Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Bước đầu tìm hiểu về làng gốm của người Chăm ở Bầu Trúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 40 trang )

Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

PHẦN MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong qua trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Chỳng ta đang tích cực thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để
phát triển đất nước. Tuy vậy, bên cạnh các ngành công nghiệp hiện đại đòi
hỏi trình độ khoa học kỹ thuật cao, nhà nước cũn rất quan tõm đến việc phát
triển các ngành nghề thủ công truyền thống. Đặc biệt việc quan tõm phát
triển các làng nghề truyền thống có một vai trò rất quan trọng.
Trong bối cảnh kinh tế nước ta hiện nay, việc tồn tại của các làng nghề
thủ công truyền thống có một vai trò quan trọng. Nó góp phần giải quyết việc
làm cho lao động, tăng thêm thu nhập cho người dõn. Đồng thời một số làng
nghề không chỉ có vai trò về mặt kinh tế mà cũn có vai trò về mặt văn hoá.
Làng gốm Chăm Bầu Trúc là một điển hình. Người Chăm là một dõn tộc
thiểu số có khoảng trên 100 ngàn người và hiện nay họ vẫn cũn bảo lưu nhiều
tập tục truyền thống mang bản sắc riêng. Trong những năm qua, văn hoá
Chăm đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tõm nghiên cứu.
Đặc biệt về nghề gốm cổ truyền của người Chăm ở Bầu Trúc – đay là một di
sản văn hóa độc đáo của dõn tộc. Làng gốm Chăm không phải chỉ là một làng
nghề đơn thuần mà cũn là một điểm đến cho du khách tham quan nữa. Sự tồn
tại và phát triển của làng nghề gốm Chăm Nầu Trúc có ý nghĩa quan trọng cả
về kinh tế và văn hoá, đòi hỏi phải có sự quan tõm đúng mức của Đảng và
nhà nước.
Vơi lý do trên, em chọn đề tài “ Bước đầu tìm hiểu về làng gốm của
người Chăm ở Bầu Trúc” làm đề tài tiểu luận của mình.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1


ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG GỐM CHĂM BẦU TRÚC
1.1 Điểu kiện tự nhiên và xã hội.
1.1.1 Điều kiện tự nhiên.
Thôn Bầu Trúc nằm chung trên toạ độ địa lý tỉnh Ninh Thuận ở giữa vĩ tuyến
11
0
18’ và 12
0
02’, giữa đông kinh tuyến 108
0
35’ và 109
0
15’. Thôn Bầu
Trúc nằm cạnh quốc lộ 1A, cách thị xã Phan Rang 9km về hướng Nam. Thôn
Bầu Trúc, phớa Nam giáp thị trấn Phú Qúy, phớa Đông giáp Quốc lộ 1A và
phớa Tõy giáp đường sắt Bắc Nam.
Thôn Bầu Trúc mang khí hậu chung với khí hậu của cả tỉnh Ninh Thuận.
Ở đây có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 11 và mùa khô
bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Trữ lượng mưa thấp chỉ mưa 60 ngày
trong thời gian 3 tháng mùa mưa trong năm. Trữ lượng mưa trung bình hàng
năm rất thấp 695mm/ năm. Nhưng do địa hình là một lòng chảo lại được bao
bọc bởi những dãy núi dựng đứng xung quanh vì vậy ở đây thường xuyên xảy ra
lũ lụt. Ngược lại mùa khô thì lại rất nóng và kéo dài trong khoảng 9 tháng. Mùa
khô ở Việt Nam nói chung thường có hai ngọn gió là gió mùa Đông Bắc và Tây
Nam đem lại mưa cho các tỉnh trong cả nước nhưng ở Ninh Thuận lại bị chắn
bởi các dãy núi cao xung quanh nờn giú bị suy yếu dần và không có mưa.
Nằm trên vị trí bán sơn địa, thôn Bầu Trúc nằm ở cuối của đồng bằng
Phan Rang, chỉ cách chõn núi khoảng 5km và cách biển 5 km đường chim bay.
Do vậy dù đất đai ở Ninh Thuận khô cằn và bạc màu bởi nắng và gió nhưng

đất ở thôn Bầu Trúc vẫn tương đối màu mỡ. Bên cạnh đó dòng phù sa bồi tụ
lõu năm đã tạo thành các lớp đất sõu ở các triền sông, hình thành các mỏ đất
sét mịn màng hiếm có. Đõy chính là điều kiện để phát triển nghề gốm Chăm ở
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

đõy. Như vậy với những điều kiện tự nhiên như vậy tạo điều kiên cho người
Chăm ở đõy vừa làm nông nghiệp vừa phát triển nghề gốm trong đó nghề gốm
có một vai trò đặc biệt quan trọng.
1.1.2 Điều kiện xã hội.
a. Thành phần dân số, dân cư.
Theo số liệu thống kê năm 1999, dân số Ninh Thuận hơn 500 ngàn người,
trong đó có 52 ngàn người Chăm, chiếm 10,8% dân số toàn tỉnh, riờng thụn Bầu
Trúc là một làng trong tổng số 22 làng người Chăm ở Ninh Thuận. Thôn Bầu
Trỳc cú tất cả 460 hộ với 2748 ngàn người. Trong đó có 85 hộ người Kinh với
số dân 460 người. Thôn Bầu Trúc có dân số trẻ, lực lượng lao động dồi dào.
b. Trình độ văn hóa.
Học sinh cấp I có 560 em chiếm 20% dõn số.
Học sinh cấp II có 32 em chiếm 1,16%
Học sinh cấp III có 12 em chiếm 0,43%
Đại học có 10 em chiếm 0,36%
Tổng số người mù chữ là 315 người chiếm 11,4%.
Nằm trên địa bàn thôn Bầu Trúc cũn có một trường phổ thông cơ sở
Phước Dõn 3 (trường cấp xã) có 10 phòng học, 600 học sinh. Và một trường
phổ thông cấp III An Phước (trường cấp huyện) có 20 phòng học, 1000 học
sinh. Đây là điều kiện thuận lợi cho con em làng Bầu Trúc nõng cao trình độ
học vấn.
Điều kiện tự nhiên và xã hội ở Bầu Trúc rất thuận lợi cho việc phát triển
nghề gốm. Ở đõy có sẵn vật liệu tự nhiên, khí hậu khô nóng, ít mưa rất thuận
lợi cho việc làm gốm. Làng gốm lại gần đường giao thông rất thuận lợi cho

việc lưu thông gốm trên thị trường. Về điều kiện xã hội, ở đõy lực lượng lao
động dồi dào lại thuần nhất về dõn tộc, hơn nữa lao động nữ nhiều hơn nam
(nhõn lực làm gốm chớnh là nữ) nên càng có điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển làng nghề gốm. Tuy vậy trình độ học vấn ở đây chưa cao nên khó khăn
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

trong việc nõng cao tay nghề, mở rộng, phát triển gốm Chăm theo hướng công
nghiệp hoá.
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển làng nghề.
1.2.1 Tên gọi của làng nghề.
Làng Bầu Trúc có tên gọi gốc theo tiếng Chăm là Paley Hamu trok, có
nghĩa là Làng trũng hay làng nhô ra ở phần cuối triền sông (Paley = làng,
Hamu = ruộng, Trok = cuối hoặc lồi ra). Về sau năm 1964 xảy ra một trận lụt
lớn ở Phan Rang, dõn ở đây chuyển ra địa điểm mới hiện nay, nơi đây có rất
nhiều trúc nên gọi là Bầu Trúc. Từ đó người ta dùng tên gọi Bầu Trúc để chỉ
tên của làng gốm của người Chăm Paley Hamu Trok.
Tên hành chính của làng gốm Bầu Trúc là Vĩnh Thuận. Đõy là tên gọi
được đặt ra từ trong cải cách Minh Mạng (1832) và hiện nay vẫn được dùng
làm tên trong quản lý hành chớnh.
Như vậy hiện nay Bầu Trúc có ba tên gọi: Tên gốc của người Chăm là
Paley Hamu Trok, tên dõn gian thường gọi la Bầu Trúc và tên trong giấy tờ
hành chính là Vĩnh Thuận.
1.2.2 Lịch sử hình thành và phát triển nghề gốm.
Người Chăm Bầu Trúc thuộc dũng Chăm vùng núi và biên mà ngày nay
họ còn được thể hiện rừ trong tục cúng tế tổ tiên dũng núi (Atõucơk) và dòng
biển (Atõu tathik). Trong thời gian chiến tranh giữa Chămpa và Đại Việt đặc
biệt là thời kì Minh Mạng người Chăm bị xáo trộn rất nhiều, nhiều người phải
ly tán lên rừng, đến thời Tự Đức đã ra lệnh khoan hồng nên người Chăm lại trở
về cư trú, sinh sống như bình thường cho đến nay.

Hiện nay người Chăm Bầu Trúc tự nhận là con chỏu của Pô Klong chan
- một quan cận thần của vua Chăm Pô Klong Garai (1151 – 1205). Họ kể rằng
chính ông tổ Pô Klong Chan đã giúp dõn Bầu Trúc thoát khỏi cảnh đói nghèo,
đưa dõn làng đến định cư ở cánh đồng “Hamu Trok” và dạy cho dõn đào đất
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

sét, làm gốm. Do đó họ coi Pô Klong chan là ông tổ nghề của họ và lập hẳn
một đền thờ ngài.
Cư dõn Paley Hamu trok đã định cư ở một cánh đồng trũng, nhưng từ
sau nạn lụt năm 1964, cư dõn đã chuyển đến ở tại một gò đồi cao bên cạnh một
bầu nước và có rất nhiều Trúc gọi là Bầu Trúc.
Từ năm 1832 làng được lấy tên trên giấy tờ hành chớnh là Vĩnh Thuận.
Từ đó đến nay làng Vĩnh Thuận có nhiều biến đổi trong việc phõn chia trực
thuộc địa giới hành chính, có lúc thuộc phủ Bình Thuận, có lúc thuộc phủ Ninh
Thuận, đạo Phan Rang…Từ 1954 – 1975 trong nền cộng hoà của Mỹ - Nguỵ
thì Vĩnh Thuận lại thuộc quận An Phước tỉnh Ninh Thuận.
Năm 1976, theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, hai tỉnh Ninh Thuận
và Bình Thuận sáp nhập với nhau thành tỉnh Thuận Hải, Vĩnh Thuận lại thuộc
huyện An Sơn.
Đến năm 1992, tỉnh Thuận Hải tách thành hai tỉnh Ninh Thuận và Bình
Thuận như cũ thì địa danh Vĩnh Thuận chính thức được đổi thành Khu 7, thị
trấn Phước Dõn, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.
Mặc dù trải qua nhiều biến chuyển trong lịch sử nhưng hiện nay trong
tõm thức dõn làng thì vẫn giữ nguyên địa danh truyền thống là “Paley Huma
Trok” hoặc “paley Ngak Gok” (nghĩa là làng làm gốm). Cũn nhõn dõn quanh
vùng thì vẫn quen với tên gọi là Làng gốm Bầu Trúc.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử


Chương 2
MỘT SỐ NÉT VỀ NGHỀ GỐM CỦA
NGƯỜI CHĂM Ở BẦU TRÚC
2.1 Một vài nét về gốm Bầu Trúc.
Nhõn dõn Ninh Thuận luôn tự hào về làng gốm Bầu Trúc, đây là một
trong hai làng gốm cổ xưa nhất Đông Nam Á. Theo những nghiên cứu của
khảo cổ học, nghề làm gốm của người Chăm đã có cách đõy từ 3500 – 4000
năm. Người Chăm gọi nghề gốm là nghề làm nồi với vật liệu chính là đất -
tượng trưng cho đất Mẹ (mẫu hệ), mọi công đoạn đều làm bằng tay (thể hiện
sự tôn kính).
Một điều đặc biệt là những nghệ nhân gốm ở đay lại là những phụ nữ và
họ giữ nghề theo lối “mẹ truyền con nối”. Các bà mẹ thường dạy con mình
thành những thợ gốm tài năng khi con gái họ lên mười. Tất cả phụ nữ Chăm
đều biết làm gốm. Người phụ nữ khi đi lấy chồng pahỉ biết làm đầy đủ các sản
phẩm gốm thiết yếu.
Nghề làm gốm ở Bầu Trúc có một điểm khác biệt nữa so với các làng
gốm khác. Khi các làng nghề hiện nay hầu như đề sử dụng phổ biến bàn xoay
thì ở đõy người phụ nữ vẫn dùng hoàn toàn bằng tay. Người dõn Bầu Trúc đã
dùng đôi bàn tay khéo léo của mình, những vũng tre và những vỏ sò để tạo ra
những tác phẩm vô giá. Không giống như những làng gốm của người Kinh,
người Chăm để sản phẩm trên một chiếc đế rồi dùng đôi tay khéo léo và đôi
chõn nhịp nhàng đi xung quanh để tạo dáng cho sản phẩm gốm. Để tạo ra sản
phẩm gốm của mìn người Chăm đã sử dụng những công cụ hết sức thô sơ: vải
quận, vòng quơ, vòng cạ, con kê…
Từ những sản phẩm như nồi, lọ, bình, chậu… làng gốm Bầu Trúc hiện
nay cũn tạo ra những sản phẩm gốm vừa hấp dẫn về hình dáng vừa tao nhã về
công dụng và nghệ thuật trang trí. Kế thừa những tinh hoa của nghệ thuật tạo
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử


hình, nét đặc trưng của nền văn hóa của tổ tiên… nghệ nhân nghề gốm Bầu
Trúc đã biết tạo ra những sản phẩm không chỉ đơn thuần phục vụ cuộc sống
mà cò tôn vinh giá trị văn hóa độc đáo của dõn tộc mình. Đó là những chiếc
bình tựa vũ nữ Apsara, những khung cảnh tế lễ khắc hoạ trên vai, trên nồi hay
khuôn mặt những vị thần linh chạm khắc trên sản phẩm như làm tăng thêm nét
huyền bí cho đồ gốm Chăm Bầu Trúc.
Một số đặc điểm của gốm Chăm Bầu Trúc.
Đồ gốm có kích thước lớn nhất là lu có chiều cao 12cm, đường kớnh
miệng gốm 50cm, và loại có kích thước nhỏ nhất là nồi có chiều cao 20cm,
đường kớnh miệng 20cm.
Phần lớn gồm chăm Bầu Trỳc cú đỏy trũn, miệng loe và miệng khum thấp.
Xương gốm Bầu Trúc tương đối dày, hơi thô do khi làm gốm có trộn
nhiều loại cát nhỏ vào đất sét. Xương gốm Bầu Trúc không chặt, mịn cũn do
trong quá trình làm gốm người thợ chỉ sử dụng bàn đạp nhẹ bằng tay. Họ
không sử dụng bàn đập bằng gỗ, đá như các làng gốm khác.
Đồ gốm chăm Bầu Trúc cũn có loại có chõn đế. Các loại đồ này đều sử
dụng phương pháp trổ lỗ gắn kết. Loại đồ này thường xuất hiện ở các loại có
hình dáng kích thước nhỏ, số lượng ít như lò nấu củi, nấu than, nồi hấp…
Gốm không có lò nung cố định mà nung ngoài trời (lộ thiên). Do đó
nhiệt độ nung không ổn định, phụ thuộc vào thời tiết. Từ đó đưa đến các đặc
điểm khác của gốm Bầu Trúc là: khi gốm chưa đủ độ chín thì sản phẩm gốm sẽ
có thõn màu đen, không bền khi sử dụng dễ bị vỡ; nếu gốm nung đúng độ chín
thì thõn gốm màu đỏ hồng, loại này sử dụng rất bền và chắc.
Phần trang trí gốm Bầu Trúc chủ yếu trang trí ở đồ đựng, các loại đồ đun
nấu không có trang trí hoa văn. Hoa văn trang trí phổ biến là hoa văn thực vật,
không có hoa văn động vật.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Túm lại, gốm Bầu Trúc là loại gốm cổ truyền, hiện nay họ vẫn cũn bảo

lưu kỹ thuật truyền thống của riêng mình. Tuy nhiên trong quá trình vận động,
gốm Bầu Trúc có sự thay đổi về loại hình sản phẩm nhưng không đáng kể.
2.2 Quy trình làm gốm Bầu Trúc.
Muốn chế tác một sản phẩm gốm hoàn chỉnh người thợ gốm Bầu Trúc
phải trải qua nhiều công đoạn công phu phức tạp. Có thể tóm tắt thành 4 công
đoạn như sau:
Công đoạn 1: Khõu chuẩn bị nguyên liệu.
Công đoạn 2: Khõu làm đất.
Công đoạn 2: Tạo hình dáng gốm gồm: Nặn hình cơ bản, cha láng, trang
trí, tu sửa.
Công đoạn3: Nung gốm.
Các công đoạn này được tiến hành cụ thể như sau:
2.2.1 Khâu chuẩn bị nguyên liệu
Đất sét:
Gốm Bầu Trúc được làm từ một loại đất sét màu đen xám, có độ kết
dớnh cao. Đất sét được hình thành từ một lớp đất phù sa được bồi tụ lõu năm ở
triền sông lớn. Cả cánh đồng Phan Rang chỉ có cánh đồng “Hamu tanu Lan”
(Ruộng đất sét) ở thôn Bầu Trúc mới có mỏ đất sét. Cánh đồng này có diện
tích khoảng 20ha, cách thôn Bầu Trúc khoảng 4km.
Người Chăm ở Bầu Trúc khai thác đất vào mùa khô tức là từ tháng 12
đến tháng 8 năm sau. Vì mùa khô ở đõy đất nứt thành những đường kẻ sõu,
đan chéo nhau theo hình lưới nhện dễ khai thác, ngược lại mùa mưa đất dẻo,
dinh nên khó khai thác.
Để lấy được đất sét người thợ gốm phải bỏ nhiều công sức lao động
công phu, vất vả. Lực lượng khai thác đất sét bao gồm đàn ông, phụ nữ, trẻ
em…nhưng lực lượng chủ yếu là đàn ông có kinh nghiệm.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Kỹ thuật lấy đất sét đầu tiên người thợ gốm phải chọn khu ruộng khô

ráo, trên bề mặt ruộng đất khô nứt nhiều là mỏ sét tốt. Sau đó người thợ đào
một lỗ sâu khoảng 50cm, đường kớnh khoảng 40cm. Tiếp đó người thợ đứng
xuống lỗ đã cuốc, tiếp tục dùng cuốc hoặc dùng xà beng cuốc theo đường nứt
của đất. Đất được cuốc thường ngã ra từng lọn hơi tròn dài khoảng 60 – 80cm,
đường kính khoảng 20 – 30cm. Lọn đất vừa cuốc lên gồm 3 phần và được
người thợ xử lý như sau:
Phần thứ nhất là phần trên của bề mặt lọn đất, dày khoảng 10 - 20cm là
lớp đất có lớp phù sa tơi xốp có pha lẫn với rễ cõy lúa, cỏ dại vì vậy độ dẻo
không cao nên phải bỏ đi.
Phần thứ hai là phần giữa cử lọn đất, đõy chính là phần đất sét làm gốm.
Phần đất này có độ dày từ 20 – 40cm. Đất màu đen hơi xám nõu , hơi ẩm ươt
có độ dớnh cao. Đây chính là đất sét làm gốm mà người khai thác cần lấy.
Phần thứ ba là phần cuối của đất là lớp bùn non có màu đen không có
độ dẻo nên người làm đất phải tách bỏ khỏi phần thứ hai.
Cứ như thế người khai thác đưa đất lên khỏi miệng hố và lấy đến khi đủ
số lượng cần thiết. Đất sau khi lấy đủ thì lấp miệng hố lại, mùa mưa thì trồng
lúa và năm sau khai thác tiếp. Đất khai thác xong người khai thác di chuyển
bằng xe bò hoặc hoặc sức người về nhà. Vì đất sét chỉ có thể khai thác trong
mùa khô nên muốn đủ đất trong cả năm thì phải khai thác dự trữ. Thông
thường nhà nào có 1 -2 thợ thường phải trữ khoảng 3 – 5m
3
trong một năm.
Đất sét khi đưa về nhà được phơi nắng 3 – 4 ngày cho khô ráo, sau đó được
đem xếp vào kho, rồi lần lượt xử lý theo các công đoạn làm gốm.
Kỹ thuật lấy đất sét là công phu và tốn khá nhiều công sức. Việc nhận
diện, phõn loại lớp đất để chọn đúng một mẫu đất sét thớch hợp cho việc làm
gốm đòi hỏi người khai thác phải có nhiều kinh nghiệm. Nếu người thợ đất sét
không có kinh nghiệm, chọn đất không kỹ càng, chọn đất sét có trộn lẫn nhiều
giữa lớp đất trên và lớp đất dưới thì đất sẽ không đủ độ dẻo và chất kết dớnh.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch

sử

Từ đó làm cho việc dựng hình dáng gốm rất khó khăn. Gốm sẽ có đường nứt
khi phơi khô và vỡ khi nung. Ngược lại nếu chọn đúng chất đất sét trong quá
trình khai thác thì sau này sản phẩm gốm không bị vỡ độ bền của gốm rất cao.
Nhưng muốn chọn được mẫu đất đúng không phải chuyện dễ dàng, đõy là bí
quyết nghề nghiệp mà họ ít truyền cho nhau, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
lao động lõu năm.
Nguyên liệu cát:
Đây là nguồn nguyên liệu thứ hai không kém phần quan trọng trong việc
làm gốm ở đây. Họ thường lấy cát ở dưới sông. Thời điểm lấy cát cũng là mùa
khô. Đõy là mùa nước sông cạn sau mùa lũ lụt. Nước lũ ở các con sông Phan
Rang không chỉ đem lại một nguồn phù sa lớn mà cũn đem theo những hạt cát
nhỏ li ti lắng lại thành từng cồn, bói ven sông. Đó là nguồn cát lý tưởng cho
người Chăm Bầu Trúc làm gốm.
Nhưng không phải loại cát nào cũng dùng làm gốm được, loại cát làm
gốm phải là loại cát nhỏ, mịn màng, cùng kích cỡ như nhau, thường có màu
vàng nhợt. Đây là loại nguyên liệu thứ hai cần thiết để làm ra sản phẩm gốm.
Mỗi gia đình thường chuẩn bị 3 – 4 m
3
để dùng trong một năm.
Nguyên liệu cát cũng quan trọng không kém gì đất sét trong việc tạo
thành sản phẩm. Nếu cát bị lẫn vào nhiều sỏi sạn, hoặc hạt to, có nhiều bã thực
vật thì khi trộn với đất sét độ kết dớnh sẽ không cao gõy khó khăn trong việc
tạo hình dáng gốm. Ngược lại nếu hạt cát nhỏ va mịn màng thì khi trộn với đất
sét sẽ làm tăng độ dẻo làm cho xương gốm mịn dẻo, hơn nữa cũn làm cho thõn
gốm dễ miết láng, bóng đẹp hơn.
Nguyên liêu làm gốm của người Chăm Bầu Trúc ngoài đất sét, cát cũn
có nước ngọt lấy ở sông suối, giếng để trộn với đất sét và cát.
2.2.2 Khâu làm đất.

a.Ngâm đất
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Người thợ gốm lấy từ trong kho ra một lượng vừa đủ đề làm trong một
ngày. Vì đất sét được chứa trong kho là những lọn đất lớn chưa khô, vẫn cũn
ngõm nước nên muốn ngõm cho đất sét ngấm nước đều thì phải đập đất sét tơi
ra thành cục nhỏ phơi lại cho khô trước khi đem vào hố ngõm với nước. Đất
sét được phơi khô trên nền sạch tránh lẫn với đất thường và các tạp chất khác.
Nếu đất có lẫn với tạp chất khác thì trước khi ngõm thợ gốm phải dùng cái nia
bằng tre có đan mắt lưới nhỏ khoảng 0,4 – 0,5cm để tách tạp chất khỏi đất.
Sau khi đất sét được phơi khô từ sáng đến chiều thì được đưa vào ngõm
trong một cái hố đất được đào sẵn sõu khoảng 50cm, đường kớnh miệng hố là
40cm. Nguyên tắc ngõm đất không đổ đầy hố ngõm mà chỉ đổ vào 2/3 hố. Sau
đó dùng nước ngọt sạch đổ vào hố ngõm. Thời gian ngõm khoảng 12 tiếng thì
đất sẽ tơi ra kết dớnh lại với nhau. Lúc này thì người thợ gốm đưa đất lên khỏi
hố ngõm để làm đất.
Cách ngõm đất làm gốm của người Chăm Bầu Trúc rất đặc biệt. Họ chỉ
ngõm đất sét trong hố chứ không ngõm trong bất kỳ dụng cụ đựng nào khác.
Điều này làm cho nhiều người thắc mắc vì ngõm trong hố đất thì sẽ khó lấy đất
lên so với việc ngõm trong các đồ đựng khác. Lý giải vấn đề này một nghệ
nhõn làng gốm đã giải thích: Nếu ngõm gốm trong các chum, vại, lu… thì đất
sét luôn bị hư không đủ độ dẻo để làm gốm. Mặc dù họ đã tỡm nhiều cách để
cõn bằng theo tỉ lệ phù hợp giữa đất sét và nước nhưng đều không được. Từ
đõy người thợ gôm thấy rằng chỉ có cách duy nhất là ngõm đất sét trong hố đất
thì không cần phép đo đếm phức tạp cũng đủ để có đất sét vừa dẻo cho làm
gốm. vì rằng chính hố đất là đồng hồ sinh học để tự đo, đếm cõn bằng tỉ lệ giữa
lượng đất sét và nước. Khi người thợ cho đất và đổ nước vào ngõm, khi đất sét
thấm nước đến một lượng nhất định sẽ bóo hoà không thấm nữa, lượng nước
nếu thừa sẽ ngấm vào xung quanh hố đất và rút xuống lòng đất. Cũn nếu lượng

nước không đủ cho đất sét ngấm thì đất sét sẽ hút nước từ lòng hố đất để đạt
đến độ dẻo lý tưởng.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Ngược lại khi ngâm đất trong lu hoặc đồ đựng bằng nhôm, nhựa thì đất sẽ
bị hoá lỏng nếu lượng nước nhiều hơn tỉ lệ đất, còn nếu tỉ lệ nước ít hơn tỉ lệ đất
thì đất sẽ bị khô, cứng. Bởi vì nếu thừa nước khi mà đất sét đó hỳt đủ độ dẻo rồi,
nhưng nước vẫn còn trong lu không thoát ra ngoài được nên lại tiếp tục ngấm
vào đất làm cho đất bị nhão. Còn nếu nước ít hơn đất thì đất sẽ bị khụ, vỡ đất
thiếu nước nhưng lại không thể hỳt thờm nước được từ môi trường xung quanh.
Như vậy ta thấy rằng đất ngâm nước muốn đạt điều kiện dẻo thích hợp thì
phải có liều lượng nhất định. Tuy vậy, việc cân đong, đo, đếm để thực hiện đúng
liều lượng là một điều rất khó khăn, vì vậy người Bầu Trỳc đó nghĩ ra một
phương pháp rất tuyệt vời đó là ngâm đất sét trong hố đất. Hố đất chính là chiếc
đồng hồ sinh học có thể cân đối được lượng nước và đất cho thích hợp nhất.
b.Trộn nguyên liệu.
Trước khi đất được đưa lên khỏi hố ngõm người thợ gốm đã phải chuẩn
bị một lượng cát vừa đủ để trộn với đất. Cát phải mịn, hạt nhỏ và đều. Tỉ lệ pha
cát với đất trong lúc trộn nguyên liệu không phải lúc nào cũng giống nhau. Nó
cũn phụ thuộc vào đặc điềm hình dáng gốm, vào kích cỡ và công dụng sử dụng
của đồ gốm. Vì thế cho nên gốm này hoàn toàn khác với gốm ở nơi khác.
Chẳng hạn lu gốm ở đõy có loại rất được những người ở vùng khô và nắng ưa
chuộng vì nhiệt độ của nước trong lu luôn thấp hơn nhiệt độ bên ngoài nên
nước bao giờ cũng mát hơn.
Thông thường nếu sản phẩm có kích thước lớn cao trên 1m trở lên như
lu, thạp… thì tỉ lệ pha sét với đất theo tỉ lệ 1:1. Nếu sản phẩm gốm có kích
thước nhỏ hơn khoảng 0,5m trở xuống thì tỉ lệ pha trộn là 1:2 tức là 1 phàn đất,
2 phần nước. Như vậy tỉ lệ pha trộn cho thấy rằng nếu kích thước sản phẩm
càng lớn thì tỉ lệ pha cát giảm, cũn nếu kớch thước gốm nhỏ thì tỉ lệ pha cát

lớn. Tỉ lệ cát nhiều sẽ làm giảm độ mịn màng của gốm, tăng trọng lượng của
gốm nhưng thõn gốm lại bền chắc, chịu được nhiệt độ khi đun nấu sinh hoạt
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

hàng ngày. Nếu tỉ lệ cát trộn ít hơn đất thì làm tăng độ dẻo của đất, thuận lợi
cho việc tạo hình dáng gốm nhất là những sản phẩm có kớch thước lớn.
Nói chung tỉ lệ pha trộn nguyên liệu giữa đất sét và cát trong gốm Bầu
Trúc đều có tỉ lệ nhất định, trung bình theo tỉ lệ 1:1. Như vậy chất lượng gốm
phụ thuộc không nhỏ vào tỉ lệ pha trộn nguyên liệu.
Sau khi đã xác định tỉ lệ đất và cát cho phù hợp, người thợ bắt đầu tiến
hành trộn nguyên liệu hay còn gọi la khõu nhồi đất.
Nhồi đất có hai giai đoạn: Nhồi đất bằng chõn và nhồi đất bằng tay.
Giai đoạn 1: Nhồi đất bằng chõn (Joak lan).
Người thợ gốm dùng đôi chõn của mình đạp lên trên đống đất đã để sẵn
trên một lớp cát cho đến khi nào lớp cát xoè ra, tạo thành hình mặt phẳng trũn
mỏng khoảng 0,5cm. Sau đó dùng tay cuốn đất sét thành những lọn dài nằm
hai bên úp vào nhau. Lúc này cát nằm phớa dưới đã được trộn vào đất một
phần và họ tiếp tục rải cát và nước lên trên bề mặt đất sét. Sau đó họ lại tiếp tục
dùng chõn đạp vào cuộn đất cho đất xoè mỏng ra rồi dùng tay cuốn lại thành
cuộn dài. Họ làm như thế 7 – 8 lần trong thời gian khoảng 1 tiếng đồng hồ thì
đất và cát được trộn nhuyễn vào nhau.
Trờn bề mặt phẳng đống đất và cát đã được trộn lẫn vào nhau, người thợ
bắt đầu dùng chõn làm dấu kẻ đường vạch thành những ô nhỏ. Từ đường viền
của ô vuông người thợ gốm dùng tay cuộn lại thành từng lọn hình trụ dài
khoảng 15cm, đường kớnh khoảng 10cm, rồi đem những lọn này ủ, phủ kín
bằng vải nơi rõm mát.
Giai đoạn 2: Nhồi đất bằng tay (Jeh lan).
Sau khi đất đã được nhồi và ủ qua đêm hoặc một tiếng đồng hồ sau,
người thợ phải nhồi đất bằng tay một lần nữa.

Người thợ gốm dùng tay lăn những lọn đất hình trụ trũn trờn một tấm ván
bằng phẳng có dải một lớp cát mỏng vừa chống dính vừa tăng thêm lượng cát
cho đất. Trong quá trình lăn lọn đất người thợ gốm quỳ trong tư thế cố định, cả
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

10 đầu ngón tay bám vào thân lọn đất lăn nhẹ, đều đều vừa lăn vừa nhồi các
ngón tay bám vào lọn đất để kiểm tra, tách những sỏi sạn cũn sút ra khỏi lọn đất.
Cứ như thế lọn đất được nhồi, lăn đi lăn lại khoảng 20 lần thì đạt đến độ dẻo lý
tưởng có thể dừng lại. Độ dẻo lí tưởng ở đây là cát và đất đã trộn lẫn vào nhau
đều đặn, khụng tỏch được như lúc đầu. Đất lại có màu nâu đen, màu xám, cát thì
không còn màu vàng như lúc đầu mà bị màu đất sét nhuộm thành màu đen xám,
màu ỏnh chỡ lấp lánh. Dó là loại đất đã đạt đến độ lý tưởng.
Sau khi đã nhồi xong, người thợ sẽ vo đất sét thành hình quả bí chuẩn bị
đưa lên hũn kê để tạo dáng gốm.
Nhìn chung, khõu chuẩn bị nguyờn liệu và nhồi đất là khõu đầu tiờn
trong quy trình làm gốm. Nó có tác động quan trọng đến việc quyết định chất
lượng gốm thành phẩm sau này.
2.2.3 Tạo hình dáng gốm.
a. Dụng cụ tạo hình gốm Chăm Bầu Trúc.
Gốm Chăm Bầu Trúc được làm hoàn toàn bằng tay và dùng các công cụ
hết sức thô sơ. Bao gồm:
Vải quận (Panek): Đõy là dụng cụ làm từ vải thô được xếp lại thành 3
lớp (dài khoảng 30cm, rộng khoảng 15cm). Cuộn vải này được dùng để thấm
nước trà láng lên gốm và tạo hình các kiểu miệng gốm.
Vòng quơ (Ta khoh): Đõy là dụng cụ làm bằng cây thực vật có thõn trũn,
nhỏ, dài khoảng 50cm, đường kớnh khoảng 20cm. Người thợ dùng vũng quơ
để chải láng thõn gốm và đáy gốm trước khi dùng vải quận.
Vòng cạo (Tanuh): dụng cụ này được làm bằng thanh tre vạc mỏng, uốn
lại thành hình trũn đường kớnh khoảng 10cm. Dụng cụ này được dùng để cạo

mỏng bên trong thõn gốm và đáy gốm.
Bên cạnh những dụng cụ chớnh trên, người thợ gốm Chăm Bầu Trúc
cũn dùng hũn kê bằng gốm để làm gốm. Họ cũn dùng dao nhọn, thanh tre vót
nhọn hai đầu để soi lỗ, gắn kết các kiểu gốm có quai, có đế, có lỗ thông hơi.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Về trang trí gốm họ cũn dùng những que cõy nhỏ để kẻ hoa văn và dùng
những nụ hoa, vỏ sò để in dập hoa văn trên gốm…Ngoài ra cũn có những dùng
cụ để đào đất như cuốc, xẻng, xà beng…và những dụng cụ để đựng đất di
chuyển như thỳng, mủng, nong, nia…
b. Kỹ thuật tạo hình dáng gốm cơ bản.
Đây là công đoạn chớnh trong việc làm gốm Chăm Bầu Trúc. Khõu này
gồm ba công đoạn sau:
Công đoạn 1: Tạo hình cơ bản(Padang Paduk).
Sau khi đất được nhồi thành hình quả bí, người thợ gốm bắt đầu đặt lên
hũn kê. Bằng động tác khum xuống, người thợ gốm dùng hai tay bóp nặn vào
khối đất hình quả bí, đi giật lựi chậm rói xung quanh hòn kê khoảng 10 vòng
thì tạo được một dáng gốm cơ bản có chiều cao khoảng 20 – 30cm, đường
kớnh 15 – 20cm. Trong công đoạn này người thợ gốm phải tốn nhiều sức lực
để tập trung nông đáy gốm, xõy dựng thành gốm theo một kích thước nhất
định đã định sẵn và khối lượng đá hình qủa bí cho phép.
Công đoạn 2: Kỹ thuật gắn kết vào thân gốm. (Pathil gok).
Từ giai đoạn dựng hình cơ bản, người thợ gốm tiếp tục phát triển kích
thước thành gốm theo kích thước đã định sẵn, họ gọi giai đoạn này là “Pathil
gok”. Công đoạn này người thợ gốm dùng “con trạch” dài khoảng 40cm,
đường kớnh khoảng 3cm gắn kết vào miệng gốm và phát triển thành gốm cao
dần lên. Động tác nối “con trạch” là người thợ gốm dùng tay phải đưa con
trạch đặt vào miệng gốm, tay trái đỡ làm nền ở thành ngoài miệng gốm, cứ như
thế con trạch lần lượt được nối vào xung quanh miệng gốm. Người thợ gốm

chỉ cần đi xung quanh hũn kê một vũng là nối được một con trạch. Sau đó
vũng hai, người thợ gốm tiếp tục dùng ngón tay trỏ phải co lại kéo đất lấp xung
quanh những đầu nối con trạch và miệng gốm. Ngoài ra người thợ gốm cũn
dùng tay đập vào thành gốm, vào chỗ nối kết con trạch và miệng gốm nhằm
làm cho xương gốm chặt hơn và xoá được dấu vết nối kết trên thõn gốm.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Muốn có một sản phẩm gốm cao 100cm thì người thợ gốm phải tạo sẵn kích
thước ban đấu là 50cm và nối thêm từ 6 – 8 con trạch. Tuy vậy phương pháp
nối kết này chỉ dùng cho đồ gốm có kích thước lớn từ 40 – 50cm trở lên.
Công đoạn 3: Phương pháp miết láng.
Công đoạn này nhằm mục đích xoá đi dấu vết nối kết và làm cho thõn
gốm nhẵn, bóng hơn. Công đoạn này được diễn ra theo bước:
Miết láng bằng tay: Người thợ gốm dùng tay nhúng nước xoa đều xung
quanh thõn gốm, sau đó dùng ngón tay trỏ phải hoặc trái co, kéo, vuốt từng
phần trải đều trên toàn thõn gốm. Phương pháp này ngoài việc dấu đi những
vết nối kết còn tạo được độ bằng phẳng, lấp được những khoảng lồi lừm ban
đầu, tạo cho thành gốm được bằng phẳng. Phương pháp này cũn cho xương
gốm thêm chặt. Nếu như khõu này người thợ gốm làm sơ sài thì xương gốm sẽ
không chặt, các con trạch không gắn chặt vào thành gốm, tạo ra kẽ hở và tạo
cho thành gốm độ dày không đều. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng gốm
như: gốm có nhiều đường nứt khi phơi, gốm nung dễ vỡ, méo.
Miết láng bằng vòng quơ (Pa ghoh Gok): Phương pháp miết bằng tay
tuy người thợ có khéo léo đến mấy thì cũng không thể xoa những dấu vết
đường kéo bằng tay trên thõn gốm. Để khắc phục nhược điểm này người thợ
dùng tiếp bước thứ 2 là miết gốm bằng vũng quơ.
Người thợ gốm dùng vòng quơ để chải láng trên thõn gốm. Tác dụng
của vũng quơ là khi người thợ gốm chải vòng quơ sẽ kéo được những gờ đất từ
chỗ lồi về chỗ lừm trên thõn gốm nhưng không để lại dấu vết chải sõu như

miết bằng tay. Từ đó vũng quơ có tác dụng chải thõn gốm bằng phẳng hơn,
bước đầu lấp được các dấu vết bằng tay của người thợ gốm.
Miết láng bằng vải cuộn (Panek): đõy là bước cuối cùng của công đoạn
miết láng gốm Chăm. Sau khi xong hai bước miết gốm bằng tay và vũng quơ,
người thợ gốm dùng vải cuộn thấm nước có trộn đất sét lỏng quấn vào tay chà
lên xung quanh gốm. Trong quá trình chà vải thấm nước đất sét lên gốm, vì đất
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

sét có độ dẻo cao nên khi cuộc vải thấm nước chà sát trên thành gốm sẽ tạo ra
một loại nhủ đất sét (người Chăm gọi là Ia lan) phủ lên thõn gốm. Chính nước
đất sét này trong quá trình chải láng đã tạo nên một lớp men búng phủ lên thõn
gốm, tạo cho gốm Bầu Trúc một lớp áo mịn màng có độ bóng cao. Bước miết
láng này ngoài việc xoá dấu võn tay, dấu chải láng bằng vũng quơ nó cũn tạo
ra cho thõn gốm một lớp men đất sét búng loáng làm áo gốm. Từ đó lớp cáo
gốm lấp kín được những đường nối kết, những lỗ nhỏ, rỉ nước ra ngoài trong
quá trình sử dụng, đồng thời làm tăng thêm vẻ đẹp cho gốm Chăm.
c. Tạo hình kiểu miệng gốm.
Gốm Bầu Trúc được phõn ra nhiều kiểu lại miệng như gốm miệng hơi
loe, gốm miệng loe, miệng đứng, miệng khum, khum thấp… Mỗi kiểu miệng
gốm sẽ quy định loại hình gốm Chăm Bầu Trúc.
Phương pháp tạo miệng gốm Chăm Bầu Trúc khá đơn giản. Họ chỉ cần
đôi tay khéo léo và một cuộn vải thấm nước. Đầu tiên họ dùng vải cuộn thấm
nước vuốt đều xung quanh miệng gốm. Khi miệng gốm được tiếp xúc với vải
cuộn thấm nước thì họ dùng các ngón tay nắm hờ cuộn vải ướt sao cho cuộn
vải tiếp xúc đều đặn với miệng gốm, rồi họ bắt đầu vòng quanh thõn gốm từ 4
-5 vòng thì tạo thành một kiểu miệng gốm. Trong lúc quay tuỳ theo kiểu miệng
gốm mà họ điều chỉnh các ngún tay trỏ và tay cái. Kĩ thuật bẻ miệng gốm lần
lượt được tiến hành như sau: bẻ miệng đứng, rồi đến miệng loe, rồi miệng hơi
loe, cuối cùng là miệng khum.

Trong lúc tạo hình miệng gốm thì phần dáng thõn gốm có sự thay đổi
tuỳ theo kiểu miệng gốm. Thông thường khi bẻ miệng gốm kiểu thẳng thì thõn
gốm thon lại, hơi thu hẹp. Ngược lại khi bẻ miệng gốm khum, khum thấp thì
người thợ gốm hay dùng hai tay đè lên miệng gốm nên thõn gốm hay phình
rộng ra. Do đó khi bẻ xong miệng gốm người thợ gốm phải dùng vải cuộn
thấm nước miết lại lần nữa để thõn gốm đều đặn và mịn màng.
d. Trang trí gốm (Ngăk bingu hala).
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Gốm Chăm Bầu Trúc được trang trí ngay sau khi tạo kiểu hình dáng
gốm xong. Lúc này gốm chưa rời khỏi hũn kê, lại còn ẩm ướt rất thuận lợi cho
việc trang trí.
Người thợ gốm Chăm thường dùng que để vẽ, khắc trực tiếp hoa văn
trên vai gốm. Que đơn họ thường dùng là một loại thõn cõy thực vật nhỏ,
mềm, dễ uốn lượn. Từ que này họ vẽ, khắc được các hoa văn như hình chữ S,
hình tam giác, những hình đứt đoạn chấm vạch…Bên cạnh que đơn người thợ
gốm Chăm cũn dùng các loại que có nhiều răng để chải lên gốm những hình
sóng nước, hình kĩ hà chạy song song
Trang trí gốm Chăm Bầu Trúc còn dùng các loại hoa văn vỏ sò, nụ hoa,
mẫu hoa thực vật để dập trên vai gốm. Đối với các loại vỏ sò, họ thường in dập
trên vai gốm hình răng cưa của miệng vỏ sò tạo nên những mẫu hoa văn hình
răng cưa đẹp mắt. Đối với các loại hoa thực vật, họ thường sử dụng nụ hoa nở
rộ, khô cứng như hoa “Cà dược” (Pa duk chiek) - loại hoa này thường nở rộ
bốn mùa có nhiều ở vùng Chăm Ninh Thuận
Hoa văn trên gốm Bầu Trúc cũn có loại hoa văn móng tay. Kĩ thuật thực
hiện hoa văn này người thợ gốm thường dùng lọn đất nhỏ hình con đĩa dán
xung quanh vai gốm tạo thành một gờ đất nổi. Trên gờ đất nổi này người thợ
gốm lại dùng lọn đất hình con đĩa ngắn nhỏ, đắp chặt ngang và chia đường gờ
xung quanh vai gốm mới đắp ban đầu thành 3 phần bằng nhau. Sau đó người

thợ gốm dùng móng tay cái bám xung quanh trên gờ đất tạo thành những hình
răng cưa lớn xung quanh vai gốm.
Ngoài những loại hoa văn trên, người thợ gốm Bầu Trúc cũn chế biến
màu thực vật làm màu bôi cho hoa văn áo gốm. Màu thực vật chỉ được trang trí
trên hoa văn gốm khi gốm vừa mới ra lò cũn đang núng. Màu thực vật này
được người Chăm chế ra từ loại vỏ cõy Săn (Lik likhun) hoặc Trái thị (Boh
dan). Đõy là một lọại cõy mọc nhiều ở vùng miền núi Ninh Thuận. Họ phơi
khô vỏ cõy rồi ngõm vào nước cho ra màu đỏ, khi gốm vừa ra lò cũn nóng,
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

dùng lá cõy buộc chặt giống như chổi thấm nước màu vẩy lên gốm để tạo màu.
Vì thõn gốm lúc này cũn nóng nên khi tiếp xúc với nước thổ hoàng có mũ thực
vật thì gốm hút nước rất nhanh và đốt cháy chất mũ nước trên thõn gốm. Chất
mũ thực vật bị đốt trên thõn gốm sẽ tạo ra những đốm đỏ màu nõu, nõu đen,
xanh đen trông rất đẹp tự nhiên.
Nhìn chung, hoa văn gốm thường được trang trí trên những đồ gốm lớn
và thường được trang trí trên vai gốm mà không trang trí ở thõn gốm. Chủ đề
trang trí hoa văn gốm Bầu Trúc đặc biệt là thiếu vắng hoa văn động vật như
những loại vật nuôi mà chỉ là các loại hoa văn thực vật, các cảnh vật tự nhiên
gần gũi với con người như hoa lá, cỏ cõy, các hình kĩ hà, hình tam giác…được
mô tả một cách chõn thực không bị cách điệu một cách cầu kì. Do đó hoa văn
gốm Bầu Trúc tuy không phong phú da dạng nhưng lại khoáng đạt tự nhiên.
e. Tu sửa gốm.
Sau khi gốm được trang trí thì được rời khỏi hũn kê đưa ra chỗ rõm mát,
ban đầu phái tránh ánh nắng mặt trời rọi chiếu vì sự thay đổi nhiệt độ đột ngột
sẽ làm gốm dễ bị khô nứt. Thời gian phơi gốm trong rõm khoảng 2h thì gốm
được đưa ra để tu sửa, chủ yếu tu sửa ở 3 bộ phận: Cạo mỏng thõn gốm, đáy
gốm và gắn kết những loại gốm có quai, đế. Cụ thể như sau:
Cạo thân gốm: Đối với đồ gốm có kích thước lớn như lu, thạp, khương

người thợ gốm nạo sửa phần thõn trước bằng các “vũng nạo” (Tanuh) làm
bằng tre vạc mỏng, nạo đều bên trong thõn gốm làm cho thành gốm mỏng hơn.
Việc nạo mỏng thõn gốm làm giảm trọng lượng gốm khi di chuyển, làm tăng
độ hấp thụ nhiệt của gốm khi nung trong một lò nung lộ thiên có nhiệt độ chưa
cao. Tuy nhiên việc nạo gốm này cũng có nhược điểm là để lại dấu vết trong
thành gốm và thành gốm mỏng đi giảm giá trị sử dụng.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Cạo mỏng và nụng đỏy gốm: Gốm Chăm khi chưa tu sửa thì có đáy dày,
hơi lừm. Loại gốm này nếu không tu sửa nông đáy hơi lồi ra thì đáy gốm sẽ bị
nứt khi phơi hoặc nung. Vì thế người thợ gốm phải có biện pháp nông đáy
gốm. Gốm được đặt nghiêng trên đùi người thợ gốm, một tay giữ chặt thõn
gốm cho gốm khỏi xê dịch, một tay cầm vòng cạo đưa vào cạo một lớp đất
mỏng ở đáy gốm. Khi cạo đáy gốm ở một mức độ nhất định, thì phần cạo
mỏng được thợ gốm đưa ra ngoài, rồi họ tiếp tục dùng tay đẩy nhẹ nông đáy
gốm hơi nhô ra ngoài tạo thành đáy gốm hơi tròn. Sau đó họ dùng vòng quơ để
chải cho đều và làm láng đáy gốm.
Tu sửa và gắn kết thân gốm: Phần gắn kết thõn gốm chỉ có ở đồ đựng,
đun nấu hàng ngày có kích thước nhỏ như lò nấu, lò hấp, ấm nấu nước…Loại
gốm có kích thước nhỏ này, khi tu sửa người thợ gốm cũng nạo mỏng phần
thõn nhưng không nông đáy bên trong mà chỉ cạo hơi mỏng đáy bên ngoài rồi
dùng vòng quơ để chải cho đáy gốm hơi trũn. Sau khi tu sửa phần thõn và chải
đáy gốm, người thợ bắt đầu gắn những bộ phận của ấm,chõn đế…
Túm lại, phần tu sửa gốm gồm có 3 phần căn bản: nạo mỏng thõn gốm,
nông đáy gốm, và phần gắn kết trong đó quan trọng nhất là phần nông đáy
gốm. Việc khắc phục đáy bằng trong tạo hình sang đáy trũn là một quả trình
đúc kết kinh nghiệm làm gốm, một tri thức dõn gian có nhiều sáng tạo của
người thợ gốm Chăm Bầu Trúc. Đáy gốm trũn sẽ thớch nghi được với sự co
gión vì nhiệt khi nung gốm, khiến cho đáy gốm không bị nứt, hỏng.

2.2.4 Nung gốm.
Đõy là công việc cuối cùng để cho ra sản phẩm gốm. Việc nung gốm đòi
hỏi rất nhiều kĩ thuật và công sức, thường các hộ thường sử dụng hình thức đổi
công khi nung gốm. Muốn nung được gốm Chăm cần có các điều kiện và qua
các công đoạn sau:
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Số lượng gốm: Gốm khi được tớch luỹ đến một độ nhất định thì mới
đem ra nung. Thông thường mọt lò nung thường khoảng 50 cái lu lớn và
khoảng 100 cái gốm nhỏ như: nồi, chậu, lò nấu…
Thời tiết: Gốm Chăm được nung ngoài trời nên phải lựa chọn thời tiết
phù hợp. Khi nung gốm, người Chăm thường chọn mùa khô, nóng, tránh mùa
gió mưa, mùa khô ở Phan Rang thường vào tháng 11 đến tháng 8 năm sau
Phơi gốm: Khi đã chọn được thời điểm nung gốm, thời tiết khô ráo,
thoáng đãng thì người thợ gốm bắt đầu đem gốm ra phơi trong thời gian một
ngày. Để gốm khô đều người thợ gốm phải thương xuyên xoay các phần
miệng, thõn, đáy gốm theo hướng mặt trời để gốm khô đều đặn. Bởi vì khi
gốm khô đều thì khi gốm chín sẽ có màu đỏ hồng, sản phẩm gốm đều đặn
không bị xám đen, méo, nứt, vỡ.
Chuẩn bị nguyên liệu nung gốm: Nguyên liệu nung gốm chủ yếu là củi
khô, rơm, rạ, trấu…Một lò nung trung binh với 50 cái lu và 100 gốm nhỏ thì
cần có 1m
3
củi khô và một xe bò rơm.
Xếp nguyên liệu vào lò nung: Khi các khõu trên được chuẩn bị sẵn sàng
thì gốm và nguyên liệu được người thợ gốm đưa từ nhà đến lò nung. Địa điểm
nung gốm không cố định, tuỳ theo điều kiện thời tiết mà chọn địa điểm cho
thớch hợp. Thông thường họ chọn địa điểm nung ở bói đất trống đầu làng, nơi
khuất gió hoặc gần nhà để thuận tiện cho việc di chuyển gốm và nguyên liệu.

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ vật liệu, người ta bắt đầu xếp lò. Đầu tiên củi
được xếp trên mặt đất ngang dọc chồng nhau trên hình chữ nhật có độ dài 4m
và chiều rộng 3m. Xung quanh đó người ta kê đá để chống sụp lò gốm khi củi
đang cháy.
Sau khi xếp củi thành một nền lò vững chắc thì người thợ gốm lần lượt
xếp gốm chồng từng lớp lên trên bề mặt củi đã sắp sẵn. Gốm được xếp từ
chớnh giữa lò ra ngoài. Gốm được xếp úp chồng nhiều lớp lên nhau. Gốm có
kích thước lớn thì xếp úp ở dưới, gốm có kích thước nhỏ thì úp chồng lên trên.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Lò gốm nung được xếp thành hai tầng nếu gốm có kích thước lớn và xếp thành
ba tầng nếu gốm có kích thước nhỏ. Gốm có kích thước lớn luôn được xếp
dưới làm trụ giữ cho lò khỏi bị nghiêng và đổ.
Sau khi đã xếp đủ số gốm người thợ gốm dùng những que củi khô sắp
mỏng dựa vào xung quanh lò gốm. Tiếp đó phủ lên toàn bộ lò gốm một lớp
rơm rạ dày khoảng 20cm. Sau đó họ lại đổ thêm một lớp trấu mỏng lên trên bề
mặt rơm rạ và dùng cõy đòn dại đập nhẹ đều trên bề mặt rơm làm cho lớp rơm
phủ trên bề mặt gốm có độ xốp, kết chặt lại với nhau. Lò nung khi được xếp
hoàn chỉnh tạo nên một khối trũn hình cấu có thành cao khoảng từ 1,2 – 1,5m.
Đốt lò nung: người thợ gốm ở Bầu Trúc chỉ đốt lò nung vào buổi chiều
êm gió hoặc gió nhẹ. Vì nung ở ngoài trời nên phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện khí hậu. Do đó để lò nung có nhiệt độ đều đặn, ổn định người thợ gốm
Bầu Trúc thường chọn hướng đốt lò nung ngược hướng gió thổi. Hơn nữa khi
đốt lò ngược hướng gió thì sẽ giữ được lớp rơm rạ trên lò cháy chậm, tạo thành
một lớp áo tro che phủ lò gốm. Chớnh lớp áo tro này sẽ giữ và hấp thụ nhiệt độ
để nung chín gốm. Nếu lớp tro bên ngoài bị hở, lò gốm sẽ thiếu nhiệt và gốm
sẽ khó chín. Vì vậy nếu lớp tro bên ngoài bị thổi mất thì người thợ phải bổ
sung thêm tro sao cho phủ kín được lò nung.
Xử lý gốm ở lò nung: Khi gốm nung đến độ chín, người thợ gốm có nhu

cấu trang trí, nhuộm màu thực vật thì họ dùng cõy dài để móc đưa từng cái
gốm ra. Cũn nếu không có nhu cầu trang trí hoặc nhuộm màu thì lò gốm khi đã
nung chín thì phải để đến ngày hôm sau khi lò cháy hết nhiên liệu, nguội hẳn
thì mới lấy ra.
Gốm nung chín đưa ra khỏi lò thường được xếp thành 3 loại cơ bản:
Gốm loại 1: Gốm có màu đỏ, xanh nõu, không bị nứt, không méo mó.
Đây là loại sản phẩm tốt được chú trọng hàng đầu.
Gốm loại 2: Gốm màu chín đỏ, xanh, xanh nõu có đường nứt ở miệng,
đáy. Đõy là sản phẩm bị hư do nung qua nhiệt độ. Để cho loại gốm này sử
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

dụng được, người thợ gốm Bầu Trúc thường dùng cơm trộn với mảnh gốm
chín giã nhỏ thành bột trét vào lấp kín các đường nứt của gốm. Đõy là biện
pháp khắc phục gốm hư của người thợ gốm Bầu Trúc.
Gốm loại 3: Gốm có màu đen. Đõy là loại gốm nung chưa đủ nhiệt độ
nên gốm chưa chín. Gốm loại này khi thấm nước sẽ bị vỡ ra không sử dụng
được. Muốn đưa loại gốm này vào sử dụng phải tiếp tục nung lần thứ hai để
gốm chín có màu đỏ hồng.
Gốm loại 4: Loại gốm bị vỡ nứt trầm trọng do nung ở nhiệt độ quá cao
hoặc khõu làm đất chưa đúng kĩ thuật. Loại gốm này thường không tu sửa
được gốm và bỏ đi, cũn số gốm hư không đáng kể nhưng có kích thước lớn thì
được chọn đem về làm hòn kê.
Sau khi đã phân loại, gốm được đưa về nhà và lúc thuận tiện thì bán ra
thị trường.
Túm lại, Quy trình làm gốm Chăm Bầu Trúc diễn ra theo 4 công đoạn
lớn: Đào và chuẩn bị nguyên liệu, Nhồi đất, Tạo hình gốm và nung gốm. Trong
mỗi công đoạn này lại có những công đoạn nhỏ nữa. Mỗi công đoạn đều có
một vị trí quan trọng. Trong công đoạn 1, 2 đòi hỏi người thợ gốm phải có kinh
nghiệm thì trong công đoạn 3, 4 lại đòi hỏi trình độ thẩm mỹ cao và sự sáng

tạo. Công đoạn phức tạp nhất là tạo hình gốm cơ bản, gồm rất nhiều công đoạn
nhỏ và phải làm liên tục trong khoảng 8h.
Trung bình một ngày công một người thợ làm gốm sản xuất được 5 – 6
cái lu có chiều cao khoảng 80cm và đường kớnh khoảng 40cm. Nếu đồ gốm có
kích thước nhỏ thì khoảng 25 – 30 chiếc một ngày.
Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Bài tiểu luận Phạm Thị Kiều Giang - K54A Lịch
sử

Chương 3
GỐM CHĂM TRÊN CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN HIỆN NAY
3.1 Giai đoạn gốm Chăm Bầu Trúc từ năm 1960 trở về trước.
Giai đoạn này gốm Chăm chủ yếu được sản xuất để phục vụ gia đình và
trao đổi vật ngang giá (lúa, đậu,bắp) với các làng xung quanh trong nội tỉnh.
Mỗi gia đình tuỳ theo khả năng của mình mà tự sản xuất lấy. Vợ và các con gái
làm gốm; chồng và các con trai lo tỡm nguyên liệu và xử lý đất. Vì mục đích
sản xuất chủ yếu để phục vụ cuộc sống gia đình nên số lượng sản xuất không
nhiều. Gốm Chăm Bầu Trúc trong giai đoạn này được xem là nghề phụ trong
gia đình. Họ chỉ sản xuất những ngày mùa rảnh rỗi và đem trao đổi buôn bán
bên ngoài khi có ngày mùa bội thu.
3.2 Giai đoạn từ năm 1960 – 1975.
Giai đoạn này khi có giao thông phát triển như đường bộ, đường sắt, đặc
biệt là đường sắt xuyên Việt thì tại Bầu Trúc cũng có ga xe lửa – ga Phú Quý.
Đõy là những điều kiện ban đầu để gốm Bầu Trúc vươn ra ngoài và gia nhập
vào thị trường khu vực trong nước như Bình Thuận, Đồng Nai, Sài Gũn.
Khánh Hoà, Tuy Hoà, Đà Lạt, Buôn Mê Thuột…
Vì vậy nhu cầu thị trường đòi hỏi một số lượng gốm lớn, vì vậy ngoài
hình thức đổi công để có thêm lao động thì cũn xuất hiện manh nha hình thức

thuê mướn nhõn công.
Nhìn chung giai đoạn này số lượng gốm sản xuất ra nhiều, chất lưưọng
sản phẩm cũng được chú ý hơn, gốm sản xuất được đưa ra thị trường không
phải hình ảnh “chồng gánh vợ đội” như giai đoạn trước nữa mà được vận
chuyển bằng xe lửa, xe tải…
3.3 Giai đoạn từ 1975 – 1986.
Đây là thời kì kinh tế bao cấp, đời sống nhõn dõn khó khăn, nhà nước
độc quyền sản xuất theo kế hoạch, chưa kích thích tư nhõn sản xuất từ đó tạo
nên sự khan hiếm mặt hàng tiêu dùng trên thị trường.

×