MỤC LỤC
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình QL 15
1.2.1.3. Các nguyên tắc quản lý 15
2.1.3.Về chất lượng đội ngũ giáo viên hiện tại 42
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
STT KÍ HIỆU CHÚ THÍCH
1 BGH Ban giám hiệu
2 BDGĐT Bộ giáo dục và Đào tạo
3 GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
4 KT- ĐG Kiểm tra đánh giá
5 ĐNGV Đảm bảo chất lượng
6 NCKH Nghiên cứu khoa học
7 GV Giáo viên
9 BGH Ban giám hiệu
10 XD Xây dựng
11 QL Quản lý
12 KT Kiểm tra
13 CNTT Công nghệ thông tin
14 TBDH Thiết bị dạy học
15 THPT Trung học phổ thông
16 THCS Trung học cơ sở
17 QLGD Quản lý giáo dục
18 PPDH Phương pháp dạy học
19 CB,NV Cán bô, nhân viên
20 UBND Uỷ ban nhân dân
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình QL 15
1.2.1.3. Các nguyên tắc quản lý 15
2.1.3.Về chất lượng đội ngũ giáo viên hiện tại 42
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình QL 15
1.2.1.3. Các nguyên tắc quản lý 15
2.1.3.Về chất lượng đội ngũ giáo viên hiện tại 42
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, ngày nay phát triển giáo dục được nhận thức như là
con đường quan trọng nhất để phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, đầu tư cho phát
triển giáo dục chính là đầu tư cho phát triển bền vững, một loại đầu tư mà hiện
nay tất cả các quốc gia đều quan tâm nhất.
Hiện nay, thế giới đang có những biến động phức tạp về kinh tế, chính trị
văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ… Đất nước ta đang bước trên con đường
hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong hoàn cảnh
nền kinh tế thế giới suy thoái, tác động nhiều mặt của nền kinh tế thị trường, hệ
thống giáo dục quốc dân Việt Nam đang có một số bất cập cần phải đổi mới. Để
khắc phục những khó khăn đó, chúng ta phải củng cố và phát triển giáo dục, tiếp
tục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hoàn thiện và phát
triển nhân cách, tạo ra sức mạnh tinh thần mới của dân tộc.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 của nước ta
đưa ra ba đột phá chiến lược trong đó chiến lược thứ hai là:“Phát triển nhanh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ phát triển
nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”[17];
Ngày 13 tháng 6 năm 2012, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt “Chiến
lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020” với mục tiêu tổng quát “Đến
năm 2020, nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất
lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện, gồm: giáo dục đạo đức, kỹ
năng sống, năng lực sáng tạo, năng lực thực hành, năng lực ngoại ngữ và tin
học; đáp ứng nhu cầu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức;
đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi
người dân, từng bước hình thành xã hội học tập”[10];
1
Những năm qua nền giáo dục nước ta đã góp phần quan trọng trong việc
nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài phục vụ đắc lực
cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ
sở giáo dục được phát triển rộng khắp các tỉnh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập
của xã hội, chúng ta đã xây dựng một đội ngũ giáo viên ngày càng đông đảo, có
phẩm chất tốt, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng đáp ứng phần nào nhu
cầu học tập của toàn xã hội, từ đó trình độ dân trí được nâng cao và nguồn nhân
lực có chất lượng cao được tăng lên. Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều
chuyển biến, tạo đà cho sự thay đổi về chất của toàn bộ hệ thống giáo dục.
Những thành tựu của giáo dục đã và đang góp phần quan trọng vào sự phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội, và giữ vững an ninh chính trị của đất nước.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của công cuộc đổi mới căn bản toàn
diện của giáo dục Việt Nam, đội ngũ nhà giáo còn nhiều bất cập, những đánh giá
của Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI “Quản lý giáo dục và đào tạo
còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về
chất lượng, số lượng và cơ cấu một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và
phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.”
[18];
Do đó, việc xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên là một trong những yêu
cầu bức thiết hiện nay.
Ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
09/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án "Xây dựng, nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà Giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 – 2010" đã đưa ra giải
pháp: "Xây dựng chuẩn giáo viên các cấp, bậc học; xây dựng, hoàn thiện nội
dung, quy trình, phương thức bồi dưỡng thường xuyên và bồi dưỡng nâng chuẩn
cho các nhà giáo". Ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ban hành Thông tư 30/2009/TT-BGDĐT quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên
THCS, giáo viên THPT. Nhằm giúp giáo viên tự đánh giá năng lực nghề nghiệp
(dạy học và giáo dục) và giúp các cấp quản lý có cơ sở để đánh giá, xếp loại
giáo viên hàng năm, phục vụ công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
2
bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ giáo viên trung học. Đồng thời, chuẩn nghề
nghiệp là cơ sở để xây dựng, phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên trung học, nghiên cứu, đề xuất và thực hiện chế độ chính sách đối với giáo
viên trung học.
Thực tế, trường THPT Trưng Vương tỉnh Hưng Yên qua 14 năm xây dựng
và phát triển, đến nay đã có sự ổn định về cơ sở vật chất, đội ngũ, nền nếp dạy
và học. Nhà trường được sự tín nhiệm của địa phương, của ngành, được đầu tư
cả về cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như con người. Đội ngũ lãnh đạo nhà
trường luôn yêu nghề, năng động và sáng tạo trong quản lý điều hành đơn vị đã
đảm bảo cho nhà trường luôn phát triển đi lên đáp ứng được yêu cầu hiện tại.
Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ giáo viên của trường THPT Trưng Vương chưa đủ
về số lượng, cơ cấu chưa đồng bộ, một số giáo viên còn chưa có kĩ năng giáo
dục, chậm trong đổi mới phương pháp, chưa tích cực tiếp cận các công nghệ,
quy trình dạy học hiện đại.
Công tác đánh giá, phân loại, xếp loại đội ngũ chưa thực sự khoa học đôi
lúc còn cả nể mang nặng cảm tính. Vì vậy, quản lí đội ngũ giáo viên theo chuẩn
nghề nghiệp là đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành giáo dục nói chung và nhu
cầu phát triển của giáo dục THPT nói riêng.
Quản lí đội ngũ giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp là đáp ứng nhu cầu phát
triển của mỗi cá nhân giáo viên, học sinh.
Mặc dù nghiên cứu vấn đề quản lý ĐNGV trong nhà trường theo chuẩn
nghề nghiệp không phải là mới, đã được một số tác giả làm công tác giáo dục đã
đề cập, nhưng trong từng giai đoạn với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể của các
cơ sở đào tạo, việc vận dụng lý luận và các biện pháp quản lý có khác nhau. Do
vậy, việc đánh giá đúng và tìm ra các biện pháp quản lý phát triển ĐNGV các
trường THPT nói chung và trường THPT Trưng Vương, tỉnh Hưng Yên theo
Chuẩn nghề nghiệp là rất quan trọng và cấp thiết.
Với những lý do trên nên tác giả chọn đề tài: “Quản lý đội ngũ giáo viên
trường THPT Trưng Vương, tỉnh Hưng Yên theo Chuẩn nghề nghiệp”
3
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng đội ngũ giáo viên tại trường THPT
Trưng Vương tỉnh Hưng Yên, từ đó đề xuất biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên
Trung học phổ thông theo Chuẩn nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng giáo dục nói chung và chất lượng đội ngũ giáo viên nói riêng trong giai
đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở trường THPT Trưng Vương
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên trường THPT theo Chuẩn nghề nghiệp.
4. Giả thuyết khoa học
Việc quản lý đội ngũ giáo viên nói chung và đội ngũ giáo viên Trường
THPT Trưng Vương đã được thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau và đã
mang lại những kết quả nâng cao chất lượng đội ngũ từ đó nâng cao chất lượng
giáo dục. Song có những biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên theo Chuẩn nghề
nghiệp thiết thực, khả thi thì sẽ góp phần quản lý và phát triển đội ngũ giáo viên
đồng bộ, khoa học.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về quản lý đội ngũ giáo viên theo
chuẩn ở các trường trung học phổ thông.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp trong trường
THPT Trưng Vương.
- Đề xuất các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp và
khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp phát triển đã đề ra.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý đội ngũ giáo viên theo Chuẩn
nghề nghiệp ở trường THPT Trưng Vương từ năm 2010 đến nay.
4
Giới hạn chủ thể quản lý các biện pháp: Hiệu trưởng các trường THPT, ngoài ra có
thể là Lãnh đạo Sở giáo dục và Đào tạo hoặc phó hiệu trưởng, nếu biện pháp đề xuất
gắn trực tiếp với trách nhiệm cụ thể.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu tài liệu, phân tích, khái quát hóa, so sánh, tổng hợp các thông tin,
tư liệu có liên quan đến nội dung nghiên cứu, cụ thể:
- Chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về quản lý giáo dục.
- Các văn bản pháp quy như: Chỉ thị, thông tư, quy chế, hướng dẫn của Bộ
Giáo dục và Đào tạo hoạt động kiểm tra đánh giá chất lượng đội ngũ giáo viên.
- Kinh nghiệm thực tế của các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà quản lý giáo
dục đề cập tới những vấn đề chung của quản lý giáo viên.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.1. Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động dạy học và giáo dục của giáo
viên trong trường THPT Trưng Vương.
7.2.2. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Xem xét và so sánh kinh nghiệm
đánh giá giáo viên THPT theo chuẩn nghề nghiệp. Qua đó rút ra kinh nghiệm
thực tiễn cho vấn đề nghiên cứu.
7.2.3 Phương pháp điều tra viết bằng bảng hỏi về thực trạng quản lý giáo viên
THPT theo chuẩn nghề nghiệp trên địa bàn nghiên cứu.
7.3 Phương pháp bổ trợ khác: sử dụng một số công thức toán học để phân tích,
xử lý các số liệu thu thập trong quá trình hoàn thành sáng kiến .
8. Đóng góp mới của đề tài
Làm sáng tỏ hơn các khái niệm cơ bản, phát hiện thực trạng công tác quản lý
đội ngũ GV ở trường THPT Trưng Vương, tỉnh Hưng Yên.
Đề xuất biện pháp quản lý đội ngũ GV ở trường THPT Trưng Vương, tỉnh
Hưng Yên theo Chuẩn nghề nghiệp. Đồng thời góp phần vào việc phổ biến kinh
nghiệm quản lý đội ngũ GV trong các trường THPT trong tỉnh.
5
9. Cấu trúc của đề tài nghiên cứu khoa học
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung chính của đề tài được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý đội ngũ giáo viên theo Chuẩn
nghề nghiệp
Chương 2 : Thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên ở trường
THPT Trưng Vương theo Chuẩn nghề nghiệp
Chương 3: Biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên ở trường THPT Trưng
Vương theo Chuẩn nghề nghiệp
6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong bất kì giai đoạn nào, dù ở hoàn cảnh nào Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn luôn quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người.
Trong toàn bộ di sản tư tưởng giáo dục của Người, vấn đề cơ bản nhất là
vấn đề xây dựng và hoàn thiện con người thông qua hoạt động giáo dục và tự
giáo dục. Người đã dạy:“ Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm phải trồng người”. Lời dạy của Bác đã trở thành thông điệp cốt lõi của
chiến lược phát triển giáo dục, chiến lược phát triển con người của đất nước. Từ
năm 1945, ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Bác Hồ đã quan tâm xây
dựng một nền giáo dục toàn dân, chỉ đạo xây dựng đội ngũ GV phục vụ sự
nghiệp giáo dục. Người chỉ rõ: “vấn đề then chốt, quyết định chất lượng giáo dục
là phải xây dựng được một đội ngũ đông đảo những người làm công tác giáo dục
yêu nghề, yêu trường, hết lòng thương yêu, chăm sóc, giáo dục học sinh, không
ngừng trau dồi đạo đức, tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để thực sự là tấm gương
sáng cho học sinh noi theo”[35]
Bác Hồ rất coi trọng vấn đề bồi dưỡng và tự bồi dưỡng. Người chỉ rõ: “Về
cách học, phải lấy tự học làm cốt” và “các thầy cô giáo phải là kiểu mẫu về mọi
mặt, tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”. Trước lúc đi xa, Bác Hồ kính yêu đã để lại
cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân bản “Di chúc" lịch sử, gởi gắm cho chúng
ta và các thế hệ mai sau. Trong “Di chúc", Bác dặn: “Đầu tiên là công việc đối
với con người" “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan
trọng và rất cần thiết". Theo Người, thế hệ kế tục sự nghiệp sẽ là thế hệ quyết
định sự thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Trong bức thư cuối cùng của người gửi cho ngành giáo dục, sau những lời
chúc mừng thăm hỏi Bác đã dạy: “Dù khó khǎn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua
dạy tốt và học tốt… phải phấn đấu nâng cao chất lượng vǎn hoá và chuyên
7
môn”. Và một lần nữa Bác khẳng định“Nhiệm vụ của các thầy cô giáo là rất quan trọng
rất vẻ vang.”
Trong sự nghiệp giáo dục, nếu không quan tâm bồi dưỡng GV thì không thể
đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình phát triển đất
nước. Có thể khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về “trồng người” là nền tảng lý
luận vững chắc cho sự nghiệp phát triển giáo dục, trong đó có công tác bồi dưỡng
GV.
Ở những thập kỷ 80, 90 của thế kỷ XX; đã có nhiều công trình nghiên cứu
về lý luận giáo dục, lý luận dạy học; xuất hiện ngày càng nhiều các bài viết đăng
trên các tạp chí, tập san, báo ngành. Trong giai đoạn này có một số tác giả đề cập
đến như: Phạm Minh Hạc (1986, Một số vấn đề về Giáo dục và Khoa học giáo
dục); Nguyễn Kỳ (1987, Mấy vấn đề về quản lý giáo dục, Tạp chí Nghiên cứu
Giáo dục, số 34). Năm 1996, đề tài khoa học cấp Nhà nước có mã số KX 07-04:
“Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới” đã bàn sâu về
vấn đề bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực, trong đó có đề cập đến vấn đề
bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ GV.
Năm 1997, ấn phẩm “Tự học, tự đào tạo - tư tưởng chiến lược của phát
triển giáo dục Việt Nam” ra đời, có nhiều bài viết khá sâu sắc của các tác giả tên
tuổi như: cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Trần
Bá Hoành, Vũ Văn Tảo
Năm 1999, trong tạp chí Phát triển Giáo dục, số 1, Phạm Quang Huân có
bài “Nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động tự học, tự bồi dưỡng của GV
trường phổ thông”. Gần đây, năm 2006, nhà xuất bản Đại học sư phạm xuất bản
cuốn sách “Vấn đề GV, những nghiên cứu lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần
Bá Hoành. Nhiều công trình nghiên cứu đã để lại những bài học quý giá về xây
dựng, phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên như: Một số cách tiếp
cận trong nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ”của tác giả Bùi
Văn Quân; “ Con đường nâng cao chất lượng cải cách các cơ sở đào tạo giáo
viên”của tác giả Nguyễn Thị Phương Hoa (2002); “Cẩm nang nâng cao năng
8
lực và phẩm chất đội ngũ giáo viên” của nhóm tác giả Đặng Quốc Bảo, Đỗ
Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa (2007), v.v
Trong các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thi Mỹ Lộc (2004, Nghề và
nghiệp của người giáo viên); Nguyễn Hữu Châu (2008, Chất lượng giáo dục -
những vấn đề lí luận và thực tiễn); Phạm Hồng Quang (2009, Giải pháp đào tạo
giáo viên theo định hướng năng lực) đã đưa ra vai trò của người GV hiện nay
đã có những sự thay đổi để phù hợp với các chức năng của người giáo viên rộng
hơn, đồng thời chứng minh được năng lực giáo viên chính là yếu tố cơ bản quyết
định chất lượng giáo dục.
Một trong những việc quan trọng nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ giáo
viên là công tác kiểm định, đánh giá chất lượng GV, về vấn đề này các tác giả:
Nguyễn Ngọc Quang, Hà Sỹ Hồ, Đặng Quốc Bảo đã nêu lên những nguyên tắc
chung của việc quản lý hoạt động dạy - học, từ đó chỉ rõ một số biện pháp quản lý
nhà trường. Một trong số các biện pháp hữu hiệu để duy trì, điều chỉnh hoạt động
của hệ quản lý đi đúng mục tiêu, kế hoạch đó là các biện pháp kiểm tra, thanh tra,
đánh giá kết quả công việc trong từng giai đoạn nhất định.
Trước yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện của giáo dục phổ thông, thực
hiện mục tiêu chuẩn hóa và từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ GV THPT;
quản lý đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng chuẩn nghề nghiệp là một yêu cầu
không thể thiếu nhằm giúp GV đổi mới phương pháp giảng dạy và khắc phục
những điểm yếu của mình. Những tài liệu đã dẫn viết về giáo dục, bồi dưỡng
GV và công tác thanh tra, kiểm tra, đánh giá trong giáo dục của các nhà nghiên
cứu lý luận giáo dục là những tư liệu quý, thiết thực giúp chúng tôi tham khảo
trong quá trình thực hiện đề tài: “Quản lý đội ngũ giáo viên trường THPT Trưng
Vương, tỉnh Hưng Yên theo Chuẩn nghề nghiệp”
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Quản lý và các khái niệm liên quan đến vấn đề quản lý
1.2.1.1. Quản lý
9
QL xuất hiện, phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Đây
là một trong những loại hình lao động lâu đời và quan trọng nhất của con người,
là công vệc cần thiết trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, có tính chất
quyết định đến sự phát triển của toàn xã hội. Song chỉ những năm gần đây người
ta mới thừa nhận tính chất khoa học của nó và QL mới được coi là một ngành
khoa học theo đúng nghĩa. Bất kì một tổ chức, một tập thể nào cũng đều có yếu
tố QL trong đó và điều đó quyết định tới hiệu quả hoạt động của tổ chức theo
mục tiêu đề ra.
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về QL tùy theo quan điểm và cách
tiếp cận. Có người cho rằng QL là sự chỉ huy, lãnh đạo, sự cai quản, sự điều
khiển, điều chỉnh… Tuy nhiên có thể nêu lên một số quan điểm có tính chất cốt
lõi của một số tác giả như sau:
K.Marx cho rằng: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung
nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo
để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát
sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những
khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một
dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng” [26].
Như vậy bản chất của QL là một hoạt động lao động có tính tất yếu, vô
cùng quan trọng trong quá trình lao động, phát triển của loài người.
Henry Fayol (1841 – 1925) nhấn mạnh: QL là một hệ thống phát huy tác
dụng có tính chất độc lập không thể thay thế. Theo ông: “quản lý là lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra” [28, tr.17]
Mary ParKer Follett (1868 - 1933) nổi tiếng với thuyết hành vi trong
quản lý cho rằng: “Quản lý là một quá trình lao động, liên tục, kế tiếp nhau chứ
không tĩnh tại” [28, tr.24].
Các tác giả Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về khoa học
QL và thể hiện nhiều quan điểm về vấn đề này như sau:
10
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng “Quản lý là sự tác động có mục
đích tới tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định
và mục đích đã định trước” [40, tr.33].
Theo các tác giả Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ thì: “Quản lý là một quá
trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý có hệ thống là quá trình tác
động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu
này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”
[38, tr.17].
Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì hoạt động
quản lý là: “tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản
lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) – trong một tổ chức – nhằm làm cho tổ
chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [27 ].
Còn tác giả Đặng Quốc Bảo thì khẳng định : Bản chất của hoạt động QL
nhằm làm cho hệ thống vận hành theo mục tiêu đặt ra và tiến đến các trạng thái
có tính chất lượng mới”.
Quản lý = Quản + Lý
Trong đó : - Quản là chăm sóc, giữ gìn sự ổn định .
- Lý là sửa sang, sắp xếp, đổi mới phát triển.
Hệ ổn định mà không phát triển thì tất yếu dẫn đến suy thoái. Hệ phát
triển mà không ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
Vậy: Quản lý = ổn định + phát triển
Theo từ điển tiếng Việt thì QL là hoạt động của con người tác động vào tập
thể người khác để phối hợp, điều chỉnh, phân công thực hiện mục tiêu chung.
Từ rất nhiều quan điểm khác nhau nêu trên, chúng ta có thể hiểu khái quát
về QL như sau: QL là sự tác động, chỉ huy điều khiển hướng dẫn các quá trình
xã hội và hành vi hoạt động của con người, nhằm đạt được mục đích đề ra. Sự
tác động của QL bằng cách nào đó để người bị QL luôn tự giác, phấn khởi đem
hết năng lực, trí tuệ của mình tạo nên lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cả xã
hội. Khái niệm QL bao hàm những khía cạnh sau:
11
Đối tượng tác động của QL là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh như một cơ
thể sống gồm nhiều yếu tố liên kết hữu cơ theo một quy luật nhất định, tồn tại
trong không gian, thời gian cụ thể.
Hệ thống QL gồm hai phân hệ: Chủ thể QL và khách thể QL, giữa
chúng có sự tác động tương hỗ, biện chứng với nhau.
QL bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định. Tác
động quản lí thường mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều phương pháp khác
nhau.
QL là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp quy luật khách
quan. Đó là các hoạt động trí tuệ mang tính sáng tạo bằng những quyết định
đúng quy luật và có hiệu quả, nhưng cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất
định, hướng đến mục tiêu.
QL xét đến cùng, bao giờ cũng là QL con người. Mục tiêu cuối cùng của
QL là chất lượng, sản phẩm vì lợi ích phục vụ con người. Người QL tựu chung
lại là nghiên cứu khoa học, nghệ thuật giải quyết các mối quan hệ giữa con
người với nhau vô cùng phức tạp, không chỉ giữa chủ thể và khách thể trong hệ
thống mà còn là mối quan hệ tương tác với các hệ thống khác.
Như vậy QL thể hiện rõ bản chất khoa học ở chỗ: hoạt động này luôn có
tính tổ chức, dựa trên những quy luật, nguyên tắc và phương pháp hoạt động
nhất định. Đồng thời hoạt động QL cũng chứa đựng sự sáng tạo, mềm dẻo, linh
hoạt trong việc xử lí tình huống với các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, để đạt được
mục tiêu đề ra. Điều này cho thấy QL cũng có tính nghệ thuật, đòi hỏi người QL
phải không ngừng học tập, trau dồi, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện các kĩ năng
cần thiết.
Nếu mổ xẻ khái niệm QL ta cần phải thấy được đầy đủ các thành tố sau
đây:
Chủ thể quản lý: là một cá nhân, một nhóm người hay tổ chức tạo ra
những tác động quản lý. Nó trả lời câu hỏi: ai quản lý ?
12
Khách thể quản lý: là đối tượng tiếp nhận các tác động quản lý. Khách thể
quản lý có thể là người (trả lời câu hỏi: quản lý ai?), là vật (trả lời câu hỏi: quản
lý cái gì?) hoặc sự việc (trả lời câu hỏi: quản lý việc gì?)
Mục tiêu quản lý là quỹ đạo đặt ra cho các đối tượng và chủ thể, chính
mục tiêu là căn cứ cho chủ thể tạo ra các tác động quản lý.
Nói một cách tổng quát QL là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của
chủ thể QL đến khách thể QL nhằm đạt được mục tiêu chung.
Các yếu tố trên có quan hệ tác động qua lại với nhau, ràng buộc chặt chẽ
với nhau thành một chỉnh thể toàn vẹn. Mỗi yếu tố đều giữ một vai trò quan
trọng tham gia quyết định đến hiệu quả và chất lượng của cả quá trình. Mối quan
hệ này có thể được sơ đồ hóa như sau:
Hình 1.1: Quan hệ chủ thể QL, khách thể QL và mục tiêu QL
1.2.1.2. Các chức năng cơ bản của quản lý
Chức năng của quản lí là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ định của chủ
thể QL lên đối tượng QL. Đó là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà chủ thể
QL phải tiến hành trong quá trình QL. Có thể hiểu chức năng QL là một nội
dung cơ bản trong quá trình QL, là nhiệm vụ trọng tâm của người QL. Nói tới
các chức năng chủ yếu của QL, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau nhưng
nhìn chung đa số các tác giả đều thống nhất ở bốn chức năng sau:
* Kế hoạch hoá: Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng QL.
Kế hoạch hoá bao gồm việc XD mục tiêu, chương trình hành động và quyết định
cách thức, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của một hệ thống
QL để đạt được mục tiêu. Kế hoạch hoá giúp nhà QL có cái nhìn tổng thể, toàn
13
CÔNG CỤ
PHƯƠNG PHÁP
KHÁCH THỂ
QUẢN LÝ
CHỦ THỂ
QUẢN LÝ
MỤC TIÊU
diện, từ đó thấy được hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Việc lập kế hoạch
cho phép lựa chọn những phương án tối ưu, tiết kiệm nguồn lực, tạo hiệu quả
hoạt động cho toàn bộ tổ chức và có khả năng ứng phó với sự thay đổi. Ngoài ra,
nó còn tạo điều kiện dễ dàng cho việc kiểm tra. Không có kế hoạch sẽ không thể
xác định được tổ chức hướng đúng hay chệch mục tiêu và không biết khi nào đạt
được mục tiêu. Do đó, kiểm tra trở thành vô căn cứ. Nhà QL thông qua kế hoạch có
thể nhìn thấy tương lai, có thể điều chỉnh những quyết định trước đó, bảo đảm
hướng vào mục tiêu đã định.
* Tổ chức: Tổ chức là việc biến những ý tưởng trừu tượng của kế hoạch
thành hiện thực. Xét về mặt chức năng QL, tổ chức là quá trình hình thành nên
cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong tổ chức nhằm
làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của
tổ chức. Tổ chức làm cho các chức năng khác của hoạt động QL thực hiện có
hiệu quả. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người
QL. Họ cần thiết kế cơ cấu các bộ phận, sử dụng các nguồn nhân lực và vật lực
sao cho phù hợp với mục tiêu của tổ chức.
* Chỉ đạo: Đây là quá trình sử dụng quyền lực QL để tác động đến đối
tượng bị QL một cách có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm năng của họ hướng
vào mục tiêu chung. Chỉ đạo là chức năng thể hiện năng lực của người QL. Việc
chỉ đạo không chỉ bắt đầu sau việc lập kế hoạch và cơ cấu tổ chức đã hoàn tất,
mà nó hoà quyện và ảnh hưởng đến hai chức năng kia.
* Kiểm tra: Đây là chức năng quan trọng xuyên suốt quá trình QL. Mục
đích của KT nhằm bảo đảm các kế hoạch thành công, phát hiện kịp thời những
sai lệch, tìm nguyên nhân và biện pháp điều chỉnh các sai lệch nhằm làm cho
toàn bộ hệ thống đạt mục tiêu đã định. KT là một quá trình bao gồm các bước:
xây dựng các tiêu chuẩn; đo lường việc thực hiện; đánh giá các tiêu chuẩn so với
các kế hoạch. KT là “tai mắt” của QL, là việc làm bình thường, không được cản
trở đối tượng thực hiện mục tiêu.
14
Tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin. Thông tin đầy đủ, kịp
thời, chính xác là một căn cứ để hoạch định kế hoạch. Thông tin cũng cần cho
các bộ phận trong cơ cấu tổ chức, nó tạo nên mối quan hệ giữa các bộ phận
trong tổ chức. Nó giúp truyền tải mệnh lệnh chỉ đạo và phản hồi hai chiều trong
một tổ chức, giúp người QL thực hiện các chức năng của mình nhằm đạt được
mục tiêu của tổ chức.
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa thông tin với các chức năng trong chu trình QL
1.2.1.3. Các nguyên tắc quản lý
Nguyên tắc QL là một hệ thống các qui tắc mang tính chỉ đạo, những qui
định, tiêu chuẩn, điều kiện đòi hỏi người QL phải tuân thủ mới mong đạt được
mục tiêu đề ra. Có nhiều lí thuyết về nguyên tắc QL, tuy nhiên các nhà QL cần
tập trung đảm bảo các nguyên tắc chủ yếu sau đây:
Nguyên tắc tập trung dân chủ: sự tập trung phải được thể hiện là tất cả
các hoạt động dù lớn hay nhỏ của một tổ chức đều phải hướng vào cơ quan
quyền lực cao nhất. Vì cơ quan này giữ vai trò hoạch định đường lối, chủ
trương, xác định mục tiêu, xây dựng các chính sách, biện pháp để chỉ đạo các bộ
phận của tổ chức thực hiện các hoạt động nhắm tới mục tiêu cao nhất của tổ
chức. Tính dân chủ trong một tập thể được thể hiện trong một tổ chức là mọi
thành viên đều được quyền và có nghĩa vụ tham gia đóng góp trí tuệ của mình
vào hoạt động của tổ chức. Tất cả các thành viên trong tổ chức đều được tham
gia ý kiến của mình vào các công việc trung, để đưa ra các quyết định có tính
15
Kiểm tra Tổ chức
Lãnh đạo/Chỉ đạo
Lập kế hoạch
Thông tin
chất quan trọng của tập thể. Mọi người đều được đóng góp trí tuệ để tham gia
vào tất cả các chức năng của quá trình QL. Đó là việc xây dựng kế hoạch, tổ
chức bộ máy, chỉ đạo thực hiện và KT - ĐG hoạt động của tổ chức. Sự kết hợp
giữa tập trung và dân chủ sẽ giúp thu được hiệu quả QL tích cực, vừa phát huy
được sức mạnh quyền lực của cơ quan, lại vừa huy động được sức mạnh trí tuệ
của các thành viên, để thực hiện thành công mục tiêu QL. Có tập trung và dân
chủ thì mới thúc đẩy được tính sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, khích lệ được
đông đảo các thành viên cùng nỗ lực tạo thành sức mạnh tổng thể cho tổ chức.
Tuy nhiên khi vận dụng nguyên tắc này đòi hỏi người QL phải linh hoạt, khéo
léo điều chỉnh cho phù hợp để công việc đạt hiệu quả cao nhất. Nếu quá coi
trọng tính tập trung dễ dẫn đến quan liêu, cửa quyền, xa rời thực tế. Ngược lại,
nếu dân chủ quá trớn cũng làm mờ nhạt vai trò lãnh đạo của cơ quan quyền lực,
dễ dẫn đến tình trạng lộn xộn, gây khó khăn cho người QL trong quá trình đạt
tới mục tiêu chung. Bởi vậy, trong tổ chức, người QL cần phải biết phối hợp hài
hòa sự tập trung và dân chủ sao cho vừa phát huy được trí tuệ của tập thể, vừa
giữ đúng quan điểm lãnh đạo, không chệch hướng mục tiêu.
Nguyên tắc kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong tổ
chức. Mỗi thành viên trong một tổ chức đều có nhu cầu, nguyện vọng, những
đòi hỏi quyền lợi nhất định. Chỉ khi nào lợi ích cá nhân được đáp ứng thì mới
thúc đẩy được các thành viên nỗ lực đóng góp trí tuệ của mình cho công việc và
lợi ích chung của tập thể. Tuy nhiên, không thể quá coi trọng lợi ích cá nhân mà
xem nhẹ hoặc bỏ qua lợi ích chung của tổ chức. Điều đó dễ dẫn đến thói cơ hội,
ỉ lại, thiếu tinh thần trách nhiệm và như thế sẽ thật khó để đạt được mục tiêu
chung. Vì vậy người QL nên biết phối hợp hài hòa lợi ích riêng của các thành
viên trong tổ chức với lợi ích chung của cả tập thể, sao cho trong lợi ích của tập
thể có quyền lợi của cá nhân và mọi người đều thấy được quyền lợi của mình
chính là phải đóng góp cho tổ chức.
Nguyên tắc hiệu quả. Tính hiệu quả thể hiện ở việc người QL tổ chức và
điều hành công việc sao cho những đầu tư về con người, thời gian, tài lực là ít
nhất mà vẫn đạt được kết quả công việc như mong muốn, hoàn thành được mục
16
tiêu đề ra. Như vậy tính hiệu quả lao động của một tổ chức cho thấy tính khoa
học, sự hợp lí của việc điều hành qua đó thể hiện năng lực, trình độ của người
QL. Chỉ khi đảm bảo được tính hiệu quả thì mới duy trì và phát triển được tổ
chức, thực hiện được mục tiêu nhanh nhất.
Nguyên tắc nắm khâu trọng yếu. Trong quá trình QL nếu chủ thể QL
không biết phân tích tình hình, tính chất quan trọng, cấp thiết của các nội dung
công việc sẽ dẫn đến tình trạng dàn trải, ôm đồm, không trọng tâm, thiếu quyết
đoán trong chỉ đạo, điều hành dẫn đến không hoàn thành công việc. Bởi thế,
người QL phải tùy giai đoạn, trạng thái, tình huống công việc để phân tích và
đưa ra quyết định chính xác, kịp thời trong những khâu then chốt, những vấn đề
trọng tâm của công việc. Có như vậy mới phân phối hợp lí và phát huy được
hiệu quả các nguồn lực.
Nguyên tắc kiên định mục tiêu. Kiên định theo mục tiêu đã đề ra sẽ tạo
cho người QL có sức mạnh tinh thần, đủ bản lĩnh để lãnh đạo tổ chức vượt qua
được những khó khăn trong quá trình phát triển. Trong thực tế không phải khi
nào hoạt động của tổ chức cũng thuận lợi mà nhiều khi phải đối mặt với rất
nhiều thách thức, khó khăn, những tác động trái chiều từ môi trường bên ngoài,
thậm chí ngay cả bên trong tổ chức. Nếu không kiên định, người QL dễ thiếu
quyết đoán, nản trí, thất bại.
Các nguyên tắc QL nêu trên tuy có tính chất độc lập nhưng lại có mối
quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại, ràng buộc lẫn nhau, là điều
kiện và động lực thúc đẩy nhau. Đảm bảo được đầy đủ các nguyên tắc này sẽ là
người QL thành công.
1.2.1.4. Các biện pháp quản lý
Theo Đại từ điển tiếng Việt (1999) thì biện pháp là cách làm, cách thức
tiến hành, giải quyết một vấn đề cụ thể, một công việc cụ thể nào đó.
Biện pháp QL là tổ hợp nhiều cách thức tác động của chủ thể QL lên đối
tượng QL nhằm giải quyết những vấn đề trong công tác QL, làm cho hệ QL vận
hành đạt mục tiêu mà chủ thể đã đề ra, phù hợp với quy luật khách quan để nâng
cao khả năng hoàn thành có kết quả các mục tiêu đã đặt ra. Trong biện pháp QL
17
có sự tác động tương hỗ, biện chứng giữa chủ thể và khách thể QL. Khi thực
hiện biện pháp QL, người QL sử dụng các chức năng, công cụ QL một cách phù
hợp cho từng tình huống và đối tượng để đưa đối tượng, đơn vị mình QL đạt
mục tiêu mà chủ thể mong muốn, đưa chất lượng QL lên một vị trí mới, tình
trạng mới tốt hơn hiện tại.
Trong thực tế, các biện pháp QL rất đa dạng và phải luôn được nhà QL sử
dụng linh hoạt, sáng tạo để xử lý các tình huống cụ thể trong một môi trường
luôn biến đổi. Điều đó đòi hỏi ở người QL phải có kiến thức sâu rộng, có kinh
nghiệm để gắn kết những biện pháp với nhau, giải quyết những mâu thuẫn giữa
các biện pháp, biết tiên liệu trước các hoàn cảnh, tình huống mà đối tượng QL
đặt ra. Có biện pháp đúng đắn sẽ giúp các tổ chức hạn chế được các nhược điểm
của mình, liên kết gắn bó mọi con người trong tổ chức, tạo niềm tin, sức mạnh
và truyền thống của tổ chức. Biện pháp QL cần được xây dựng trên cơ sở vận
dụng những kinh nghiệm đã được đúc kết, khái quát hoá thành những nguyên
tắc, phương pháp và kỹ năng QL nhất định.
Như vậy, có thể hiểu biện pháp QL là tổng thể cách thức tác động của
chủ thể QL lên đối tượng QL trong quá trình tiến hành các hoạt động
nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Có thể dựa vào sự tác động của chủ thể đến đối tượng quản lý, để chia
biện pháp QL thành các nhóm cơ bản như sau đây:
- Biện pháp thuyết phục: là cách tác động vào nhận thức của con người
bằng lý lẽ làm cho con người nhận thức đúng đắn và tự nguyện thừa nhận các
yêu cầu của QL, từ đó có thái độ và hành vi phù hợp với các yêu cầu đó. Đây là
biện pháp cơ bản để giáo dục con người, nhà QL chỉ tác động đến đối tượng
bằng lời lẽ của mình để thay đổi nhận thức của đối tượng.
- Biện pháp tổ chức - hành chính: là cách tác động trực tiếp của hệ QL
đến hệ bị QL trên cơ sở quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính bằng mệnh
lệnh, chỉ thị, quyết định. Biện pháp này dựa vào quyền uy tổ chức của người QL
để bắt buộc người dưới quyền phải thực hiện mệnh lệnh quản lý, đó là biện pháp
18
mang tính mệnh lệnh và tính kế hoạch, là quan hệ chỉ huy - thực hiện. Đây là
biện pháp cưỡng bức đơn phương, một bên ra quyết định, một bên phục tùng,
mức độ cưỡng bức tuỳ theo từng trường hợp, tính chất của bộ máy. Biện pháp
này thể hiện sức mạnh của tổ chức, xác lập trật tự, kỷ cương của bộ máy, giúp
cho các quyết định QL được thi hành nhanh chóng và chính xác, tăng hiệu quả
hoạt động QL.
- Biện pháp kinh tế: là cách tác động của chủ thể QL tới đối tượng QL
thông qua các lợi ích kinh tế, tạo động lực thúc đẩy con người tích cực hoạt
động. Hay nói cách khác, biện pháp kinh tế là sự tác động một cách gián tiếp lên
đối tượng QL không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng cơ chế kích thích, con
đường tự nguyện, tạo ra sự quan tâm nhất định về lợi ích vật chất để người thực
hiện tự mình điều chỉnh hành động nhằm hoàn thành nhiệm vụ, cho đối tượng
lựa chọn theo khả năng của họ hoặc tạo ra những lợi ích cá nhân và lợi ích tập
thể phù hợp với lợi ích chung. Biện pháp này có ưu điểm không hạn chế về quan
hệ tổ chức và không phụ thuộc về mặt hành chính, đồng thời biện pháp này tăng
cường được tính chủ động cho cá nhân và tập thể, giảm bớt được sự kiểm tra
đôn đốc vụn vặt chi li của nhà QL.
- Biện pháp tâm lý – giáo dục: (còn được gọi là biện pháp tuyên truyền
giáo dục) là cách tác động của chủ thể QL tới đối tượng QL thông qua đời sống
tâm lý cá nhân, các hệ tư tưởng, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ. Biện
pháp này dựa trên cơ sở các chức năng, quy luật tâm lý của con người và dựa
vào uy tín của người QL để lôi cuốn các thành viên trong tổ chức hăng hái, tích
cực tham gia công việc. Biện pháp tâm lý – giáo dục có ý nghĩa to lớn trong QL
vì đối tượng QL trước hết là con người. Do vậy khi tác động tới con người trước
hết phải sử dụng các tác động tâm lý nhằm khai thác tiềm năng của con người,
kích thích ý thức tự giác, sự say mê của con người chủ động sáng tạo trong hoạt
động của mình. Biện pháp tâm lý – giáo dục không tồn tại tự thân mà thường
phối hợp với các biện pháp khác, nhưng hướng chủ yếu là tác động vào tâm lý
con người, vào lòng tự trọng và lương tâm nghề nghiệp của người lao động.
19
Trên đây là các biện pháp đặc thù của QL, thực tiễn QL cho thấy không
có biện pháp nào là vạn năng, biện pháp nào cũng có mặt ưu điểm, mặt nhược
điểm. Bởi vậy, chủ thể QL cần biết phối hợp các biện pháp một cách linh hoạt
nhằm khai thác được những mặt mạnh, hạn chế được những nhược điểm của
từng biện pháp. Do đó khi vận dụng các biện pháp, người QL phải biết sử dụng
đúng người đúng việc, tuỳ hoàn cảnh điều kiện, thời gian cụ thể để lựa chọn các
biện pháp phù hợp, giúp cho đối tượng QL thực hiện nhiệm vụ một cách tự giác
và tích cực.
Vận dụng các biện pháp có thành công hay không phụ thuộc vào tài năng
của nhà QL, bản thân các biện pháp không phải là cái quyết định thành công của
các nhà QL, mà điều đó phụ thuộc vào nghệ thuật sử dụng các biện pháp QL
một cách sáng tạo của họ.
1.2.2. Quản lý đội ngũ giáo viên
1.2.2.1. Khái niệm đội ngũ
Từ điển Tiếng Việt có ghi: “Đội ngũ là khối đông người cùng chức năng
nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng”. Khái niệm đội ngũ
dùng cho các tổ chức trong xã hội như đội ngũ tri thức, đội ngũ công chức viên
chức… thực chất đó là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực
lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể có cùng nghề nghiệp hoặc
không cùng nghề nghiệp nhưng có lý tưởng, có mục đích chung hoạt động trong
một tổ chức.
Theo khái niệm trên, những người cùng đội ngũ tạo thành một lực lượng
có thể tạo nên một tác động nhất định. Như vậy, đội ngũ có tổ chức là một hệ
thống được cấu thành bởi các thành tố:
- Một tập thể người;
- Cùng chung một chức năng;
- Có cùng mục đích;
- Làm theo kế hoạch;
- Gắn bó với nhau về quyền lợi.
20
Khi xem xét một đội ngũ, thông thường người ta quan tâm đến 3 yếu tố cơ
bản, đó là:
- Số lượng đội ngũ;
- Trình độ: Bao gồm phẩm chất và năng lực;
- Cơ cấu đội ngũ: bao gồm giới tính, độ tuổi, chuyên môn.
Đội ngũ của một tổ chức chính là nguồn lực của tổ chức đó. Vì vậy, các
đặc trưng về phát triển đội ngũ gắn liền với những đặc trưng phát triển tổ chức
nói chung và đặc trưng công tác cán bộ nói riêng.
1.2.2.2. Đội ngũ giáo viên
Khái niệm giáo viên đã được định nghĩa trong Điều 70- Luật Giáo dục:
"Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ sở
giáo dục khác. Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ
thông, giáo dục nghề nghiệp gọi là giáo viên" [23].
Theo Điều lệ Trường trung học, giáo viên trường trung học là người làm
nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường.
Đội ngũ giáo viên là nhân tố quan trọng của phát triển giáo dục - đào tạo,
thông qua hoạt động giảng dạy - giáo dục và các hoạt động khác trong và ngoài
nhà trường, đội ngũ giáo viên là người hằng ngày trực tiếp thực hiện các mục
tiêu chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân.
Giáo viên chính là người thực hiện mục tiêu cơ bản của giáo dục và đào
tạo nhằm xây dựng con người thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Quan niệm mới về vai trò của giáo viên và về quan hệ giáo viên - học sinh
đã được thể chế hoá rất rõ trong Luật Giáo dục. Đây là quan điểm đổi mới của
Đảng và Nhà nước ta, cũng như trong ngành giáo dục và đào tạo và đang có xu
hướng phát triển nhanh, mạnh hơn. Nhiệm vụ của giáo viên ngày nay là giúp
cho người học tự học, tự xây dựng lấy phẩm chất và năng lực của mình dưới sự
tổ chức hướng dẫn tạo điều kiện và đánh giá của giáo viên.
21
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội
tôn vinh. Tinh thần này chỉ được thể hiện đầy đủ trong quan niệm mới về nhiệm
vụ của giáo viên. Từ đó yêu cầu đội ngũ giáo viên phải tự nâng cao trình độ lên
ngang tầm với yêu cầu đổi mới giáo dục, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
Theo Virgil Rowland: “Đội ngũ giáo viên là những chuyên gia trong lĩnh
vực giáo dục, họ nắm vững tri thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào
và có khả năng cống hiến toàn bộ tài năng và sức lực của họ cho giáo dục". Đội
ngũ giáo viên là một tập hợp những giáo viên được tổ chức thành một lực lượng,
cùng chung nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đặt ra cho tổ chức
đó.
Đội ngũ giáo viên trường THPT là những người
có bằng tốt nghiệp đại
học sư phạm hoặc có bằng tốt nghiệp đại học và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp
vụ sư phạm theo đúng chuyên ngành tại các khoa, trường Đại học Sư phạm
và
có thể có trình độ sau đại học.
Ngày nay ĐNGV được hiểu cụ thể hơn, đó là: “Tập thể những người đảm
nhiệm công tác giáo dục và dạy học, có đủ tiêu chuẩn đạo đức, chuyên môn và
nghiệp vụ quy định. Đây là lực lượng quyết định hoạt động giáo dục của nhà
trường, cho nên cần được đặc biệt quan tâm xây dựng mọi mặt, phải có đủ số
lượng phù hợp với cơ cấu giảng dạy của các bộ môn, phải đảm bảo tỷ lệ cân đối
giữa nam, nữ, giữa lớp già và lớp trẻ”.
ĐNGV mạnh là đội ngũ có đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và có trình
độ cao về chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng được nhiệm vụ, đáp ứng đổi mới
giáo dục.
Để có ĐNGV mạnh về chuyên môn nghiệp vụ, biện pháp tốt nhất là đẩy
mạnh công tác đào tạo bồi dưỡng cùng với chính sách, chế độ thỏa đáng thì mỗi
GV mới phát huy được hết tiềm năng và nhiệt tình của họ cho sự nghiệp giáo
dục.
22