Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

SKKN Rèn kĩ năng đọc cho HS lớp2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.99 KB, 8 trang )

I. Đặt vấn đề
ở Tiểu học, từ cha biết đọc tới biết đọc chữ, học sinh đã trải qua một
bớc nhảy vọt về chất để thoát khỏi nạn mù chữ. Do đó đọc thông, viết thạo là
hai kĩ năng đầu tiên nhà trờng phải phấn đấu rèn luyện cho học sinh. Suốt thời
gian học tập từ nhỏ tới lớn, học sinh sử dụng hoạt động đọc nhiều nhất. Hoạt
động đọc chỉ xảy ra khi ngời đọc nắm đợc chữ viết. Tập đọc là phân môn có
tầm quan trọng đặc biệt trong môn Tiếng Việt. Nó là tiền đề để giúp các em
học tốt các phân môn khác của môn Tiếng Việt đó là: Kể chuyện, Chính tả,
Tập làm văn, Luyện từ và câu, Tập viết.
ở lớp 1 học sinh chỉ mới đợc học đọc vần, tiếng, từ, câu và đoạn văn
ngắn. Lên lớp 2, yêu cầu đọc đợc nâng dần về tốc độ đạt khoảng 50 tiếng/1
phút, đọc rõ ràng, rành mạch, biết hiểu và cảm nhận văn bản, cao hơn nữa là
bớc đầu biết đọc diễn cảm. Thông qua việc dạy tập đọc để giúp học sinh tiếp
cận với tri thức, rèn luyện các thao tác t duy, bồi dỡng tình yêu Tiếng Việt và
giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
Để đạt đợc mục tiêu trên giáo viên cần phải sử dụng những biện pháp
nào? Bắt nguồn từ thực tiễn dạy học tôi có suy nghĩ: Có nâng cao chất lợng
của phân môn tập đọc thì mới nâng cao chất lợng cho tất cả các môn học
khác. Chính vì vậy mà tôi có Một vài suy nghĩ về rèn kĩ năng đọc cho học
sinh lớp 2 cùng trao đổi với các bạn đồng nghiệp.
1
II. Nội dung
A. Thực trạng:
Về phía giáo viên:
- Vận dụng kênh hình còn hạn chế, cha khai thác hết nội dung trong
kênh hình nên cha lôi cuốn đợc sự chú ý, tập trung của học sinh vào
bài học.
- Một số giáo viên còn nói nhiều, ôm đồm kiến thức, giọng đọc mẫu của
giáo viên cha diễn cảm, vì thế hiệu quả giờ dạy cha cao.
- Do đề cao quá mức yêu cầu cảm thụ văn học nên có giáo viên đã biến
giờ tập đọc thành giờ giảng văn, cô giảng là chính, trò chỉ còn nghe, ít


có thì giờ luyện đọc.
Về phía học sinh:
- Một số học sinh phát âm lệch chuẩn chữ viết ở một số âm đầu s/x;
tr/ch; một số vần anh/ăn; ơu/iêu; ât/âc
- Ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện, tốc độ đọc còn chậm, đọc rời rạc, cha biết nhấn
giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm; cha cảm thụ đợc cái hay, cái đẹp của
bài văn, bài thơ.
- Đặc biệt do ảnh hởng của phơng ngữ các em hay sai lỗi phát âm giữa
thanh ngã/thanh hỏi, thanh ngã/thanh nặng.
B. Những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lợng
rèn kĩ năng đọc cho học sinh
1. Khảo sát thực tế:
Để quan tâm đợc tới từng đối tợng học sinh việc đầu tiên tôi làm khi
tiếp nhận lớp mới là khảo sát thực tế: Kiểm tra việc đọc của các em qua
một bài văn ngắn. Kết quả cụ thể nh sau:
Tổng số
học sinh
dự kiểm
tra
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Số l-
ợng
Tỉ lệ
Số l-
ợng
Tỉ lệ
Số l-
ợng
Tỉ lệ
Số l-

ợng
Tỉ lệ
32 em 6 em 18,8% 6 em 18,8% 13 em 40,6% 7 em 21,8%
2. Nắm vững yêu cầu của tiết học
2
ở trờng tiểu học, phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc. Trớc
tiên là rèn yêu cầu đọc thành tiếng với các mức độ đọc đúng, đọc rõ ràng
rành mạch, đọc thông thạo và lu loát. Bên cạnh đó là yêu cầu đọc hiểu. Ngoài
ra, yêu cầu đọc diễn cảm với quan niệm: đọc diễn cảm là một hình thức đọc
thơ văn của thầy và trò nhằm mục đích rèn luyện kĩ năng đọc và kĩ năng cảm
thụ văn học cho học sinh. Đọc diễn cảm tốt tức là truyền đợc một phần nội
dung và cảm xúc bài văn tới ngời nghe mà cha cần giảng. Thông qua đọc các
bài văn thơ trong chơng trình, học sinh đợc tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật
và cảm thụ đợc cái hay, cái đẹp của văn chơng. Nh vậy đọc diễn cảm không
chỉ đơn thuần thuộc phạm trù ngôn ngữ mà còn thuộc phạm trù văn học,
phạm trù thẩm mĩ.
Xét ở cách đọc có thể chia ra: đọc thành tiếng và đọc thầm.
Những yếu tố ảnh hởng đến kĩ năng đọc là khả năng hoạt động của cơ
quan thị giác và cơ quan phát âm, trình độ am hiểu về đề tài sẽ đọc, năng lực
cảm thụ văn học, các kĩ thuật xử lí giọng đọc để diễn đạt cảm xúc.
Đọc thành tiếng là hoạt động chuyển các kí hiệu chữ viết trong văn bản
thành dòng âm thanh vang lên trong không khí. Xét về đối tợng đọc có thể
chia ra: đọc cá nhân và đọc đồng thanh (của nhiều ngời), xét về mặt chất lợng
đọc có thể chia ra: đọc thông thờng và đọc diễn cảm.
Đọc thầm là hình thức đọc không thành tiếng của mỗi cá nhân. Đọc thầm
có u thế giúp ngời đọc dễ có điều kiện tiếp nhận thông tin. Trong thực tế cuộc
sống đọc thầm có vai trò quan trọng vìhoạt động đọc chủ yếu của con ngời là
đọc thầm.
Đọc hiểu là đích của hoạt động đọc. Để hiểu đợc nội dung văn bản đọc,
ngời đọc phải thực hiện hàng loạt các thao tác t duy (phân tích, tổng hợp, hệ

thống hoá) xem xét quan hệ giữa các sự kiện (hoặc chi tiết, tình tiết nếu là
văn bản nghệ thuật) nói đến trong văn bản. ở giai đoạn này, hoạt động t duy
gắn liền với hoạt động ngôn ngữ.
3. Xác định rõ vai trò của giáo viên
Trong thực tế, vì cứ sợ học sinh không hiểu bài nên giáo viên thờng chú
trọng xoáy sâu vào phần tìm hiểu bài. Kết quả cho thấy: vì học sinh đọc ít nên
chất lợng đọc còn kém và nắm nội dung bài cũng cha sâu. Từ đó tôi đã phân
chia thời gian trong mỗi tiết tập đọc hợp lý hơn và u tiên hơn cho phần luyện
đọc.
Khi soạn bài tôi dự đoán những từ khó học sinh lớp mình thờng phát âm
sai để chú ý luyện cho các em chứ không phụ thuộc một cách máy móc vào
sách giáo viên. Bên cạnh đó, để giúp học sinh đọc tốt tôi rất quan tâm tới việc
3
đọc mẫu. Vì đọc mẫu tốt sẽ truyền đợc một phần nội dung và cảm xúc bài văn
tới các em mà cha cần giảng.
Học sinh ở lớp 2 còn nhỏ, nhận thức của các em đi từ trực quan sinh động.
Điều đặc biệt thuận lợi là chơng trình sách giáo khoa mới đợc in rất đẹp, bài
tập đọc nào cũng có tranh minh hoạ, chính vì vậy mà tôi khai thác triệt để
tranh vẽ ở sách giáo khoa (kênh hình) vào việc giới thiệu bài, giảng từ, tìm
hiểu một số nội dung có liên quan trong bài đọc.
4. Phân loại đối tợng học sinh và có biện pháp cụ thể
Với đối tợng học sinh phát âm cha đúng các phụ âm đầu: s/x, tr/ch; vần
dễ lẫn: ât/âc, ăt/ăc; tiếng có thanh ngã/thanh hỏi, thanh ngã/thanh nặng (do
ảnh hởng của phơng ngữ).
Ví dụ: nhất định đọc là nhấc định
trìu mến đọc là chìu mến
bắt đầu đọc là bắc đầu
sẽ đọc là xẽ
nặng trĩu nỗi buồn đọc là nặng trỉu nổi buồn
buồn bã đọc là buồn bạ

lặng lẽ đọc là lặng lẹ
(Bài Bàn tay dịu dàng Tiếng Việt 2 tập 1, trang 166)
Để sửa sai cho học sinh tôi cho 2 em ngồi cạnh nhau, em đọc tốt đọc
trớc, em đọc yếu nghe bạn đọc rồi đọc theo.
Hầu hết học sinh đã biết đọc to, rõ ràng, biết ngắt nghỉ ở chỗ có dấu
câu, nhng khi đọc những câu dài không có dấu phẩy ngăn cách giữa các cụm
từ các em thờng tỏ ra lúng túng. Với đối tợng này tôi ghi sẵn các câu khó cần
luyện đọc ra bảng phụ, đọc mẫu giúp học sinh tìm ra cách đọc cho mình.
Ví dụ: Sói sắp tóm đợc Dê Non/ thì bạn con đã kịp lao tới, dùng
đôi gạc chắc khoẻ/ húc Sói ngã ngửa.//
(Bài Bạn của Nai Nhỏ-Tiếng Việt 2 tập 1, trang 23)
- Cô đã ngắt hơi chỗ nào?
- Học sinh phát hiện chỗ ngắt hơi rồi đọc lại
Khi đọc thơ các em cũng gặp khó khăn vì cha biết ngắt nhịp, tôi cũng tiến
hành tơng tự nh trên.
4
Ví dụ: Những ngôi sao/ thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con.
(Bài Mẹ - Tiếng Việt 2 tập 1, trang 101)
Ai mang nớc ngọt, nớc lành,
Ai đeo/ bao hũ rợu/ quanh cổ dừa.
(Bài Cây dừa - Tiếng Việt 2 tập 2, trang 88)
- Cô đã ngắt nhịp nh thế nào?
- Học sinh phát hiện chỗ ngắt nhịp rồi đọc lại.
Để giúp học sinh đọc các dấu câu đúng ngữ điệu tôi hớng dẫn các em với
kiểu câu cảm thì chú ý đến cảm xúc của tác giả (vui, buồn, giận dữ, hài hớc,
). Với kiểu câu hỏi thì cần lên giọng ở cuối câu, nhấn giọng ở các từ để hỏi.
Với kiểu câu cầu khiến giọng đọc cao hơn và nhấn giọng ở các từ cầu khiến.
Tôi giúp học sinh nắm cách đọc đặc trng của từng loại văn bản. Chẳng
hạn với thể thơ lục bát các em đọc giọng êm, nhẹ, nhấn giọng ở các tiếng gieo

vần. Với những bài văn xuôi chú ý ngắt hơi theo ý mạch văn dựa vào dấu câu.
Để giúp các em đọc hiểu tôi cho các em đọc nhẩm, đọc thầm. Trong quá
trình học sinh đọc nhẩm, đọc thầm giáo viên phải kiểm tra, đánh giá đợc kết
quả hoạt động đọc thầm của các em để giúp đỡ, uốn nắn. Trớc khi đọc thầm
tôi thờng giao kèm nhiêm vụ nhằm định hớng đọc hiểu (đọc để biết hiểu
nhớ điều gì?). Cũng có thể cho học sinh đọc đồng thanh nhịp nhàng, vừa
phải (tránh đọc quá to) ở những bài học thuộc lòng để học sinh chóng thuộc
bài. Đọc thầm giúp học sinh tập trung suy nghĩ để hiểu, do đó tôi rèn luyện
nhiều cho học sinh kết hợp với phần tìm hiểu bài.
Để giúp học sinh hiểu nghĩa từ khó trong bài giáo viên cần giải nghĩa bằng
nhiều cách: cho học sinh đọc chú giải (nếu có) rồi tìm từ trái nghĩa, thay thế
từ đó bằng một từ đồng nghĩa, đặt câu với từ đó Giáo viên nêu tác dụng của
từ đó trong văn cảnh cụ thể, hớng vào chủ đề bài học, tránh quá rộng, quá sâu,
vợt quá trình độ của các em.
Ví dụ: Để giúp học sinh hiểu nghĩa từ hoành hành trong bài Ông Mạnh
thắng Thần Gió tôi cho học sinh
- Đọc chú giải
- Đặt câu có từ hoành hành
Giáo viên giảng: Ngỡ rằng rời hang núi về đồng bằng cuộc sống của loài
ngời sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Nhng không! Cuộc sống của loài ngời vẫn
cha yên ổn khi gặp phải Thần Gió.
5
5. Quan tâm đúng lúc đối với học sinh
Học sinh tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên trong sáng, hiếu động nhng cũng
rất nhạy cảm. Khi đã để mất lòng tin của các em thì dễ dẫn các em đến tâm
trạng chán nản và có thể có những hành vi ngỗ ngợc. Là giáo viên, là ngời
trọng tài, là ngời mẹ hiền thứ hai của các em nên cô giáo cần phải đối xử
công bằng với từng học sinh, thơng yêu tôn trọng, chăm sóc, dạy dỗ các em
tận tình. Vì lẽ đó trong các giờ học tôi thờng quan tâm hơn tới các học sinh
yếu, quan tâm ngay từ việc sắp xếp chỗ ngồi. Tôi xếp các em ngồi ở bàn đầu

để tiện theo dõi trong các tiết học, xếp xen kẽ các em đọc tốt vào các bàn để
các em giúp nhau nhận xét, sửa sai trong hình thức đọc nhóm.
6. Động viên khen chê kịp thời
Xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi học sinh tiểu học: rất thích đợc cô giáo
khen, thích gần gũi, vui vẻ cùng cô giáo, luôn cố gắng làm nhiều việc tốt để
đợc cô giáo chú ý, khen ngợi. Ngợc lại nếu không đợc cô giáo động viên kịp
thời thì các em cũng rất dễ thất vọng. Vì vậy khi các em đọc có tiến bộ hơn
dù rất ít tôi cũng kịp thời khen ngợi, khuyến khích các em để các em phấn
khởi, vui vẻ và tự tin hơn.
Mặt khác tôi hạn chế việc chê bai học sinh một cách lộ liễu trớc cả lớp.
Đối với những em chậm tiến bộ tôi nhẹ nhàng nhắc nhở, tìm hiểu nguyên
nhân để tìm cách khắc phục chứ không phê bình gay gắt.
6
III. Kết quả đạt đợc
Trên đây là những biện pháp mà tôi đã thực hiện trong quá trình dạy học
phân môn Tập đọc lớp 2 và thấy có kết quả khả quan. Đặc biệt càng gần cuối
năm học kĩ năng đọc của các em càng thành thạo, đáp ứng đợc yêu cầu đặc tr-
ng của phân môn. Các em ham thích đọc sách báo nhiều hơn trớc, cách diễn
đạt trong giao tiếp và học tập cũng tốt hơn trớc. Qua lần khảo sát chất lợng
phân môn Tập đọc vừa qua lớp tôi đạt kết quả nh sau:
Tổng số
học sinh
dự kiểm
tra
Giỏi Khá Trung bình Yếu
Số l-
ợng
Tỉ lệ
Số l-
ợng

Tỉ lệ
Số l-
ợng
Tỉ lệ
Số l-
ợng
Tỉ lệ
32 em 16 em 50% 10 em 31,2% 6 em 18,8% 0 em 0%
7
IV. Bài học kinh nghiệm
Từ những kết quả mà tôi đã nêu trên, trong quá trình giảng dạy tôi tự
nhận thấy rằng: Để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 cũng nh để nâng cao
chất lợng học tập của học sinh giáo viên cần phải thực hiện tốt những vấn đề
sau:
Trớc hết ngời giáo viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, phải hết lòng vì
sự nghiệp giáo dục, vì học sinh thân yêu. Từ đó có ý thức học hỏi, tìm tòi các
phơng pháp, biện pháp tối u, vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy
học, tránh sự nhàm chán, buồn tẻ cho học sinh.
Giáo viên cần tạo tình huống gây hứng thú cuốn hút học sinh tập trung
vào bài học: đọc mẫu thể hiện đúng giọng điệu của bài; khi yêu cầu học sinh
đọc thầm cần nêu câu hỏi để hớng cho học sinh tìm hiểu nội dung bài. Đối
với những bài có lời thoại, cần cho học sinh xác định lời các nhân vật sau đó
cho thi đọc phân vai để gây không khí hào hứng, sôi nổi trong giờ học.
Bố trí chỗ ngồi hợp lý để giáo viên tiện theo dõi những em còn yếu và
để cho các em học giỏi giúp giáo viên kèm cặp thêm những em đó.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã thực hiện nhằm mục đích rèn
luyện kĩ năng đọc, góp phần nâng cao chất lợng học tập của học sinh, tạo cho
các em có một cơ sở ban đầu vững chắc đẻ học lên các bậc học trên. Những ý
kiến nhỏ này chỉ là những gì tôi suy nghĩ, tìm tòi và thực hiện chắc chắn còn
nhiều thiếu sót. Rất mong đợc sự góp ý giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp và

Hội đồng khoa học ngành.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 4 năm 2008
8

×