Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

skkn kinh nghiệm rèn kĩ năng sống cho hs qua công tác chủ nhiệm ở trường thpt quảng xương 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.28 KB, 24 trang )

A. PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Rèn kĩ năng sống cho học sinh là một mặt giáo dục cần đặc biệt coi trọng
nhất là trong thập kỉ XXI khi sự nghiệp giáo dục đang được đẩy mạnh .Việc rèn kĩ
năng sống cho học sinh là đòi hỏi thường xuyên của công tác giáo dục đồng thời
cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách cho học sinh trong công tác
giáo dục hiện nay. Thực tế cho thấy nền giáo dục mỗi ngày một cao hơn, học sinh
có nhiều hiểu biết hơn nhưng lại ít đi những tri thức lành mạnh và kĩ năng phán
đoán vấn đề, xử lí tình huống. Bên cạnh những thành quả đạt được của toàn ngành
giáo dục trong những năm gần đây chúng ta đều thấy thực trạng trẻ vị thành niên
có xu hướng gia tăng về bạo lực học đường, về phạm tội, ứng phó không lành
mạnh, dễ mắc các tệ nạn xã hội, sống ích kỉ, vô tâm, khép mình… Đồng thời kĩ
năng thực hành, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, khả năng phục vụ bản
thân giảm… Hơn thế nữa, đứng trước thềm hội nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ trẻ phải
tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một kĩ năng sống khoẻ,
sống lành mạnh…
Học sinh THPT, đặc biệt là học sinh lớp 10 - lứa tuổi có nhiều thay đổi mạnh
mẽ về thể chất, sức khoẻ và tâm sinh lý , các em dễ thay đổi tình cảm, hành vi. Mâu
thuẫn giữa ý muốn thoát khỏi sự giám sát của bố mẹ, thầy cô, muốn tự khẳng định
mình đã nảy sinh những xung đột mà các em chưa được trang bị những kĩ năng cần
thiết để ứng phó và giải quyết.
Năm học 2012-2013 tôi rất vinh dự được BGH nhà trường tin tưởng giao cho
chủ nhiệm lớp 10D một trong những lớp đầu khá của trường. Theo ý kiến chủ quan
của riêng tôi cũng như ý kiến khách quan của một số thầy cô giáo bộ môn nhìn
chung các em đều ngoan, có ý thức học tập tốt nhưng tôi nhận thấy trong sâu thẳm
tâm hồn dường như các em vẫn còn bao điều phải bận tâm suy nghĩ như các em rất
dễ nổi nóng, có những ứng phó không lành mạnh (em Lê Thị Linh một học sinh nữ
đã từng gây gỗ đánh nhau với bạn trong và ngoài nhà trường, em Nguyễn Văn Tư
hay nói tục, chửi bậy, rất dễ nổi nóng…). Một số em ngoan hiền nhưng tự ti mặc
cảm về hoàn cảnh gia đình như em Thư, em Phương…
Từ thực tế đó cho thấy, việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ngày càng trở


nên cấp thiết nhằm góp phần đào tạo con người mới với đầy đủ các mặt đức, trí,
thể, mĩ. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã đúc rút ra những kinh nghiệm “Rèn kĩ năng
1
sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm ở trường THPT Quảng Xương IV”,
nhằm phân tích rõ hơn những ưu điểm và hạn chế trong việc rèn kĩ năng sống . Từ
đó đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh, góp phần đạt được mục
tiêu giáo dục trong thời gian tới.
B. NỘI DUNG:
I. Khái niệm “kĩ năng sống”
Kĩ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu
và thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.
(*) Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi
trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức,
thái độ và hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm
gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào)
thành hành động (làm gì và làm như thế nào)
(*) Theo WHO kĩ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho
phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc
sống. Trong giáo dục, kĩ năng sống là một tồn tại những khả năng được rèn luyện
và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hoá.
Rèn kĩ năng sống cho học sinh không ngoài mục đích đáp ứng mục tiêu giáo
dục toàn diện; phù hợp với 4 trụ cột của giáo dục theo quan niệm của UNESCO:
"học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình". Giúp học
sinh thích ứng được với cuộc sống đầy những biến động khôn lường của xã hội
hiện nay. Thúc đẩy những hoạt động mang tính xã hội, phát huy các nhân tố tích
cực, hạn chế các nhân tố tiêu cực, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực. Góp phần tích cực cho việc đổi mới phương pháp học tập của học sinh.
Từ những quan niệm trên có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ
năng cụ thể cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng
sống là khả năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực

trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả.
II. Kĩ năng sống của học sinh THPT hiện nay:
Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là việc làm không mới vì từ xa xưa cha ông
ta đã đúc kết “Tiên học lễ, hậu học văn” nhưng do sức ép lớn về chương trình về
điểm số hoặc nhiều nguyên nhân khác nhau nó đã bị giảm nhẹ hoặc xao nhãng.
2
Đứng trước thực tế xã hội của những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào tạo đã nhận
thấy việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là việc làm cấp bách ở mọi bậc học nhưng
đặc biệt là với học sinh THPT vì:
+ Ở lứa tuổi này các em thích tìm tòi, học hỏi cái mới, điều lạ, không phân biệt
nó là tốt hay xấu.
+ Đã xuất hiện tình yêu nam nữ dẫn đến có những quan niệm không đúng. Chịu
những áp lực lớn trong thi cử khiến các em dễ rơi vào trạng thái tiêu cực ảnh hưởng
tới sức khoẻ, tinh thần.
+ Các em cần lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực của mình, cần đưa ra
những quyết định đúng đắn cho tương lai sau này.
+ Thích bộc lộ cái tôi…
Thực hiện nghị quyết số 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của
Bộ giáo dục và đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: “ Xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực” trong các trường phổ thông trong đó nội dung:
Rèn luyện kĩ năng sống phù hợp với lứa tuổi cho học sinh được đặt lên hàng đầu.
Căn cứ vào nhiệm vụ năm học 2012-2013 của ngành, của trường về việc chú
trọng: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh
Mỗi giáo viên chúng ta đều nhận thấy giáo dục đạo đức , giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh là việc làm hết sức quan trọng đòi hỏi sự tham gia của cả gia đình, nhà
trường và xã hội . Tuy nhiên việc giáo dục kĩ năng sống tại các nhà trường mới chỉ
dừng lại chủ yếu trong các tiết học giáo dục công dân; các buổi sinh hoạt ngoại
khoá vừa thiếu, vừa chưa đáp ứng được nhu cầu rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Cách truyền đạt còn mang tính giáo điều, sáo rỗng, lí thuyết suông mà không thực
tế bên cạnh đó nhiều phụ huynh học sinh với tâm lí chỉ chú trọng cho con em mình

học các môn văn hoá mà lơ là việc rèn kĩ năng sống cho các em.
Sự gia tăng của những biểu hiện thiếu kĩ năng sống như không thể hiện được
bản thân; các thái độ tiêu cực khi mâu thuẫn với bạn bè, thầy cô giáo; lúng túng khi
xử lí tình huống phát sinh trong cuộc sống; cách học,cách sống không hiệu quả,
khoa học… là những biểu hiện của hầu hết học sinh THPT trong vài năm trở lại
đây. Chính vì vậy mà việc giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là
việc làm cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Năm học 2010-2011 là năm đầu tiên Bộ GD&ĐT đưa giáo dục kĩ năng sống
vào giảng dạy đại trà trong các trường học , bậc học qua nhiều hình thức khác nhau.
3
Với học sinh THPT qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy có những kĩ năng cần thiết
ở học sinh THPT là :
1. Kỹ năng tự nhận thức: xác định được giá trị bản thân, tự tin, tự trọng.
2. Kĩ năng giao tiếp: phản hồi, lắng nghe tích cực, trình bày suy nghĩ và ý tưởng,
ứng xử-giao tiếp, thể hiện sự cảm thông, chia sẻ.
3. Kĩ năng suy nghĩ, sáng tạo: Nêu vấn đề, bàn luận vấn đề, tìm kiếm và xử lí
thông tin, phân tích-đối chiếu.
4. Kĩ năng ra quyết định: xác định tìm kiếm các lựa chọn, giải quyết vấn đề, ứng
phó, thương lượng.
5. Kĩ năng làm chủ bản thân: xác định và đạt được mục tiêu của bản thân, quản lí
thời gian, đảm nhận trách nhiệm, kiểm soát cảm xúc.
Cùng với các nội dung giáo dục kĩ năng sống là 12 giá trị của cuộc sống cần
giáo dục là: tôn trọng, hoà bình, hợp tác, hạnh phúc, chân thật, nhân đạo, tình
thương, trách nhiệm, giản dị , khoan dung, tự do và đoàn kết.
III. Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh tại trường THPT
Quảng Xương IV:
Trường THPT Quảng Xương IV nơi tôi đang công tác là ngôi trường luôn có
truyền thống đi đầu trong công tác triển khai thực hiện các mục tiêu giáo dục, do đó
ngay từ đầu năm học chúng tôi đã được ban giám hiệu chỉ đạo triển khai nhiệm vụ
rèn kĩ năng sống cho học sinh . Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm,

hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như trong giáo dục.
Học sinh của trường thuộc nhiều xã khác nhau; ý thức học tập của các em
tương đối tốt nên không cần đến ban quản sinh. Được sự cho phép của Sở giáo dục
và đào tạo trường tổ chức cho học sinh học hai buổi một ngày. Buổi sáng học thời
khoá biểu chính khoá, buổi chiều học theo thời khoá biểu học thêm các môn Toán,
Lí, Hoá, Sinh, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh nên học sinh có điều kiện học tập, vui
chơi sinh hoạt tập thể, tránh tình trạng học sinh đến trường một buổi còn một buổi
rong chơi lêu lổng. Mô hình tổ chức này được toàn thể phụ huynh hoan nghênh,
ủng hộ.
Hơn nữa nhận thấy tính cấp bách của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh,
chúng tôi các giáo viên của trường đều rất trăn trở, làm thế nào để rèn kĩ năng sống
cho các em.
4
Tuy nhiên thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề đáng phải suy nghĩ như tình
trạng học sinh nói tục, chửi bậy; thường xuyên gây gỗ đánh nhau trong và ngoài
nhà trường. Có những học sinh cư xử thiếu lễ độ trước thầy cô giáo như tỏ thái độ
thách thức, xem thường, xé bài kiểm tra ngay trước mặt thầy cô vì bị điểm kém.
Nhiều em ý thức kỉ luật yếu, kĩ năng sống còn thiếu dẫn đến các em có những ứng
xử không lành mạnh trước thầy cô, bạn bè.
Tập thể lớp 10D do tôi phụ trách có 45 học sinh, gia đình các em phần lớn
thuộc vùng bãi ngang ven biển; có đủ các thành phần kinh tế.Các em dồi dào về thể
lực, trí tuệ nhạy bén, thích tìm tòi, sáng tạo,thích tự khẳng định mình, có em ngoan
hiền, ý thức học tập tốt.
Ngoài ra cũng có một số học sinh trầm, ít bộc lộ cảm xúc; một số em chưa
ngoan sống ích kỉ, có em từng lưu ban, thường xuyên bỏ học, đánh nhau trong và
ngoài nhà trường những năm cấp II như em Linh, em Tư, em Nam, Em Trần
Anh…
Phụ huynh học sinh của lớp chưa thực sự quan tâm chăm lo tới việc học tập,
rèn luyện của con em mà chủ yếu tạo điều kiện về kinh tế, quan tâm đến kết quả
cuối kì. Còn có trường hợp suy nghĩ khoán trắng cho giáo viên chủ nhiệm và nhà

trường.
Nhiều em trong cuộc sống đời thường các em biết đi xe máy, biết sử dụng
điện thoại di động, biết sử dụng máy vi tính, lên mạng và sử dụng các tiện nghi
hiện đại nhưng lại ứng xử chưa có văn hoá trong giao tiếp nơi công cộng, tham gia
giao thông trong khi thiếu hiểu biết về luật giao thông, chưa có ý thức bảo vệ môi
trường. Trong tư duy biết cách nhận xét đánh giá người khác qua hành động, ngôn
ngữ, cử chỉ…nhưng lại thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ, người lớn tuổi. Trong
ăn mặc các em biết cách chọn trang phục hợp thời trang , trong giao tiếp biết cách
làm quen, kết bạn, trong quan hệ biết cách tặng quà, ga-lăng với bạn khác giới
nhưng bên cạnh đó các em còn thiếu sự đồng cảm, chia sẻ, sống thờ ơ với bạn bè,
người thân và những người xung quanh…
Phải chăng các em có kĩ năng sống nhưng lại thiếu nhận thức về việc rèn kĩ
năng sống ?
Trước thực trạng trên, là một giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm - người
luôn được các bậc phụ huynh, học sinh nhìn nhận như người cha, người mẹ thứ hai
của các em bởi sự gần gũi , thấu hiểu với các em nên tôi nhận thấy tầm quan trọng
rất lớn của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm để những học sinh
5
trong tay mình trở thành con người “vừa hồng vừa chuyên”, tôi tự nhủ phải rèn kĩ
năng sống cho học sinh ở mọi lúc, mọi nơi, nhằm giúp các em có nhiều kiến thức
và cách ứng xử phù hợp. Mục đích của tôi cũng chỉ là làm sao để các em hãy trong
trắng, hồn nhiên đúng với lứa tuổi của mình, chú tâm vào việc học, trau dồi kĩ năng
học tập hiệu quả, sống tốt trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Mỗi học sinh phải là
một con người có nhân cách đàng hoàng, được tôn trọng, được thể hiện cá tính
sáng tạo của mình một cách hồn nhiên, vô tư nhất.
IV. Những khó khăn trong tập huấn rèn kĩ năng sống cho học sinh ở
trường phổ thông :
Bộ GD&ĐT đã phát động phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa
phương , Sở GD&ĐT cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ

thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh đây chính là những định hướng giúp giáo viên
thực hiện rèn các kĩ năng sống và giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên thực tế
cũng cho thấy việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn gặp rất nhiều khó khăn .
a. Đối với giáo viên :
Trong thực tế hiện nay ,việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết trong việc
rèn kĩ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Phần lớn giáo viên
tập trung dạy văn hoá mà ít chú trọng tới công tác giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh. Bên cạnh đó năng lực làm công tác chủ nhiệm ở các giáo
viên chưa đồng bộ , gây nên tính khập khiểng trong công tác chủ nhiệm lớp.
b. Đối với xã hội :
Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự bùng nổ của công nghệ thông
tin, sự hội nhập của nhiều nền văn hoá các nước phương Tây, của lối sống thực
dụng …Nhận thức của xã hội chưa cao, chưa chú trọng hợp tác trong giáo dục; văn
hoá xã hội thấp trong đó kĩ năng sống của các em yếu dẫn đến dễ vấp ngã, ảnh
hưởng đến sự phát triển nhân cách, đạo đức của học sinh.
c. Đối với gia đình :
Gia đình, cha mẹ các em phải bươn trải trong cuộc mưu sinh, bỏ quên con cái,
dẫn đến sự buông lỏng trong quản lí, nhiều phụ huynh có tư tưởng khoán trắng cho
nhà trường, “trăm sự nhờ thầy, nhờ cô”, họ chỉ chú trọng đến việc con mình học có
giỏi hay không, có được lên lớp không. Họ tìm thầy dạy giỏi cho con học thêm vào
mọi khoảng thời gian trống mà quên đi điều quan trọng rằng cái gốc của sự học là
6
học làm người. Bởi vậy ngoài việc học văn hoá, thời gian còn lại một số em lao vào
các trò chơi vô bổ trên mạng, trên điện thoại di động, số còn lại thì sống thờ ơ, vô
cảm, ích kỉ. Không ít cha mẹ khi được thông báo về tình hình của con mới giật
mình bởi mọi chuyện đã đi quá tầm kiểm soát …
Đã có nhiều lời cảnh báo, lên án từ các phương tiện đài báo chỉ trích, phê
phán lối sống của các em. Các em sẵn sàng thanh toán nhau chỉ vì một ánh nhìn
không thiện cảm, các em chế nhạo, xem thường bạn chỉ vì cách ăn mặc, đi đứng
của bạn không hợp với mình, tệ hại hơn các em còn hành hung thầy cô giáo ngay

trên bục giảng… Tất cả những điều ấy đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với
những người làm công tác giáo dục.
V. Giải pháp nâng cao kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ
nhiệm ở trường THPT Quảng Xương IV :
Như chúng ta đã biết, rèn kĩ năng sống cho học sinh là nhiệm vụ rất quan trọng
trong quá trình giáo dục ở các trường phổ thông, đây là một công việc đầy khó
khăn phức tạp đòi hỏi người giáo viên làm công tác chủ nhiệm cần phải kiên trì
nhẫn nại, từng giờ, từng phút theo dõi mọi hoạt động của học sinh, phải luôn suy
nghĩ về trách nhiệm lớn lao của mình đó là “ Tất cả vì sự nghiệp giáo dục, tất cả vì
học sinh thân yêu”. Từ đó cần có những giải pháp cụ thể trong công tác chủ nhiệm
lớp. Theo tôi để rèn kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp, mỗi
giáo viên cần thực hiện những giải pháp sau:
1. Giải pháp 1: Tăng cường năng lực của giáo viên chủ nhiệm trong công
tác giáo dục
Để đạt kết quả cao trong rèn kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm
lớp, trước hết mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần phải :
+ Có tình cảm thật sự đối với học sinh của mình, quan hệ với học trò như là
người bạn lớn, vừa gần gũi, yêu thương, quan tâm vừa đáng tin cậy. Phải biết chia
sẻ mọi tâm tư tình cảm và đặc biệt phải nắm được suy nghĩ, hành động của các em
để có hướng giáo dục cụ thể.
+ Ngoài tri thức và tài năng sư phạm, cần có lòng vị tha, biết yêu thương và quí
trọng học sinh của mình, có lối sống lành mạnh để làm gương cho học sinh noi theo
bởi làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm gương
sáng về đạo đức , mẫu mực từng lời ăn tiếng nói, tác phong làm việc cho đến trình
độ chuyên môn.
7
+ Người giáo viên chủ nhiệm phải nhận thức được rằng rèn kĩ năng sống cho
học sinh là thực sự cần thiết, có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một môi
trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh, đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của thời đại hiện nay.

+ Kiên trì trong giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm lâu; giáo dục đạo
đức, giáo dục kỹ năng sống phải trở thành thói quen của mình.
Có người từng quan niệm rằng sau cha mẹ, thầy cô là người gần gũi với học
sinh hơn ai hết, nên hiểu các em và nắm rõ hoàn cảnh để có định hướng đúng trong
dạy dỗ là then chốt của thành công trong giáo dục. Người giáo viên chủ nhiệm phải
coi mình là người trồng cây, gieo hạt, phải xác định rõ quan điểm “Giáo dục là vạn
năng”, phải chống lại quan điểm sai lầm bế tắc trước việc giáo dục con cái của một
số phụ huynh học sinh theo quan niệm : “Cha mẹ sinh con trời sinh tính”.
Cần thấm thía lời dạy của Bác Hồ :
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Ở trường trung học phổ thông Quảng Xương IV nơi tôi công tác rất chú trọng
đến việc bồi dưỡng, rèn luyện để tăng cường năng lực của giáo viên chủ nhiệm
trong công tác giáo dục.
- Trước khi chọn đội ngũ giáo viên chủ nhiệm Ban giảm hiệu nhà trường đã bỏ
phiếu thăm dò lựa chọn đội ngũ giáo viên chủ nhiệm thật sự có đủ tài năng và phẩm
chất cần thiết trong công tác chủ nhiệm.
- Hàng năm Ban giám hiêụ nhà trường còn có kế hoạch cụ thể chi tiết để bồi
dưỡng thêm năng lực làm công tác chủ nhiệm cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm
như: việc học tập nội quy, quy định về việc đánh giá xếp loại học sinh, bồi dưỡng
giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, bồi dưỡng nâng cao năng lực
công tác đoàn cho đội ngũ giáo viên chủ nhiệm…
- Bản thân tôi tuy là một giáo viên chủ nhiệm còn trẻ, kinh nghiệm còn ít nhưng
trong quá trình làm công tác chủ nhiệm tôi đã không ngừng cố gắng phấn đấu, học
hỏi trong sách vở, tài liệu, ở bạn bè, đồng nghiệp để nâng cao năng lực của người
giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục.
+ Chú ý từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói, tác phong sư phạm cho đến trình độ
chuyên môn để làm gương cho học sinh noi theo.
8
+ Quan tâm gần gũi các em để động viên các em một cách kịp thời hoặc có biện

pháp uốn nắn mỗi khi các em có những hành vi sai phạm nhỏ nhất .
+ Có niềm tin vào sự thay đổi ở các em, không nóng vội trong quá trình giáo
dục. Luôn cởi mở, tâm sự, chia sẻ cùng các em mọi nơi mọi lúc.
Vì thế học sinh lớp tôi có tình cảm gắn bó rất thân thiết với giáo viên chủ
nhiệm. Các em xem tôi như người mẹ, người chị, người bạn có thể tâm sự, chia sẻ
mọi suy nghĩ, ý kiến, nguyện vọng kể cả tâm sự cho tôi nghe những tình cảm tươi
mới của tuổi học trò mong tìm thấy nơi tôi lời khuyên, lời động viên, an ủi, tìm
kiếm chỗ dựa tinh thần hay cả những quyết định khó khăn trong cuộc sống.
Cũng bởi vậy mà trong những năm làm chủ nhiệm tôi đều nhận được danh
hiệu suy tôn giáo viên chủ nhiệm xuất sắc của trường. Nhưng phần thưởng cao quí
nhất mà tôi nhận được đó là sự yêu thương , quý trọng và niềm tin nơi các em dành
cho tôi; là những lời chúc mừng nhân ngày sinh nhật, hay nhân dịp năm mới, nhân
các ngày lễ lớn hay những lời động viên mỗi khi cô giáo mệt mỏi,căng thẳng. Quả
thật các em đã trưởng thành hơn rất nhiều đó là điều mà tất cả các giáo viên chủ
nhiệm đều mong nhận được là phần thưởng cao quý dành cho tôi mà không có một
danh hiệu hay phần thưởng nào quí giá bằng.
2.Giải pháp 2 : Tạo ý thức chấp hành kỉ luật cho học sinh trong nhà
trường nói riêng và ngoài xã hội nói chung .
Hiện nay rất nhiều vấn đề trong thực tế như ý thức chấp hành luật giao thông,
ý thức tiết kiệm, ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, chấp hành nội quy, quy định …
và lớn hơn nữa là ý thức chấp hành pháp luật của người dân Việt Nam nói chung và
học sinh nói riêng còn yếu. Nhiều công dân Việt Nam khi làm việc tại các công ty
nước ngoài thường xuyên bị phê bình, kỉ luật thậm chí bị đuổi việc chỉ bởi những lí
do tưởng như đơn giản: không đội mũ bảo hiểm, không đeo khẩu trang, không thắt
đai an toàn khi tham gia lao động. Còn học sinh của chúng ta thì thường xuyên vi
phạm các nội quy, quy đinh của nhà trường từ đi đứng, nói năng, ứng xử… lớn
hơn nữa là vi phạm an toàn giao thông, gây rối trật tự xã hội…Bởi vậy, việc đưa ra
những nội quy, quy định của lớp trên cơ sở những nội quy, quy định của nhà
trường và xã hội phù hợp với đối tượng học sinh là cần thiết giúp các em hình
thành và rèn luyện tính kỉ luật trong học tập và sinh hoạt ngay từ khi còn ngồi trên

ghế nhà trường. Tuy nhiên nội quy cần linh hoạt, mềm dẻo để phát huy tính chủ
động, tích cực của học sinh.
Trên cơ sở đó, điều đầu tiên khi nhận lớp tôi tiến hành những giải pháp sau:
- Tìm hiểu đặc điểm tình tình lớp chủ nhiệm
9
+ Đến thăm gia đình học sinh để tìm hiểu hoàn cảnh sống của các em
+ Phân loại học sinh theo các thành phần kinh tế để có biện pháp giáo dục
phù hợp.
+ Tiếp đến tôi tiến hành xếp loại học lực và hạnh kiểm của học sinh qua học
bạ cấp 2 và kết quả thi vào 10 của học sinh.
+ Qua các tiết sinh hoạt 15 phút đầu năm tôi dành thời gian cho các em được
giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với mình về sở thích,
ước mơ…Đây là điều kiện quan trọng giúp phát triển khả năng giao tiếp của học
sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong môi trường mà người giáo viên
gò bó, và áp đặt. Từ đó tôi đánh giá về kĩ năng giao tiếp và khả năng nhận thức của
từng học sinh
- Dựa trên những nội quy, quy định của nhà trường tôi cùng các em xây dựng
nội quy của lớp sau đó tổ chức bộ máy tự quản, phân công trách nhiệm của từng
thành viên ban cán sự lớp.
- Bước tiếp theo tôi phân loại học sinh, chia tổ, nhóm sao cho có sự đồng đều
về giới tính, học lực, hạnh kiểm và hoàn cảnh sống…Đội ngũ cán bộ lớp sẽ tích
cực duy trì nề nếp và nội quy đã đề ra. Ban đầu tôi cho học sinh tự ứng cử vai trò
ban cán sự lớp, sau đó tôi đặc biệt chú trọng quan sát, nhận định theo kinh nghiệm
kết hợp với việc cho các em bầu dân chủ để tìm ra đội ngũ cán bộ lớp mới, làm việc
hiệu quả và có uy tín với số học sinh trong lớp.
- Tôi đặc biệt chú trọng trong việc yêu cầu ban cán sự lớp theo dõi sĩ số xe
của học sinh lớp mình một cách chặt chẽ.
+ Trước hết tôi cho các em ghi lại những học sinh vắng xe.
+ Đối chiếu với số học sinh vắng xe trong nhà trường ngày hôm đó để tìm hiểu
nguyên nhân xem học sinh lớp mình có liên quan gì đến số học sinh đó không. Vì

thông thường học sinh vắng xe không có lí do thường rất hay vào muộn , ra sớm,
bỏ giờ để đi chơi.
+ Tôi tiến hành xử lí học sinh theo từng trường hợp cụ thể .
- Với những học sinh vi phạm tôi xử lí lần lượt theo quy trình của trường Quảng
Xương IV nơi tôi công tác.
+ Cho học sinh làm bản tường trình lại sự việc vi phạm, kiểm điểm lại hành vi
sai phạm của mình và cam kết không tái phạm. Ở mức độ sai phạm này tôi chỉ nhắc
nhở các em là chính.
10
+ Tiếp theo tôi nhờ đến sự can thiệp của nhà trường: mời phụ huynh học sinh
vi phạm đến làm việc với giáo viên chủ nhiệm trước sự chứng kiến của giáo viên
bộ môn, ban chấp hành đoàn trường, BGH để xử lí học sinh vi phạm.
+ Trường hợp học sinh vi phạm có tính chất phức tạp tôi giáo dục học sinh
bằng biện pháp kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Sau khi xử lí tại trường
nếu các em vẫn vi phạm có tính chất nghiêm trọng hoặc có sự lặp lại tôi nhờ sự can
thiệp tại địa phương nơi các em sinh sống, ban đại diện cha mẹ học sinh sẽ đến địa
phương làm việc, có thể đưa thông tin những học sinh vi phạm lên đài phát thanh
của xã với phương châm xã hội hoá giáo dục.
Qua giải pháp này các em được rèn kĩ năng giao tiếp ứng xử, nhận thức và đánh giá
bản thân, rèn tính kỉ luật cho học sinh ngay từ những ngày đầu
3. Giải pháp 3 : Đưa giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong giờ sinh
hoạt chủ nhiệm:
- Hiện nay việc thực hiện sinh hoạt chủ nhiệm, các GVCN thường tổng kết
hoạt động tuần qua, xem xét các lỗi vi phạm của học sinh, chấn chỉnh những sai
phạm, cảnh cáo và ghi nhận những trường hợp tái phạm của học sinh . Tiếp theo là
thông báo các hoạt động trong tuần sắp tới, nhắc nhở và phân công học sinh thực
hiện theo kế hoạch.
- Theo cách trên giờ sinh hoạt sẽ trở nên nhàm chán, nặng nề vì học sinh
trong lớp cho rằng phải đối phó với những sai phạm trong tuần qua và tâm lí chung
sẽ là mắc cỡ, e ngại,… riêng với những em thường xuyên vi phạm thì tình hình còn

có thể bi đát hơn đó là tâm lí bất cần sẽ nảy sinh.
Giáo viên chủ nhiệm sẽ mất cảm hứng để tiếp tục khi lớp có nhiều học sinh
vi phạm, thầy cô sẽ dễ rơi vào trạng thái bực tức, nóng nảy, chắc chắn sẽ kéo dài
thời gian rầy la cả lớp một cách không có chủ đích rõ ràng.
- Thay đổi tiến trình giờ sinh hoạt chủ nhiệm sao cho tăng tính chủ động của
học sinh nhiều hơn nữa, nâng cao vai trò của tập thể chứ không phải vai trò của
giáo viên chủ nhiệm hay vai trò của lớp trưởng là biện pháp hữu ích trong giờ sinh
hoạt lớp nhằm rèn kĩ năng sống cho học sinh.
+ Trước hết cần có giáo án soạn và chuẩn bị kĩ những nội dung cần triển khai
trong giờ sinh hoạt , cụ thể hoá những việc làm được và chưa làm được của học
sinh để có biện pháp uốn nắn kịp thời.
11
+ Để tạo không khí giáo viên nên ổn định lớp, tạo sự chú ý ở học sinh bằng trò
chơi khởi động rồi mới tiến hành các nội dung giờ sinh hoạt.
+ Khi đánh giá, nhận xét giáo viên chủ nhiệm nên cho các tổ nhận xét chéo ,
cho học sinh nêu suy nghĩ của mình về những vi phạm của bản thân hoặc của người
khác để các em có tinh thần phê và tự phê, tạo sự công bằng , khách quan trong tập
thể lớp.
+ Biến giờ sinh hoạt chủ nhiệm thành một buổi chơi với nhiều trò chơi khác
nhau. Các trò chơi này phải được lựa chọn có chủ đích nhằm giáo dục kĩ năng
tương ứng cho học sinh ( có thể dựa vào kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp của
nhà trường hoặc chủ đề dài hơi do giáo viên chủ nhiệm và tập thể lớp đưa ra).
- Việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào giờ sinh hoạt chủ yếu với cách làm sao
cho tăng tính chủ đông của học sinh trong lớp, phát huy khả năng từng cá nhân và
nhấn mạnh vai trò của tập thể, để học sinh thấy được và luôn phát huy khả năng
phối hợp của nhóm trong khi giải quyết các vấn đề chung
- Không nên sa đà vào việc tổ chức các trò chơi mang tính đơn thuần, sẽ làm
sai lệch mục đích của việc lồng ghép nội dung giáo dục kĩ năng sống trong giờ sinh
hoạt.
* Yêu cầu:

- Giáo viên chủ nhiệm phải là người tâm lí. Bộ máy cán bộ lớp có đầu óc
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; có thể lôi kéo và làm hoạt náo mọi lúc.
- Một chương trình sinh hoạt dài hơi nhưng phải sinh động và thiết thực nhất
- Một tập thể biết học hết mình, chơi hết mình.
- Cách rèn kĩ năng cho học sinh được phát triển từ dễ đến khó
Với cách làm này học sinh sẽ được rèn kĩ năng thể hiện sự tự tin trước đám đông,
kĩ năng đánh giá người khác, kĩ năng giao tiếp ứng xử, suy nghĩ sáng tạo cũng được
phát triển.
4.Giải pháp 4: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt
động do nhà trường, đoàn thanh niên tổ chức.
Ngoài các hoạt động tập thể của lớp thì các hoạt động tập thể do nhà trường,
đoàn thanh niên tổ chức như: phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, phong trào
nhân đạo từ thiện, phong trào thi đua hoa điểm 10 trong các ngày lễ lớn…cũng góp
phần không nhỏ vào việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
12
- Đầu tiên trước khi triển khai một phong trào tôi đều nêu mục đích, yêu cầu,
ý nghĩa thiết thực của phong trào ấy sau đó tôi cho học sinh tham gia xây dựng kế
hoạch thực hiện và giao cho các tổ nhóm tự phân công trách nhiêm thực hiện dưới
sự giám sát, khích lệ của giáo viên.
- Sau mỗi phong trào, giáo viên giúp học sinh đánh giá, phân tích những việc
được, chưa được, rút kinh nghiệm cho các hoạt động sau. Và không quên chắt lọc
khen ngợi tổ, cá nhân có hoạt động tích cực, đạt kết quả
- Qua các hoạt động của nhà trường, đoàn thanh niên kĩ năng sống của các
em được hình thành rất hiệu quả
+ Ở phong trào thể dục thể thao: thi đánh cầu lông đơn nam, đơn nữ giúp
học sinh phát huy tinh thần đồng đội sở trường và phát triển cá tính lành mạnh.
+ Nhân dịp 26/3 nhà trường tổ chức văn nghệ tôi khuyến khích các em tham
gia tích cực cũng bởi vậy các em được tự khẳng định mình, tinh thần đồng đội, hợp
tác được nâng lên. Các em không còn nhút nhát mà tự tin hơn trước đám đông và
ngày càng đoàn kết gắn bó. Kết quả tiết mục văn nghệ của lớp tôi đã đạt giải nhất .

+ Về hoạt động nhân đạo từ thiện: trong năm học vừa qua trường THPT
Quảng Xương IV đã tổ chứa rất nhiều các hoạt động nhân đạo từ thiện. Tập thể lớp
tôi dưới sự khuyến khích của giáo viên chủ nhiệm các em tham gia rất nhiệt tình
như phong trào ủng hộ đồng bào bão lụt, xây dựng tượng đài Nguyễn Bá Ngọc,
phong trào chia khó vùng cao… không những thế các em còn quyên góp , ủng hộ 3
trường hợp học sinh của lớp có hoàn cảnh khó khăn trong dịp tết Nguyên Đán.
Cũng từ các hoạt động nhân đạo từ thiện đã rèn luyện cho các em lòng nhân ái, yêu
thương, sự đồng cảm và chia sẻ trong cuộc sống. Các em có ý thức trách nhiệm hơn
trong cuộc sống, sinh hoạt; không còn thờ ơ, vô cảm trước những mảnh đời bất
hạnh mà sống chan hoà, yêu thương nhau nhiều hơn
5. Giải pháp 5 : Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp :
- Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là một mảng hoạt động quan trọng
trong công tác chủ nhiệm ở các nhà trường hiện nay. Hoạt động này đã được tổ
chức triển khai trong nhà trường song chưa được chú trọng đầu tư đúng mức, tổ
chức cũng mới chỉ mang tính hình thức, mới chỉ dựa vào kinh nghiệm. Đội ngũ
giáo viên chủ nhiệm chưa nắm vững nội dung, phương pháp. Bản thân học sinh
chưa nhận thức đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của hoạt động giáo dục ngoài giờ
13
lên lớp do vậy cũng ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục và việc thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ của hoạt động ngoài giờ lên lớp cũng hạn chế.
- Đối với việc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo viên chủ
nhiệm lại càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi họ là người trực tiếp chịu
trách nhiệm trước nhà trường trong việc tổ chức nội dung chương trình hoạt động
cho học sinh. Tuỳ từng giai đoạn phát triển của tập thể học sinh, khả năng tự quản,
khả năng tổ chức của ban cán sự và các thành viên trong lớp, giáo viên chủ nhiệm
xây dựng, định hướng cho ban cán sự lớp trong việc lựa chọn nội dung chương
trình, cách thức tổ chức hoạt động. Sau mỗi hoạt động giáo viên còn tổ chức cho
học sinh rút kinh nghiệm việc tổ chức hoạt động. Báo cáo với ban giám hiệu nhà
trường về kết quả thực hiện hoạt động giáo giục ngoài giờ lên lớp ở lớp chủ nhiệm .

Muốn thực hiện tốt các vai trò của mình trong việc tổ chức các hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp, trước hết giáo viên chủ nhiệm cần phải nắm được kế
hoạch hoạt động, chuẩn bị chương trình, có sự bàn bạc với ban cán sự lớp, phân
công công việc cụ thể cho học sinh. Mặt khác giáo viên chủ nhiệm cũng cần phải
gần gũi, sâu sát học sinh, nắm vững đặc điểm của từng học sinh để giao nhiệm vụ
phù hợp; đồng thời phải khích lệ tất cả học sinh trong lớp tham gia hoạt động.
a. Lựa chọn nội dung tổ chức phù hợp với học sinh :
Bước 1: Giáo viên chủ nhiệm chuẩn bị :
+ Xác định rõ tên chủ đề hoạt động. Dự kiến cách triển khai nội dung và hình
thức tổ chức . Dự kiến người thực hiện: Người dẫn chương trình làm những gì ?
Ban cán sự lớp làm gì ? Học sinh làm gì ?
+ Phương tiện vật chất cần sử dụng, tài liệu cần tham khảo .
+ Giao việc cho ban cán sự lớp phân công cho các tổ nhóm, cá nhân tìm hiểu
các vấn đề thuộc chủ đề đã lựa chọn. Chỉ ra những vấn đề cơ bản cần giải quyết
Qua đó học sinh được rèn kĩ năng giao tiếp, ứng xử; kĩ năng suy nghĩ sáng tạo
và kĩ năng ra quyết định trong mọi công việc
Bước 2: Ban cán sự lớp lập kế hoạch và chuẩn bị kế hoạch của mình trên cơ
sở có sự cố vấn của giáo viên chủ nhiệm. Dựa vào yêu cầu giáo dục và gợi ý do
giáo viên chủ nhiệm đề ra , học sinh bàn bạc lập kế hoạch hoạt động nâng cao kĩ
năng tìm kiếm và xử lí thông tin.
Bước 3: Thực hiện kế hoạch hoạt động. Đây là bước thể hiện kết quả chuẩn
bị của cả học sinh và giáo viên, là bước để học sinh thể hiện năng lực tổ chức tự
14
quản hoạt động tập thể. Giáo viên chủ nhiệm cần theo dõi và huy động tất cả học
sinh đều được tham gia.
Bước 4: Rút kinh nghiệm để đánh giá kết quả. Giáo viên chủ nhiệm với ban
cán sự lớp đánh giá kết quả của hoạt động tập thể. Thông qua kết quả tham gia hoạt
động ngoài giờ lên lớp của học sinh, giáo viên chủ nhiệm lấy đó làm một căn cứ để
xếp loại hạnh kiểm học sinh từng tháng và từng kì nhằm động viên khích lệ tất cả
học sinh cùng tham gia.

b. Áp dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực vào thực hiện hoạt động
ngoài giờ lên lớp
*. Kĩ thuật chia nhóm :
- Sử dụng nhiều cách chia nhóm khác nhau để gây hứng thú cho học sinh, đồng
thời tạo cơ hội cho các em được học hỏi, giao lưu với nhiều bạn khác nhau trong
lớp nhằm nâng cao kĩ năng giao tiếp ứng xử . Với một số cách chia nhóm như:
Chia nhóm theo tổ, theo sổ điểm danh, theo sở thích, theo tháng sinh, mùa sinh…
*. Kĩ thuật “động não” :
Giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh nhiều ý tưởng độc đáo,
mới mẻ về chủ đề hoạt động nhằm nâng cao kĩ năng suy nghĩ sáng tạo.
Gồm các bước :
+ Giáo viên nêu câu hỏi cần tìm hiểu trước cả lớp
+ Khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt
+ Liệt kê các ý kiến lên bảng trừ ý kiến trùng lặp
+ Phân loại ý kiến
+ Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận
Ví dụ : Giáo viên đặt câu hỏi :Quan niêm của em về tình yêu tuổi học trò ?
- Đây là vấn đề nhạy cảm nên học sinh sẽ có rất nhiều ý kiến đưa ra. Giáo viên
khuyến khích các em đưa ra ý kiến; sau đó tổng hợp đưa ra đáp án cuối cùng.
*. Kĩ thuật trình bày một phút :
Là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tống kết lại các vấn đề thảo luận và đặt ra
những câu hỏi về những điều băn khoăn, thắc mắc bằng bài trình bày ngắn gọn và
cô đọng với các bạn cùng lớp . Với kĩ thuật dạy học này kĩ năng giao tiếp của học
sinh được rèn luyện đáng kể.
Gồm các bước:
+ Giáo viên đưa ra vấn đề cần trao đổi, bàn bạc
+ Các nhóm cùng trao đổi thảo luận và viết ra giấy
15
+ Mỗi nhóm cử đại diện trình bày cô đọng trong thời gian một phút
Thời gian thực hiện cần tuỳ thuộc vào điều kiện và nội dung cần trao đổi mà

có thể cho học sinh chuẩn bị trước ở nhà hoặc làm tại lớp
*. Kĩ thuật “ Sơ đồ tư duy”:
Sơ đồ tư duy là một sơ đồ nhằm trình bày một cách rõ ràng những ý tưởng
hay kết quả làm việc của cá nhân, nhóm về một chủ đề nhằm phát triển ở học sinh
kĩ năng suy nghĩ sáng tạo.
Bao gồm các bước :
+ Viết tên chủ đề, ý tưởng chính ở trung tâm
+ Từ chủ đề, ý tưởng chính ở trung tâm, vẽ các nhánh chính, trên mỗi nhánh
chính viết nội dung lớn của chủ đề hoặc các ý tưởng có liên quan xoay quanh ý
tưởng trung tâm
+ Từ mỗi nhánh chính, vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung
thuộc nhánh chính đó .
+ Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
Quy trình áp dụng gồm 4 bước :
- Bước 1: GVCN cùng với ban cán sự lớp nghiên cứu, tìm hiểu chủ đề.
- Bước 2: GVCN giới thiệu các nguồn tin , kiến thức và những kĩ năng cần giải
quyết vấn đề đặt ra. Sau đó giáo viên chủ nhiệm cùng với cán bộ lớp thiết kế hoạt
động, lựa chọn kĩ thuật dạy học phù hợp với chủ đề và năng lực của học sinh.
- Bước 3: Tiến hành thực hiện các kĩ thuật dạy học đã lựa chọn.
+ Giáo viên tạo cơ hội cho học sinh tham gia xây dựng và giải quết vấn đề.
+ Định hướng cho học sinh thực hành đúng cách.
+ Khuyến khích học sinh thể hiện những điều các em suy nghĩ, hiểu biết đồng
thời giám sát tất cả mọi hoạt động và điều chỉnh những hiểu biết sai lệch khi cần.
- Bước 4: GVCN cùng với học sinh lập kế hoạch cho các hoạt động thực tiễn
thông qua giải quyết các vấn đề đặt ra có thể ở những lĩnh vực khác có liên
quan.Xây dựng những qui định chung cho lớp để hướng học sinh thực hiện cho
đúng đắn .Vận dụng đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh.
d. Tổ chức các trò chơi:
Trò chơi là một phương pháp dạy học tích cực không những củng cố, hình
thành các kiến thức khoa học mà là môi trường giúp học sinh hình thành, phát triển

các kiến thức xã hội và các kĩ năng cần thiết trong cuộc sống. Thông qua trò chơi
16
góp phần giáo dục học sinh phát triển tính nhanh nhẹn, hoạt bát, thông minh, sámg
tạo… làm trạng thái tâm lí cân bằng giúp tiếp thu nhanh các tri thức.
Hiện nay với nội dung chương trình và phương pháp dạy học mới, phương
pháp trò chơi đã được đưa nhiều vào trong tiết học và quả thật đã góp phần đáng kể
trong việc hình thành kiến thức và kĩ năng cho học sinh . Thu hút học sinh hứng thú
trong hoạt động học tập
Nhận thức được điều này tôi đã dùng trò chơi giúp học sinh hình thành, phát
triển các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống.
Một số trò chơi :
*. Trò chơi : “Đứng- ngồi- nằm- ngủ” :
Tạo không khí sôi động, vui vẻ, phát triển phản xạ, rèn luyện trí nhớ.
+ Nội dung : Người dẫn chương trình hướng dẫn cách chơi: tư thế ngồi học.
- “Đứng” : Bàn tay phải nắm, giơ thẳng lên đầu.
- “Ngồi” : Bàn tay phải nắm, hai cánh tay vuông góc, để trên mặt bàn
- “Nằm” : Bàn tay phải nắm, nghiêng về bên phải, đầu gối lên cónh tay phải
- “Ngủ” : Bàn tay phải nắm,để vuông góc trên bàn, đầu gục lên cánh tay, hô khò
- Người dẫn chương trình có thể hô đúng, làm đúng hoặc hô đúng làm sai, hô
một đằng làm một nẻo.
- Người chơi phải làm đúng theo lời hô và các động tác qui định của người dẫn
chương trình.
* Phạm luật : Người chơi làm sai, làm chậm, không nhìn người dẫn chương trình.
* Chú ý: Tốc độ nhanh, chậm tuỳ thuộc vào đối tượng chơi có thể dùng những từ
khác để lừa người chơi như: “nằm”, “ngủ”, “khò” , “giơ” …
*. Trò chơi “Hát theo chủ đề” :
+ Hát theo chủ đề giữa các nhóm: Hát về thầy cô, mái trường, bạn bè …
+ Tạo không khí sôi nổi để hoạt động đồng thời phát triển kĩ năng suy nghĩ.
sáng tạo ở học sinh.
+ Nội dung : Thuộc nhiều bài hát theo đúng chủ đề

+ Cách chơi: Người dẫn chương trình chia lớp thành nhóm;từng nhóm chọn bài
hát cả nhóm cùng hát hoặc cử đại diện nhóm hát.
+ Phạm luật: Hát trùng bài, hát chậm so với nhóm khác thì thua cuộc.
Quy trình áp dụng: Bước 1: Ổn định tổ chức, lựa chọn đội hình chơi phù hợp.
Bước 2: Phổ biến nội dung chơi và luật chơ.
17
Bước 3: Chơi thử.
Bước 4: Chơi thật.
Bước 5: Thưởng, phạt và nhận xét quá trình chơi.
* Sau mỗi chủ đề, giáo viên chủ nhiệm đều phải đánh giá kết quả hoạt động
của học sinh ở các góc độ: Sự hiểu biết về nội dung của chủ đề, ý thức, thái độ đối
với hoạt động của học sinh và đặc biệt là ý thức tham gia tổ chức các hoạt động
của học sinh. Để từ đó hiểu được năng lực, năng khiếu, sở trường, cá tính của học
sinh, những điểm mạnh, điểm yếu của học sinh khi tham gia các hoạt động tập thể.
Từ đó có biện pháp giáo dục học sinh có hiệu quả hơn. Kết quả hoạt động của học
sinh là một căn cứ để xếp loại hạnh kiểm theo từng kì, từng tháng và cả năm học.
VI : Kết quả
Với các giải pháp thiết thực nhằm rèn kĩ năng sống cho học sinh qua công
tác chủ nhiệm ở trường THPT Quảng Xương IV tôi đã thu được những kết quả khả
quan như sau:
- Kĩ năng sống của các em ngày càng được nâng lên, các em ngày càng
trưởng thành hơn trong cuộc sống cũng như trong học tập.
- Học sinh lớp tôi chủ nhiệm có tính kỉ luật cao, các em thường rất ý thức
trong các công việc và thực hiện nghiêm túc các nội quy, quy định của lớp, của nhà
trường và của địa phương một cách tự nguyện.
- Trong học tập các em tích cực phát biểu ý kiến xây dựng bài. Được các
thầy cô giáo dạy ở lớp đánh giá là tập thể có tinh thần học tập tốt, không khí học
tập sôi nổi. Một số em đầu năm rất ít khi phát biểu giờ đây đã mạnh dạn, tích cực
như em Trần Công Hiếu, em Thư, em Nguyễn Cường…
- Trong các hoạt động nhóm các em biết tương trợ nhau cùng hoàn thành

công việc được giao. Các em biết nhường nhịn, giúp đỡ nhau trong học tập, sinh
hoạt và cuộc sống. Biết lắng nghe ý kiến của nhau, tôn trọng nhau và đặc biệt có
tình cảm đối xử với nhau rất chân thành. Học sinh sống có trách nhiệm với bản
thân và những người xung quanh.
- Các em được cuốn vào hoạt động phong trào nên đã tránh được thói hư tật
xấu ngoài xã hội. Nhờ những kiến thức thực tế được hình thành phong phú, đa
dạng mà các em tránh được những ảnh hưởng không tốt của các tệ nạn xã hội,
những thói hư tật xấu khác. Tình trạng học sinh gây gỗ đánh nhau, kéo bè kéo phái
không còn. Một số em đã khẳng định được ý chí, lòng quyết tâm vươn lên trong
18
học tập, vượt qua những khó khăn trong cuộc sống như em Phương, em Thư, em
Linh…
- Mối quan hệ tình cảm của các em trong lớp đã gắn bó khăng khít hơn trước
nhiều. Các thành viên trong lớp đã quan tâm đến nhau nhiều hơn, một số em đã tự
nhận trách nhiệm giúp đỡ các bạn học yếu, chưa cố gắng như em Thu giúp đỡ em
Vân, em Hằng kèm em Hương, em Cường; em Hùng giúp đỡ em Nghĩa Các em
cũng thường xuyên quan tâm thăm hỏi các bạn trong lớp khi ốm đau, gặp chuyện
buồn vui.
- Cùng với hoạt động của trường, tập thể lớp đã tự tổ chức thăm hỏi và giúp
đỡ 3 học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong dịp tết Nguyên Đán đó là em Linh con
mồ côi, em Thư, em Phương có hoàn cảnh khó khăn- bố mất, mẹ đi làm ăn xa. Qua
những hoạt động đó các học sinh trong lớp thêm hiểu, thông cảm và gắn bó với
nhau nhiều hơn.
- Ban cán sự lớp ngày càng trưởng thành trong việc triển khai và tổ chức
thực hiện các công việc được giao. Đa số các em đã tự tin, mạnh dạn hơn. Một số
em thường đưa ra các ý kiến sáng tạo tham gia xây dựng các hoạt động của của lớp
như Trịnh Thị Thu, Nguyễn Công Hiếu, Nguyễn Hoàng Huy, Nguyễn Thị Thuỷ,
Nguyễn Thị Hằng …các em đã trưởng thành rất nhanh.
- Một số em trong học tập năng lực không tốt nên thường rất tự ti khi học các
môn văn hoá, nhưng qua hoạt động ngoài giờ lên lớp các em lại tỏ ra rất nhanh

nhẹn, nhiệt tình và có khá nhiều sáng tạo như em Tô Nam Anh, Nguyễn Hoàng
Huy, Tô Văn Cường em Nguyễn Văn Cường.
Kết quả xếp loại hạnh kiểm, học lực của lớp 10D trường THPT Quảng Xương IV:
xếp loại Tốt Khá Trung bình Yếu
Học kì I (sĩ số 45) 18 40% 20 45% 5 11% 2 4%
Học kì II (sĩ số 43) 30 70% 11 26% 2 4 % 0 0%
Kết quả xếp loại học lực của lớp 10D trường THPT Quảng Xương IV:
xếp loại Giỏi Khá Trung bình Yếu
Học kì I (sĩ số 45) 1 2% 16 36% 27 60% 1 2%
Học kì II (sĩ số 43) 2 4% 27 63% 14 33% 0 0%
- Tham gia văn nghệ nhân dịp 26/3 lớp đạt giải nhất trong tổng số 31 lớp.
- Các đợt thi đua dành hoa điểm 10 lớp luôn đứng đầu được nhà trường
tuyên dương về phong trào học tập cả về số lượng lẫn chất lượng. Có tới 25 lượt
19
điểm 10 trên một đợt thi đua, trong đó những em như: Trịnh Thị Thu, Nguyễn Thị
Thủy,
Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Thị Linh đạt số điểm 10 lặp lại ở nhiều môn học.
- Với các kết quả trên tập thể lớp 10D xếp tốp I của trường, đứng thứ 2 trong
tổng số 31 lớp.
- GVCN lớp được tập thể giáo viên chủ nhiệm trong trường suy tôn danh hiêu
là giáo viên chủ nhiệm xuất sắc nhất trong năm học 2012-2013.
C. PHẦN KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm :
Qua nghiên cứu , tìm hiểu nguyên nhân thực trạng và ứng dụng những giải
pháp chủ yếu trong việc tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh ở lớp 10D trường THPT Quảng Xương IV, bản thân tôi tự nhận thấy việc
rèn kuyện kĩ năng sống để hình thành nhân cách cho học sinh là một quá trình rèn
luyện lâu dài, liên tục, diễn ra mọi lúc mọi nơi trong các mối quan hệ xã hội. Bởi
vậy nó đòi hỏi giáo viên chủ nhiệm phải có đức tính kiên trì khéo léo trong ứng xử,
bền bỉ, tế nhị để có thể tìm hiểu sâu sắc từng đối tượng học sinh, thương yêu các

em với một tình cảm chân thành cần có cách cư xử nhẹ nhàng, chừng mực với từng
đối tượng học sinh, thể hiện sự quan tâm đến các em để tạo cho các em sự tin tưởng
đối với giáo viên.
Phải biết kết hợp các phương pháp, rèn luyện một cách nhuần nhuyễn. Phải
nghiên cứu tìm hiểu nắm bắt kịp thời tâm sinh lí cũng như những biểu hiện bất
thường của từng đối tượng một cách chính xác để sử dụng các giải pháp rèn kĩ năng
sống cho từng học sinh, làm thay đổi những suy nghĩ sai lệch ở các em.
Cần chú ý đến việc xây dựng tốt nề nếp học tập, thu hút các em vào các hoạt
động bổ ích như: văn nghệ, thể dục thể thao, hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhân đạo
từ thiện…Xây dựng mô hình lớp tự quản gắn cá nhân với tập thể.Trong quá trình
giáo dục, phải tạo cho học sinh môi trường, động lực phấn đấu. Trong các phong
trào thi đua, phải thường xuyên khen ngợi, khuyến khích các em là chính, không
được dùng các hình phạt, xúc phạm, đay nghiến, chì chiết học sinh dù dưới bất kì
hình thức nào. Sự khen ngợi phải dựa trên sự tiến bộ của học sinh dù chỉ là việc
làm rất nhỏ. Các kiến thức thực tế và các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống chỉ được
hình thành một cách tự nhiên thoải mái qua các hoạt động tập thể với tính tự giác
tham gia cao của các học sinh
20
Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường gia đình và xã hội để rèn kĩ năng sống cho
học sinh một cách toàn diện. Bởi “Không có phương pháp phương tiện nào là duy
nhất, không có nhà sư phạm nào đơn phương độc mã có thể đào tạo, giáo dục thành
công. Sản phẩm của giáo dục là con người, đó là kết quả của sự kết hợp, phối hợp
với mọi điều kiện, mọi tác động của to9àn bộ xã hội mà nhà sư phạm là người điều
chỉnh, phối hợp với tất cả những yếu tố đó”. (Makarenco)
2. Đề xuất :
a. Về phía nhà trường
Từ những vấn đề trên có thể thấy để làm tốt giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh để các em trở thành những con ngoan trò giỏi, nhà trường cần làm tăng cường
công tác tuyên truyền, giáo dục các chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước,
đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, đạo đức cho học sinh, chủ

động phối hợp giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội trong việc giáo dục học sinh.
Quản lí chặt chẽ học sinh trong giờ học chính khoá cũng như học ngoại khoá,
thường xuyên liên hệ chặt chẽ với gia đình để quản lí học sinh và thông báo kịp
thời kết quả học tập rèn luyện, tu đưỡng đạo đức cũng như các biểu hiện lệch lạc
trong suy nghĩ, hành vi lối sống của học sinh để phối hợp giáo dục. Mỗi giáo viên
cần tìm cho mình những phương pháp phù hợp nhất để giáo dục các em. Nhà
trường giúp gia đình tư vấn giáo dục học sinh, tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá,
hoạt động vui chơi bổ ích, hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh để các em được
bầy tỏ, thể hiện mình. . Việc tạo được sân chơi bổ ích cho các em với đề tài gần
gũi, với lứa tuổi học sinh được xem là hình thức đa dạng hoá mô hình giáo dục đạo
đức, giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường để chính học sinh tìm ra các hình thức
sinh hoạt hiệu qủa. Những bài học đến với học sinh không chính thức như những
giờ giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống trên lớp nhưng vẫn đem lại không ít
hiệu quả khi các em cùng nhau nhận thức những việc nên làm và nên tránh.
b, Về phía phụ huynh:
Người lớn cần phải nêu gương tốt cho các em về thái độ, hành vi, cách ứng
xử của mình với bản thân và đối với cộng đồng. Cần hiểu rõ tầm quan trọng của
việc rèn kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để chia sẻ, bày tỏ,
động viên kịp thời, điều chỉnh hành vi sai lệch của con em .Các bậc phụ huynh cần
quan tâm đến sự phát triển tâm sinh lí và yêu cầu phù hợp với việc học tập lao
động, rèn luyện của con em mình, thường xuyên giữ mối liên hệ chặt chẽ với nhà
21
trường, thầy cô giáo để nắm bắt tình hình học tập, tư tưởng và các mối quan hệ của
các em để giáo dục.
c, Về phía địa phương :
Cần quan tâm thường xuyên đến tình hình an ninh trật tự, an toàn,mĩ quan
khu vực quanh trường học, đặc biệt là xử lí cương quyết các hiện tượng vi phạm an
toàn giao thông, vệ sinh môi trường, các tệ nạn xã hội, các hàng quán kinh doanh
có ảnh hưởng đến học sinh.Chủ động phối hợp cùng nhà trường giáo dục học sinh,
nhất là những học sinh cá biệt; giúp nhà trường giải quyết những khó khăn nằm

ngoài thẩm quyền của nhà trường.
3. Lời kết:
Trên đây là những đúc rút kinh nghiệm rèn kĩ năng sống thông qua công tác chủ
nhiệm của tôi qua thực tế giảng dạy. Bản thân tôi đã cố gắng áp dụng những kinh
nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao kĩ năng sống cho
học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, nhằm giáo dục và xây dựng cho các
em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong
cuộc sống. Do thời gian nghiên cứu ngắn, phạm vi nghiên cứu chỉ là ở một trường
THPT, đối tượng nghiên cứu còn eo hẹp ở một tập thể lớp nên có nhiều vấn đề
chưa được phân tích một cách đầy đủ. Các biện pháp đưa ra chưa có tính khả thi
cao những ít nhiều cũng giúp cho chúng ta nhận thấy những biện pháp thực tế trong
công tác chủ nhiệm hiện nay rất đa dạng giúp cho chúng ta định hướng lại một số
việc trong thời gian tới để góp phần thành công trong sự nghiệp trồng người. Rất
mong nhận được sự giúp đỡ góp ý bổ sung của Ban giám hiệu nhà trường, các cấp
quản lý giáo dục và các đồng nghiệp để sáng kiến của tôi có được các kinh nghiệm
bổ ích áp dụng cho các năm học sau.
Xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hoá, ngày 10 tháng 5 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác
Người viết
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Nguyễn Thị Hằng
MỤC LỤC
22
A. Phần thứ nhất: Đặt vấn đề.
I. Lý do chọn đề tài………………………………………………………………1
B. Nội dung
I. Khái niệm kĩ năng sống……………………………………………………… 2
II. Kĩ năng sống của học sinh THPT hiện nay………………………………… 2

III. Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh tại trường THPT Quảng
Xương 4……………………………………………………………………………4
IV. Những khó khăn trong khi tập huấn rèn kĩ năng sống cho học sinh ở trường
THPT………………………………………………………………………………5
V. Giải pháp nâng cao kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm ở
trường THPT QX 4……………………………………………………………… 6
1. Giải pháp 1: Tăng cường năng lực của giáo viên chủ nhiệm trong
công tác giáo dục…………………………………….…………………………….6
2. Giải pháp 2: Rèn ý thức chấp hành kỉ luật cho học sinh trong
nhà trường nói riêng và ngoài xã hội nói riêng……………….………………… 8
3. Giải pháp 3: Đưa giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong giờ
sinh hoạt chủ nhiệm………………………….……………………………………10
4. Giải pháp 4: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các
hoạt động do nhà trường, đoàn thanh niên tổ chức………………………….…….11
5. Giải pháp 5: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp…………………………………………… 12
VI. Kết quả…………………………………………………………………….…16
C. Phần kết luận
1. Bài học kinh
nghiệm……………………………………………………………………………18
2. Đề xuất……………………………………………………………………… .19
3. Lời kết………………………………………………………………………….20
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
23
1. Giáo dục giá trị và kĩ năng sống cho học sinh phổ thông ( Tài liệu tập huấn
và bồi dưỡng giáo viên)
2. Tài liệu tập huấn của Unicef (2004)
3. Kĩ năng sống dành cho bạn trẻ. NXB Thanh niên
4. Tâm lí giáo dục đại cương ĐHSP Hà Nội
5. Bộ sách giáo khoa Giáo dục công dân cấp THPT nhà xuất bản giáo dục

6. Hạt giống tâm hồn
7. Cẩm nang xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực
8. Cẩm nang giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT
9. Một số biện pháp xây dựng trường học “ Xanh - Sạch - Đẹp – An toàn”
10.Một số biện pháp xây dựng xã hội hoá để xây dựng và phát triển trường học
11.Hướng dẫn viết sáng kiến kinh nghiệm.
12. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT . Nguyễn Thanh Bình-
13. Tài liệu tập huấn kĩ năng sống và giới. NXBGD- TPHCM.
14. Giáo dục kĩ năng sống trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường
THPT- NXBGD Hà Nội.
24

×