau khi
hỏi - nghe, bằng con mắt quan sát đã cho tôi một đánh giá chính xác.
4. Quan điểm thực tiễn: tất cả những nghiên cứu áp dụng vào thực

tiễn giảng dạy.
5. Cuối cùng là tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm cho cả quá trình.
3
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
Nghiên cứu về hứng thú, các nhà tõm lớ học cho rằng, đây là thái độ
đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc
sống vừa có khả năng mang lại khoái cảm cá nhân trong quá trình hoạt động.
Nó được biểu hiện trước hết ở sự tập trung chú ý cao độ, sự say mê hấp dẫn
bởi nội dung hoạt động. Mặt khác, hứng thú bao giờ cũng dẫn đến một đối
tượng cụ thể hấp dẫn, nó gắn liền với tình cảm con người. Trong bất cứ một
công việc gì nếu có hứng thú làm việc con người sẽ có cảm giác dễ chịu với
hoạt động, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động có sáng tạo.
Ngược lại nếu hứng thú không được thỏa mãn sẽ dẫn đến cảm xúc tiêu cực.
Theo các nhà nghiên cứu giáo dục thì hiệu quả trong việc gây hứng
thú cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn nói lên trình độ giáo dục văn học của
nhà trường nói chung và của từng giáo viên. Văn học dễ làm say mê người
học nếu người dạy tạo được sự hứng thú tự thân nơi người học. Người học
văn cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong từ ngữ, bố cục, vần điệu khi có
được sự hứng thú tìm hiểu và đưa đến cảm xúc. Cái khó của người dạy là làm
thế nào truyền được cảm xúc của tác giả đến với người học. Trong nhà
trường phổ thông đối tượng học sinh do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi thích
tìm hiểu và sáng tạo nhưng chưa có phương pháp đúng để cảm thụ văn học,
chưa hiểu rõ cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong từng câu thơ, câu văn, chưa có
cảm xúc thực sự đồng điệu với cảm xúc của tỏc giả Chớnh những thiếu sót
trên, học sinh thường không thích học và đọc văn. Nhiệm vụ của giáo viên
dạy văn là phải tạo sự hứng thú, phải khiến cho những từ ngữ khô khan biết
nhảy múa, biết vẽ ra những khung cảnh lúc yên bình, lúc dữ dội; phải đi vào

tâm hồn các em những tình cảm yờu, ghột, nhớ nhung, mơ mộng; phải mở ra
những cánh cửa từ lâu được khóa chặt bằng sinh hoạt đời thường.
4
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
Trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy các môn học nói chung
và môn ngữ văn nói riêng, việc lấy học sinh làm trung tâm thúc đẩy tư duy
học sinh, mở cho các em hướng nghiên cứu và tự mình giải quyết những thắc
mắc, những khó khăn trong việc tìm hiểu phân tích. Người giáo viên không
còn giảng giải một cách say sưa khi không có phản hồi từ học sinh, các em
được làm quen với những câu hỏi gợi mở, những gợi ý cho một đề tài thảo
luận, các em có quyền nêu những nhận xét, những cảm nhận cá nhân về đề
tài, về nhân vật, về tác giả Từ những cảm nhận đôi khi chưa chính xác, gây
tranh cãi góp phần rất lớn trong việc điều chỉnh nhận thức, gây hứng thú cho
các em và văn học không xa lạ, không “đóng khung trong tháp ngà” mà thật
sự gần gũi biết bao
II. Thực trạng:
1. Về phía giáo viên:
Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phương pháp dạy học mới. Hàng
năm các thầy cô được tập huấn thay sách, thảo luận ưu - nhược điểm của sách
giáo khoa mới. Trong giảng dạy, người thầy đã phát huy được tính cực chủ
động trong việc dạy học. Học sinh được bày tỏ ý kiến tình cảm, cách hiểu của
mình về bộ môn, được thực hành giao tiếp nhiều hơn. Với tinh thần mới, giờ
Ngữ văn không phải là giờ truyền thụ kiến thức, mà là giờ khơi gợi khuyến
khích học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức, giỏo viên cũng đã phân biệt
được phương pháp dạy học theo đặc trưng bộ môn Ngữ văn (Tiếng Việt –
Văn – Tập làm văn). Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện quan
điểm tích hợp trong các tiết dạy: Tích hợp ngang (Tích hợp của ba phõn mụn
Văn - Tiếng Việt – Tập làm văn) và Tích hợp dọc (Tích hợp giữa các bài, các
lớp trong cùng một phõn mụn). Bên cạnh đó là việc tích hợp vấn đề môi

trường tự nhiên và xã hội một cách phù hợp trong từng tiết dạy. Qua việc tích
hợp và lồng ghép cộng với liên hệ thực tế để giáo dục học sinh đã đem lại
cho bộ môn Ngữ văn có những tín hiệu khởi sắc. Đó là phương pháp dạy –
học mới đang được tiếp cận một cách tích cực.
5
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
Tài năng sư phạm của người thầy được dành nhiều hơn cho việc học
sinh tự tìm hiểu cảm thụ tác phẩm. Trong từng tiết dạy, giáo viên đã mạnh
dạn phối hợp cùng học sinh tiếp cận, phân tích, tổng hợp và hình thành những
tri thức cần nắm. Giáo viên nắm rõ được quan điểm tích hợp của sách giáo
khoa, có nhiều cố gắng rèn luyện kỹ năng nghe - đọc - nói - viết cho học sinh.
Học sinh không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là biết vận dụng kiến
thức vào cuộc sống như: Nói, viết tiếng Việt thành thạo, biết tạo lập văn bản,
biết sáng tác thơ, sáng tác tác phẩm nghệ thuật ngắn. Chính những chuyển
biến này đó giỳp giáo viên nhanh chóng tiếp cận và thực hiện thành công
những đổi mới trong phương pháp dạy – học Ngữ văn.
Tuy nhiên có một số giáo viên vẫn còn làm việc quá nhiều, trong một
tiết dạy đưa ra khá nhiều thông tin. Điều này dễ đưa các em vào thế bị động
ghi nhớ, không tạo điều kiện cho các em độc lập suy nghĩ, sáng tạo. Từ đó
dẫn đến sau này đứng trước nhiều vấn đề mới các em bỡ ngỡ, bị động, lúng
túng và không có đủ khả năng, bản lĩnh để giải quyết những vấn đề phức tạp
trong cuộc sống.
Một số tiết dạy vẫn còn rập khuôn theo trình tự 5 bước lên lớp. Nó
biến giờ học thiếu sự phóng khoáng, trở nên nhạt nhẽo, làm tê liệt sự hào
hứng của học sinh. Rồi giáo viên chỉ dùng một phương pháp dạy chủ yếu là
thuyết trình, không có sự linh hoạt trong việc kết hợp các phương pháp. Bên
cạnh đó là việc sử dụng các giỏo án mẫu, thiết kế bài giảng một cách máy
móc làm mất đi sự cảm thụ sáng tạo riêng của cá nhân.
2. Về phía học sinh:

Các em học sinh phần nào ý thức được đây là bộ môn chính quyết
định chất lượng học tập. Các em luôn cố gắng để đạt được trung bình để
không bị khống chế trong xếp loại học lực. Các giờ học nhìn chung đó cú
một không khí mới, hào hứng, sôi nổi. Học sinh được giao việc, tức là được
chủ động tham gia vào các hoạt động trong giờ học với tư cách là một chủ thể
tích cực. Học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của giáo viên, không khí tiết
6
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
học đôi khi ồn ào nhưng học sinh rất hào hứng đón nhận, giảm thái độ đối
phó, miễn cưỡng bởi các em đã tìm được sự hứng thú cho mình.
Tuy nhiên đi sâu vào thì việc học của học sinh chủ yếu là đối phó.
Kiến thức thực tế về văn học của các em còn nghèo nàn, phương pháp học
tập còn lúng túng. Do đó, kiến thức văn học các em không nhớ được; kiến
thức tiếng Việt các em dùng từ ngữ trong giao tiếp thiếu chính xác. Đặc biệt
các bài Tập làm văn thường mắc lỗi chính tả, câu văn viết chưa đúng ngữ
pháp, cách diễn đạt vụng về, sáo mòn, lệ thuộc vào sách tham khảo. Nghĩa là
các em chưa có tính sáng tạo trong việc tạo lập văn bản theo yêu cầu…
Nếu thử điều tra học sinh theo những câu hỏi nhỏ sau chúng ta sẽ
thấy rõ thực trạng học tập Ngữ văn và tâm trạng khi các em học văn ra sao:
+ Em có thấy môn văn cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp sau
này của mỡnh không ?
+ Em cú thớch học văn không ?
Kết quả điều tra sẽ rất đáng suy nghĩ, đáng để mỗi giáo viên dạy Ngữ
văn trăn trở, suy ngẫm về vị trí, tầm quan trọng của môn văn và năng lực dạy
Ngữ Văn của mình.
II. NGUYÊN NHÂN:
Chất lượng, không khí học văn trên lớp nhiều tiết tẻ nhạt, thiếu hấp
dẫn do các nguyên nhân sau:
1/ Dạy Ngữ văn cũng cần đòi hỏi phải có năng khiếu. Thầy dạy

không hay, không say mê, nhiệt tình thỡ khú mà làm cho học trò thớch mụn
văn. Một số tiết dạy bình thường giáo viên lại quay về phương pháp cũ, tức là
cung cấp cho học sinh từng kiến thức, thậm chí đọc chép cho học sinh. Điều
này cũng do nguyên nhân giáo viên chưa tin vào năng lực thi công của mình,
nhất là đối với học sinh yếu kém. Giáo viên thường ghi câu chữ, hình ảnh,
biện pháp tu từ sau đó đánh mũi tên sang ngang ghi tác dụng, ý nghĩa … một
cách máy móc giản đơn. Điều đó vừa làm mất đi tính toàn vẹn của tác phẩm,
vừa gây khó khăn cho học sinh khi học bài ở nhà.
7
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
Thao tác vào bài (giới thiệu bài) của giáo viên thường là nhắc lại tên
bài học trước, nêu tên bài học hôm nay. Kiểu dẫn dắt đơn điệu này không
kích thích được hứng thú học tập của học sinh.
Thao tác tìm hiểu bài còn hạn chế là: Câu hỏi quá dễ hoặc quỏ khú,
diễn giảng vụn vặt sau câu trả lời của học sinh, bỏ qua chỗ diễn giảng cao
trào để bổ sung, nâng cao, mở rộng cách hiểu cho học sinh.
2/ Đa số học sinh, cha mẹ học sinh đầu tư vào cỏc mụn khoa học tự
nhiên và ngoại ngữ, xem nhẹ môn Ngữ văn. Điều này dễ nhận thấy ở việc
học sinh ồ ạt đăng kí học bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn hoặc ở việc tìm
thầy phụ đạo thêm và ở việc học sinh học bài ở nhà.
3/ Cơ sở vật chất, tài liệu minh họa, đồ dùng dạy học để phục vụ giảng
dạy và bổ sung kiến thức học tập môn văn nghèo nàn, đơn điệu, chủ yếu là một
số tranh ảnh và sách tham khảo. Từ đó dẫn đến việc giáo viên dạy chay cũn
học sinh thì lúng túng không biết chọn lựa sách nào để đọc cho phù hợp.
Những hoạt động ngoại khóa để khắc sâu, mở rộng kiến thức, gây
hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh rất ít được tổ chức vì tốn kém,
mất nhiều thời gian và công sức.
III. GIẢI PHÁP:
1. Sự chuẩn bị của giáo viên:

Trước hết, giáo viên phải chuẩn bị nhiều phương diện cho một giờ
lên lớp: Nắm vững bài dạy, xác định kiến thức trọng tâm, hình thành giáo án
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tìm hiểu thực tế
lớp dạy cụ thể trong từng tiết học.
Giáo viên phải chú ý tạo tâm thế học tập tốt cho học sinh, giỳp cỏc
em nhận thức được lợi ích của bộ môn cũng như tạo sự phát triển trí tuệ, tư
duy và tâm hồn, tình cảm cho người học. Tác dụng này phải được giáo viên
nhấn mạnh trong những tình huống phù hợp. Khi chú ý đến điều này giáo
viên sẽ khắc phục được thái độ thờ ơ, lãnh đạm, thụ động của học sinh; dần
8
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
dần học sinh sẽ tích cực chủ động hơn trong việc chuẩn bị bài, lĩnh hội kiến
thức, vận dụng kiến thức Ngữ văn trong học tập và đời sống.
Như vậy, việc chuẩn bị tâm thế trong giờ học Ngữ văn rất quan trọng
đối với việc tạo hứng thú cho học sinh. Nhưng khơi gợi hứng thú cho học
sinh có thành công hay không chủ yếu phụ thuộc vào các biện pháp giáo viên
thực hiện lên lớp, trong giờ dạy cụ thể.
Muốn vậy, giáo viên phải phối hợp nhiều biện pháp để tạo nên những
giờ học sinh động lôi cuốn học sinh. Cụ thể như:
+ Quy trình dạy học hợp lí với sự chủ động bình tĩnh, một giờ dạy lôi
cuốn học sinh trước hết ở nghệ thuật dẫn dắt, hướng dẫn học sinh. Trên cơ sở
nắm vững kiến thức trọng tâm của bài học, giáo viên chú ý đến tính vừa sức,
điều tiết thích hợp để tránh nhàm chán vì sự lặp lại hoặc chán nản vì kiến
thức khó. Đối với những bài mà các em đã học giáo viờn phải huy động và
củng cố kiến thức cũ làm cơ sở hình thành kiến thức mới.
+ Đối với những kiến thức hoàn toàn mới, giáo viên hướng dẫn học
sinh từ dễ đến khó, mạnh dạn tinh giản kiến thức, tránh ôm đồm quá tải làm
học sinh không hứng thú vì cảm thấy bài dài và khó.
+ Tăng cường giao tiếp trong giờ học là một biện pháp cơ bản để

khơi gợi hứng thú học tập. Thông qua giao tiếp học sinh chủ động tiếp nhận
kiến thức, giờ học trở nên sinh động hơn. Để đạt điều này, giáo viên phải tạo
những tình huống có vấn đề để gợi mở suy nghĩ của học sinh, học sinh sẽ cố
gắng khám phá tìm hiểu vấn đề. Từ đó học sinh tranh luận, thảo luận bảo vệ ý
kiến của mình khi có những ý kiến trái ngược nhau. Lưu ý là phải tạo điều
kiện để các em lựa chọn cách hiểu và hướng dẫn đến ý kiến đúng một cách
kịp thời, phù hợp. Hoạt động giao tiếp trong giờ học được thực hiện từ khâu
tìm hiểu bài, hình thành kiến thức mới và luyện tập thực hành. Phải có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của thầy và trũ….
Tổ chức trò chơi cũng chính là hoạt động giao tiếp nhằm khơi gợi
hứng thú học tập của học sinh. Có thể tổ chức trong tiết dạy với hình thức thi
9
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
giữa các nhóm nhỏ với nhau để làm bài tập củng cố kiến thức. Hoặc kết hợp
với những đề tài cụ thể để lôi cuốn học sinh vào trò chơi, có động viên khen
thưởng kịp thời.
+ Giáo viên thay đổi các ví dụ minh họa trong giờ học tạo cũng là
một biện pháp tạo ra được hứng thú học tập của học sinh. Trong những bài
mà ví dụ khô khan, xa lạ, khó hiểu giáo viên nên chủ động nờu cỏc ví dụ gần
gũi với cuộc sống, với tình hình thời sự và đặc điểm của lứa tuổi học sinh.
Chớnh cỏc ví dụ này làm cho tiết học bớt khô khan cứng nhắc, vui hơn, khơi
gợi hứng thú học tập của học sinh hơn.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
Vấn đề tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học ngữ văn đi đôi với hiệu
quả và có tính giáo dục cao. Học sinh có thể có hứng thú nhưng hiệu quả giáo
dục mới là mục đích mà người dạy cần đạt. Người viết xin trình bày một số
phương pháp đã áp dụng khi hướng dẫn học sinh tiếp xúc với văn bản như sau:
a) Phương pháp chia nhóm thảo luận:
Phương pháp này mang lại cho học sinh cơ hội thuận lợi để làm quen

với nhau, khơi dậy sự gắn bó với tập thể. Sau mỗi bài dạy giáo viên có thể
cho học sinh luyện tập bằng phương pháp học nhóm. Mỗi nhúm cú từ 3-4
em, giỏo viên cho thời gian chuẩn bị khoảng 5'. Sau đó mỗi nhóm cử đại diện
lên trình bày. Lúc này học sinh có cơ hội thực hành các kỹ năng trí tuệ bậc
cao như: Kỹ năng sáng tạo, kỹ năng đánh giá, tổng hợp và phân tích. Hình
thức này không những lý thú mà còn tạo nhiều cơ hội cho các em học hỏi.
Những học sinh nhút nhát thường ít phát biểu trong lớp, sẽ có môi trường tốt
để động viên tham gia xây dựng bài. Ở hoạt động này các lỗi sai đều được
giải đáp, học sinh tự sửa lỗi và dạy lẫn nhau trong bầu không khí rất thoải
mái. Học sinh có thể cùng nhau đạt được những điều mà các em không thể
làm được một mình.
10
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
* Ví dụ 1: Trong tác phẩm " An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy"
- Đây là một tác phẩm thuộc thể loại truyền thuyết cho nên trong
quá trình tìm hiểu văn bản cần bám sát vào những đặc trưng của thể loại
truyền thuyết.
- Trong văn bản này, giáo viên cần có nhiều phương pháp để giúp
học sinh khám phá tác phẩm. Đối với chia nhóm thảo luận thì cần lựa chọn
những thời điểm thích hợp để áp dụng. Cụ thể:
+ Giáo viên có thể đưa ra những câu hỏi như: Tại sao An Dương
Vương xây mãi mà không xong thành? Đánh giá về nhân vật này như thế
nào? Hoặc em có bàn luận gì về chi tiết “Ngọc trai giếng nước”? Qua chi tiết
này nhân dân ta muốn nói lên điều gì?
+ Hoặc trong bi kịch tình yêu của Mị Châu và Trọng Thu•, giáo viên có
thể đưa ra vấn đề thảo luận theo nhóm như: Phân tích từng hành động của nhân
vật Mị Châu và Trọng Thu•? Qua đó em có đánh giá gì về từng nhân vật?
- Học sinh sẽ thảo luận và đưa ra cách hiểu về vấn đề và trình bày nội
dung mà nhúm mỡnh thảo luận.

* Dạy bài “Nội dung và hình thức của văn bản văn học”
Sau khi giáo viên truyền thụ kiến thức học sinh tìm hiểu khái niệm,
để hệ thống hóa cỏc kiến thức đã học về nội dung (đề tài, chủ đề, tư tưởng,
cảm hứng nghệ thuật) và hình thức (ngôn từ, kết cấu, thể loại) của văn bản
văn học, giáo viên dùng sơ đồ vẽ sẵn lên phim trong và cho các em điền vào
cỏc ụ trống.
Giáo viờn có thể chia lớp thành 2 nhóm. Nhóm nào điền nhanh đúng
đưa lên đèn chiếu sẽ thắng.
11
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
b) Phương pháp dùng bản đồ tư duy:
Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc,
với các mạng lưới liên tưởng (cỏc nhánh) - BĐTD là công cụ đồ hoạ nối các
hình ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học
kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến
thức sau mỗi chương…
Bản đồ tư duy giúp học sinh học được phương pháp học tập chủ
động, tích cực. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu
hướng không thích hoặc ngại học môn Ngữ văn do đặc trưng môn học
thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng
thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài nấy, học
phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thống kiến thức.
Do đó, việc sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy học sẽ giỳp cỏc em
có được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển
tư duy.
Bản đồ tư duy giúp học sinh ghi chép rất hiệu quả. Do đặc điểm của
bản đồ tư duy nên người thiết kế bản đồ tư duy phải chọn lọc thông tin, từ
ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lụgic, vì vậy, sử dụng
bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả.

- Ví dụ: Dạy trích đoạn “Tỡnh cảnh lẻ loi của người chinh phụ”,
trong phần tổng kết về nội dung và nghệ thuật, giáo viên có thể gọi học sinh
lên vẽ sơ đồ để tóm lược nội dung kiến thức toàn bài như sau:
12
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
c. Thiết kế trò chơi ô chữ trong tiết học Ngữ văn.
Nhằm làm cho giờ dạy Ngữ văn thêm sinh động, giáo viên có thể
thiết kế các trò chơi ô chữ nhằm củng cố bài học trong các tiết Ngữ văn với
thời lượng 3' – 4', qua đó kích thích hứng thú học tập cho học sinh, tạo ra một
hoạt động có thể thu hút sự chú y của học sinh và làm giờ học bớt căng thẳng.
13
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
Việc thiết kế cỏc ụ chữ văn học cho mỗi giờ dạy tùy thuộc vào mục
đích và sự sáng tạo của giáo viên trong từng bài dạy thực tế bằng cách vận
dụng tiện ích của công nghệ thông tin. Đó là các trò chơi thư giãn với mục
đích: hình thành kiến thức, tích hợp kiến thức hay củng cố bài…lớn hơn có
thể là hình thức đố vui để học trong các giờ ôn tập hoặc ngoại khóa.
- Ví dụ: Khi dạy bài “Truyện Kiều” - phần Tác phẩm, sau khi gọi học
sinh tóm tắt, nêu được giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, giáo viên
hướng dẫn học sinh chơi trò giải ô chữ:
Ô CHỮ TRUYỆN KIỀU
Ô chữ gồm 16 hàng ngang và 1 cụm từ chìa khóa ở hàng dọc.
1 H O Ạ N T H Ư
2 K I M T R Ọ N G
3 S Ư G I Á C D U Y Ê N
4 T Ừ H Ả I
5 B U Ồ N T R Ô N G
6 T I Ề N Đ Ừ Ờ N G

7 B Ạ C M Ệ N H
8 T H Ú Y V Â N
9 Đ Ạ M T I Ê N
H O A L I Ễ U 10
11 Đ Ạ P T H A N H
12 N G H I X U Â N
13 L Ầ U N G Ư N G B Í C H
14 V Ư Ơ N G Q U A N
15 T Ố N H Ư
16 M Ã G I Á M S I N H
1. Thúy Kiều đã khen người này là “khụn ngoan đến mực nói năng
phải lời”.
2. Người “thụng minh tài mạo tót vời”.
3. Người cưu mang giúp đỡ Thúy Kiều.
4. Người bị lừa chết đứng giữa trận tiền.
14
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
5. Nguyễn Du đó dựng điệp ngữ này miêu tả tâm trạng Kiều ở lầu
Ngưng Bích.
6. Nơi Thúy Kiều hết kiếp đoạn trường.
7. Tên một bản nhạc mà Thúy Kiều đã chơi.
8. Người có vẻ đẹp “trang trọng khác vời”.
9. Người cùng kiếp hồng nhan bạc mệnh như Kiều.
10. Đối tượng ghen hờn trước vẻ đẹp của Kiều.
11. Một ngày hội trong truyện Kiều.
12. Địa danh quê hương của Nguyễn Du.
13. Nơi Tú Bà đưa Kiều đến giam lỏng.
14. Người bạn đồng môn với Kim Trọng.
15. Tên chữ của Nguyễn Du.

16. Kẻ đã phô bày bộ mặt con buôn xảo trá đê tiện trong cuộc mua
bán Kiều.
d/ Phương pháp đóng vai, diễn kịch:
Đóng vai rất có tác dụng trong việc phát triển “kỹ năng giao tiếp” của
học sinh. Nó mang đến cho học sinh cơ hội thực tập kỹ năng. Đây cũng là
một thủ pháp thâm nhập tìm hiểu tâm tư và thái độ con người.
* Ví dụ:
- Khi dạy bài “Nhưng nó phải bằng hai mày”, giáo viên phân vai cho
học sinh hoỏ thõn vào các nhân vật:
+ Nhân vật Cải.
+ Nhân vật Ngô.
+ Nhân vật tên quan xử kiện.
- Dạy truyện cười “Tam đại con gà”, học sinh đóng thành các vai:
+ Thầy đồ.
+ Anh học trò.
+ Cha anh học trò.
15
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
- Trong giờ ngoại khoá: “Sân khấu hoá văn học dân gian”, lớp 10
chuyờn Toán 2 đã diễn vở kịch “Tấm Cám thời hiện đại” (Kịch bản chi tiết ở
phần Phụ lục)
e. Phương pháp dạy văn bằng 6 chiếc nón tư duy
Dạy văn bằng 6 chiếc nón tư duy là một phương pháp sáng tạo đáp
ứng được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh nắm
vững bài nhanh chóng, nhớ lâu, ôn tập dễ dàng. Thông qua việc tự tìm tòi,
sáng tạo, học sinh học được kỹ năng thu thập và xử lý thông tin.
Cách thực hiện 6 chiếc nón tư duy:
Học sinh (HS) cần chuẩn bị hộp bút chì màu và giấy trắng. Ý nghĩa
của 6 chiếc nón với 6 màu khác nhau này được trình bày bên dưới:

1. Nón trắng (dữ liệu): Màu trắng là màu trung tính và khách quan.
Nón trắng tập trung vào những con số và sự thực khách quan mang hình ảnh
của một tờ giấy trắng, thông tin, dữ liệu. Khi chúng ta tưởng tượng đang đội
chiếc nón trắng, chúng ta chỉ cần suy nghĩ về các thông tin, dữ kiện liên quan
đến vấn đề đang cần giải quyết.
- Tiểu sử tác giả?
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm?
- Lời bình về tác giả, tác phẩm?
2. Nón đỏ (cảm xúc): Màu đỏ tượng trưng cho sự đam mê và xúc
cảm. Nón đỏ chú trọng vào gúc nhỡn của cảm xúc mang hình ảnh của lửa
đang cháy, con tim, dòng máu nóng, sự ấm áp. Khi tưởng tượng đang đội
chiếc nón đỏ, chúng ta chỉ cần đưa ra các cảm giác, cảm xúc, trực giác của
mình về vấn đề đang giải quyết. Chỉ đưa ra các cảm giác, không cần giải
thích.
- Cảm xúc khi lần đầu đọc tác phẩm?
- Cảm xúc khi phân tích tác phẩm?
3. Nón vàng (hay, lợi, tích cực): Màu vàng tươi vui và gắn liền với
những ý nghĩa tích cực. Nón vàng hướng đến sự lạc quan, chứa đựng những
16
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
hy vọng và suy nghĩ tích cực mang hình ảnh của ánh nắng mặt trời, sự lạc
quan, các giá trị, các lợi ích. Người đội nón vàng sẽ đưa ra các ý kiến lạc
quan, có logic, các mặt tích cực, các lợi ích của vấn đề, mức độ khả thi của
dự án.
- Hay về nghệ thuật của tác phẩm?
- Hay về nội dung của tác phẩm?
4. Nón đen (dở, hại, tiêu cực): Màu đen ảm đạm và trang nghiêm.
Nón đen là nón của sự cảnh giác và thận trọng. Nó chỉ ra những nhược điểm
của một ý tưởng, một giải pháp. Hãy liên tưởng đến các điểm yếu, các lỗi, sự

bất hợp lý, sự thất bại. Vai trò của chiếc nón đen là giúp chỉ ra những điểm
yếu trong quá trình suy nghĩ của chúng ta. Chiếc nón đen để dùng cho “sự
thận trọng”, nó chỉ ra các lỗi, các điểm cần lưu ý, các mặt yếu kém, bất lợi
của vấn đề hay dự án đang tranh cãi. Chiếc nón đen đóng vai trò hết sức quan
trọng, nó đảm bảo cho dự án của chúng ta tránh được các rủi ro, nó ngăn
chúng ta làm điều sai, bất hợp pháp hay nguy hiểm.
- Tác phẩm có điều gì chưa hay?
- Tác phẩm có điều gì khó hiểu?
5. Nón xanh lục (cái mới, sáng tạo): Hãy liên tưởng đến cây cỏ xanh
tươi, sự nảy mầm, sự đâm chồi, phát triển. Chiếc nón xanh lá cây tượng trưng
cho sự sinh sôi, sáng tạo. Trong giai đoạn đội nón này, chúng ta sẽ đưa ra các
giải pháp, ý tưởng cho vấn đề đang thảo luận.
- Một tình cảm mới? (do tác giả gửi đến người đọc).
- Một suy nghĩ mới? (do tác giả gửi đến người đọc).
- Một đóng góp mới của tác giả? (nghệ thuật hoặc nội dung).
6. Nón xanh dương (tổ chức): Màu của sự trầm tĩnh và cũng là màu
của bầu trời, đứng cao hơn tất cả mọi thứ khỏc. Nún này tập trung vào sự
kiểm soát, cơ chế của quá trình tư duy và việc sử dụng những chiếc nún khỏc.
Hóy nghĩ đến bầu trời xanh lồng lộng, sự bao quát. Chiếc nón xanh da trời sẽ
có chức năng giống như nhạc trưởng, nó sẽ tổ chức các chiếc nún khác - tổ
17
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
chức tư duy. Nón xanh da trời sẽ kiểm soát tiến trình tư duy. Đây là chiếc nón
của người lãnh đạo hay trưởng nhóm thảo luận. Vai trò của người đội nón
xanh da trời là:
- Xác định trọng tâm và mục đích thảo luận cho nhóm (Chúng ta ngồi
ở đây để làm gì? Chúng ta cần tư duy về điều gì? Mục đích cuối cùng là gì?).
Sắp xếp trình tự cho các chiếc nón trong suốt buổi thảo luận. Người đội nón
xanh da trời cần bảo đảm nguyên tắc vàng sau: “Tại một thời điểm nhất định,

mọi người phải đội mũ cùng màu”. Cuối cùng, tập hợp mọi ý kiến, tóm tắt,
kết luận và ra kế hoạch (Chúng ta đã đạt được gì qua buổi thảo luận? Chúng
ta có thể bắt đầu hành động chưa? Chúng ta có cần thêm thời gian và thông
tin để giải quyết vấn đề này?).
Chúng ta thấy rằng, với kỹ thuật 6 chiếc nón tư duy, mọi người sẽ
cùng tập trung giải quyết vấn đề từ cùng một gúc nhỡn do đó sẽ không xảy ra
xung đột do những quan điểm khác nhau. Ngoài ra, một vấn đề sẽ được xem
xét từ nhiều khía cạnh trước khi được quyết định, điều này sẽ giúp chúng ta
cú cỏc quyết định hiệu quả và đúng đắn.
3. Việc sử dụng đồ dùng dạy học
Đồ dùng dạy học có tác dụng tác động tới thính giác thị giác của học
sinh một cách tích cực nhất. Sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học cho các hoạt
động học sẽ kích thích trí tò mò, lòng ham hiểu biết và hứng thú học tập môn
Ngữ văn của học sinh.
Có thể kể đến các phương tiện trong giờ học Ngữ văn như sau:
- Bảng viết: trình bày bảng là nghệ thuật giúp học sinh có thể quan
sát, ghi chép một cách có hệ thống đầy đủ các nội dung theo tiến trình bài
học. Phấn màu cần được sử dụng hài hòa, có tác dụng trực quan. Nội dung
trình bày ngắn gọn, đủ nội dung bài học, tránh dài dòng. Có thể để phần bảng
phụ tương ứng với lượng thời gian luyện tập để học sinh có đủ bảng trình bày
kết quả.
18
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
- Tranh ảnh, sơ đồ: Được sử dụng phổ biến vì dễ làm, tiết kiệm nhiều
mặt. Khi sử dụng , nên dành thời gian cho học sinh quan sát suy nghĩ sẽ khắc
sâu được dự kiến tác dụng đồ dùng của giáo viên.
- Ứng dụng công nghệ thông tin: Những ứng dụng công nghệ thông
tin đã thực sự đem lại cho giáo viên và học sinh những giờ học hứng thú qua
các hoạt động thu nhập, lưu trữ, mô phỏng và trình chiếu lượng thông tin

bằng nhiều dạng văn bản, hình ảnh, âm thanh, mụ hỡnh…Vận dụng công
nghệ thông tin là xu thế thời đại vỡ nó phát huy được tính tích cực của người
học nhờ quá trình tương tác giữa giáo viên – học sinh- nội dung- phương
tiện- phương pháp- hình thức học tập. Có nhiều mức độ khác nhau trong vận
dụng chuẩn bị giáo án điện tử, trình chiếu bài dạy của giáo viên. Tích cực
hơn là tìm kiếm thông tin trên mạng hay tổ chức học tập theo hình thức từ xa
(E learning). +
Đồ dùng dạy học cần chú ý đến tính hiệu quả tác dụng trong việc tạo
ra hứng thú cho học sinh học tập. Luôn chú ý đến tính sư phạm và đảm bảo kĩ
thuật mới có thể khẳng định sự hỗ trợ tích cực của đồ dùng trong dạy học
Ngữ văn.
4. Cách đối xử của người dạy tạo ra hứng thú cho học sinh
Việc truyền dạy thì phương pháp của thầy cô này sẽ khác với thầy cô
khác. Phương pháp một phần là vấn đề của cá nhân, là cách tiếp cận và giải
quyết riêng của mỗi thầy cô, không thể liệt kê ra sắc thái riêng của từng người.
Phần lớn đọng lại trong tâm trí học sinh là cách đối xử của thầy.
Người thầy gây cho học sinh niềm hứng thú học tập bằng một câu hỏi nêu
vấn đề có tính khơi gợi khiến học sinh thắc mắc động não suy nghĩ. Có nghĩa
là thầy không chỉ dạy chuyên môn mà chú tâm cho học sinh phương pháp tư
duy. Vì kiến thức không thể có từ việc học thuộc lòng mà có thể có được từ
khả năng phân tích, tổng hợp và suy luận. Người thầy biết đơn giản hóa và
làm rõ những vấn đề phức tạp, đào sâu vào cốt lõi của vấn đề. Từ đó khơi gợi
sự hứng thú, kích thích tư duy của học sinh. Người thầy nên quan tâm và tôn
19
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
trọng những tìm tòi dù nhỏ bé của học sinh. Từ đó chắp cho các em đụi cỏnh
tự tin và dám ước mơ để mạnh dạn khám phá sự hiểu biết một cách chủ động
và sáng tạo.
Việc thân thiện và quan tâm của thầy giúp học sinh khát khao học

tập, noi theo tấm gương của thầy. Những người thầy không chỉ hướng dẫn
kiến thức cho học sinh mà còn biết giao lưu cởi mở mối quan hệ thầy trò,
giúp học trò tìm thấy sự hứng thú trong học tập và tìm tòi sáng tạo. Từ đó giờ
Ngữ văn mới thực sự hấp dẫn với học sinh, và người thầy dạy sẽ trở thành
thần tượng của các em.
Qua thực hiện các biện pháp đó nờu trong bộ môn ngữ văn ở bậc
THCS người viết đã nhận thấy các em học sinh có nhiều tiến bộ rõ rệt khi tìm
hiểu những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, giúp học sinh
khắc sâu các kiến thức về Tiếng Việt cỏc em yêu thích học văn, hăng hái
phát biểu, không còn những giờ văn giáo viờn luụn thuyết giảng mà hiệu quả
không như ý muốn. Từ các bài làm của học sinh trong khi kiểm tra 1 tiết và
các bài thi định kỳ, giáo viên nhận thấy sự tiến bộ rõ nét trong việc các em
dùng từ, đặt câu nêu cảm nghĩ, phân tích đánh giá. Bước đầu các em đã thấy
hứng thú khi tìm hiểu di sản văn hóa Việt Nam và các nước trên thế giới, biết
rung động trước cảnh đẹp quê hương đất nước, lịch sử và con người. Học
sinh đã có ý kiến cá nhân, nêu những điều các em nghĩ chứ không bị áp đặt.
5. Minh họa trong một số tiết dạy cụ thể
20
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
GIÁO ÁN 1:
Tiết: 1 - 2 PPCT
Đọc văn:
TỔNG QUAN VĂN HỌC VIỆT NAM
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
Giúp học sinh:
- Nắm được những kiến thức chung nhất, tổng quát nhất về hai bộ
phận của văn học Việt Nam (văn học dân gian và văn học viết) và quá trình
phát triển của văn học viết Việt Nam (văn học trung đại và văn học hiện đại).

- Nhận thức được hệ thống vấn đề về:
+ Thể loại của văn học Việt Nam.
+ Con người trong văn học Việt Nam.
2. Kĩ năng:
- Hình thành cơ sở để tìm hiểu và hệ thống hoá những tác phẩm sẽ
học về văn học Việt Nam.
3. Thái độ:
- Bồi dưỡng cho học sinh niềm tự hào về truyền thống văn hoá của dân
tộc qua di sản văn học được học. Từ đó, có lòng say mê với văn học Việt Nam.
II. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH:
- Giáo viên: Sách giáo khoa, thiết kế bài giảng, sách giáo viên, tài
liệu tham khảo.
- Học sinh: Sách giáo khoa, bài soạn.
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC:
- Giáo viên tổ chức giờ dạy theo cách kết hợp các phương pháp gợi
tìm, trao đổi thảo luận, trả lời câu hỏi.
IV. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY - HỌC:
1. Ổn định lớp - kiểm diện học sinh
2. Kiểm tra sự chuẩn bị bài mới
21
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
3. Bài học:
Hoạt động của thầy và trò Yêu cầu cần đạt
Tiết 1
Hoạt động 1: Các tổ thảo luận theo
nội dung được giáo viên phân công cụ
thể:
- Tổ 1: Các bộ phận hợp thành của
văn học Việt Nam.

- Tổ 2: Quá trình phát triển của văn
học viết Việt Nam.
- Tổ 3: Con người Việt Nam trong
quan hệ với thế giới tự nhiên và trong
quan hệ quốc gia, dân tộc.
- Tổ 4: Con người Việt Nam trong
quan hệ xã hội và ý thức về bản thân.
Yêu cầu: mỗi tổ thảo luận nêu được
những ý chính cơ bản, hệ thống ý
thành bảng tóm tắt qua bảng con để
trình bày trước lớp.
Thời gian thảo luận: 15 phút.
Hoạt động 2: Đại diện của các tổ trình
bày.
- Tổ 1 trình bày những nội dung cơ
bản về các bộ phận hợp thành của văn
học Việt Nam.
+ Các tổ 2, 3, 4 nêu những thắc mắc,
những điều cần lý giải, trao đổi với tổ
1.
+ Tổ 1 trả lời những câu hỏi của các
I. CÁC BỘ PHẬN HỢP THÀNH
CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM:
1. Văn học dân gian:
- Là sáng tác tập thể và truyền miệng
của nhân dân lao động.
- Có 12 thể loại chủ yếu.
- Đặc trưng tiêu biểu: tính truyền
miệng, tính tập thể.
2. Văn học viết:

- Là sáng tác của trí thức, được ghi
lại bằng chữ viết.
- Là sáng tạo của cá nhân  mang
dấu ấn của tác giả.
- Chữ viết: cơ bản được viết bằng
chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ.
- Hệ thống thể loại:
+ Từ thế k• X  XIX: văn xuôi, thơ,
văn biền ngẫu.
+ Đầu thế k• XX  nay: tự sự, trữ
tình, kịch.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA
VĂN HỌC VIẾT VIỆT NAM:
Trải qua ba thời kỳ lớn:
- Từ thế k• X đến hết XIX  văn
học trung đại.
- Từ đầu thế k• XX đến Cách mạng
22
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
tổ.
+ Các tổ nhận xét phần trình bày về
nội dung và hình thức của tổ 1.
+ Giáo viên nhận xét, nhấn mạnh
những ý cơ bản.
- Tổ 2 trình bày những nội dung cơ
bản về quá trình phát triển của văn
học viết Việt Nam.
+ Cần chú ý các tiêu chí phân biệt văn
học trung đại và văn học hiện đại.

Nêu được các ví dụ chứng minh.
+ Các tổ 1, 3, 4 nêu những thắc mắc,
những điều cần lý giải, trao đổi với tổ
2.
+ Tổ 2 trả lời những câu hỏi của các
tổ.
+ Các tổ nhận xét phần trình bày về
nội dung và hình thức của tổ 2.
+ Giáo viên nhận xét, nhấn mạnh
những ý cơ bản.
tháng Tám 1945.
- Sau Cách mạng tháng Tám 1945
đến hết XX.
 văn học hiện đại.
1. Văn học trung đại:
- Được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm.
- Văn học chữ Hán:
+ Hình thành từ thế k• X.
+ Chịu ảnh hưởng các học thuyết
Nho giáo, Phật giáo, tư tưởng Lão -
Trang.
+ Tiếp nhận hệ thống thể loại và thi
pháp văn học cổ - trung đại Trung
Quốc.
- Văn học chữ Nôm:
+ Bắt đầu phát triển mạnh vào thế k•
XV, đạt tới đỉnh cao vào cuối XVIII
- đầu XIX.
+ Thể hiện ý chí xây dựng nền văn
hiến độc lập.

+ Đạt nhiều thành tựu
+ Tiếp nhận ảnh hưởng của văn học
dân gian toàn diện, sâu sắc hơn.
2. Văn học hiện đại:
- Chủ yếu viết bằng chữ quốc ngữ.
- Tiếp xúc với các nền văn học châu
Âu.
- Kế thừa tinh hoa văn học truyền
thống, tiếp thu tinh hoa những nền
23
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
Tiết 2
- Tổ 3 trình bày những nội dung cơ
bản về con người Việt Nam trong
quan hệ với thế giới tự nhiên và trong
quan hệ quốc gia, dân tộc.
+ Chú ý nêu được các ví dụ minh hoạ.
+ Xác định được các nội dung cơ bản
của văn học.
+ Các tổ 1, 2, 4 nêu những thắc mắc,
những điều cần lý giải, trao đổi với tổ
3. Cần chú ý các dẫn chứng để làm rõ
nội dung của văn bản.
+ Tổ 3 trả lời những câu hỏi của các
văn học lớn trên thế giới.
- Điểm khác biệt với văn học trung
đại:
+ Về tác giả: đội ngũ chuyên nghiệp.
+ Về đời sống văn học: đi vào đời

sống nhanh hơn  sôi nổi, năng
động.
+ Về thể loại: thơ mới, tiểu thuyết,
kịch nói….
+ Về thi pháp: lối viết hiện thực, đề
cao cá tính sáng tạo, “cái tôi” cá
nhân được khẳng định.
- Phản ánh hiện thực xã hội và chân
dung con người trên tất cả các
phương diện phong phú, đa dạng
III. CON NGƯỜI VIỆT NAM:
1. Con người Việt Nam trong quan
hệ với thế giới tự nhiên:
-Văn học dân gian:
+ Quá trình nhận thức, cải tạo, chinh
phục thế giới tự nhiên.
+ Tình yêu thiên nhiên.
- Văn học viết:
+ Văn học trung đại  gắn với lý
tưởng đạo đức, thẩm mỹ.
+ Văn học hiện đại  tình yêu quê
hương, đất nước, yêu cuộc sống, tình
yêu đôi lứa.
2. Con người Việt Nam trong quan
24
Sáng kiến kinh nghiệm Hoàng Thị Thu
Bình
tổ.
+ Các tổ nhận xét phần trình bày về
nội dung và hình thức của tổ 3.

+ Giáo viên nhận xét, nhấn mạnh
những ý cơ bản.
- Tổ 4 trình bày những nội dung cơ
bản về con người Việt Nam trong
quan hệ xã hội và ý thức về bản thân.
+ Đưa ra các ví dụ để minh họa các
nội dung cụ thể.
+ Khái quát các nội dung thể hiện
trong văn học.
+ Các tổ 1, 2, 3 nêu những thắc mắc,
những điều cần lý giải, trao đổi với tổ
4. Cần chú ý các dẫn chứng để làm rõ
nội dung của văn bản
+ Tổ 4 trả lời những câu hỏi của các
hệ quốc gia, dân tộc:
- Phản ánh sự nghiệp xây dựng xây
dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc.
- Văn học dân gian  tình yêu làng
xóm, quê cha đất tổ, căm ghét các thế
lực xâm lược.
- Văn học trung đại  ý thức sâu sắc
về quốc gia, dân tộc, về truyền thống
văn hiến lâu đời.
- Văn học hiện đại  sự nghiệp đấu
tranh giai cấp và lý tưởng xã hội chủ
nghĩa.
 Chủ nghĩa yêu nước là một nội
dung tiêu biểu, một giá trị quan
trọng.
3. Con người Việt Nam trong quan

hệ xã hội:
- Thể hiện ước mơ về một xã hội
công bằng, tốt đẹp
- Tố cáo, phê phán các thế lực
chuyên quyền, xã hội đen tối, bày tỏ
cảm thông với những người bị áp
bức.
 Hình thành chủ nghĩa hiện thực và
chủ nghĩa nhân đạo trong văn học.
4. Con người Việt Nam và ý thức về
bản thân:
- Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt đề
cao ý thức cộng đồng  ý thức xã
25

×